Trọng Đạt dịch

Trận Điện Biên Phủ
Bài 2
Nguyên tác của Henri Navarre
Trọng Đạt dịch
  
Tổ Chức Phòng Thủ
Tổ chức phòng thủ Điện Biên Phủ được khởi đầu bằng thực hiện một trung tâm kháng cự với từ 5 cho tới 6 tiểu đoàn có đội pháo binh yểm trợ  và phụ lực quân tăng cường. Quan niệm này là do ta có tin tình báo nhận được tháng 11 (1953) cho thấy địch có một sư đoàn
(Sư đoàn 316), được tăng cường một hoặc hai trung đoàn độc lập hay trích từ các sư đoàn khác. Những nét thành lập đồn lũy mới đầu do tướng Gilles thực hiện trên căn bản những chỉ thị của tướng Cogny.
Đầu tháng 12, từ từ áp lực địch càng nặng hơn, quan niệm đầu phải xét lại. Thật vậy, trước việc các Sư đoàn 308, 312, và một phần Sư đoàn 304 và Sư đoàn nặng (tức sđ vũ khí nặng) 351 tiến lên Tây Bắc, ngay như cả một phần lực lượng này hướng về đường đi Sầm Nứa - Cánh đồng Chum thì ĐBP vẫn có thể bị tấn công bởi những lực lượng quan trọng hơn những cái mà ta dự tính ban đầu. Như vậy cần mở rộng đồn lũy pháo đài hơn lên.
Sơ đồ mới do đại tá de Castries thiết lập theo chỉ thị của tướng Cogny và do tôi chấp thuận với vài sửa đổi.
Từ ngày 3-12 chủ lực quân trong đồn có 9 tiểu đoàn và hai đội pháo binh. Rồi do yêu cầu nhiều lần của tướng Cogny, đã tăng lên 10, 11 và cuối cùng 12 tiểu đoàn , một đội thiết giáp 10 xe tăng M 24, hai pháo đội 105 ly, một đội pháo 155 ly (nhất là để phản pháo) và 4 tiểu đoàn súng cối 120 ly.
Sáu máy bay chiến đấu và các máy bay quan sát đóng tại phi trường.
Ngày 13-3 doanh trại đã được dự trữ 9 ngày lương thực, 8 ngày nhiên liệu săng, 6 đơn vị hỏa lực cho từng tiểu đoàn bộ binh (1), 6 đơn vị rưỡi hỏa lực cho súng 105, 7 đơn vị cho 155, 8 cho súng cối 120 ly, 9 cho súng 75 ly (súng chiến xa M 24)
Ngoài ra 3,000 tấn kẽm gai đã được chở tới (có nghĩa gấp 3 cấp số một tiểu đoàn) cũng như một số lớn vũ khí đặc biệt: súng phun lửa, thuốc nổ, mìn, bánh bom lửa, mặt nạ che đạn khói, máy hồng ngoại tuyến …
Bảo trì trong trường hợp bị tấn công đã được tướng Cogny ước lượng 70 tấn một ngày mức chiến đâu trung bình, và 96 tấn một ngày khi chiến đấu ở mức độ cao. Việc chuyên chở những khối lượng trên do nỗ lực bình thường của không quân. Những phương tiện tiếp tế của không quân do bộ tham mưu tại Hà nội phân phối.
Sau khi tin tình báo cho biết số lượng và sức mạnh của hỏa lực địch, ta đã có nghiên cứu để định những điều kiện phòng thủ chống pháo binh và cao xạ địch.  Kết quả lạc quan những ý kiến rõ ràng của các pháo thủ (Cấp chỉ huy ngành pháo binh) (2) cho rằng pháo binh và phòng không địch không thể, vì địa hình,  đặt súng và nhất là bắn được mà không bị ta phản pháo trúng và bị không quân oanh ta phản kích.
Kết luận của bản tường trình liên quan pháo binh là: “Có thể địch chỉ bắn vào lúc ban ngày và thời tiết sáng. Ngay sau đó họ sẽ bị pháo binh và không quân ta phản công ngay”
Kết luận liên quan phòng không là “Địch rất khó mang đại bác 37 ly (tức cao xạ) vào tầm của vòng máy bay lên xuống và thả hàng …Dù rằng nhận xét này sai, phản pháo và vài phòng thủ thụ động (chọn vùng thả dù, thu nhỏ vòng bay) có thể khiến cho cuộc tiếp tế ít thất lạc…Ít nhất tiếp tế ban đêm vẫn có thể thực hiện được. Bởi vậy rất có thể công cuộc tiếp tế hàng không vẫn được bảo đảm mãi”
Những biện luận này rất lý thuyết, thực ra sai là do địch vô cùng khéo léo phân tán, ngụy trang, che dấu pháo cũng như súng phòng không và nhất là ta không ngờ họ có nhiều cao xạ đến thế, nó đã ngăn cản phi cơ thám thính và oanh tạc của ta.
                                       *    *    *
Đồn lũy Điện Biên Phủ được tổ chức thành những công sự như sau:
Vị trí trung ương bao quanh một đường bay và họp thành 5 trung tâm kháng cự (Claudine, Huguette, Anne-Marie, Dominique, Éliane)
Cách đó khoảng 2 hoặc 3 km, phía Bắc và Đông Bắc có hai trung tâm kháng cự (Gabrielle và Béatrice) mà nhiệm vụ là che chở vị trí trung ương ở hướng nguy hiểm nhất và tăng rộng khoảng không gian an toàn bên trên phi trường.
Cách 7 km về phía Nam, một trung tâm kháng cự (Isabelle) có mục đích giữ pháo binh cần thiết để bảo vệ khu trung ương
Lực lượng trừ bị gồm gồm 3 tiểu đoàn (bộ binh) và một thiết đội đóng trải dài từ vị trí trung ương và Isabelle.
Những màng lưới dây kẽm gai rộng từ 50 tới 70 thước tây quấn chặt các trung tâm kháng cự và bên trong nó, quấn quanh các địa điểm phòng thủ. Những màng kẽm gai khác chắn những hành lang mà địch có thể xâm nhập. Những bãi mìn, chất nổ, bánh bom lửa tăng cường cho những chướng ngại vật này.
Trước ngày tấn công, đồn lũy Điện Biên Phủ tạo thành một pháo đài kiên cố mạnh nhất chưa từng có tại Đông Dương. Không một giới chức cao cấp dân sự, quân sự nào (Bộ trưởng Pháp hay ngoại quốc (3), Tổng TM trưởng Pháp (4) Tướng Mỹ(5) ) đã thăm viếng đồn lũy mà không trầm trồ thán phục sức mạnh kiên cường của nó với tôi.
Theo tôi biết, trước ngày địch tấn công, không có ai tỏ sự nghi ngờ về khả năng kháng cự của nó, và cũng không có bản tường trình bất lợi nào được gửi cho tôi.
Những nhận xét xác đáng kể trên rất cần thiết, đã có những người nói viết sai và phóng túng về vấn đề này. Trong bất cứ trường hợp nào, nó chứng tỏ ĐBP không thể là một vị trí không phòng thủ được như nhiều người đã quả quyết sau trận đánh (6)

Chú thích
(1) Một đơn vị hỏa lực tương ứng về lý thuyết với nhu cầu một ngày chiến đấu cường độ trung bình (chú thích của tác giả)
(2) Chỉ huy trưởng pháo binh tại ĐBP, Tư lệnh pháo binh Bắc kỳ, Tư lệnh pháo binh Đông Dương và tướng Cogny cũng chính là pháo thủ. (chú thích của tác giả)
(3) Ông Pleven, de Chevigné và Marc Jacque. (chú thích của tác giả)
(4) Các ướng Ély TTMT, Blanc TMT lục quân, Fay TMT không quân (chú thích của tác giả)
(5) Tướng O’Daniel, trưởng đoàn Mỹ sau khi thăm ĐBP đến thăm đặc biệt tôi bầy tỏ phấn khởi về tổ chức của đồn lũy. (chú thích của tác giả)
(6) Tháng 4, 5 năm 1956 tướng Giáp trả lời phỏng vấn báo Paris-Match và Paris-Presse đã nói tình trạng chiến thuật của ĐBP  là hợp lý. (chú thích của tác giả)


Địch

Vào ngày 13-3 (1954), ngày khởi đầu cuộc tấn công, tình trạng địch như sau.  
Quân đoàn bao vây với 33 tiểu đoàn chính qui mà 27 tiểu đoàn trực diện với đồn lũy, trong khi 6 tiểu đoàn kia có địa phương quân yểm trợ bố trí để ngăn chận những hướng mà Pháp có thể tấn công từ bên ngoài và nhất là từ Thượng Lào.
Pháo binh gồm một tiểu đoàn 75 ly (20 khẩu) và một tiểu đoàn 105 ly (cũng 20 khẩu) (1). Thêm vào đó có một số lượng lớn súng cối hạng nặng.
Phòng không gồm 4 tiểu đoàn nhẹ (100 đại liên 12 ly 7) và một tiểu đoàn phòng không loại trung (16 khẩu 37 ly). Chúng tôi được  biết 4 tiểu đoàn được đưa tới gấp rút trang bị súng cao xạ  37 ly tối tân của Nga (64 khẩu).
Chúng tôi được tin chính xác về tiếp tế đạn dược rất dồi dào của địch so với số lượng mà VM đã mang tới vào lúc đó (15,000 viên đạn đại bác 105 ly, 5,000 viên đại bác 75 ly, 25,000 viên đạn súng cối, 45,000 viên đạn  phòng không 37 ly) tuy nhiên nó không đủ cho họ kéo dài cuộc chiến.
Ngày 9-3 bộ TTM tại Hà Nội đã ước tính toàn bộ khả năng pháo binh VM tác xạ vào đồn lũy từ 5 tới 7 giờ (một ngày) để “làm tê liệt toàn bộ”, nó chỉ  cho phép họ kéo dài mặt trận tối đa từ năm tới sáu ngày bao gồm các cuộc tấn công hai hay ba trung tâm kháng cự. Nhưng chúng tôi cũng được biết là những số lượng tiếp tế rất quan trọng từ bên Tấu chở qua có thể làm thay đổi tình hình này.
Xung quanh vị trí chúng tôi, địch dùng những đường ngụy trang để chở đạn dược bằng xe bò, đôi khi xe hơi ngay gần những chỗ đặt pháo. Chúng tôi cũng biết rất nhiều vị trí để bắn pháo mặt đất và pháo phòng không đã được sửa soạn nhưng họ ngụy trang tuyệt khéo đến độ chỉ có một số ít được xác định vị trí trước khi họ mở cuộc tấn công.
Việc bảo vệ những khẩu pháo của họ cũng mạnh khiến phản pháo của ta hay oanh kích của không quân rất khó khăn.
Dưới sự chỉ đạo các cố vấn Trung Cộng, cấp chỉ huy VM đã dùng lối xử dụng hoàn toàn khác biệt với lối cổ điển. Pháo binh được đặt từng khẩu riêng rẽ. Những khẩu đại bác được tháo rời (2) và mang lên bằng sức người tới những vị trí mà họ nhắm thẳng vào mục tiêu. Súng được đặt trong những nơi ẩn nấp, từ đó bắn trực xạ hoặc qua lỗ hổng của nơi ẩn náu hoặc được kéo  ngoài (3) mỗi khi bị Pháp phản pháo. Mỗi khẩu hoặc một nhóm đại bác được bảo vệ bằng súng cao xạ phòng không được đặt và cung cấp đạn y như thế. Sự xử dụng pháo và phòng không có được là nhờ “đàn kiến người” mà VM đã bố trí, khiến cho tiên đoán của giới pháo binh Pháp lỗi thời. Đó chính là yếu tố bất ngờ của trận đánh.
Nói về lực lượng tăng cường để bổ sung những tổn thất, địch bố trí tại chỗ từ 6,000 tới 8,000 người để thay thế, nhưng chúng tôi được biết những đoàn quân đông đảo được lấy từ các trại đồn và những đơn vị địa phương quân tại Châu thổ BV, họ đang trên đường tới.
Từ đó ta có thể kết luận, tới giữa tháng 2 (1954) VM chỉ đủ sức đánh một trận ngắn và với hỏa lực giới hạn bởi tiếp tế đạn dược mà họ có, cũng như số thiệt hại nhân mạng tối đa mà họ chấp nhận, từ khi có Hội Nghị Bá Linh (4), trước viễn tượng một trận tấn công quan trọng hơn nhiều và cần thiết, lâu dài hơn nhiều, muốn thực hiện nó họ chấp nhận trước tổn thất, hy sinh  rất nhiều  nhân mạng, bố trí những phương tiện chiến tranh rất lớn lao,  nhưng đã bắt đầu.
Thật vậy những phương tiện mới xuất hiện từ từ trong trận đánh. Số súng cao xạ phòng không được chở tới từ Trung Cộng thành lập tiểu đoàn mới mà chúng tôi đã được báo tin. Sự tham dự những tiểu đoàn tối tân, được huấn luyện kỹ (gồm nhiều trợ pháo thủ Tầu) là yếu tố quyết định (5). Trong những ngày cuối của trận đánh, có dấu hiệu họ xử dụng hỏa tiễn địa không.
Hỏa lực pháo binh tăng mạnh khi có thêm hai đội pháo 105 và sau cùng bởi dàn phóng hỏa tiễn theo kiểu “đàn orgue Staline”.
Nói về đạn dược, số lượng ban đầu đã được tăng gần như gấp hai vào tháng 3. Tháng 4 số lượng được đem đến rất lớn, chúng tôi không có có dữ kiện chính xác. Chúng tôi chỉ biết số đạn pháo binh và súng cối nặng mà địch đã bắn trong suốt trận đánh hơn 200,000 quả.
Sau cùng số quân tăng viện để bổ sung tổn thất lên dần tới hơn 25,000 người. Chính nhờ những phương tiện ngày càng quan trọng hơn mà VM có thể tiếp tục cung cấp, nuôi dưỡng trận chiến kéo dài với cường độ gia tăng, mà tuyệt đối ta không thể đương đầu như với số lượng ban đầu.

   
(1) Theo tài liệu trong nước (Lê Kim- “Điện Biên Phủ Nhìn Từ Hai Phía”, trang 39, in tại Sài Gòn 2004) VM có 24 khẩu pháo lớn (chú thích của người dịch)
(2) Đây chỉ là suy đoán của tác giả Navarre không có dẫn chứng, sự thực những khẩu pháo lớn này đã được kéo lên núi đồi bằng sức người (2 trung đoàn thuộc Sư đoàn 308 và hàng nghìn người thuộc Sđ 312). Các tài liệu phía CS cũng như phía QG đều nói vậy, trong cuốn Lê Kim “ĐBP Nhìn Từ Hai Phía” kể trên, một cuốn sách tương đối đứng đắn ít tuyên truyền có nói rõ việc kéo pháo trầy da tróc vẩy tại  các trang 39, 40, 41. Phía Quốc gia trong “Quân Sử 4, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Trong Giai Đoạn Thành Hình 1946-1955” Bộ TTM VNCH in 1972, trang 162, 163 cũng có hình ảnh và đề cập tới việc kéo pháo này.
Một khẩu đại bác nặng từ 2 tấn rưỡi trở lên không thể tháo rời (démonter) khiêng lên những ngọn đồi núi cao từ 600 cho tới 1000 mét được như Navarre nói (chú thích của người dịch)
(3) VM đặt sung trong hang có thể kéo ra, kéo vào được y như trong phim Les Canons de Navarone quay 1961, do Gregory Peck, David Niven, Anthony Quinn đóng vai chính (chú thích của người dịch)
(4) Conférence de Berlin, có lẽ tướng Navarre nhầm, chắc là Conférence de Genève, Hội nghị Genève vì Hội nghị Bá Linh không liên quan gì tới chiến tranh Đông Dương (chú thích của người dịch)
(5) Chi tiết này trùng hợp với tiết lộ Trung cộng. Khoảng 1978, 79 sau khi Việt Cộng và Trung Cộng ẩu đả nhau, đàn anh tiết lộ nhờ họ viện trợ vũ khí nhất là phòng không đã đem lại thắng lợi cho VM tại trận ĐBP (chú thích của người dịch)

Trận Đánh
Đây chỉ là một bản tường thuật khách quan và vô tư về trận Điện Biên Phủ. Mô tả trận đánh này bằng cảm tưởng chính xác, chứng tỏ sự anh dũng trong chiến đấu, những nỗi gian khổ cam chịu và những hy sinh đã cống hiến chỉ có thể là tàc phẩm của những chính những người lính chiến, của những người đã sống, dưới đất hoặc trên không.  Với sự cố ý (của tác giả), sẽ không có ai được nêu tên: kể tên vài người sẽ phạm bất công với những người khác mà hầu như tất cả đều xứng đáng.
Người ta cũng sẽ không thấy sự biện minh cho những quyết định liên quan đến việc chỉ đạo trận chiến. Để cho sự diễn tả được sáng sủa, những lời biện minh này sẽ được đặt ở cuối chương thì hay hơn.
                                          *  *  *
Trước trận đánh một ngày (12 tháng ba), chúng tôi có tin tình báo khá đầy đủ về ý định của địch.
Chúng tôi được biết từ ngày 13, các trung tâm kháng cự đơn độc (Béatrice, Gabrielle, Isabelle) sẽ được lần lượt thanh toán và cuộc tấn công vị trí trung ương sẽ tiếp theo sau đó. Có vài dấu hiệu cho ta suy đoán địch trù tính chiếm toàn bộ đồn lũy từ năm tới bẩy ngày.
Trận đánh kéo dài từ 13 tháng ba cho tới 7 tháng năm, có thể chia sơ lược  thành một số giai đoạn như dưới đây.

Trong giai đoạn đầu (từ 13 tới 15-3) địch tấn công và phá hủy các trung tâm kháng cự Bắc và Đông Bắc.

Trong đêm 13 và 14, địch tấn công Béatrice và có ý định xuống Gabrielle.
Gabrielle còn đứng vững nhưng Béatrice sụp đổ sau vài giờ giao tranh. Sự sụp đổ nhanh chóng một trung tâm kháng cự rất kiên cố và được một tiểu đoàn lê dương rất thiện chiến bảo vệ (tiểu đoàn III/13 D.B.L.E) trước hết là do tiểu đoàn trưởng, tiểu đoàn phó và ông chỉ huy trung tâm thiệt mạng ngay trong khi đang sửa soạn khai hỏa đại bác, cả ba chết vì mảnh đạn pháo của địch xuyên qua lỗ châu mai quan sát. Do đó trong bộ chỉ huy y như rắn mất đầu. Không còn ai lãnh đạo cuộc phòng thủ, đạn pháo bắn theo yêu cầu không chính xác như đòi hỏi và không phản pháo được.
Đêm hôm sau (14 tới 15), Gabrielle (do tiểu đoàn V/ 7e R.T.A) đến lượt bị tấn công bắt đầu lúc 20 giờ (8giờ tối). Lúc 22 giờ (10 giờ tối) bị chận đứng hoàn toàn bới pháo yểm trợ và hỏa lực kết hợp của phòng thủ. Tiểu đoàn trưởng phải bố trí lại và xử dụng phần lớn quân trừ bị. Địch tấn công tiếp vào lúc 2 giờ 30 khuya bằng những đơn vị mới và đặt chân được lên mặt Đông Bắc. Vào lúc 4 giờ 30, tiểu đoàn trưởng và tiểu đoàn phó bị thương nặng. Cũng như Béatrice hôm qua, không còn ai chỉ huy chiến đấu nên căn cứ bị địch tràn ngập. Còn lại một lực lượng khoảng một đại đội rưỡi còn bám trụ ở phía nam trung tâm kháng cự. Cuộc phản công có chiến xa yểm trợ được tung ra lúc 5 giờ 30 từ vị trí trung ương, tới 7 giờ thì tới sườn đồi phía nam của Gabrielle nhưng trước sự phản công dữ đội của địch không thể tới trung tâm kháng cự được và đành phải tiếp cứu đám tàn quân của doanh trại này.
Sự sụp đổ của hai trung tâm kháng cự phía ngoài đưa tới những hậu quả nặng nề cho chúng tôi. Bố trí phòng ngự vòng ngoài phía Bắc, Đông Bắc của ta bị biến mất, đối phương sẽ mang pháo binh, cao xạ phòng không lại gần hơn.
Chúng tôi bị thiệt hại nặng và đã xử dụng một số lượng đạn dược rất lớn, kho đạn của ta giảm nhiều, cần thời gian để làm cho đầy lại. Địch cũng tổn thất như vậy và cũng xử dụng nhiều đạn dược không thể tiếp tục tấn công ngay lúc này   
Trong một giai đoạn hai (từ 16 tới 30 tháng ba) địch tăng viện để bổ sung tổn thất và tăng cường thêm kho dự trữ đạn dược. Phía chúng tôi tổ chức lại và tăng cường quân để bố trí.

Từ ngày 13 tướng Cogny xin tôi cấp thêm ba tiểu đoàn nhẩy dù (trong số 5 tiểu đoàn trừ bị) để mở cuộc phản công chiếm lại những trung tâm kháng cự đã bị mất. Yêu cầu được chấp thuận ngay và ngày 14, 16 tháng ba hai tiểu đoàn (6e B.P.C và 5e B.P.V.N) đã được nhẩy xuống đồn lũy ngay. Đáng tiếc là đại tá de Castrie đã xử dụng gần hết quân trừ bị để bố trí và nay chủ lực quân không đủ khả năng thực hiện cuộc phản công mạnh. Kho đạn cũng hao hụt nhiều còn ít thôi. Vả lại, thời tiết rất xấu không thể xử dụng nhiều máy bay yểm trợ trong ba ngày. Sau khi hội ý với đại tá de Castrie, tướng Cogny hủy bỏ cuộc phản công.
Vì có sự giao động trong các tiểu đoàn người Thái (1), một tiểu đoàn  trong số đó đã bỏ đi (3e B.T), ngày 18, trong số hai điểm tựa phía Bắc của trung tâm kháng cự Anne-Marie, mặt Tây Bắc của vị trí trung ương bị thu nhỏ lại: rút bỏ Anne-Marie, và hai điểm tựa phía Nam của nó được đưa vào Huguette. Sự bố trí của vị trí trung ương do đó được chỉnh lại để tạo một phòng tuyến gần như liên tục ở tất cả phía ngoại vi để chống lại mọi sự xâm nhập mà địch nay đang định tiến về phía phi trường. Sự liên lạc giữa vị trí trung ương và Isabelle được thực hiện hàng ngày nhưng trong những điều kiện ngày càng tạm bợ, địch đang tìm chen vào giữa hai phần này của chiến lũy.
Một chiến dịch thực hiện tại các làng cách phía Tây ĐBP 2km, ở đó địch có đặt những khẩu phòng không loại nhẹ, đã gây nhiều thiệt hại trầm trọng cho VM và chúng tôi đã chiếm được nhiều đại liên 12 ly 7. Trong giai đoạn này việc tiếp tế bằng thả dù vẫn trong điều kiện bình thường mặc dù có phòng không địch.
Việc di tản (thương binh) trái lại rất khó khăn chỉ thực hiện được bất ngờ và rất vội vã bằng những máy bay và trực thăng trong vài phút tại địa  điểm đã được dọn sạch bằng hỏa lực. Chẳng bao lâu, ban ngày không đáp được phải đáp ban đêm tại một đường bay không cắm mốc mà phi cơ phải đáp. Sau mấy ngày, mặc dù sự anh dũng của phi hành đoàn, phải từ bỏ tải thương. Trực thăng cuối cùng bị bắn hạ ngày 23-3 khi bay lên. Phi cơ cuối cùng chở đi 18 thương binh vào ngày 26-3.
Về phía địch ráo riết bao vây xiết chặt gần chiến lũy, những hầm hố xuất hiện xung quanh và nhất là ở mặt Đông, phạm vi không phận dần dần bị đại bác và phòng không địch bao vây mà phản pháo và oanh tạc của phi cơ  Pháp không bịt mõm chúng được.

Trong một giai đoạn thứ ba (từ 30 tháng ba tới 5 tháng tư) địch mở cuộc tấn công chiếm bớt mặt Đông của khu trung ương và chiếm một vị trí phòng thủ quan trọng ở mặt Tây bắc. Đó là giai đoạn chính của trận đánh.
Chiều tối 31 tháng ba, Việt Minh mở cuộc tấn công dữ dội ở mặt Đông. Vị trí này bị sứt mẻ. Những trận đánh ác liệt diễn ra từ 31 tháng ba tới 4 tháng tư . Quân đội của chúng tôi –có vài đơn vị phải đương đầu với lực lượng đông gấp 7 lần - đã chiếm lại một phần những vị trí đã mất nhờ yểm trợ của pháo binh và không quân. Đáng tiêc hai điểm tựa cao, bao quát đã lọt vào tay địch, họ có thể đặt pháo binh và cao xạ cách phi trường và các vị trí pháo binh của chúng tôi chưa tới 1,500 mét , như thế nó đánh dấu bước đầu  sự sụp đổ của chiến lũy.
Vả lại, một phần của tiếu đoàn Thái bỏ trốn (2e B.T.) đưa tới sự rút ngắn, co cụm của mặt Tây Bắc và khiến cho địch tại đó kéo pháo đến gần hơn. Thả dù ngày càng khó và kho đạn được xử dụng rất hạn chế. Ngày 3 và 4 tháng tư, một tiểu đoàn nhẩy dù thứ ba (II/1er R.C.P) được thả xuống để bù lại những tổn thất và khai triển bố trí.

Giai đoạn thứ tư (từ 5 tháng tư tới 1 tháng năm) áp lực địch đè nặng mặt Tây Bắc và đồn lũy chết lịm dần bởi súng phòng không.
Địch bị tổn thất ngoài mọi tiên đoán, chính họ cũng bị thiếu thốn đạn dược phải ngưng tấn công ồ ạt nhưng mỗi dêm vẫn ra sức đào giao thông hào tới gần hơn. Ngày 1 tháng năm toàn bộ hệ thống giao thông hào địch đạt tới vào khoảng 440 km.
Sự xâm nhập của VM trên mặt Tây Bắc khiến cho việc tiếp tế cho các vị trí phòng thủ bảo vệ nơi đây dần dần không thực hiện được. Chúng tôi tiếp tục cuộc chiến dai dẳng bằng không quân nhưng địch gặm dần hệ thống phòng thủ và buộc chúng tôi phải bố trí co cụm dần.
Phòng không địch ngày càng lại gần khiến cho việc thả dù ngày càng nguy hiểm hơn. Họ bắn trực xạ với khoảng cách gần hơn. Địch quấy phá liên tục khiến cho mọi việc cất cánh của các phi cơ, liên lạc, tiếp tế và lấy đồ thả dù phải trả giá cao. Tiểu đoàn dù thứ tư (2e.B.E.P) được nhẩy xuống ngày 11 và 12 tháng 4 giúp Pháp chiếm lại vị trí phòng thủ mặt Đông nhờ một cuộc phản công mãnh liệt không ngờ.
Mặc dù màng lưới phòng không địch và diện tích chiến lũy thu nhỏ lại, trung bình một ngày thả xuống 100 tấn hàng cũng như tăng viện quân ngoài  lính dù (gồm các chuyên viên, pháo thủ).
Trong giai đoạn này tình trạng cứu thương y tế ngày càng rất trầm trọng
 vì số thương binh nhập viện vượt quá xa khả năng của bệnh xá mặc dù đã được ước tính thật rộng lớn lúc ban đầu (2) và về sau mở rộng tối đa. Chúng tôi chịu một trở ngại lớn từ việc này.
Trong những ngày cuối tháng tư, trời mưa khiến hầm trở thành bùn lầy khiến vài nơi hầm trú ẩn bị sụp đã làm tê liệt hoạt động của chúng tôi.

Giai đoạn thứ năm là cuộc tổng tấn công trên khắp các mặt bố trí và sự thất thủ của đồn lũy.

Những đợt khởi đầu của địch cùng lúc diễn ra, họ tái lập các đơn vị tăng viện mạnh để bù vào những tổn thất, bổ sung các kho đạn dược.
Trước mặt họ chỉ là những đơn vị thiếu hụt, kiệt lực (3), pháo binh của chúng tôi bị hủy một phần, việc tiếp tế đạn yếu kém.
Ngày 1 tháng năm bộ chỉ huy Việt Minh mở cuộc tổng tấn công. Sau những trận đánh kéo dài suốt ngày, vòng ngoại vi của vị trí trung ương bị sứt mẻ hết. Những trận phản công chỉ khôi phục cục bộ sự bố trí. 
Đứng trước sự lựa chọn, hoặc phải ngưng chiến đấu vì thiếu chủ lực   quân, hoặc tiếp tục thêm vài ngày bằng tăng viện, tôi quyết định theo yêu cầu của tướng Cogny, cho nhẩy dù thêm một tiểu đoàn thứ năm (1e B.P.C) từ ngày 2 tháng năm nhưng trước những khó khăn ngày càng nhiều vì diện tích để đổ quân ngày càng hẹp, chỉ có một nửa tiều đoàn là được thả xuống.
Giữa ngày 3 và 6 tháng 5 tương đối lắng dịu rồi từ tối tháng 6 cho tới tháng 7 đồn lũy bị tấn công dữ dội tại toàn bộ vùng ngoại vi nhất là mặt Đông. Đồng thời địch pháo tới tấp xuống Isabelle khiến cho pháo binh tại đây bị phá hủy gần như hoàn toàn.
Tới rạng đông, tình thế tuyệt vọng, địch tấn công liên tục không lúc nào ngớt cho tới khi kết thúc.
Vị trí trung ương ĐBP sụp đổ vào ngày 7 tháng 5 trong khoảng 17 và 19 giờ. Không có đầu hàng, nhưng trận đánh tàn lụi dần khi các vị trí kháng cự bị tràn ngập.
Đồn Isabelle dự định khi chập tối trốn đi nhưng thất bại. Ngày 8 tháng 5, lúc 2 giờ sáng mất liên lạc máy vô tuyến điện.
                                               *  *  *
Thiệt hại của chúng tôi lên tới khoảng  16,000 người, trong đó có 1,500 bị giết và 4,000 bị thương (4). Nó bao gồm 16 tiểu đoàn (trong đó có 7 tiểu đoàn nhẩy dù), 2 pháo đội 105 ly và một pháo đội 155 ly , một thiết đội và những đội thuộc những binh chủng và cơ sở khác (5).
Tổn thất địch khó ước lượng chính xác. Một cuộc nghiên cứu chặt chẽ  ngay sau trận đánh cho ta xác định tối thiểu 20,000 người  bị loại khỏi vòng chiến, trong đó từ 10,000 cho tới 12,000 bị giết gần sự thật hơn và có lẽ còn thấp hơn nhiều.
Về mặt số lượng tổn thất của Việt Minh trong mọi trường hợp cao hơn Pháp rất nhiều. Vế mặt phẩm nó cũng thiệt hại không kém, vì nếu chúng tôi mất những đơn vị tinh nhuệ (Lê dương- Bắc Phi- Nhẩy dù) thì địch cũng bị hủy hoại một phần lớn các sư đoàn xung kích (308 và 312) và mất những cấp chỉ huy ưu tú.

Chú thich.
(1) Các tiểu đoàn Thái mặc dầu chiến đấu xoàng nhưng cũng được đưa vào ĐBP để tham gia vào các hoạt động ngoại vi của chiến lũy (dò thám, tuần tiễu, liên lạc), họ rành về địa thế tại đây nên rất thích hợp với nhiệm vụ. Vào lúc trận tấn công coi như chắc chắn sẽ diễn ra, đại tá de Castrie đã nhiều lần hỏi tướng Cogny cho thay họ bằng những tiểu đoàn thiện chiến hơn trích ra từ Châu thổ BV. Việc thay thế này tôi đã đồng ý nhưng vẫn chưa được thực hiện khi địch tấn công (chú thích của tác giả)
(2) Khả năng chứa của bệnh xá đã được tính dựa trên căn bản của căn cứ Nasan (có cùng 12,000 chủ lực quân) rồi nhân lên 3 lần rưỡi .Từ 13 tháng ba cho tới 7 tháng năm , 3,000 thương binh đã được chữa trị trong các trạm giải phẫu. Có tất cả 1,000 ca mổ. Tỷ lệ thương binh chết trong các bệnh xá của đồn lũy là 12 trên 100. Số người chết cho tới 7 tháng 5 khoảng 1,500 người
Nhưng nhiều thương binh chết sau khi bị bắt giam (chú thích của tác giả).
(3) Những đơn vị Pháp (chú thích của người dịch)
(4) Theo Bernard B. Fall trong Hell in a Very Small Place, The Siege of Dien Bien Phu trang 448 nói VM có khoảng 8,000 chết, Pháp khoảng 2,000 người chết. Tính tới ngày 8 tháng 5 phía người Pháp có tổng cộng 2,242 người chết
6,463 người bị thương 3,711 người mất tích, 6,500 người bị bắt làm tù binh vào ngày 7 và 8 tháng 5 (trang 484). Theo tác giả Cao Thế Dung trong cuốn Viêt Nam 30 năm Máu Lửa, phần nói về trận ĐBP cho biết phía VM không có cứu thương y tế nên số tử vong rất cao, Trung Cộng chỉ viện trợ hai bác sĩ cho cả chiến trường 
Theo yahoo.fr , La Bataille de Dien Bien Phu , phía người Pháp có 2,293 người chết, 5,195 bị thương, 11, 721 bị bắt làm tù binh, chỉ có 3,290 sống sót trở về Pháp. Phía Việt Minh chết trong khoảng 23 và 25,000 người, khoảng 15,000 bị thương (theo ước lượng của Pháp). Phía VM nói họ chết 4,020 ngừoi, 9,118 bị thương (chú thích của người dịch)
(5) Tính theo tỷ lệ chủ lực quân toàn Đông Dương, tổn thất của chúng tôi dưới 5 phần 100 (chú thích của tác giả).

Hoạt Động Của Không Quân
Từ dầu tháng mười một 1953 không quân đã tham gia phục vụ trận Điện Biên Phủ. Nó tăng cường hoạt động hàng ngày, nó kéo dài cho tới khi đồn lũy thất thủ. Nó kéo dài thậm chí tới đầu tháng sáu, bởi vì chính không quân đã chu toàn nhiệm vụ hãm bớt đà quay trở về Châu thổ BV của Quân đoàn VM.
Đồng thời với mặt trận ĐBP, không quân cũng tham gia những mặt trận khác: Châu thổ BV, Thượng, Trung và Hạ Lào, Cao nguyên và vùng Atlanta (chiến dịch), Nam VN, Miên. Tuy nhiên từ tháng mưới một (1953) cho tới tháng năm (1954), ĐBP so với toàn bộ Đông dương vẫn được ưu tiên về không quân nhiều nhất trừ thời gian ngắn khi Thượng Lào bị Sư đoàn 308 đe dọa.
Không quân tại Đông Dương gồm:
- Vận tải có 75 chiếc C47 (Dakota) từ khởi đầu cuộc chiến lên tới 100 từ ngày 1 tháng hai. Cùng với những phi cơ quân sự này, còn có 16 máy bay dân sự Mỹ C119 (Packet) do đoàn  Cọp Bay của tướng Chenault lái cũng như nhiều máy bay dân sự  đủ loại do đường bay quốc nội Đông dương cung cấp.
- Oanh tạc được thành lập từ đầu bằng 48 oanh tạc cơ B26, 8 oanh tạc cơ Privateer và 112 oanh tạc cơ chiến đấu Hellcat, Beercat và Corsair . Tất cả là 156 cái (1). Số phi cơ tăng lên trong cuộc chiến, cuối cùng lên tới 227 chiếc.
Từ những con số này ta phải khấu trừ tổn thất tất cả các loại trong trận so với toàn bộ không quân Đông Dương (11 vận tải, 54 oanh tạc cơ) đến độ ta không bao giờ có hơn 90 máy bay vận tải quân sự và 175 oanh tạc cơ để xử dụng.
Gần như tất cả những máy bay vận tải quân sự và Packet Mỹ được xử dụng tại Điện Biên Phủ. Việc vận tải cho những mặt trận khác hầu như chỉ do máy bay dân sự.
Riêng về oanh tạc cơ, có hơn hai phần ba (2/3) đặt dưới sự điều động thường trực của tướng Dechaux phụ trách việc yểm trợ cho ĐBP. Một phần ba còn lại phụ trách toàn bộ những mặt trận khác gồm đa số những máy bay mà tính chất và tình trạng máy móc không xử dụng được tại ĐBP. Tuy nhiên so với tỷ lệ các máy bay được duyệt xét, số máy bay hằng ngày sẵn sàng dành cho trận ĐBP không khi nào vượt quá từ 75 tới 80 oanh tạc cơ. Ngoài ra những máy bay này không thể cung cấp hiệu quả tôi đa vì lý do không đủ nhân số phi hành đoàn và đội ngũ những người bảo trì
Nhiều sự lệ thuộc đã làm giảm hiệu lực của không quân. 
Đó là vì chỉ có tại Châu thổ BV những địa thế được trang bị đầy đủ. Chỉ có tại Châu thổ BV những địa thế có thể thiết lập cơ sở không quân, trừ  một vài máy bay được lấy từ những đường bay xấu tại Vạn Tượng và Cánh đồng Chum. Thế mà Châu thổ BV chỉ được đánh giá thường trong việc yểm trợ khẩn trương bằng không quân cho ĐBP mà chúng tôi phải khai triển.
Thế đất bay từ Châu thổ tới ĐBP là một thế đất gồ ghế hỗn tạp khiến phi cơ phải bay cao. Dự báo thời tiết luôn luôn xấu. Mưa phùn tại Châu thổ BV trong vài thời điểm khiến cho việc đi về khó khăn. Những đám mây nguy hiểm thường xuất hiện trên lộ trình. Sương mù khô (2) đôi khi bao phủ trên lòng chảo ĐBP. Hạ tầng hệ thống máy vô tuyến truyền thanh yếu kém của chúng tôi cũng gây thêm khó khắn.
Tuy nhiên sự bất tiện chính là khoảng cách. Khoảng cách này là 350 km. Nó có thể chấp nhận được nếu cuộc chiễn diễn ra trong thời gian ngắn mà ta nghĩ giao chiến với một kẻ địch không có súng phòng không tối tân. . Nhưng nó sẽ trở ngại lớn đối với trận chiến kéo dài và những mục tiệu có phòng không hữu hiệu bảo vệ.
Cùng với khó khăn kỹ thuật thêm vào đó còn khó khăn chiến thuật do diễn tiến mặt trận dưới đất.
Sự hiện diện của một hệ thống phòng không ngày càng hữu hiệu tại lòng chảo ĐBP và bờ xung quanh đã buộc phi hành đoàn của chúng tôi phải vượt qua màng lưới dầy đặc y như màng lưới bảo vệ một số địa điểm trọng yếu tại chiến trường châu Âu những ngày cuối của cuộc chiến 1939-1945.
Sự thu hẹp ngoại vi của đồn lũy khiến cho các vị trí phòng thủ ngày càng khó khăn.
Sau cùng cách ngụy trang khéo léo và phân tán của Việt Minh, khả năng thích hợp, tài sửa đường nhanh chóng khi bị phá hủy khiến cho nhiệm vụ không quân càng phức tạp hơn. Như thế, thiếu phương tiện và sự lệ thuộc vào việc xử dụng, không quân đã không đóng vai trò quyết định trong bất cứ giai đoạn nào của cuộc chiến.
                                          *  *  *
Tấn công các đường giao thông đã đem lại từ đầu chí cuối những kết quả thất vọng nguyên do VM đã vượt trở ngại việc cắt đường, họ sửa rất nhanh  trong mọi trường hợp khiến ta không thực hiện được. Chúng ta đã không ngăn chặn hay –ít nhất làm chậm lại - sự bố trí của Quân đoàn địch quanh ĐBP, ta đã không làm chậm lại việc tiếp tế đều đặn của địch. Sự yếu kém về phương tiện của ta là nguyên nhân chính của sự thất bại này.
Chỗ dựa trực tiếp của bộ binh nó cũng chỉ cho kết quả thật tầm thường.
Nguyên do chính ở sự nguỵ trang hoàn hảo và sự bảo vệ các tổ chức địch. Nhất là những khẩu pháo, mục tiêu chính, được bảo vệ tối đa, chỉ phát hiện được trong thời gian chúng bắn, dù bom cỡ lớn cũng không diệt được,chúng  không bị phá hay vô hiệu hóa (3)
Hơn nữa, tiếp tế bằng thả dù, nhiệm vụ chính cần ưu tiên cần hỏa lực bảo vệ máy bay vận tải chống màng lưới phòng không dầy đặc vô cùng nguy hiểm.
Trinh sát và quan sát bị giảm hiệu lực nhiều vì vì địa thế, cây cối dầy đặc, khí hậu, ngụy trang và nhất là cường độ phòng không.
Tuy nhiên nó cũng cho nhiều tin tình báo về sự di chuyển quân của địch cũng như xâm nhập bố trí quanh đồn lũy nó đã cung cấp những tài liệu bằng hình rất quan trọng (đặt pháo, hầm hố…) vô cùng lợi hại.
Đáng tiếc là nó không đóng vai chính một cách hiệu lực đó là điều khiển pháo binh tác xạ và máy bay ném bom
Vận tải đóng vai chính bằng cung cấp cho đồn lũy những tăng viện và tiếp tế cần thiết, trọng tải hàng ngày mà nó đã bảo đảm cho thấy gần hai gấp hai số lượng đã được ấn định lúc ban đầu. Vận tải đã hoàn thành nhiệm vụ trong những điều kiện vô cùng cam go. Một nhiệm vụ cho thả dù xuống ĐBP, đó là sau một hành trình luôn khó khăn (địa thế gồ ghề, thời tiết, mây mù):  “bay một vòng đợi, đi vào phía đã được lệnh, bay trên đường đã định, hướng mũi tầu cố định, quẹo khi bắt buộc, ở độ cao đã cho” (4)
Như thế là “đi vào trước mũi súng phòng không địch bốn lần” (4),  thế mà phi hành đoàn phải thực hiện ba nhiệm vụ một ngày.  “Người ta đã thấy nhiều cầu không vận, nhất là cầu không vận Miến Điện và Bá Linh nhưng người ta chưa hề thấy như ở đây (tức ĐBP), dẫn tới tầm đạn cao xạ của địch” (4)
Khu vực thả dù ngày càng thu hẹp, và sau cùng đồn lũy không thể thu nhặt đều đặn đồ tiếp tế nữa, nó đã làm giảm kết quả những nỗ lực anh dũng này. Tuy nhiên trọng tải hàng hóa thả dù bị thất lạc không bao giờ quá 30% trong suốt những ngày cuối cùng của cuộc chiến, và số trung bình chưa tới 20%, trong đó chỉ có một số ít hàng bị lọt vào tay địch trong trận đánh.       
Chính nhờ không vận mà Điện Biên Phủ đã có thể cầm cự được năm mươi sáu ngày, thật đáng tôn kính.

Thiệt hại của chúng tôi tại mặt trận ĐBP gồm 36 máy bay bị bắn hạ khi đang bay hoặc bị phá hủy ở dưới đất; 150 máy bay bị trúng đạn phòng không. Thiệt hại về nhân sự gồm 79 người bị giết và mất tích (Bộ Không quân và thủy phi cơ)

(1) Thực ra là 168 chiếc, có lẽ tác giả tính nhầm (chú thích của người dịch)
(2) Hiện tượng gây lên bởi sức nóng thường thấy ở miền Thượng du (chú thích của tác giả)                                        
(3) Chúng tôi đã xử dụng bom lửa tối đa trong khả năng, nhưng kết quả yếu kém vì rừng cây quá rậm rạp (chú thích của tác giả)
(4) Trích trong bài của tướng Lauzin, Tư lệnh Không quân Đông dương, trong Tạp chí Les Ailes (chú thích của tác giả)

(Dịch từ trang 212 tới 235 trong Agonie de L’Indochine, các đoạn L’Organisation de la Défense, L’Ennemi, La Bataille, l’Action  Aérienne)

Trọng Đạt
(còn tiếp bài 3, cuối cùng)

Không có nhận xét nào: