Đinh Tấn Lực


Cỗ Đầu Trâu: Tản Thiêng Về Làng

Ngày 20-8-2012, Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai các nghị quyết (42, 11) của Bộ Chính trị  khóa IX và kết luận của BCT khoá XI về đổi mới công tác cán bộ… đã khai mạc tại Sài Gòn. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tới dự và phát biểu chỉ đạo Hội nghị, rằng: “Dứt khoát phải làm quy hoạch cán bộ”.

Quy mô đến mức quy hoạch hồi hộ/hồi phục/hồi dương/hồi dụng… cả cán bộ lãnh đạo đã từ lâu về chầu các cụ tổ “rậm râu/đầu hói”, để minh chứng một bước đầu tiên tiến.


₪ ₪ ₪

Bước tiến 1

Từ Cá Thể PR tới Tập Thể PR

Trần Dân Tiên là một bút danh tự lập/tự quản đầy tính sáng tạo của một cố (cựu) lãnh đạo đảng và nhà nước này từng tự PR/tự đánh bóng cho những đặc điểm trong “những mẩu chuyện về đời hoạt động” của chính mình gần như ngang hàng với tập hợp Trời / Phật / Chúa / Khổng / Lão / Quản…

Hồ Chí Minh là tên thật của tác giả có bút danh Trần Dân Tiên vừa nói, nổi danh là một người cực kỳ khiêm tốn đối với “ba ông kia kìa” (có ảnh treo trên vách phòng họp), nhưng cũng đã từng chính thức và công khai tự PR/tự đánh bóng bằng những câu thơ hãnh tiến tự ví mình vượt hẳn quốc tổ Hùng Vương hay anh hùng Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn… Và rất tự nhiên xưng “bác” với toàn thể dân tộc.

Ban Tuyên giáo Trung ương (BTGTW) đảng CSVN, hậu thân của Ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương/Ban Khoa giáo Trung ương, là cơ quan tham mưu của Ban Chấp hành Trung ương đảng CSVN, trực tiếp và thường xuyên tham mưu cho Bộ Chính trị/Ban Bí thư, trong công tác định hướng/uốn nắn/đúc khuôn tư tưởng đảng viên toàn đảng…

Nhiệm vụ của BTGTW, ngay dòng đầu bảng liệt kê có ghi rõ là: “Chủ trì, phối hợp nghiên cứu, tham mưu về chủ trương, quan điểm, chính sách và giải pháp của đảng thuộc lĩnh vực tuyên truyền và giáo dục”. Nhu cầu tuyên truyền/giáo dục trước tiên, từ đảng viên ra tới quần chúng, chính là thần thánh hóa lãnh đạo:

“Bác đã cho ta, Bác đã cho đời

Lẽ sống của ngày mai trên trái đất”.

Hải Như – (Một con người Chủ nghĩa Mác sinh ra).

Thậm chí, “Tôi nói đồng bào nghe rõ không?” cũng trở thành một danh ngôn ở tầm lịch sử:

Câu nói giản đơn này đã làm tiêu tan tất cả những gì còn xa cách giữa Chủ tịch và nhân dân, và làm thành một mối tình thắm thiết kết chặt lãnh tụ và quần chúng”. Hà Minh Đức – (Tác phẩm văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nxb KHXH, trang 142).

Để từ đó, xây dựng kỳ được mối tương quan bác-cháu/cha-con. In hệt như Lênin/Stalin của Liên Xô cũ, hay gần hơn, như Mao của TQ, thì ở Việt Nam, Hồ Chí Minh cần được phấn son tô chuốt thành một ông thánh khác, kiêm nhiệm luôn chức danh gia trưởng toàn quốc, còn gọi là “cha già dân tộc”.

Bàn tay con nắm tay cha

Bàn tay Bác ấm vào da vào lòng.

Bác ngồi đó, lớn mênh mông

Trời xanh biển rộng ruộng đồng nước non

Bác Hồ, cha của chúng con…”. Tố Hữu – (Sáng tháng Năm)

Đó là một lão siêu nhân xưa nay hiếm.

Thậm chí, cả cặp mắt cũng được huyền thoại hóa là có bốn con ngươi (tức là có khả năng coi phim hiệu ứng 3D không cần đeo kính chăng?).

“Nhớ ông cụ mắt sáng ngời

Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường”. Tố Hữu – (Việt Bắc)

Mắt Cụ Hồ là thiên nhãn, là lưỡng mục trùng đồng đích thị thánh nhân”.
Sơn Tùng (tác giả quyển Hoa Dâm Bụt và 8 quyển sách khác viết về Hồ Chí Minh, cùng hàng chục quyển viết về “những vấn đề có Hồ Chí Minh nổi lên như một hình tượng”).

Thậm chí, cả giọng nói cũng được xiển dương (như được truyền qua máy khuếch đại Dolby Surround Sound 7.1?):

“Đó là tiếng nói ấm, vang như tiếng chuông của Hồ Chí Minh khi đọc lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước”. GS.TS. Mạch Quang Thắng – (Nghiên cứu về Hồ Chí Minh).

Đó là một bậc thánh thi lẫn …diễn viên thánh tướng:

Thơ Bác hay vì đó là …thơ Bác”. Hoài Thanh.

Người là vị Cha già dân tộc, là một ‘Tiên ông’, rồi một ‘Thánh nhân’, nhưng Người cũng lại vô cùng giản dị và gần gũi với tất cả bằng tình cảm thân thương và trìu mến… Ở Bác, chúng ta thấy hình ảnh của một bậc hiền triết phương Đông, một học giả phương Tây. Nhưng điều kì diệu lại là: khi Bác ra đồng với bà con nông dân, Người lập tức trở thành một lão nông tri điền. Bác vào nhà máy liền trở thành một công nhân chính hiệu. Khi Bác bế cháu nhỏ, hay đưa kẹo cho trẻ em thì lại trởthành một người ông rất mực yêu thương con cháu… Ngày nay, Hồ Chí Minh là vị thánh sống”. Sơn Tùng.

Vẫn chưa đủ thiêng? Hãy nhờ bầu bạn nước ngoài đỡ giúp một tay:

“Vị thánh sống của nghìn thánh sống

Và ân nhân của cả muôn đời”. Ismael Gomes Braza (thi sĩ Brazil).

Hồ Chủ Tịch muôn năm!” chính là khẩu hiệu do BTGTW trước tác, cũng có thể là khẩu hiệu nhập khẩu/phóng tác từ câu danh ngôn “Mao chủ tịch muôn năm” của chính Mao Trạch Đông tự thêm vào bản liệt kê khẩu hiệu chào mừng ngày Quốc tế Lao động, từ thời đầu thập niên 1950 ở Bắc Kinh.

Từ đó sản sinh ra hàng loạt giai thoại hư cấu tự biến thể thành các chế tác văn nghệ trong hệ bồi bút, đặc biệt là nỗ lực gán ghép vào lời nói sau cùng của những tử tù, đến độ cung cấp tiện nghi chuyển ngữ sẵn cho cả những tử tù người dân tộc thiểu số:  “Bok Hồ arih linh lang”.

Để chi?

Để có thể kéo dài thời gian trương khẩu hiệu ca tụng “đảng CSVN quang vinh muôn năm”!

 

₪ ₪ ₪

 

Phiên bản 1.1

Từ Toàn Thi tới Toàn Tập

Hai năm trước khi lìa đời, Hồ Chí Minh đã bị tước mất quyền lực và rơi vào vị trí trang trí/làm cảnh/bình phong/cây kiểng cho mọi quyết định của dàn lãnh đạo hiếu chiến/hiếu thắng/hiếu sát thời đó. Ngay cả kế hoạch xây lăng và ướp xác cho Hồ Chí Minh cũng đã được họ cấu kết/toa rập nhau định sẵn từ tháng 5-1967, để sử dụng như một loại thế chấp chính trị suốt nhiều thập niên sau đó, theo đúng phương án Liên Xô từng dùng xác Lê-nin.

Hai năm sau ngày Hồ Chí Minh về với cụ tổ Mác, nhà xuất bản Sự Thật đã cố sức sưu tập và ra mắt 5 quyển cho bộ sách Hồ Chí Minh Toàn Tập, nhưng không được sự đồng thuận tối cao, nên dự án không thành. Đến năm 1990, bộ sách được Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia chính thức giới thiệu, gồm 10 tập. Năm 2000, bộ sách được tái bản có bổ sung, với 12 tập. Năm 2011, bộ sách tăng lên 15 tập.

Cả hai thứ di sản của Hồ Chí Minh, xác ướp trong lồng kính và chữ ướp trong toàn tập, đều là tác phẩm của những kẻ “vừa là học trò vừa là đồng chí” rất cần nuôi dưỡng ý chí bộ đội và đồng bào cùng khổ của một nửa nước cực nghèo, để nhuộm đỏ toàn cõi Đông Dương bằng một thứ biểu tượng đã được đánh bóng lên ngang hàng thần thánh. Cũng để vin vào đó mà nhân danh cho các thứ chính sách từng đưa đất nước vào chỗ kiệt quệ khốn cùng, và tự biến họ trở thành tầng lớp tư bản đỏ thu tóm tài nguyên quốc gia vào túi riêng, ngay sau tháng Tư 1975.

Cả hai thứ di sản của Hồ Chí Minh, xác ướp trong lồng kính và chữ ướp trong toàn tập, rõ ràng là đã trở thành loại lương khô cho lãnh đạo CSVN ăn dần, qua nhiều triều đại, từ Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, và cả Nguyễn Phú Trọng hiện giờ.

₪ ₪ ₪

Phiên bản 1.2

Từ Tư Tưởng tới Đạo Đức

Thoạt đầu, toàn BTGTW ra sức xiển dương/nâng tầm những tác phẩm đạo ý và cả đạo lời của Hồ Chí Minh lên hàng tư tưởng/kim chỉ nam/ánh hải đăng v.v… Chẳng hạn như “của dân, do dân, vì dân”; hay “một năm trồng lúa, mười năm trồng cây, trăm năm trồng người”; hay “người có 4 đức cần kiệm liêm chính, thiếu 1 đức thì không thành người” v.v…

Phần còn lại, thuộc tác quyền của “ba ông kia kìa” (mà BTGTW đã phải cất công giấu biến nội dung tờ Học Tập của Liên Khu IV, số 35, năm thứ tư, tháng 4–1951). Đặc biệt là tác quyền của Lê-nin, như đã được trang trọng ghi lại:

“Điều này thể hiện rất rõ khi Người trả lời phỏng vấn nhà báo Pháp Sáclơ Phuốcniô: ‘Từ ngày Luận cương của Lênin đã hoàn toàn soi sáng cho tôi, tôi không còn chỉ  dự các cuộc họp của Đảng một cách thụ động nữa. Tôi lao vào cuộc chiến đấu, hăng hái bàn cãi, tiến công mạnh mẽ những kẻ chống lại Lênin và Quốc tế thứ ba’…”.Hồ Chí Minh Toàn Tập, tập12, trang 471.

Hay được trang trọng nhắc lại:

Hồ Chủ tịch gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội…  Hồ Chủ tịch kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế cách mạng…”.Lê Duẩn – (gợi ý cho thư ký Đống Ngạc viết điếu văn Hồ Chí Minh).

Hay ở những vần thơ bơm thổi (dư nước bọt/thiếu nước hoa):

Luận cương đến Bác Hồ và người đã khóc

Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lê Nin

Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp

Tưởng bên ngoài đất nước đợi mong tin…

Luận cương của Lê Nin theo người về quê Việt

Biên giới còn xa nhưng Bác đã đến rồi…”.

 

Chế Lan Viên – (Người đi tìm hình của nước).

Hình của nước, dưới bàn tay họa sĩ Liên Xô, đỏ/đen/tròn/méo ra sao?

Chủ nghĩa Mác-Lênin Việt Nam là chủ nghĩa Mác-Lênin có lý có tình!.  Hồ Chí Minh – Theo hồi ký của Phan Hiền.

Chỉ mâu thuẫn tại chỗ và kéo dài đến hôm nay ở lời khẳng định chắc nịch ngay cạnh đó:

Một dân tộc ỷ lại vào nước ngoài thì không xứng đáng là độc lập tự do”. Hồ Chí Minh – Huấn thị trong phiên họp Chính phủ lâm thời đầu tiên – 03-09-1945.

Để chôn vùi điều mâu thuẫn đó, năm 1991, Đại hội VII của Đảng đã vung tay bạo lực và khẳng định bằng nghị quyết:

Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động… Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta, và trong thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng ta và của cả dân tộc”. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 127.

Mười năm sau, điều này được tái khẳng định sâu sắc chắc nịch hơn:

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thểcủa nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại”. Nghị quyết Đại hội IX, tháng 4-2001.

Lần đầu tiên, Việt Nam ta đã có hẳn một chương trình khoa học cấp nhà nước, mã số KX.02, nhiệm kỳ 1991-1995, mệnh danh là chương trình “Nghiên cứu Hồ Chí Minh” với 13 đề tài do Viện Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh chủ đạo, với GS Viện trưởng Đặng Xuân Kỳ làm Chủ nhiệm

Sau hàng loạt nghị quyết (chập đôi và nối liền thành nhiều thập niên) quyết tâm học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, mà cả đảng không có chỉ dấu nào thông suốt “những vận dụng sáng tạo của Người”, ngược lại, trung ương không bưng bít/cải tạo được thực tế là Hồ Chí Minh tự thân chẳng có chút tư tưởng nào, như chính đương sự nhiều lần thú nhận (Tất cả những gì cần nói đã có bác Mao bác Stalin nói hết rồi! Hoặc, bác Mao không thể nào sai!…). Các đại hội đại biểu toàn đảng, dù cách nhau 30 năm, vẫn chẳng khác gì nhau, căn cứ trên nội dung của các nghị quyết cà lăm. Điều đó phản ảnh trung thực một ngõ cụt/đường cùng. Trung ương còn ì ạch, không khai triển nổi cái gọi là “tư tưởng” đó, thì trách sao được đảng viên hạ tầng?

Năm 2004, trong khuôn khổ tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 20 năm đổi mới, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (nay là Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh) đã tiến hành nghiên cứu hai chương trình khoa học trọng điểm, trong đó có “Chương trình Tổng kết Nghiên cứu, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới”. Đồng thời, lãnh đạo đảng CSVN dồn sức chỉ đạo tiến hành cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.

Chứng tỏ chiến dịch Tư Tưởng “chưa thành công”. Biện pháp cấp thời là Tuyên Giáo xoay ngang qua đề tài Đạo Đức Hồ Chí Minh, và cố gắng kéo dài cho tới gần đây:

 “Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Hồ Chí Minh – Sửa đổi lối làm việc, tháng 10-1947, Toàn Tập, tập 5, trang 252-253.

Hoặc:

Ngài đã hỏi, tôi xin dẹp sự khiêm tốn lại một bên mà đáp một cách thực thà: tôi không nhà cửa, không vợ, không con, nước Việt Nam là đại gia đình của tôi. Phụ lão Việt Nam là thân thích của tôi. Phụ nữ Việt Nam là chị em của tôi…”. Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 5, trang 171-172.

Hoặc:

Người đã vì hạnh phúc của cả dân tộc mà quên đi niềm vui của mình là có một gia đình nhỏ. Nhưng cả dân tộc Việt Nam đã là con, là cháu của Người”. Sơn Tùng.

Vẫn chưa tin? Cần thêm lý luận (hàng hai) chăng?

“Nếu Hồ Chí Minh có vợ con thật thì Hồ Chí Minh không thể giấu được trong ngần ấy năm. Giấu làm sao được trong con mắt của hàng triệu, hàng triệu con người giữa thế gian, ở đất nước Việt Nam và cả ở trên thế giới. Người bình thường đã khó giấu, huống chi Hồ Chí Minh lại là một người nổi tiếng, là con người của công chúng, thì lại càng khó giấu hơn”. GS.TS. Mạch Quang Thắng.

Chỉ không may là vẫn còn đó quá nhiều tư liệu trong thư khố Bắc Kinh/Paris/Moskva… và đã có quá nhiều người biết rõ sự thật về các thứ đức tính tự mô tả hay từng được bơm thổi “không màng danh lợi”, ”cả đời hy sinh”… đó. Thậm chí, có người tức khắc bay mất chức tổng biên tập một tờ báo thuộc loại hàng hiệu của đảng, chỉ vì mon men đăng lại một mẩu tin về cuộc đời tình ái phong lưu của bậc thánh (theo tài liệu nghiên cứu của học giả Hoàng Tranh ở Bắc Kinh từng nổi tiếng về khoa Hồ Chí Minh Học).

“Đấy là chưa kể có những người cố tình xuyên tạc, thêu dệt ly kỳ mặt ‘tình ái’ của Hồ Chí Minh với mục đích bôi xấu Hồ Chí Minh, cho rằng Hồ Chí Minh chính là người bội bạc; rằng không phải Hồ Chí Minh là người đấu tranh giải phóng con người, đặc biệt là đấu tranh giải phóng phụ nữ, mà Hồ Chí Minh coi phụ nữ chỉ là đồ chơi; rằng, Hồ Chí Minh là con người nói dối, v.v…”. GS.TS. Mạch Quang Thắng (Nhớ về Sơn Tùng).

Tức là trẫy ngược cái lề xuôi:

“Hồ Chủ tịch là tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng cần kiệm liêm chính, chí công vô tư để mọi người học tập noi theo”. Lê Duẩn – (gợi ý cho thư ký Đống Ngạc viết điếu văn Hồ Chí Minh).

Đừng phủ nhận ngay “Lời điếu làm rung động triệu triệu con tim” này. Hãy chịu khó đọc lại những bản tin tai nạn xe cán chết người rồi vất xác nạn nhân xuống Hồ Tây, hoặc những tài liệu ở Moskva về Nguyễn Thị Minh Khai… Rồi dõi mắt vào cách thực hành đạo đức theo gương thánh, sẽ thấy kết quả nhãn tiền ở ngay gia thất và gia phong của dàn lãnh đạo tối cao, đặc biệt là những Lê Duẩn, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, và mới toanh là các mối xung đột tình cảm linh tinh cực kỳ trầm trọng giữa Nông Đức Mạnh với Nông Đức Tuấn, sẽ rõ đầu đuôi.

Còn đối với đồng bào/đồng chí/bầu bạn, kể cả bầu bạn đệ tứ quốc tế:

Đó là một người yêu nước, chúng tôi đau buồn khi được hung tin… Nhưng tất cả những ai không theo con đường tôi đã vạch đều sẽ bị tiêu diệt”. Hồ Chí Minh (25-6-1946 – Trả lời ký giả Daniel Guérin phỏng vấn về cái chết của Tạ Thu Thâu).

Tất nhiên, qua đó, sẽ rõ luôn là con đường đạo đức này cũng lập tức đi vào ngõ cụt. Trước cả khi mạng internet và smartphone thâm nhập VN.

Nhìn chung, hãy thử đơn cử một ví dụ, trước sau tổng cộng có 65 năm cả đảng hạ quyết tâm:

Chúng ta chống bệnh chủ quan, chống bệnh hẹp hòi, đồng thời cũng phải chống thói ba hoa. Vì thói này cũng hại như hai bệnh kia. Vì ba thứ đó thường đi với nhau”. Hồ Chí Minh – Sửa đổi lối làm việc, tháng 10-1947, Toàn Tập, tập 5, trang 238-239 và 299.

Toàn bộ quá trình chỉnh đốn đó là một bước lùi bảy dặm, cả tư tưởng lẫn đạo đức, tụt xa hơn cả thời Chỉnh đảng 60 năm trước:

Ai cũng thấy siêng năng, trong sạch là tốt. Điều đó không ai chối cãi được. Thế mà vì sao vẫn không làm hay không làm được? Chẳng những không làm được mà còn làm trái lại?”. Hồ Chí Minh – Bài nói tại lớp chỉnh Đảng Trung ương khóa 2, tháng 3-1953, Toàn Tập, tập  7, trang 60.

Thực tiễn ngày nay, với nhân chứng siêu đẳng của thời đại @ có tên là Google, đã lộ rõ mười mươi là thời kỳ rực rỡ nhất trong suốt chiều dài lịch sử đảng về tham nhũng, đục khoét, cửa quyền, hành dân, xà xẻo, lừa đảo, chiếm đoạt, cưỡng chế, đánh dân, giết người, thu tóm tài nguyên, chạy bằng, chạy việc, chạy chức, chạy dự án, và chạy án…

 

₪ ₪ ₪

Phiên bản 1.3

Từ Văn Chương tới Đồng Bóng

Đảng quyết chí thích ứng với thời đại để thâu tóm nốt phạm trù tâm linh. Bằng mọi giá.

Cái chết của Hồ Chí Minh được tập đoàn lãnh đạo CSVN lên sẵn kế hoạch, tận tình khai thác, nhiều cách, nhiều kiểu, nhiều thời, nhiều phương vị. Các đoản phim tài liệu “Tang lễ Hồ Chí Minh”, “Cả nước đã khóc ngày Bác mất”… đã được chuyển sang thể dạng Youtube cho hợp với thời đại a còng, xem ra không kém gì sản phẩm màn bạc của tay đạo diễn đám tang Kim Jung Il của Bắc Triều Tiên mới đây.

Lại có cả kịch bản “Tuổi thơ khóc bác Hồ”, theo đó, hàng trăm trẻ em miền Nam được tổ chức di chuyển “bằng nhiều con đường bí mật” để ra Hà Nội tham dự đám tang bác Hồ:

“Đến đoạn ’Bác Hồ để lại muôn vàn tình thương yêu cho các cháu thanh thiếu niên và nhi đồng cả nước…’  thì tiếng khóc đồng loạt bật ra thật to. Buổi lễ chìm trong nước mắt…”.  Đỗ Đức Lập – (Tuổi thơ khóc bác Hồ – SGGP 02-09-2009).

Kèm theo đó là những vần thơ mưa rơi/sầu rụng/tim thắt/lệ nhòe của thi bá Tố Hữu cùng các thi hào hạng B… và một dàn thi tử/thi tôn Bảo Định Giang, Prékimala Mak…

Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa

Đời tuôn nước mắt trời tuôn mưa… (Tố Hữu)

Nhớ thương nào có nguôi nào,

Tháng ngày càng khắc Bác vào tim con. (Xuân Diệu)

Tháp Mười đẹp nhất bông sen

Nước Nam đẹp nhất có tên Cụ Hồ… (Bảo Định Giang)

Nói tới Hồ Chí Minh

Người Chàm, người H’rê, người Mơ-nông…

Không có lời nói nổi với lòng mình (Prékimala Mak – Dân tộc Châu Ro)

Bác đã lên đường theo tổ tiên

Mác, Lênin thế giới người hiền… (Tố Hữu)

Không lâu sau đó là những đền, những miếu, những tượng thờ Hồ Chí Minh… mọc lên khắp nơi, kể cả các sứ quán và lãnh sự quán VN ở nước ngoài. Hoành tráng/chói lọi nhất nước có lẽ phải là Lạc Cảnh Đại Nam Văn Hiến (còn gọi là Đại Nam Quốc Tự), ở Bình Dương, với bàn thờ Hồ Chí Minh đặt ngay giữa chánh điện.

Vẫn chưa đủ. Người ta cần “người đi xa” thi thoảng quay về, trong hoạt cảnh lên đồng/nhập cốt.

Đó là lý do ra đời các Youtube clips: “Bác Hồ nhập hồn nói chuyện với các nhà ngoại cảm” (Phần 1) & (Phần 2). Riêng phần một, vào thời điểm lên mạng của entry này, đã có đến 2.956.222 lượt xem và phần hai có 1.620.552 lượt xem (nghĩa là có khả năng cao hơn tổng số lượt đọc tất cả các trang mạng chính quy của đảng CSVN cộng lại). Một Youtube clip khác, dài 73 phút, có tựa đề là “Gọi hồn bác Hồ ở K9, ngày 04-11-2002”…

Tất cả cho thấy là sinh hoạt đồng bóng ở các “đền thánh” ngày càng sôi động, và Hồ Chí Minh trở thành một trong những âm hồn độc tuyển được gọi vong/nhập bóng thường xuyên trong thời đại cả đảng thi đua xà xẻo/đánh quả làm giàu bằng “phi vụ”, và trong tinh thần cầu đảo cho phúc lợi riêng tư.

₪ ₪ ₪

Phiên bản 1.4

Từ Cờ Quạt tới Tiết Trâu

Đã có một thời kéo dài nhiều chục năm, người ta bắt đầu mọi câu nói bằng điệp từ “ơn đảng/ơn bác”. Đó là thời của niềm tin sắt đá vào chân lý “không có gì…”. Đó cũng là thời của ảnh tường, cờ đỏ, với “sao vàng năm cánh mộng vờn quanh”…

Sau tháng 4-75, lượng đổng/đạp/đài tuồn về Bắc càng khẳng quyết “ơn đảng/ơn bác” đã chọn đúng phe siêu cường này để đánh thắng phe siêu cường kia. Khẩu hiệu đỏ trời, ảnh treo đầy vách, từ đó. Cũng phần nào khiến nhân dân tạm quên đi tình huống “giấy báo tử bay đầy mái rạ” hay “nạng gỗ khua rỗ mặt đường làng” không lâu trước đó.

Cho tới cuối năm 1978, đầu năm 1979, bộ đội được lệnh đeo ba lô trực chỉ hai hướng: Tây Nam và chính Bắc. “Ơn đảng/ơn bác”, dưới dạng quyết định sáng suốt của dàn lãnh đạo kiệt xuất lần này, là đã mạnh dạn chọn cánh trong phe quốc tế mình, để chống lại cánh kia cũng thuộc phe quốc tế ta, khiến xương máu nhân dân lại ngập ngụa chiến trường, và hàng cột mốc biên giới phía Bắc đã tự động dời chỗ về gần Hà Nội thêm một quãng. Toàn bộ sách sử được viết lại, để thích nghi với thời thế chống bá quyền bành trướng.

Đến khi trong nước rần rật đổi tiền lần hai, còn bên ngoài, các nước Đông Âu và Liên Bang Xô Viết rần rật thay cờ/đổi chính thể, và vẽ lại đường biên trên bản đồ thế giới, thì toàn bộ sách sử của ta được viết lại lần nữa, để thích nghi với thời thế mồ côi bất chợt và tâm thế cấp thiết cần ngay một chốn nương thân. Ta mất nốt Trường Sa từ bấy.

Những tiếng đệm đầu câu “ơn đảng/ơn bác” tắt dần, và từ từ chuyển sang loại tiếng đệm thời thượng hơn, thành thạo hơn, sống động hơn, có thể nhấn mạnh (hàng vạn lần bọn tư bản) cho bất cứ một phủ nhận lớn nhỏ/xa gần nào. Giờ này mà còn nhắc lại cụm từ “ơn đảng/ơn bác”, có khi phải nghe một câu trả lời bất nhã “ơn ΔἑΏ!”, hay “vãi £Ώὴ!”.

Ngay trên mặt báo, thời này, người ta không cần viện dẫn đến danh ngôn bậc thánh để núp bóng hay chứng minh “mình vẫn còn có lòng” hoặc “đây là ý kiến xây dựng đảng”.  Những cuộc biểu tình tập thể khiếu kiện/kêu oan cũng không còn khiêng vác hình ảnh bậc thánh đi đầu. Thậm chí, có đứa còn bỗ bã xách mé gọi thẳng nickname thằng Ku Nghệ!

Rõ ràng: Cờ quạt không ăn. Biểu tượng cùn mòn. Bậc thánh hết thiêng.

Phải cưỡng chế tâm linh để lấy lại điều thiêng:

Logic 1: Nếu đã có kẻ chủ tâm lắp tim cho tượng Ngựa Thánh Gióng nhập thần; thì hẳn phải có kẻ tẩm tắm máu trâu cho tượng Bác Hồ chập vong. Đó là chỉ số công bằng.

Logic 2: Thánh khát nước thì cúng nước. Thánh khát bia thì cúng bia. Thánh khát tiết thì cúng tiết. Đó là thước đo lòng thành.

Logic 3: Nói tiết trâu không chỉ có nghĩa là tiết trâu. Nói tiết trâu là phải nói tới cái đựng tiết trâu. Nói cái đựng tiết trâu và chỉ những thứ liên quan tới tiết trâu là không đủ. Phải nghĩ rộng ra những thứ bao trùm, khái quát để tìm mấu chốt vấn đề tẩm tắm tiết trâu mới giải quyết được vấn đề tiết trâu… Trâu dính liền với giai cấp nông dân và rất dễ đưa vào các lễ hội chọi nhau đổ tiết đầy đồng. Cho nên, nói tiết trâu là phải hiểu nó có vị trí ngang bằng và có thể thay thế qua lại với tiết nông dân. Đó là biện chứng pháp sơ yếu.

Kết luận phần cờ quạt/tiết trâu này là: Phi biện chứng tất khó linh thiêng!

₪ ₪ ₪
Phiên bản 1.5

Từ Chủ Tịch tới Thành Hoàng

Hồ Chí Minh nhậm chức Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa từ ngày 17-08-1945. Kiêm nhiệm chức Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa từ ngày 02-09-1945. Rồi kiêm nhiệm chức Chủ tịch đảng Lao Động Việt Nam từ ngày 19-02-1951 cho đến lúc chuyển sang từ trần, ngày 02-09-1969.

Vẫn theo GS.TS Mạch Quang Thắng, đã có nhiều người đã viết về Hồ Chí Minh (bằng 4 cặp từ lịch sử) “là vĩ đại, là thiên tài, là lỗi lạc, là kiệt xuất“. Nhưng xem ra vẫn chưa đủ. Vì sao?

Về mặt định hướng/chủ trương/đường lối/kế hoạch, lãnh đạo đảng cần phải vượt khỏi tình trạng “hớt váng” như bấy lâu nay. Phải giải quyết vấn đề cả chiều sâu lẫn chiều rộng.

Về mặt cơ chế, Việt Nam ta đã có những bước tiến dài tuyên giáo, nhưng thiên về đào tạo ra người máy và loa phường nhiều hơn cán bộ nghiên cứu có trình độ chuyên sâu và phương pháp tốt.

Nhu cầu cấp thiết là một “Đội ngũ cán bộ xung kích” về mặt tư tưởng/tuyên truyền. Điều đó có nghĩa là những chuyên gia trên lĩnh vực này có thể kiêm nhiệm từ các cơ quan, nhưng nên có một bộ phận chuyên trách ở Ban Tuyên giáo Trung ương đặc nhiệm chiến dịch Tản Thiêng Về Làng.

Phải thấy rõ, mỗi năm, mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn, đất nước ta đều đứng trước những thời cơ và thách thức mới. Năm 2012 này cũng vậy: “Phát triển hay là chết”. Muốn phát triển nhanh và bền vững, phải dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, do đó, trở thành sự bảo vệ những nhân tố chủ đạo của sự phát triển. Từ trung ương xuống tận thôn làng.

Phải nắm vững điều kiện sinh hoạt mọi bản làng. Phải biết sử dụng phương tiện thô thiển (và cả thô bạo nếu cần, như ở Văn Giang) nhưng có thể tiến công vào tận thành trì tâm linh của nhân dân:

Viết về Bác nếu chỉ đơn thuần là những hiểu biết thông thường thì không thể viết được mà phải viết bằng tâm linh”. Sơn Tùng

Phải nắm vững nhu cầu trước mặt, vừa cấp bách vừa lâu dài, lại có tính sinh tử, là không thể làm giảm thấp vị trí/vị thế của bậc thánh Hồ Chí Minh ở mọi nơi/mọi lúc:

“Người ta tôn thờ Hồ Chí Minh, thắp hương trên bàn thờ, treo ảnh HồChí Minh để thờ, lập đền thờ…là lẽ tự nhiên của tâm linh, của thái độ ứng xử của người Việt Nam đối với Hồ Chí Minh. Đó là ‘văn hoá đền’, văn hoá tâm linh”. GS.TS. Mạch Quang Thắng (Nhớ về Sơn Tùng).

Phải lập tức nâng cao/nhân rộng/kích động/xã hội hóa nền Văn Hóa Đền như một mũi nhọn trong quy trình đổi mới tư duy người Việt trong thời đại@ nhiễu nhương loạn lạc này.

Theo đó, chiến dịch đưa thánh về  sống ba cùng ở miếu thành hoàng là đúng quy trình. Tẩm tắm tiết trâu cho vong nhập tượng chỉ thuộc phạm trù kỹ thuật tâm linh và vẫn đúng quy trình. Nhất định phải triệt hạ mọi lời phê bình về tệ sùng bái cá nhân. Căn cứ theo lời giảng khoa học xã hội nhân văn của GS.TS. Mạch Quang Thắng thì người nghe/độc giả phải hiểu rõ đây là điểm cuối của giai đoạn “Thần thánh hóa”, để chính thức bước qua thời kỳ đổi mới có tên là “Tâm linh hóa”.

Phải thấy BTGTW luôn luôn có sẵn những lời giải đầy tính xung kích và sáng tạo.

₪ ₪ ₪

Đúc kết bước tiến 1:

Từ boong tàu Latouche-Tréville tới miếu Làng Sù

(tức Sinh Tẩu Tử Quy)

Thuở sinh thời của Lênin/Stalin/Mao, không ít người vẫn đinh ninh chắc nịch và lâu bền rằng đó là những “thánh nhân”; rồi ngay sau đó, góp phần làm cho bộ ba này đứng vững hơn ở vị thế “thánh nhân”, chí ít là trên mặt báo hay các giai thoại (kể hoài thành thiệt).

Lịch sử không chủ quan hay ngu đần đến mức đó. Lịch sử chuẩn xét công tội của họ theo dữ kiện kiểm chứng được và theo tiêu chí nhân bản: Mỗi “thánh nhân” (tự tạo hay được một bộ phận không nhỏ chuyên ngành bơm thổi tạo ra) đó đã giết chết hàng vạn đồng chí của họ và hàng chục triệu nhân dân của họ, trong chiến tranh và cả hòa bình. Một mình Mao, như được Dương Kế Thằng ghi chép trong quyển Bia Mộ, đã giết chết 36 triệu người, thậm chí, tạo ra cảnh người ăn thịt người, trong những năm hòa bình 1958-1962 ở TQ.

Dẫu vậy, Mao, trước sau vẫn là “người lái tàu vĩ đại”, tức bậc thầy của một bọn xum xoe không cần quốc tịch tàu. Chí ít là một bọn tự coi mình “vừa là đồng chí vừa là anh em” với Mao và sẵn sàng ký công hàm nhường đảo.

Không ít người ở Việt Nam đã rập khuôn tàu để dựng nên một “thánh nhân” Mao-phẩy ở xứ này, cho dù thành quả “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,  Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ” dọc Trường Sơn còn thua xa cuộc vạn lý trường chinh và những bước đại nhảy vọt của Mao-gốc. Rồi toa rập hè nhau ra nghị quyết mỗi 5 năm một lần để chính thức và công khai tiếp tục ăn thịt dần cái di sản mà nó dựng lên đó, hầu giữ ngai thống trị. Khi cần thiết, nó còn nhân danh cả mối tình thắm thiết răng môi được viết bằng hán tự thếp nhũ vàng để hiển thị bằng độ phân giải cao mối giao hảo trực tiếp với đám hậu duệ của Mao-chính-gốc.

Bác Mao không ở đâu xa

Bác Hồ ta đó chính là bác Mao”. Chế Lan Viên

Tiếc thay, chính đám cận thần bơm thổi đó không chỉ bẻ cong ngòi viết, không chỉ bẻ cong lương tâm của chính nó, mà còn bẻ cong cả lộ đồ của “thánh nhân” mà nó từng dầy công tạo dựng.

“Thánh nhân” Mao-phẩy xứ này, còn được nôm na thân mật gọi là “người Thầy vĩ đại” của cả đảng, đã đi từ bến Nhà Rồng tới bếp Mạc-Xây, ghé đổ than lò sưởi nhà khách Anh quốc, băng ngang trường Lao động Cộng sản Đông phương, tới Ban Phương Đông-Cục Phương Nam ở Moskva, lập Tổ ấm Quảng Châu, ra cầu tàu Hương Cảng, quày lại Liên Xô, sang Pháp lần nữa, qua Bỉ, về Xiêm La, tới bến Kowloon, nhảy sang Thượng Hải, trở lại Moskva, quay sang Diên An, về hang Pắc-Bó, trở qua Côn Minh, đáo lại Tân Trào, sang Fontainebleau, quày ngược Nam Ninh/Bắc Kinh, sang Moskva lần nữa, về lại Tuyên Quang, tới Bắc Bộ Phủ, trở qua TQ chữa bệnh, ra nằm giữa quảng trường Ba Đình, dừng chân ở Lạc Cảnh Đại Nam Văn Hiến cực kỳ nguy nga, và sau cùng là để tới …miếu Thành Hoàng làng Sù.

Rớt vãi trên cung đường ngoằn ngoèo xa ngái đó, và vẫn do công lao dàn dựng của Ban Tuyên Giáo Trung Ương qua các triều đại Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, và Nguyễn Phú Trọng… chính là mớ Tư Tưởng Hang Cua  Đạo Đức Giả Cầy, trước khi cả đảng bí lối/tịt ngòi đến phải dùng cả Bùa Chú Tiết Trâu.

BTGTW từng long trọng ghi rõ định hướng tuyên giáo 2011-2020 như sau:

“Tham gia tích cực, có hiệu quả vào cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức; Giữ vững và mở rộng trận địa tư tưởng của Đảng, nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác tuyên giáo…

Nhiệm vụ thứ 6: Đổi mới mạnh mẽ, sâu sắc và vững chắc nội dung, phương thức công tác tuyên giáo của Đảng theo định hướng cơ bản là tăng cường tính thuyết phục, hiệu quả, nâng cao tính chủ động và tính chiến đấu…”.

Kết quả: Ba bát tiết canh và Cỗ Đầu Trâu ở miếu thành hoàng làng Sù đã bước đầu (cũng là bước xập xình duy nhất được cập nhật qua nhiều phiên bản) đánh dấu hoàn tất nhiệm vụ gọi vong nhập tượng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng…

Hoan hô Ban Tuyên Gáo Trung Ương và đồng chí Đinh Thế Huynh phát!

Về nỗ lực tiếp nối toàn chuỗi kế hoạch Ăn Dần món lương khô Hồ Chí Minh ngâm tiết trâu.

30-08-2012 – Nhân mùa kỷ niệm 82 năm Tuyên Giáo từng xuất bản lần đầu “Tạp Chí Đỏ”, lấy “Ngày Quốc Tế Đỏ” làm “Ngày Truyền Thống Tuyên Giáo” nền tảng cho cuộc cách mạng Xô Viết Nghệ Tĩnh, khiến Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản ra quyết định công nhận Cộng Sản Việt Nam là một phân bộ độc lập của Quốc Tế Cộng Sản. Và luôn tiện, chuẩn bị kỷ niệm lễ giỗ Hồ Chí Minh ngày 2 tháng 9, lần thứ 43.

Blogger Đinh Tấn Lực

Không có nhận xét nào: