Nguyễn Văn Lục


Trường hợp Hoàng Phủ Ngọc Tường

  
Nguyễn Đắc Xuân (t) và Hoàng Phủ Ngọc Tường (p) Nguồn: OntheNet

Chính GS Lê Văn Hảo đã xác nhận với BBC việc Hoàng Phủ Ngọc Tường và đồng bọn đã lập toà án nhân dân  xét xử những sinh viên và những người quốc gia ở Huế là đúng.
 (Lê Văn Hảo từng là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Cách mạnh Thừa Thiên - Huế hồi Tết Mậu Thân 1968, xin tị nạn chính trị ở Pháp tháng 7/1989)

“Không hiểu sao đến giờ vẫn có kẻ xấu miệng cứ tìm cách buộc chặt tôi vào vụ Mậu Thân Huế. Đúng, Mậu Thân Huế đã trở thành một bi kịch đời tôi. Tôi đành xem họ như những kẻ vu khống bẩn thỉu thế thôi.”Hoàng Phủ Ngọc Tường, (Trích trả lời phỏng vấn với Thụy Khuê)
Mậu Thân Huế trở thành bi kịch đời Hoàng Phủ Ngọc Tường? Hay ngược lại, Mậu Thân Huế là bi kịch của những gia đình có anh em, chồng con, cha mẹ đã bị thảm sát trong dịp ấy? Bài viết sau đây – dựa trên những gì Hoàng Phủ Ngọc Tường trả lời trong một cuộc phỏng vấn “Interview with Vietnamese Museum Guide 1981”. WGBH, Open Vault – 1982 cho thấy ai là nạn nhân của ai?

Trước tiên, nhân dịp Hoàng Phủ Ngọc Tường được sang Pháp vào tháng 7, 1997, phóng viên Thụy Khuê đài RFI đã dành cho Hoàng Phủ Ngọc Tường một cơ hội để trình bày quan điểm liên quan đến tết Mậu Thân và nhất là để biện minh cho việc Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không có mặt ở Huế. Đồng thời, ông Tường cho hay những người tố cáo
“ông là một tên đồ tể Mậu Thân ở Huế thì đó là một sự bịa đặt mang ý định vu khống hoàn toàn. Sự thực là tôi đã từ giã Huế lên rừng tham gia kháng chiến vào mùa hè năm 1966 và chỉ trở lại Huế sau ngày 26 tháng 3 năm 1975.
Như thế nghĩa là trong thời điểm Mậu thân 1968, tôi không có mặt ở Huế.
“Điều quan trọng còn lại, tôi xin tỏ bày ở đây, với tư cách là một đứa con của Huế, đã ra đi và đã trở về; ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải chịu cho hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế vào năm Mậu Thân.
Đó là một sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc và nhìn từ quan điểm chiến tranh cách mạng.”
Được hỏi về những lời tuyên bố trên truyền hình Mỹ, Hoàng Phủ Ngọc Tường chối,
“Hồi đó, ông Burchett và đoàn làm phim Lịch sử Truyền hình tới Huế, chọn tôi để chất vấn về chuyện tang tóc ở đây. Lâu rồi, trả lời ứng khẩu thôi. Tôi không nhớ thật cụ thể những điều đã nói và càng không có dịp xem lại chuyện phim như nó được chiếu ở ngoại quốc.”
(Trích Thụy Khuê, “Nói chuyện với Hoàng Phủ Ngọc Tường về biến cố mậu thân ở Huế”, RFI, 12 tháng 7, 1997.)
Giọng điệu năm 1997 của Hoàng Phủ Ngọc Tường khi được chị Thụy Khuê phỏng vấn thật khác xa với giọng điệu “khát máu” trong con người Hoàng Phủ Ngọc Tường năm 1982. Điều này tạo thành một vấn nạn, có ai tin được những điều Hoàng Phủ Ngọc Tường nói không?
Nếu quả thực Hoàng Phủ Ngọc Tường đã quên thì đây là dịp để ông nhớ lại từng câu, từng chữ một qua cuộc phỏng vấn của Burchett.
Lên tiếng kết án nặng nề nhất Hoàng Phủ Ngọc Tường có thể là tác giả Liên Thành.
Bên cạnh đó, còn có những người cảm tình viên như Đặng Tiến, Tiêu Dao Bảo Cự, Ngô Minh tìm cách lái câu chuyện Hoàng Phủ Ngọc Tường sang chuyện văn học và đặt nhẹ vấn đề trách nhiệm của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong vụ thảm sát dân Huế dịp tết Mậu Thân.
Nhưng mọi chuyện bao che, dối trá của Hoàng Phủ Ngọc Tường trở thành sự trơ trẽn đáng xấu hổ khi chúng ta cùng nhau nghe lại cuộc phỏng vấn Hoàng Phủ Ngọc Tường trong bộ phim tài liệu 13 tập nhan đề “Viet Nam: A television History”. (Published as a companion volume to “Vietnam: A Television History.” a 13–part documentary film series for the PBS network produce by WGBH Boston, in cooperation with Central Independent Television/ United Kingdom and Antenne–2/France, and in association with LRE Production).
Trong bộ film này, Hoàng Phủ Ngọc Tường xuất hiện như một tên đao phủ sắt máu, ngôn ngữ hận thù, thái độ của một người cộng sản chính hiệu, hơn cả người cộng sản có thẻ đảng.
Hoàng Phủ Ngọc Tường lộ nguyên hình là một kẻ dối trá khi kể rằng chính anh ta chứng kiến cảnh dội bom của Mỹ vào một bệnh viện gần chợ Đông Ba làm chết và bị thương 200 người mà đêm tối anh ta đã dẫm lên đám đất bùn hòa lẫn máu người chết.
Hoàng Phủ Ngọc Tường lộ nguyên hình đương nhiên xác nhận ông có mặt ở Huế. Như một nhân chứng?
Thế là đủ rồi. Còn có mặt ở Huế để làm gì lại là chuyện khác. Nhưng vai trò của Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân cũng như bà bác sĩ Phạm thị Xuân Quế (xem thêm phần trích dẫn tóm tắt hoạt động của bà bác sĩ Quế) phải chăng là dẫn đường và làm điểm chỉ viên trong việc giết hại những giáo sư đại học, tu sĩ, sĩ quan, sinh viên và công chức VNCH?
Ai đã cung cấp danh sách những nạn nhân có thể bị giết hại như trong nhận xét của John Prados sau đây?
“At Hue, too, the uprising failed, the populace horrified by the massacre of betwen 2,500 and 3500 persons, mostly civilian or families of Saigon government officials. The VPA and its NLF cadrers systematicallly took away people named on lists that had been prepared by local networks. (Both sides could play at that game: The CIA's chief for Hue escaped with a radioman, exphiltrating through ennemy lines in James Bond style, dressed in black and carrying exotic gear. He went immediately the the command post of the Marine general leading the response force and handed him a list that, according to a witness, contained thousands of names of NLF sympathizers in the Hue area.)” (1)
(Trích John Prados, Viet Nam, The History of an Unwinnable war, 1945–1975, trang 240.
Đoạn văn này một cách công bằng bắt buộc phải xếp Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Phạm Thị Xuân Quế vào những thành phần tay sai chỉ điểm cho cộng sản Bắc Việt xâm nhập vào Huế dễ dàng.
Chú Thích: Khi nghe lại đoạn băng phỏng vấn, có thể có một đôi chỗ, người viết bài này nghe không rõ, ghi không kịp, mặc dầu phải ghi đi ghi lại nhiều lần. Người viết cũng không thể căn cứ trên bản dịch tiếng Anh của Ngô Vĩnh Long vì ngôn ngữ tiếng Anh không tương đồng với nọi dung tiếng Việt. Xin ghi lại chính những điều mà Hoàng Phủ Ngọc Tường trực tiếp trả lời phỏng vấn. Vì thế, có thể có đôi chỗ có ghi thiếu sót nhỏ nhặt, xin độc giả hiểu cho.
Hỏi: Ông có thể mô tả biến cố nổi dậy ở Huế, đặc biệt liên quan đến vụ thảm sát. Ở đây. Xin đề nghị ông trả lời cho biết những gì xảy ra bấy giờ ở Huế, có những vụ trả thù, đàn áp?
Hoàng Phủ Ngọc Tường: Ông muốn nói đến vụ thảm sát Mâu thân ở Huế? Đó là một chiến công vĩ đại của nhân dân Huế. Nhưng nhân dân Huế đã phải trả một giá đắt đắt cho chiến thắng này. Đó là là một sự trả thù chưa từng thấy của Mỹ và ngụy sau đó. Vì thế nhân dân Huế đã phải trả giá đắt nhất so với các thành phố khác của chúng tôi. Cũng chỉ vì ở đây người Mỹ đã chịu sự tổn thất nặng nề về sinh mạng, về vật chất và chính trị tại Huế.
Sự trả đũa đã vô cùng khủng khiếp. Nhưng tôi nghĩ rằng tôi là một người đã từng sống qua các thời kỳ chiến đấu chống lại người Pháp và thời chiến tranh chống lại người Mỹ, Tôi nghĩ rằng bọn chủ nghĩa thực dân mới thì khôn hơn bọn thuộc địa cũ. Bọn thuộc địa cũ nó chơi franc jeu hơn là thực dân mới. Nói cách khác, bọn chủ nghĩa thực dân mới thường bạo tàn hơn thực dân cũ. Và điều đó là chắc chắn đúng như vậy trong suốt cuộc tổng công kích tết MậuThân vừa qua.
Bởi vì tội ác do Mỹ tạo ra được toàn thể thế giới bên ngoài quan tâm, chúng chuyển tất cả tội ác của chúng và đổ lỗi cho những người làm cách mạng chống lại nhân dân của họ. Tôi ám chỉ việc chúng đã dùng vụ thảm sát như một bửu bối đặc biệt để bôi nhọ cách mạng Việt Nam trong cuộc hòa đàm Pari.
Đây là điều tôi muốn nêu rõ vì tôi biết như là một chứng nhân.
Tôi sẽ nói cho ông mọi sự cho ông một cách khách quan nhất.
Thứ nhất riêng những người bị giết, có nhiều người đã bị giết chắc chắn là do chúng tôi phải thi hành bản án tử hình. Bởi vì khi chúng tôi đến nhà họ, họ đã bắn đến cùng vào những chiến sĩ của chúng tôi làm bị thương khi chúng tôi kêu gọi họ đầu hàng.Vì thế những người này đã bị chúng tôi bắn chết tại chỗ. Trong đám những người này có tên phó tỉnh trưởng, lúc đó hắn đang sống ở Huế.
Trong một ít trường hợp, một số bị giết vì đã từng tra tấn các cư dân, gây cho toàn thể gia đình phải tù tội và đầy ra Côn Đảo. Chính nhân dân căm thù quá lâu, họ bị tra tấn, gia đình họ phải trả thù. Vì thế, khi cách mạng bùng lên và lấy lại được thế kẻ mạnh, nhân dân bùng lên đi lục soát tìm cho ra những tên bạo ngược này để trừ khử chúng như trừ khử những con rắn độc mà nếu như để chúng sống sót, chúng sẽ tiếp tục gây ra tội ác hơn nữa trong chiến tranh.
Mặc dầu chính sách của chúng tôi chỉ là nhằm cải tạo và không bao giờ giết bất cứ ai đã đầu hàng chúng tôi, song khi dân của thành phố đã nắm công lý trong tay của chính họ, thì các cấp lãnh đạo cách mạng của chúng tôi không còn có thể kiểm soát dân chúng trong suốt thời kỳ đang diễn ra. Nhưng tôi phải nói cho ông biết rằng mỗi một tên bị giết thì chúng đã giết ít nhất mười người khác trong các gia đình bị nạn.
Chúng giết mười người bây giờ giết một người bọn chúng, cái giá đó là rất nhẹ. Giết một người là công bằng. Nợ máu đó, căm thù và thi hành bản án như vậy là rất là nhẹ và công bằng.
Theo tôi nghĩ, bất cứ ai từng theo dõi hoàn cảnh chiến tranh, sự thể có thể chỉ là một sự trả thù nhỏ nhoi. Sự căm thù và sự thi hành bản án như vậy là nhẹ. Và theo tôi, mọi cuộc cách mạng đều giống nhau. Bởi vì đó là một cuộc chiến tranh mà sức mạnh quân sự và trang bị cực kỳ chênh lệch. Nhân dân chúng tôi không sở hữu được những thứ vũ khí như đế quốc Mỹ có. Song điều ấy cũng chẳng sao cả.
Còn đa số đã đầu hàng do chúng tôi giữ lại thì được đưa lên rừng ở trại cải tạo. Hầu hết đã được trở về. Vài người tôi biết chịu đựng không nổi vì khí hậu. Nhưng họ đã trở về với gia đình cả. Nhưng có một số bị giết.Thật không đáng kể, còn lại sau ngày giải phóng đã được trở về.
Phần lớn sự chết chóc đã xảy ra. Một khối lớn những xác chết đó là ai? Chính nhân dân bị bọn Mỹ làm chết không biết bao nhiêu trong các đợt phản kích này. Những người này bị giết và được chôn trong thành phố rồi sau đó được khai quật bởi Mỹ và quay phim tuyên truyền cho Mỹ.
Chẳng hạn, nó đã bỏ bom rơi vào một bệnh viện nhỏ, gần chợ Đông Ba. Nó thả bom làm 200 người vừa chết vừa bị thương. Tôi đã đi trên con đường hẻm vào ban đêm, và tôi tưởng rằng tôi đang dẫm trên đống bùn. Thế mà khi tôi bật cái đèn pile lên, máu khắp mọi nơi. Cả một khu vực bị bỏ bom bởi bom đạn Mỹ bắn phá. Và thế rôi, những ngày cuối cùng khi chúng tôi triệt thoái ra khỏi thành phố, kẻ thù của chúng tôi đã thâu lại và đem đi chôn.
Lý do thứ hai, những ngày cuối cùng khi chúng tôi rút ra thì có nhiều người đã tham gia cách mạng. Những người này theo lực lượng cách mạng, vào rừng sau cuộc tấn công tết ậu Thân. Và khi kẻ thù trở về vào thành phố, chúng đã giết những người thân của các gia đình này rồi đem chôn trong các hầm tập thể. Những xác chết của lính giải phóng, những người mà chúng tôi không thể thu nhặt được xác cũng bị chúng đem bỏ vào những hố chôn tập thể.
Cộng thêm vào những tù nhân đi theo chúng tôi vào rừng cũng bị giết hại bởi máy bay Mỹ chết chung với các đồng chí của chúng tôi. Máy bay Mỹ cũng tập kích và giết chết các đồng chí của chúng tôi. Những giải phóng quân của chúng tôi cũng bị hy sinh.
Trong những năm 1975 đến 1977, trong khi đào các đường mương và kênh dẫn thủy, chúng tôi khám phá ra ra được rất nhiều hố chôn tập thể, cái được gọi là nạn nhân bị thảm sát thì chỉ toàn là những người mang đồng phục quân Giải phóng và nón tai bèo của lực lượng giải phóng.
Điều này nói lên mưu mô quanh co, sảo quyệt của bọn tân thực dân. Cuộc chiến này là ranh mãnh của chủ nghĩa thực dân mới. Chúng giết hai con chim bằng một hòn đá. Trước hết là vì chúng muốn tìm cách che dấu tội ác của chúng.
Hơn nữa là chúng muốn đổ lên đâu bộ đội cách mạng những tội ác của chúng. Đây là điều mà tôi đã chứng kiến. Và một sử gia người Mỹ sau đó viếng thăm Huế đã nói cách công khai rằng đây là kế hoạch tuyên truyền vĩ đại của Mỹ, một chiến dịch tuyên truyền chiến thuật đã làm hao tổn tiền bạc của Hoa Kỳ cho cân xứng với cái giá về tiền bạc mà tên Kissinger nhằm bôi nhọ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam về tết Mậu thân.
Tôi muốn nhấn mạnh là cả một bộ máy tuyên truyền của Mỹ với thế giới đã cố dùng tất cả bộ máy tuyên truyền để đổi trắng thành đen để lừa bịp nhân loại.
Sự thực là có một số xác chết nạn nhân bị giết là do sự giận dữ của dân chúng.
Những con số này quá nhỏ so với con số quá lớn kẻ thù còn sống sót và chúng nó đã chạy ra nước ngoài, chúng tiếp tục nói xấu Việt Nam. Giờ đây họ đã vu khống có tổ chức nhằm chống lại cách mạng Việt Nam. Thế nhưng, ông phải nhìn nhận rằng mặc dù chúng tôi được sự ủng hộ của khắp thế giới khi chúng tôi chiến đấu chống lại kẻ thù của chúng tôi, mà chỉ có dân chúng tôi bị bịt mồm và chịu đổ máu trước họng súng của kẻ thù. Chúng tôi đã phải đổi máu của chúng tôi một cách đơn độc.
Trong suốt cuộc chiến đấu, chúng tôi đã phải đem lại công lý chống lại kẻ thù không đội trời chung của nhân dân – những kẻ mà thế giới đã nhìn nhận như những tội phạm chiến tranh. Dân chúng thế giới đã có một phiên tòa của Bertrand Russell là một thí dụ cho rằng nếu đã có tòa án kiểu Nuremberg, thì đã có hàng ngàn người đã được tha chết trong trận Tết Mậu Thân là những kẻ đáng bị treo cổ sau khi chiến tranh chấm dứt.
Theo như Bertrand Russsell đã dẫn chứng, công lý chẳng bao giờ được thi hành. Vì vậy mà một sĩ quan Mỹ như trung úy William Calley đã giết nhiều người ở Sơn Mai mà nó không bị lên án treo cổ.
Và để nhằm mục đích gây chú ý trong trường hợp tội phạnm này, chúng đã ngụy tạo một cuộc thảm sát tết Mậu Thân để bôi bẩn cách mạng. Điều này chứng tỏ Mỹ không quan tâm đến vấn đề danh dự của nước lớn đi đánh một nước nhỏ bé. Chính quyền Mỹ đã nói láo về trận tấn công Tết Mậu thân.

Tiếp tục phỏng vấn liên quan đến ông Ngô Đình Diệm
Hoàng Phủ Ngọc Tường: Ngô Đình Diệm là một tên Phát Xít rất đúng nghĩa. Tôi sống ở đấy dưới thời Ngô Đình Diệm. Tôi đã thấy được Diệm muốn trở thành một ông vua. Trước đó Diệm đã là một ông quan lớn. Thí dụ về gia đình của Diệm sống gần cầu Phủ Cam ở Huế, nó đã bắt ép các nhà trí thức, các công chức, giáo sư đại học ăn bận theo kiểu xưa để đến quỳ trước sân nhà Ngô Đình Diệm và tung hô chúc tụng Diệm và cả gia đình trường thọ vào mỗi năm nhân dịp tết đến.
Diệm ngồi trên ngai vàng (golden throne) để quan sát buổi lễ. Chỉ chuyện này thôi cho ông thấy chế độ dân chủ của Diệm là gì. Thực sự mà nói, dân chủ thì không có những điều như thế. Đấy là một tổng thống phát xít và phong kiến. Đấy là gia đình của Diệm. Và chính sách của Diệm, nó muốn triệt tiêu mọi tự do dân chủ của người dân bình thường. Thí dụ như ông ta đã đã ban hành một đạo luật gọi là ...
Mục đích của Diệm là triệt hạ hết người cộng sản. Và đấy là những gì người Mỹ muốn ông ta làm. Vì thế nó đã diệt trừ mọi ảnh hưởng của cách mạng tháng tám trong thành phố này, một thành phố đã lật đổ chế độ vua chúa và trương ngọn cờ cách mạng tháng 8.
Trên hết tất cả, các gia đình có con em tập kết ra Bắc, sau hiệp ước Giơ neo, từng người một bị tù, lưu đầy và tra tấn cho đến bao giờ họ quên được đứa con và họ phải tố cáo người thân của mình.
Có rất nhiều gia đình cố gắng che dấu tung tích là họ có con em và người thân tập kết ra Bắc. Đấy là thứ chống Cộng áp bức người dân quên đi hẳn màu cờ của cách mạng tháng 8. Và thế rồi sự đàn áp gia tăng với bất cứ phương cách nào có thể áp dụng được. Một trong những biện pháp là dùng các gia đình lao động có chồng tập kết ra Bắc đang có bầu, dẫm lên bụng cho đến lúc cái thai phải vọt văng ra ngoài, vì chúng nói rằng dù chỉ một giọt máu cộng sản cũng không thể để lại trong bụng những phụ nữ miền Nam.
Mọi phương tiện khác được thực thi đã làm tràn lan như vậy với cái luật tên là đạo luật 10/59 mà Diệm đã ban bố. Ở Huế trong thời gian này là một nơi thật bỉ ổi giam cầm người dân gọi là “Chín hầm”. Nó đã nhốt những người yêu nước giam giữ ở đó. Khi chế độ Diệm bị lật đổ, chúng tôi đến coi những tù nhân bị nhốt trong các hầm đó và thấy họ như những người rừng rú. Tóc và râu họ mọc dài chỉ còn xương với da.
Những tù nhân này bị bắt đứng suốt khi những nước mưa nhỏ xuống khe hở thì chân của họ ngập trong nước năm này qua nằm khác. Phần hậu môn, đàng lưng hoàn toàn bị nhiễm trùng. Họ không còn là con người và họ bị giam giữ cho tới khi chết. “Chín Hầm” là phương tiện đàn áp bỉ ổi chưa từng có được áp dụng cho những người bị coi là cộng sản.
Không biết chế độ Hít Le tàn bạo như thế nào, nhưng tôi có thể nói chắc rằng chưa có một tội ác chống nhân loại nào mà có thể so sánh với chế độ Diệm sau thời Hít Le. Càng lúc, sự tự do tôn giáo càng được quan tâm, Ngô Đình Thục, anh của Diệm và là Tổng giám mục ở vùng này đã bắt tất cả các phật tử và không tôn giáo phải xử sự và sống như người công giáo. Họ phải thờ tự như người công giáo. Vào dịp lễ Phật Đản chúng quyết phải hạ cờ quạt, biểu ngữ Phật giáo xuống. Điều đó dẫn tới sự nổi dậy của Phật tử và sự chống đối khắp các thành phố dẫn tới sự sụp đổ chế độ Ngô Đình Diệm.

Phần phụ thêm chứng từ trả lời phỏng vấn của bác sĩ Phạm Thị Xuân Quế
Rất ít người được biết bà Phạm Thị Xuân Quế là ai? Tôi được biết bà Quế và một số nhân vật nằm vùng khác qua Thái Thị Kim Lan. Bà Quế sống ẩn tích từ trước 1975 và cả sau 1975.
Hiện nay bà Quế làm công tác từ thiện trông nom các người già yếu. Nhưng đọc những lời bà trả lời phỏng vấn trong “Interview with Viet Nam Museum Guide”, 1981, WGBH, Open Vault thì thật sự ngỡ ngàng đến không hiểu được. Bà có thể viết bịa đặt nhiều điều như thế về chế độ Đệ nhất Cộng hòa được chăng? 40 phụ nữ có chồng tập kết bị Diệm cho vào rọ, rồi thả trôi sông? Ai cho phép lương tri của một phụ nữ viết về thân phận những người đàn bà có chồng đi tập kết bị phóng chiếu, cường điệu một cách tàn bạo như vậy?
Kỹ thuật cho vào rọ, rồi thả trôi sông là kỹ thuật sáng chế “độc quyền từ thời Cách mạng tháng 8”; ông Diệm e rằng học chưa tới kỹ thuật đó!
Tuy nhiên qua bà Quế, người ta có thể hiểu được phần nào những hoạt động của những người nằm vùng, của một sinh viên, trí thức Huế. Những kẻ được goị là Huế giết Huế. Nay chạy tội và sẵn sàng nói rằng trong vụ Tết Mâu Thân, 99% các nạn nhân đều do bom đạn Mỹ. Căn cứ vào đâu, bà Phạm Thị Xuân Quế có thể xác quyết như thế? Nếu tin rằng có oan hồn, có kiếp sau, có nhân quả, Bà bác sĩ Quế sẽ ăn nói làm sao với các vong linh những người đã chết?
Những lời vu cáo trắng trợn và ác độc như thế thì có làm bao nhiêu công đức, có ăn chay nằm đất, có không quan hệ tình dục cũng không cứu vãn nổi.
Hóa cho nên cả bọn chỉ học được một sách của cộng sản là: Sẵn sàng nói láo, sẵn sàng vu cáo, dối trá bất kể sự thật ra sao. Trong khi đó có những chuyện bịa đặt trắng trợn của những người “đồng chí” của bà thì bà lại che dấu? Bà đã nợ tôi, ngươi viết, một món nợ khi tôi hỏi về câu chuyện phái đoàn sinh viên Huế vào thăm dinh “ngụy” sau 1963, có thấy phòng bà Ngô Đình Nhu kế cận phòng ông Diệm không, có thấy bốn bức tường phòng bà Nhu đều gắn gương soi không, có thấy cái “ghế khoái lạc” của bà Nhu thường nằm không? Bà và người bạn gái của bà đã thử nằm chưa và cảm giác thế nào? như Nguyễn Đắc Xuân mô tả không? Cả hai chị em, Thái Thị Kim Lan và Phạm Thị Xuân Quế đều đồng loạt tránh né, bao che cho Nguyễn Đắc Xuân nói không nhớ gì cả.
Thật chán cho các bà.

Mưa ở Huế Nguồn: OntheNet


Trong bài viết này, chỉ xin tóm lược vài ý nghĩ rời về những điều bà đã trả lời phỏng vấn trên.
– Bọn chó săn, mật vụ nó bắt đổ bàn thờ và đi theo họ. Nó tra tấn dã man. Nó bắt con phải tố giác cha mẹ.
– Nhất là các chị có chồng đi bộ đội. Nó đánh đập, tra tấn, bắt ly dị chồng, xúc phạm đến nhân phẩm phụ nữ. Nó bắt phải lấy bọn chó săn, bọn mật vụ. Tôi cho là vô nhân đạo. Điển hình là ở Quảng Nam, những người phụ nữ có chồng đi tập kết. Nó lấy bao bố, cột lại, thả xuống sông. Chúng cột 40 người, rồi trôi sông ở đập Vĩnh Trinh.
– Và chính mắt tôi trông thấy.
Về tết Mậu thân, bà cho biết:
– 1960, phong trào bắt đầu gây dựng, phát triển năm 1963. 1968, phong trào rất phát triển rất mạnh. 90% thành viên của phong trào hướng về cách mạng. (Huế tang tóc vì những tổ chức và những thành phần nội tuyến như bà Quế này.)
– Được tin ở trên cho biết sẽ tấn công ở Huế. Mạng lưới nội thành – mạng lưới của chúng tôi – đã bí mật hoạt động hợp pháp từ 1961. Có rất nhiều cơ sở.
– Từ 23 tháng 12 đến 29/1968 các cơ sở đã đi ra ngoài vùng và gánh vũ khi dấu trong những gánh rau. Do địch chủ quan, chị em qua mặt chúng và đã đưa được vũ khí vào thành phố. (Ở Sàigon, Việt Cộng tổ chức nhiều đám ma, trong quan tài chứa vũ khí - NVL).
– Phần tôi đang ở trường trung cấp y tá, đã in một số truyền đơn. Nội dung đưa ra chính sách khoan hồng đối xử thế nào với địch.
– Mặt khác lo chuẩn bị bánh tét cho thật nhiều. Chuẩn bị cứu thương. Và may rất nhiều cờ. Trong số cán bộ 1/3 vẫn không ra mặt, tôi ở trong số đó nên chúng không biết tôi là Việt Cộng.
– Không khí những ngày đầu tết Mậu thân: Dân chúng có bàng hoàng. Nhưng không thiếu niềm vui phấn khởi, họ đóng góp nào bánh chưng, bánh tét, yêu cầu ngụy quân, ngụy quyền ra hàng. Tôi đi xem văn nghệ.
– Đặc điểm là bộ đội giải phóng dễ thương quá, thân tình khác hẳn thái độ hách dịch của lính ngụy.
– Đến ngày mồng 7, một số đông ngụy quân, ngụy quyền ra hàng. Nhờ các anh bộ đội đã đào hộ các hầm trú ẩn nên ngụy bắn đại bác, dội bom đã có chỗ núp.
– Tôi cũng lo bảo vệ các giáo sư ngoại quốc người Đức, đang ở số 2 Lê Lợi. Nhờ đó, bộ chỉ huy đã mời các ông ấy đến ở chỗ quân đội trú đóng để bảo vệ họ. Nhưng địch đã dội bom làm chết các giáo sư ấy cũng như cả bộ đội. Địch phản tuyên truyền, bao nhiêu người chết đều là do Việt cộng tàn sát. Nhưng có thể nói 99% là do bom đạn Mỹ sát hại.
Xin hết ý. Hãy đọc để nhận dạng Hoàng Phủ Ngọc Tường là ai.

TS Lê Văn Hảo nói về việc ông bị Mặt Trận GPMN "mời"
tham gia Mặt Trận như thế nào!

Phần 1
Vào ngày này năm 1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam được thành lập như một tập hợp những người miền Nam chống đối lại chính phủ hợp pháp lúc bấy giờ ở miền Nam do Tổng thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo.

Tuy nhiên, trong thực tế, Mặt Trận được thành lập theo quyết định của Hội nghị Trung ương lần thứ 15 của Đảng Lao động Việt Nam, tiền thân Đảng Cộng sản Việt Nam, và được sự yểm trợ mọi mặt của miền Bắc, lúc bấy giờ là Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Một số nhân sĩ miến Nam thời đó đã đi theo Mặt Trận, giúp họ tạo dựng được một số uy tín nhất định.

Ts. Lê Văn Hảo (2002)


Biên tập viên Nguyễn An của Ban Việt ngữ RFA phỏng vấn Tiến sĩ Dân tộc học Lê Văn Hảo, giáo sư Đại Học Văn Khoa Huế, Đà Lạt và Sài Gòn về hành trình đi theo Mặt Trận của ông.
Ông Lê Văn Hảo từng là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Cách mạnh Thừa Thiên - Huế hồi Tết Mậu Thân 1968. Khi được hỏi ông vào Mặt Trận từ bao giờ, Tiến sĩ Lê Văn Hảo cho biết:

Tiến sĩ Lê Văn Hảo: Kính chào quý bạn nghe đài RFA. Thật ra thì tôi không có vào trong Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam mà tôi chỉ là một cảm tình viên của Mặt trận ấy thôi. Tôi bắt đầu biết khá nhiều về Mặt trận ấy từ biến cố Tết Mậu Thân, là ví nó như thế này: Trước đó tôi có nghe nói có cái Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam mà tôi đã ngờ ngợ nó là một tổ chức của Cộng sản miến Bắc tạo ra thôi, chứ nó không có thực chất đâu.
Thế thì đến hồi Tết Mậu Thân, những người lãnh đạo của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam ở Huế có mời tôi đi dự một cuộc họp. Và chính cuộc họp này đã tạo ra một bước ngoặt quan trọng trong đời tôi, bởi vì họ nói là họ mời tôi đi họp nhưng mà thực chất nó gần như một cuộc bắt cóc vậy đó.

Phần 2
Vào ngày này năm 1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam được thành lập như một tập hợp những người miền Nam chống đối lại chính phủ hợp pháp lúc bấy giờ ở miền Nam do Tổng thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo.
Tuy nhiên, trong thực tế, Mặt Trận được thành lập theo quyết định của Hội nghị Trung ương lần thứ 15 của Đảng Lao động Việt Nam, tiền thân Đảng Cộng sản Việt Nam, và được sự yểm trợ mọi mặt của miền Bắc, lúc bấy giờ là Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Một số nhân sĩ miến Nam thời đó đã đi theo Mặt Trận, giúp họ tạo dựng được một số uy tín nhất định.
Biên tập viên Nguyễn An của Ban Việt ngữ RFA phỏng vấn Tiến sĩ Dân tộc học Lê Văn Hảo, giáo sư Đại Học Văn Khoa Huế, Đà Lạt và Sài Gòn về hành trình đi theo Mặt Trận của ông.
Ông Lê Văn Hảo từng là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Cách mạnh Thừa Thiên - Huế hồi Tết Mậu Thân 1968. Khi được hỏi ông vào Mặt Trận từ bao giờ, Tiến sĩ Lê Văn Hảo kể tiếp:
Tiến sĩ Lê Văn Hảo: Sau khi tôi nhận chức đó rồi thì có nhiều cuộc họp và họ nói cho tôi biết thế nào là chủ nghĩa CS, thế nào là chủ nghĩa Max Lenin, thế nào là chính quyền cách mạng, thế nào là đấu tranh giai cấp. Họ cũng làm cho tôi một loạt các bài học vỡ lòng để cho tôi biết chức vụ đó thì tôi phải nên làm thế nào để cho xứng đáng với chức vụ đó
Nguyễn An: Thưa Ông, như vậy tức là Mậu Thân sau khi họ tấn công Huế thì sau đó họ đưa ông về?
Tiến sĩ Lê Văn Hảo: Không! Tôi không có về lúc đó, lúc đấy là chỉ có mấy anh CS về đánh nhau ở dưới thành phố thôi, chớ còn tôi họ đâu có dám đưa tôi về! Họ biết rằng khi tôi nhận thì tôi cũng miễn cưỡng mà nếu đưa tôi về thì tôi chắc cũng chuồn luôn thì họ đâu có dám đưa tôi về. Trong tất cả khi nổ ra Mậu Thân tức là trong 26 ngày đêm CS chiếm thành phố Huế thì tôi ngồi trên núi để nghe đài phát thanh suốt ngày, tất cả những gì xảy ra dưới Huế tôi chỉ biết qua đài phát thanh của Hà Nội và đài phát thanh giải phóng.
Nguyễn An: Tức là Ông không biết những cái gì thêm ngoài những điều mà đài phát thanh nói?
Tiến sĩ Lê Văn Hảo: Tôi không thể biết được bởi vì tôi không có mặt ở Huế mà nó đâu có dám để cho tôi về Huế vì anh biết khi nó đề nghị một chức vụ như vậy là cả một sự áp đặt. Nó nói là anh phải nhận, nếu anh không nhận thì anh cũng không còn đường về thì cả một sự đe dọa . Anh có thấy tính chất đe dọa đàng sau lời đề nghị đó không?
Nguyễn An: Đây là một chi tiết rất là mới bởi vì hồi xưa cho đến bây giờ người ta cứ tưởng rằng là những đoàn quân họ chiếm đóng Huế hai mươi mấy ngày đó là Ông về trực tiếp điều hành công việc ở đó, thì hóa ra hoàn toàn không có chuyện này!
Tiến sĩ Lê Văn Hảo: Than ôi! Đó không phải là sự thật lịch sử mà tôi chỉ là một con tin đã bị ở trong thế kẹt phải nhận lấy chức vụ để bảo tồn sự sống còn để mà mong có ngày về với vợ con thôi! Chớ tôi nói thật với anh vai trò của tôi trong Tết Mậu Thân là vai trò hoàn toàn thụ động, tôi chỉ ngồi trên núi để nghe đài, nghe tin tức. Rồi lâu lâu mấy ông như: Trần Văn Quang và các ông lãnh đạo khác ở Thừa Thiên, Huế ghé qua thăm và an ủi tôi và nói là sự việc diễn biến như vậy thì mình theo thời cuộc thôi, mình phải theo cách mạng thôi, chớ không có cách nào khác. Anh thấy như vậy đó!
Nguyễn An: Tức là cũng không có ai báo cáo với Ông tình hình như thế nào với tư cách là chủ tịch UBND hết?
Tiến sĩ Lê Văn Hảo: Có chứ! Tức là trong khi đánh nhau và chiếm thành phố Huế như vậy thì chúng có điện đài theo dõi thì cũng nắm được tình hình lắm chớ, chớ đâu có phải là không biết gì!
Nguyễn An: Sau khi rút ra khỏi Huế rồi, thì ông vẫn tiếp tục trên núi hay là ông đi theo họ?
Tiến sĩ Lê Văn Hảo: Dạ thưa tôi vẫn tiếp tục ở trên núi và lúc đấy thì quân đội Hoa Kỳ và quân đội VNCH đã phản ứng rất mạnh bằng cách ném bom rất dữ dội các vùng giải phóng chung quanh các thành phố lớn, thú thật với anh là chúng tôi sống toàn trong các hang núi, nếu ra ngoài thì cũng ăn bom như thường vì tình hình quá căng thẳng, bom đạn quá sức tưởng tượng.
Cho nên lệnh ở ngoài Hà Nội là đưa những người gọi là nhân sĩ theo cách mạng như là Hòa Thượng Thích Đôn Hậu, bà Nguyễn Đình Chi, tôi, cụ Nguyễn Đóa, Tôn Thất Dương Tiềm và một số vị khác, để đưa các vị này ra ngoài Bắc.
Như vậy chúng tôi bắt đầu lên đường,nếu tôi nhớ không lầm, vào đầu tháng 7, tôi phải đi theo đường Trường Sơn (đường mòn HCM), ngày thì ngủ trong hang, đêm thì đi và tôi đến Hà Nội vào ngày mùng 3 tháng 9 năm 1968.
Nguyễn An: Dạ thưa, đi cùng với ông có các vị trí thức mà Ông đã nêu trên?
Tiến sĩ Lê Văn Hảo: Dạ đúng, có cả phái đoàn như vậy và trong đó có nhiều vị phải ngồi võng như cụ Đôn Hậu phải ngồi võng cho 2 anh quân giải phóng khiêng, bà Nguyễn Đình Chi và cụ Nguyễn Đóa cũng ngồi võng, còn tôi lúc đó chỉ mới 32 tuổi thì tôi đi bộ như mọi người thôi
Nguyễn An: Lúc ở với nhau trên núi thì ông có nói chuyện với các vị kia không?
Tiến sĩ Lê Văn Hảo: Có chứ! Chúng tôi sống chung trong một khu vực
Nguyễn An: Hoàn cảnh đưa đẩy họ đến núi đó có tương tự như ông không?
Tiến sĩ Lê Văn Hảo: Giống hệt như tôi! Vị nào cũng được mời họp hết. Riêng cụ Thích Đôn Hậu thì cụ bị bắt cóc lúc mà quân giải phóng đã chiếm được thành phố Huế rồi thì họ mời cụ lên võng để đi họp thì nó cũng võng cụ lên trên núi luôn. Bà Nguyễn Đình Chi cũng trường hợp như vậy, tức là mời bà đị họp rồi võng Bà lên núi luôn.
Những người trẻ hơn như anh Tôn Thất Dương Tiềm thì lúc đó đi theo quân giải phóng, ông Tiềm là Việt Cộng nằm vùng mà! và một vài vị khác cũng là Việt Cộng nằm vùng thì cũng tà tà lên núi thôi và tất cả chúng tôi gặp nhau ở trên núi, và khi đi ra ngoài Bắc thì chúng tôi cũng đi cùng một lượt với nhau.
Nguyễn An: Như vậy thì ông sinh hoạt ở trong đó bao lâu thì biết rằng là MTGPMN chỉ là chi nhánh của Mặt trận Tổ quốc ở miền Nam thôi?
Tiến sĩ Lê Văn Hảo: Nói thật anh, việc ấy thì tôi biết ngay khi tôi lên trên núi thì tôi biết MTGP là một trò bịp bợm, tức là một tổ chức hữu danh vô thực, nó là tổ chức của CS thôi, gọi là Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam nhưng mà tất cả đều do Hà Nội chỉ đạo thôi . Việc đó tôi biết ngay và họ cũng không dấu anh ạ ! Lúc đó mình ở trong tay họ rồi nên họ cũng không dấu.
Nguyễn An: Ông ở đó cho đến năm 1975?
Tiến sĩ Lê Văn Hảo: Anh nói đúng, tôi đến Hà Nội tôi là khách của Trung Ương Đảng cùng với nhóm của chúng tôi như Hoà thượng Thích Đôn Hậu, v.v... Trong mấy năm từ 1968 đến năm 1975 là tôi được học trường Đảng, tôi được Đảng giáo dục cho trong bấy nhiêu năm học nhiều về chính trị như thế nào là cách mạng, giải phóng dân tộc, đấu tranh giai cấp v.v...
Học như vậy trong mấy năm liền mà cuối cùng sau khi học 5 năm thì có một cuộc kiểm tra, tôi nói thật với họ là những thứ này tôi không hấp thụ được, chủ nghĩa Max Lenin và chủ nghĩa CS đối với tôi là một cái gì quá xa lạ và tôi không chấp nhận. Anh có biết khi tôi nói như vậy là rất dại dột.
Nguyễn An: Đó, chính muốn hỏi anh ở chỗ đó…
Tiến sĩ Lê Văn Hảo: Dại dột bởi vì họ bày ra chuyện học tập, rồi bày ra cuộc thi cử như vậy để xem thái độ mình thế nào? Những ông lãnh tụ cộng sản cũng nói ra mặt: "Người như anh Lê Văn Hảo này không xài được!"
Nguyễn An: Nhưng sau đó họ có thay đổi cách đối xử với ông không?
Tiến sĩ Lê Văn Hảo:Dạ không, họ rất là ngoại giao, họ đổi xử bình thường thôi, nhưng họ biết là loại này sau 1975 sẽ cho vào giỏ rác…
Nguyễn An: Và họ đã làm như thế?
Tiến sĩ Lê Văn Hảo: Và họ đã làm như thế 100%.

Phần 3 ....
Kỳ này xin gởi đến quý thính giả phần cuối của cuộc phỏng vấn, trong đó tiến sĩ Lê Văn Hảo kể lại những diễn biến kể từ khi cuộc chiến chấm dứt hồi mùa Xuân năm 1975. Mời quý vị theo dõi.
Nguyễn An: Xin ông kể lại giai đoạn từ tháng 5 năm 1975 về sau này ạ.
Lê Văn Hảo: Khi tôi về Huế là trước ngày 30/4. Trước 30/4 thì cộng sản đã chiếm Huế trước rồi, chiếm Huế vào khoảng cuối tháng 3. Khi tôi về đến Huế thì nó trở mặt ngay anh ạ. Nó chỉ nói một cách vắn tắt là bây giờ anh không phải làm chính trị nữa mà anh trở về nghề cũ của anh là nghề dạy học thôi. Tức là đùng một cái mình đang là chủ tịch thì nó bằng một câu nói như vậy nó xóa chức vụ của mình đi, nó cho mình trở lại với anh Lê Văn Hảo trước Tết Mậu Thân, vậy thôi. Kiểu của nó là kiểu không coi mình ra gì cả.
Sau khi trở lại Huế thì tôi được một chức khác, tuy tôi là giảng sư ở đại học nhưng tôi lại trở thành phó chủ tịch của Mặt trận Tổ Quốc Bình Trị Thiên vì lúc đó nó xác nhập 3 tỉnh làm một mà. Đối với quần chúng thì cũng là một chức oai lắm rồi, ông này không làm chủ tịch Ủy ban Dân chủ cách mạng Thừa Thiên - Huế mà ông đi làm phó chủ tịch của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Bình Trị Thiên thì cộng sản đâu có đối xử không tốt với ông. Anh thấy cũng là một trò bịp nữa.
Nguyễn An: Thưa ông, như vậy đến lúc vào tháng 7 năm 1976 khi họ xác nhập Mặt trận giải phóng miền Nam vào Mặt trận Tổ Quốc thì rốt cuộc đối với ông không có gì thay đổi?
Lê Văn Hảo: Bù nhìn vẫn tiếp tục là bù nhìn chớ không có gì thay đổi cả. Tôi chỉ được thông báo như vậy và tôi cũng chẳng làm lạ gì cả. Bởi vì lúc đó Mặt trận giải phóng thì thừa rồi. Họ xóa bỏ Mặt trận giải phóng miền Nam và họ xóa bỏ chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam. Nghĩa là như trở tay, tất cả đều là những trò đùa cả, tất cả đều là những cách gọi, những cách gọi mà tôi nghĩ là để lừa bịp dư luận thế giới thôi.
Nguyễn An: Ở trong Mặt trận giải phóng miền Nam lúc bấy giờ có một số những trí thức cũng đi theo, ông thấy có những người nào đi theo mà khác với hoàn cảnh của ông với những người khác là bị giống như bắt cóc không?
Lê Văn Hảo: Khi tôi ra Hà Nội thì tôi cũng gặp rất nhiều vị trong miền Nam, ở Sài Gòn cũng được đưa ra miền Bắc ở với chúng tôi. Hầu hết các vị gọi là nhân sĩ, trí thức ấy thì hoàn cảnh cũng gần giống như tôi thôi. Một người tôi hơi hiểu lầm là như bà Dương Huỳnh Hoa chẳng hạn, tôi tưởng bà cũng là một thứ Việt cộng nằm vùng nhưng hóa ra không phải.
Cuối cùng tôi thấy bà Dương Huỳnh Hoa giống như tôi thôi, bà cũng không phải là người mà cộng sản tin cậy lắm đâu. Bởi vì sau tháng 4/1975 thì cộng sản cũng rất coi thường bà Dương Huỳnh Hoa, nó cho bà một cái chức là thứ trưởng Bộ y tế mà bà không có quyền hành gì cả. Sau đó một thời gian ngắn thì bà cũng phải từ chức thôi. Đó là trường hợp bà Dương Huỳnh Hoa.
Một ông khác mà tôi cũng quen rất nhiều là ông Trương Như Tảng. Ông đó là Bộ trưởng Bộ tư pháp của chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam. Ông cũng bị nó đối xử một cách rẻ rúng như vậy. Ông bèn vượt biên và thoát ra được, ông qua xin tị nạn bên Pháp.
Tôi chỉ nêu ra hai trường hợp cụ thể tôi biết.
Nguyễn An: Đây cũng là điều rất lạ, tức là rất nhiều người đều bị đưa vào trong một cái giống như một màn kịch. Giống như một vụ bị lừa và rốt cuộc người nào cũng bị kẹt hết.
Lê Văn Hảo: Đúng. Cái đó đúng quá anh ạ. Anh biết tất cả những người được cộng sản cho những chức vụ này nọ trong những năm từ Tết Mậu Thân cho đến tháng 4/75 thì về sau ngày 30/4 thì họ đều bất mãn ghê lắm. Thí dụ như HT Thích Đôn Hậu ở Huế cũng bất mãn ghê lắm. Mỗi lần tôi lên chùa Thiên Mụ thăm ông thì ông cũng than thở. Ông nói rằng ông chưa thấy đám nào đối xử với người ta một cách ngạo mạn, rẻ rúng như cộng sản. Cụ Thích Đôn Hậu nói với tôi như vậy.
Nguyễn An: Thưa ông, như vậy thì cơ duyên nào đã đưa ông ra khỏi Việt Nam?
Lê Văn Hảo: Chuyện tôi được trở lại Pháp là một sự rất tình cờ. Vào khoảng tháng 5/1989 thì có một ông giáo sư đại học Pháp tên là Emély được cộng sản mời sang nói về 200 năm cách mạng Pháp. Ông này cũng là một trí thức khuynh tả, ông cũng có ít nhiều cảm tình với cộng sản cho nên nó mời ông sang nói chuyện. Tôi với tư cách là phó chủ tịch của mặt trận Tổ Quốc Bình Trị Thiên thì tôi cũng đi nghe giáo sư này nói chuyện. Hai anh em nhìn ra nhau thì mừng quá. Tôi mới nói với ông là ở đây cũng không thoải mái, cậu có thể đề nghị với đại học Paris 7 cho mình một giấy mời sang dạy học được không? để mình thoát ly ra khỏi bầu không khí ngột ngạt quá. Với giấy mời dạy học của ông ? thì tôi được sang Pháp và tôi đã đến Pháp vào ngày 14/7/1989.
Nguyễn An: Như vậy là trong đời sống của anh có những cơ duyên rất lạ...
Lê Văn Hảo: Rất lạ anh ạ. Nếu không có ông ?? sang nói về 200 năm cách mạng Pháp thì tôi làm sao ra khỏi nước Việt Nam được?

Nguyễn An: Theo chỗ chúng tôi biết thì vào năm 2000 anh trở thành thành viên của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên? anh có thể trình bày lý do tại sao?
Lê Văn Hảo: Đúng rồi. Lý do là anh Kiểng với tôi quen biết nhau từ gần nữa thế kỷ rồi. Tôi theo dõi việc làm của anh Kiểng rất kỹ. Trước năm 2000 tôi không gia nhập Tập Hợp là vì tôi phải nuôi 2 đứa con ăn học cho nên cũng bận rộn công ăn việc làm. Đến khi tôi sắp sửa về hưu thì tôi mới nghiên cứu kỹ thêm về hoạt động của Thông Luận và của anh Nguyễn Gia Kiểng.
Đã bao nhiêu năm tôi cũng đi tìm một nơi để mình gởi gấm sự thiết tha của mình đối với tương lai của dân tộc. Tôi thấy những gì mà Tập Hợp đề nghị thì tôi thấy nó quá phù hợp với sự mong đợi của tôi, cho nên đến năm 2000 tôi đã chính thức nộp đơn xin làm một thành viên khiêm tốn của Tập Hợp và tôi đã được chấp thuận. Tôi cho đấy cũng là một bước ngoặt của đời tôi.
Nguyễn An: Xin cảm ơn tiến sĩ Lê Văn Hảo đã dành thì giờ cho cuộc trao đổi ngày hôm nay.

Nguồn: Đài Á Châu Tự Do (RFA), ngày 20, 21 và 22/12/2006

(1) Tại Huế, cũng vậy, các cuộc nổi dậy thất bại, dân chúng kinh hoàng của vụ thảm sát của người betwen 2500 và 3500, chủ yếu là dân sự hoặc gia đình của các quan chức chính phủ Sài Gòn.
Các VPA và cadrers của quân giải phóng systematicallly đã lấy đi người có tên trên danh sách đã được chuẩn bị bởi các mạng lưới địa phương. (Cả hai bên đều có thể chơi trò chơi đó: của CIA trưởng cho Huế trốn thoát với người phát thanh một, exphiltrating qua đường ennemy trong phong cách James Bond, mặc đồ đen và mang theo bánh kỳ lạ Ông đã đi ngay lập tức các bài quyền chỉ huy của vị tướng hải hàng đầu phản ứng. lực lượng và đưa cho ông một danh sách đó, theo một nhân chứng, có hàng ngàn người ủng hộ tên của quân giải phóng ở khu vực Huế.) "
(Trích John Prados, Việt Nam, Lịch sử của một cuộc chiến không thể thắng, 19445-1975, trang 240.

Không có nhận xét nào: