Truyện ngắn:
Nhà bác cả ở lại với Việt Minh từ ngày ký hiệp định Genève chia đôi đất
nước đến nay đã được hơn nửa năm, bây giờ họ nhất quyết ra đi.
Cái
tết đơn sơ nghèo nàn đã trôi qua được gần một tháng. Chị Thoa đưa hai người em
Vân và Khoa đi trước, anh chị em đã bàn với nhau nên đi từ từ để chúng nó khỏi
nghi. Họ ghé La Khê quê ngoại để chào bà, các cậu mợ, các bác… trước khi bỏ xứ
ra đi. Ba chị em ra Hà Đông rồi đi xe điện lên Hà Nội ngủ lại nhà dì Hai một
đêm sáng sớm hôm sau ra ga xe hỏa mua vé đi Hải Phòng. Lúc lên tầu trời còn
tối, anh công an cầm giấy thông hành bấm đèn bin soi sơ qua một lúc rồi đưa trả
lại cho Khoa, Vân, cũng may nhờ trời tối nó không biết giấy thật hay giả.
Tầu bắt đầu chuyển bánh, Khoa nhìn ra cửa sổ, Hà Nội đang lùi lại phía
sau, nơi phồn hoa đô hội xinh đẹp ngày nào nay chỉ là một thành phố chết tiêu
điều sầu thảm. Cậu đã được học trên tỉnh, thỉnh thoảng lên chơi Hà thành, quen
nếp sống tân tiến nay tự nhiên lại thấy
đau lòng trước cảnh nghèo nàn bệ rạc. Khoa ngồi tựa tay lên thành cửa miên man
suy nghĩ, cậu và Phúc trước hay nghe những bản nhạc ngợi khen Sài gòn viên ngọc
trân châu trên Á Đông, đã ao ước được vào Nam để thấy thành phố ấy, nhưng nay
khi lên đường đi Nam cậu lại thấy xúc động rạt rào. Hôm qua lúc chia tay, bà
ngoại âu yếm cầm tay chị em cậu bảo.
-Các cháu vào trong ấy rồi nhớ viết thư cho bà, cho các cậu nhá, bà
không biết bao giờ các cháu mới về thăm quê ngoại.
Nghe thế Khoa bèn hứa hẹn bà cụ mấy câu để cụ yên tâm.
-Cháu sẽ viết thư thăm bà và các cậu mợ, chúng cháu nhớ bà lắm chứ.
Bà cụ già bịn rịn cầm tay Khoa một lúc lâu, cách đây mấy năm, cậu đã ở
trọ nhà bà ngoại gần một năm để đi học trên Hà Đông, hồi ấy cậu chưa biết đi xe
đạp, bà chăm lo cho cơm nước cho cậu, là niềm an ủi của cậu lúc xa nhà. Khoa
bùi ngùi cảm động biết rằng chẳng bao giờ còn có dịp gặp lại bà, hình như bà
cũng linh cảm như thế vì cậu ta chợt thấy một giọt lệ long lanh trên mắt cụ.
Các cậu mợ và các em cũng đứng ngoài sân chia tay chị em cậu, nhớ lại cảnh chia
ly Khoa thở dài tự nhủ.
“Biết bao giờ mới gặp lại bà, biết bao giờ gặp được các cậu mợ, các em,
bèo hợp rồi tan, người đi kẻ ở, ai gây nên nỗi”
Nhưng một lúc sau nghĩ đến Hải Phòng, đến
chế độ Quốc Gia Tự Do mà mình đã sống trước đây, cậu ta lại phấn khởi tinh thần
vì chỉ trong ngày hôm nay chị em cậu sẽ thoát khỏi chế độ hà khắc để được trở
lại cuộc sống tự do. Tầu chạy mãi đến chiều thì sang địa phận Quốc Gia, rồi tới
Hải Phòng, ba chị em đi bộ một lúc về ngõ Cô Ba Chìa, đến hiệu thợ may bên
trong rồi lên tầng trên nơi gia đình bác hai Chương thuê tạm một, hai tháng chờ
đi.
Bác Hai và các anh chị mừng rỡ tiếp đón mấy người em họ đã thoát được
xuống đến đây, anh Hiền tươi cười bảo.
-Các em đi được như thế anh cũng mừng cho, còn chú thím, các em kia chắc
nay mai cũng xuống đây, khi nào xuống đầy đủ cả nhà thì lên Hội Đồng Di Cư Bắc Việt ghi tên xin vé tầu, đi tầu bay thì phải chờ
lâu hơn, muốn nhanh thì đi tầu thủy.
Chị Thoa đưa hai em xuống Hải Phòng rồi lại trở về làng để lo cho mấy
đứa kia. Hàng xóm láng giềng đoán là nhà bác Cả sẽ đi Nam nhưng họ cũng không tò mò hỏi han, nhà bác
Cả vẫn lặng lẽ sinh sống bên trong lũy tre xanh.
Mấy hôm sau chị bảo ba đứa em Phúc, Thùy, Dung.
-Chiều nay chị đưa các em ra nhà bà ngoại, mai sẽ lên Hà Đông, không đứa
nào được nói gì với ai nhá, ai có hỏi thì nói ra bà ngoại ăn giỗ.
Bọn trẻ vâng vâng dạ dạ chứ chẳng ra vẻ buồn bã tí nào, dù đây là chuyến
đi bỏ làng bỏ xứ nhưng chúng vẫn tỏ ra thản nhiên như không. Hồi trước tết chị
đã đưa ba đứa ra nhà bà ngoại chờ đi nhưng sau nhà đổi ý nên lại đưa chúng trở
về, lần này cả nhà đã nhất quyết ra đi,
nước đến chân bây giờ mới nhẩy, nhưng thà trễ vẫn còn hơn không.
Chiều hôm ấy các cô cậu chuẩn bị lên đường, tất cả chỉ đi người không,
quần áo đã được chị đưa đi từ tuần trước. Lúc sắp xuất hành, ba đứa đứng ở nhà
ngang, Phúc bảo các em.
-Mình nhìn lại nhà gác lần cuối nhá.
Rồi cả ba đứa quay mặt nhìn căn nhà gác hai tầng một lúc từ bậc thềm
phía trước lên đến mái ngói mầu đỏ sậm, nhìn các cửa kính sáng choang. Căn nhà
này các cụ, kỵ ngày xưa đã xây lên để
lại cho con cháu, nhưng thế sự đổi thay, con cháu phải vĩnh biệt nó ra đi không
bao giờ trở lại, tài sản các cụ để lại nay đã tan đi như mây khói.
Chị Thoa khi ấy đã đứng ở bên kia vườn đưa tay vẫy bọn trẻ đi theo, mấy
chị em băng qua cái cửa hẹp cuối hàng rào cây ổ dô rồi ra một con đường gạch
tiểu lộ, họ đi quanh co một lúc thì đến bìa làng. Phúc và các em bước ra khỏi
lũy tre xanh không bao giờ trở lại, chiều nay ánh nắng vàng úa đang tàn
dần trên cánh đồng cuối đông, một vài
bác nông phu đang căm cụi bên luống khoai, mấy đứa trẻ chăn trâu ngước mắt thản
nhiên nhìn anh em Phúc đi ngang qua.
Đi được một quãng xa, Phúc ngoái cổ nhìn lại lũy tre xanh, nóc nhà gác
vẫn còn hiện ra trên nền trời chiều xanh nhạt, cậu chẳng thấy buồn gì cho lắm,
cậu biết rằng thầy mẹ đã cùng đường phải bỏ hết cả để ra đi, cậu cũng chẳng
thấy tha thiết gì đến mái nhà ấm cúng, đến quê cha đất tổ.
Bốn chị em đi theo con đường đất qua hai ba làng thì đến nhà bà ngoại
ngủ nhờ một đêm để hôm sau đăng trình. Tối ấy bác Hai La ở làng bên được tin
cũng ghé thăm các cháu, bác nói.
-Bác đã hết lòng với nhà cháu rồi đấy nhá, bác chúc các cháu may mắn lên
đường bình yên.
Cậu Mai bảo.
-Các cháu vào trong ấy, mai kia có tổng tuyển cử thống nhất đất nước lại
bầu cho chúng nó.
Bọn trẻ chẳng để ý đến chuyện ấy chúng chỉ biết gia đình đã nhất quyết
ra đi từ bỏ tất cả. Môt lúc sau cậu hỏi.
-Vào trong ấy lấy gì mà sống?
Thùy bảo.
-Anh chị cháu nói nó nuôi mình sáu tháng.
Cậu Mai thích Việt Minh nên không tin.
-Ối giời ơi, nó mà nuôi cho sáu tháng, tiền đâu nó nuôi mình?
Phúc cầm cuốn vở lớp ba của con trai cậu Mai đọc lướt qua một bài học
thuộc lòng.
“ Đừng nghe lời thằng Diệm
Thằng Diệm nói Chúa đã vào Nam
Chúa đây không phải xóm làng riêng ta.
Chúa là chung của
mọi nhà”
Trước
kia Phúc đã mê Việt Minh một thời, bây giờ nghe Việt Minh nói nó lại không tin
họ như trước nữa. Chiều hôm sau Chị Thoa và các em lên Hà Đông, cậu Mai ôn tồn
nhắn nhủ các cháu.
-Cậu không biết nói gì hơn là chúc cho
các cháu ra đi bình yên, khi nào đất nước thống nhất, các cháu sẽ về quê ngoại
thăm bà và các cậu.
Bà ngoại, cậu Mai tiễn các cháu ra
tận ngoài đầu ngõ. Phúc chân bước đi mặt
còn ngoảnh lại, đi quá cái quán đầu làng rồi nó thấy bà và cậu Mai vẫn đứng
trông theo, mãi cho tới khi bà và cậu khuất sau bụi chuối Phúc mới tiến bước đi
nhanh theo chị, ôi cảnh biệt ly sao mà buồn thay. Thế là cậu và các em đã bước
chân ra khỏi lũy tre xanh làng La Khê không bao giờ trở lại.
Đi bộ chừng nửa ki lô mét là tới Hà
Đông, Thoa ghé nhà bà Lan, một người chị họ để đưa chị ấy cùng đi Nam theo
chồng đã đi trước đây. Chiều hôm ấy họ lên tầu điện đi Hà Nội, chừng hơn một
giờ là tới nơi. thành phố bây giờ ngủ
yên dưới bóng đêm buồn tẻ, tịnh không nghe thấy một tiếng động cơ nào ngoài phố
xá. Ngủ nhờ nhà dì Hai một đêm, chị em thuê xe ra nhà ga Hàng Cỏ.
Trời còn tối đen, mấy ngọn đèn vàng nhạt
chiếu ánh sáng mờ mờ xuống đường phố, sân ga. Một bà cụ bán xối ghé lại gần
Phúc, Thùy bảo.
-Cậu ăn một trăm xôi nhá! Cô ăn một trăm
xôi nhá!
Phúc lắc đầu, cậu vẫn còn vương vấn nghĩ
đến buổi tiễn đưa đầy xúc động ở nhà bà ngoại tối qua. Cậu nhìn theo bà hàng
xôi trong lòng ái ngại, sáng tinh mơ đi quanh sân ga bán không biết được bao
nhiêu gói giữa khi chẳng ai có tiền bạc là bao. Chị Thoa dắt tay các cô cậu lên
xe hỏa, một lúc sau trời đã sáng hẳn, tầu từ từ chuyển bánh, Phúc nhìn ra cửa
sổ phía xa xa, nó thấy cảnh vật cứ quay tròn lại, lần đầu tiên trong đời đi xe
hoả, cậu thấy nhiều cảnh lạ. Một anh hát xẩm mù tay kéo nhị, miệng lên giọng
hát bài than vãn cho thân phận những người đi Nam.
“ . . bán con như thể bán trâu, năm
trăm hai đứa còn đâu gia đình…”
Chị Lan nhìn Thoa mỉm cười cái trò
tuyên truyền hạng bét ấy đánh lừa được ai, người ta đặt ra những truyện ghê sợ
để doạ những người di cư, nào là vào Nam để bón cao su, nghe lời thằng Diệm rồi
cũng đi ăn mày… Phúc vẫn nhìn qua cửa sổ, cảnh vật vẫn quay tròn xa xa, cậu bé
biết rằng nhà mình đang đi trốn Việt Minh để đi Nam, dù không thù ghét Việt
Minh nhưng cậu cũng biết rằng nhà mình đang bị Việt Minh đe dọa.
Tầu vẫn chạy vùn vụt về phương đông
mang theo những kẻ chạy trốn chế độ độc tài hà khắc, chạy trốn cái chết, họ bỏ
lại sau lưng những bức chân dung các ông chủ tịch vĩ đại, bỏ lại ngọn cờ đỏ sao vàng, cờ hồng Liên
Sô, cờ hồng Trung Quốc. .
Đến chiều chị Thoa bỗng cúi xuống nói
nhỏvới các em.
-Khi nào đến Phạm Xá là sang địa phận
Quốc Gia, cũng sắp tới rồi.
Các cô cậu trong lòng khấp khởi mừng
thầm, Phúc nghe xong khẽ gật đầu ra ý đã hiểu, cậu không dám hé răng hỏi chị
thêm cậu nào. Tầu vẫn chạy đều đều, tiếng bánh xe lăn trên đường sắt vẫn lạch
lạch như vô tận, một lúc lâu sau còi tầu rít lên một tiếng hú rất lớn rồi tầu
từ từ ngừng lại. Thoa nhìn chị Lan, nhìn các em ra ý tầu đã sang địa phận Quốc
Gia, sắp thay đổi người lái, thay đổi lá cờ cắm trên toa đầu. Mọi người hồi
hộp, cái giây phút quyết định cuộc đời của họ bây giờ đã đến.
Tầu ngừng lại chừng nửa giờ rồi lại chạy vụt
đi, qua khung cửa Phúc và các em đưa mắt nhìn ngọn cờ vàng của quân đội Quốc
Gia xa xa, niềm hân hoan hiện rõ trên nét mặt, cậu biết rằng anh em mình đã
thoát được sang địa phận Quốc Gia. Phúc nhớ lại bẩy tám tháng trước đây, hồi
quân đội Quốc gia đóng tại nhà mình, cậu đã theo mấy ông sĩ quan xuống đền bắn
chim và bây giờ cậu có cảm tưởng như gặp lại những người bạn cũ.
Tầu chạy một lúc lâu sau thì vào đến
nhà ga Hải Phòng, chị Thoa dắt tay các em xuống, bọn trẻ ngơ ngác nhìn sân ga
đông nghẹt những người. Phúc nhìn quanh quẩn, chưa bao giờ cậu được thấy một
đám người đông như thế, những ngày hội hè đình đám ở làng Đông Lao cũng chưa
bao giờ đông ghê gớm như cậu thấy trong ngày hôm nay. Người ta từ trên tầu bước
xuống sân y như nước chảy, một số đi buôn hàng mua qua bán lại kiếm ăn trên
đường Hải Phòng Hà Nội, nhưng đa phần là những kẻ thập phương tứ chiếng từ khắp
mọi nơi trên đất Bắc vội vã đổ về đây, một thành phố cuối cùng của Thế Giới Tự
Do tại Bắc Việt để được thở hít cái không khí Tự Do.
Bây giờ là tháng hai, chỉ còn vài
tháng nữa là hết hạn ba trăm ngày vào Nam ra Bắc. Trong những ngày tháng cuối
cùng của thời hạn di cư, những kẻ từ Hà Đông, Hà Nội, Ninh Bình, Kiến An, Hải
Dương, Phủ Lý, Hà Nam… những kẻ từ khắp các nẻo đường miền Bắc đổ về đây hàng
nghìn, hàng vạn người mỗi ngày để tìm đường dẫn đến Thế Giới Tự Do, ai nấy tươi
cười hớn hở, chẳng cần nói thành lời, thoạt trông cũng biết họ mừng như mở cờ trong bụng, họ đã
tìm lại được Tự Do.
Những kẻ đã nồng nhiệt đón chào Việt
Minh trở về khi hoà bình trở lại Đông Dương, đã sống với Việt Minh và nay đã
thấy rõ cái bộ mặt ghê tởm của họ. Những kẻ không còn đường nào khác hơn là từ
bỏ tất cả quê cha đất tổ, mồ mả ông bà để ra đi dù là với hai bàn tay trắng.
Chị Lan, Phúc, hai cô em có cảm tưởng mọi người đều tử tế, ai nấy niềm vui mừng
hiện rõ trên khuôn mặt, hình như ai cũng
phúc hậu cả, ai cũng cùng chung một một điều mong ước và nay niềm mong
ước của họ đã thành sự thật. Ai cũng ra vẻ tươi cười hớn hở với nhau, cùng biểu
lộ một niềm chân tình, hoài bão. Phúc thấy sân ga vui quá, niềm vui như tràn
trề lai láng đổ ra khắp nơi, cậu cũng nghe thấy những tiếng cười ròn rã của
những kẻ đã tìm thấy cuộc sống Tự Do. Phúc nhìn lá cờ vàng ba vạch đỏ phất phới
bay cậu có cảm tưởng như lâu ngày gặp
lại bạn cũ, cậu nhìn lên bức tường phía trước đọc mấy hàng khẩu hiệu viết bằng
chữ in thật lớn.
“Cụ
Ngô thống nhất sơn hà
Già Hồ chia sẻ nước nhà làm
hai”.
Bức tường bên phải thì viết.
“Ai vô Nam đợi mấy tôi cùng.
Để tôi còn gỡ cái chòng Việt
Minh”.
Phúc không hiểu nghĩa chữ “vô Nam” là gì
nhưng cũng không muốn hỏi chị, cậu biết đó là những khẩu hiệu tố Cộng, ngoảnh
sang bên trái cậu bé lại thấy một biển ngữ bằng vải to dài cũng có hai hàng
chữ.
“Đường
tầu hỏa Mục Nam quan
Vơ vét thóc gạo đem sang
cúng Tầu”.
Một niềm hân hoan sung sướng tự nhiên
nổi lên trong lòng Phúc và chị em cậu, Phúc thấy lòng vui lâng lâng, từ thuở bé
đến giờ lần đầu cậu được thấy một nơi xa lạ với những tình cảm sung sướng dạt
dào như thế. Cách đây mấy năm được lên Hà Nội chơi cậu cũng không thấy súc động
nhiều như bây giờ vì nơi đây sẽ thay đổi toàn diện cuộc đời của mọi người trong
gia đình cậu, nó sẽ đưa cả nhà thoát khỏi nơi tối tăm u ám lên chỗ thanh cao
sáng lạn.
Chị Thoa dẫn các em đi bộ một lúc lâu thì
đến ngõ Cô ba Chìa, họ vào ngõ rồi đi tới một hiệu may thì rẽ vào rồi bước lên
gác. Tại đây nhà bác hai Chương đã đi gần hết chỉ còn một hai người, bác nói
chị em Thoa cứ ở đây vì bác đã trả tiền nhà cho chủ rồi, phòng bên ngoài dành
cho các cháu.
* * *
Thoa đưa các em xuống Hải Phòng rồi lại
về làng để đón thầy mẹ đi, xong chuyến này là cả nhà sẽ đi thoát hết. Gần một
tuần sau khi đưa các em, cô trở về nhà nói cho thầy mẹ biết mọi việc đã xong
xuôi, nhà còn vợ chồng bác cả và Hoàng con trai lớn. Thoa và Hoàng bàn cả nhà
đi vào lúc chiều tối, cậu đi trước để người ta khỏi nghi, còn thầy mẹ và Thoa
sẽ đi làm hai đợt ra quê ngoại.
Chiều hôm ấy bác Cả sai con mời vợ
chồng nhà bác cả Khiêm hiện ở nhờ tại khu vườn nhà bác phía sau nhà. Trước đây
mỗi khi nhà có giỗ hai vợ chồng Khiêm đều sang làm giúp, lần này họ cũng đoán
là có việc quan trọng nên vội sang ngay, bác Cả đi ngay vào đề.
-Vợ chồng bác đối với chúng tôi cũng như chỗ người nhà, chẳng dấu
gì hai bác, gia đình tôi đi Nam dần dần
từ mấy tuần nay, chiều nay chúng tôi sẽ đi sau cùng. Tôi cũng chẳng còn gì chỉ
có một ít quần áo, bát đĩa để lại cho hai bác và các cháu, không biết bao giờ
mới trở về, nhờ bác trông nom hộ nhà cửa vườn tược được ngày nào hay ngày nấy,
ai có hỏi gì cứ nói chắc nhà ông bà ấy đi ăn giỗ ngoài La Khê hay nói không
biết thì cũng được.
Cả Khiêm tỏ vẻ cảm động đáp.
-Chúng cháu chịu ơn ông bà cũng nhiều,
ông bà cho nhà cháu ở nhờ từ bao lâu nay chúng cháu không quên ơn, xin ông bà
cứ yên tâm chúng cháu sẽ giữ kín mọi chuyện, chúng cháu sẽ làm theo y như nhời
ông bà đã dặn.
-Ngày mai bác sang đây xem có thích cái
gì thì cứ đem về, bác cũng biết chúng tôi bây giờ tiền bạc chẳng còn gì nữa,
nếu có thì cũng chẳng tiếc bác.
-Không biết bao giờ chúng cháu mới gặp
lại ông bà, chúng cháu xin chúc ông bà các cô các cậu đi cho may mắn.
Bác gái tiễn vợ chồng Cả Khiêm ra tận
cửa hông bên hàng rào cây ổi rô, họ chắp tay cúi chào bà chủ một cách chân
tình, nước mắt chảy vòng quanh, biết rằng hai bên chẳng có ngày gặp lại.
Thoa đi trước một lúc lâu rồi hai vợ
chồng bác Cả cũng nhẹ nhàng khép cửa đi ra ngoài vườn, băng qua hàng rào ổi rô
ra con tiểu lộ để lần mò ra đồng, lúc ấy trời đã sâm sẩm tối. Bước chân đi, bác
Cả cảm thấy một nỗi buồn tê tái nổi lên trong lòng vườn tược, nhà thờ, nhà gác
của ông bà cha mẹ để lại bây giờ tự nhiên tuột khỏi tầm tay bác. Thời thế đổi
thay nhanh như chớp, sự nghiệp ông cha
để lại bây giờ tan biến đi như cơn gió thoảng, nay cả nhà ra đi tay không, bác đưa tay gạt mấy giọt
nước mắt rồi nhanh chân bước cho chóng đến La Khê quê vợ.
Băng qua cánh đồng dưới ánh trăng lờ
mờ, qua hai ba làng vợ chồng bác đến quê ngoại của các con. Tối ấy bác gái và
bà cụ thủ thỉ tâm tình với nhau trong những giây phút cuối cùng mẹ con còn ở
bên nhau.
Hôm sau lúc Thoa và thầy mẹ cô xách cái
túi nhỏ lên vai ra sân gạch để lên Hà Đông cho kịp giờ tầu điện, bà ngoại và
hai cậu đi theo ra tận cổng. Cậu Tùy than thở với anh chị.
-Chúng em chúc anh chị ra đi may mắn,
thời thế xoay vần nghiệt ngã quá, chị em, cậu cháu mỗi người một phương không
có ngày gặp lại.
Họ ngoại của Thoa chỉ có một mình gia
đình cô đi Nam, tất cả đều ở lại, đường ai nấy đi, âu cũng là tại cái số trời,
các dì các bác, cậu mỗi người giúp cho một ít tiền Đông dương, của ít lòng
nhiều. Người đi kẻ ở chia tay bịn rịn một lúc lâu, anh chị em cùng một cha mẹ
sinh ra nay bỗng kẻ bắc người nam, mỗi người một ngả, bèo hợp rồi tan. Bà ngoại
khóc đỏ hoe cả mắt nhất định đưa con cháu ra tận đầu làng, bà đi theo mãi cho
đến tận quãng đưỡng lên tỉnh mới chịu thôi. Con cháu chân bước đi mặt còn
ngoảnh lại, ai nấy ruột gan sót sa như muối đổ trong lòng, nay mới thấm thía
cái ý nghĩa cao cả của giây phút sinh ly chia cách, cảnh bể dâu con tạo thật
cay đắng tàn nhẫn thay.
Tại Hải Phòng, chiều nào cũng vậy, anh
em Khoa Phúc lại rủ nhau ra ga xe lửa đón thầy mẹ từ quê nhà xuống đây, ba bốn
hôm liên tiếp, chẳng thấy ai các cậu lại thở dài bảo.
-Hôm nay thầy mẹ, anh chị lại không đến
rồi.
Cả hai lại lủi thủi về nhà, lòng dạ bồn
chồn không yên. Hiện năm người con bác cả đã đến được Hải Phòng, chỉ còn hai
bác và hai người con lớn là đủ cả để lên tầu vào Nam. Rồi một hôm đẹp trời,
nắng vàng phủ xuống sân ga, Phúc Khoa lại ra ga đón thầy mẹ như mọi lần, Phúc
thấy Hoàng mặc áo sơ mi xanh trên tầu, anh ngồi sát cửa, cậu vội kêu lên.
-Kìa anh Hoàng, cả thầy mẹ nữa.
Mấy anh em chen chân vào tận cửa toa mừng
rỡ kêu ầm lên.
-Mẹ! mẹ, anh Hoàng. .
Bác gái ra vẻ bực bội nói.
-Yên nào, người ta đang mệt gần chết
đây.
Thật ra bác mệt mỏi vì tinh thần hơn
vì thể xác, cuộc viễn du đầy phiêu lưu gian khổ khiến cho vợ chồng bác xúc động
lo âu mặc dù đó là con đường duy nhất, không còn đường nào khác. Hơn nửa năm
trước đây bác Cả chấp nhận ở lại với kháng chiến thành công tưởng rằng nay đất
nước đã độc lập, đánh đuổi được giặc
Tây, nhưng sự thật phũ phàng đã làm bác và biết bao gia đình thất vọng, bây giờ
mọi người đã thấy rõ bộ mặt thật ghê tởm của Việt Minh Kháng Chiến và cuộc
phiêu lưu biệt xứ đã diễn ra bi thảm như thế này đây.
Khoa, Phúc dẫn thầy mẹ anh chị về ngõ
Cô ba Chìa, leo lên gác ra phòng ngoài, cả nhà bác hai Chương đã đi Nam mấy hôm
trước, bác dặn các cháu cứ ớ đây vì bác đã trả tiền nhà cho đến hết tháng ba.
Phòng trong nay có một gia đình giầu mới ở Hà Nội dọn xuống, ông bà Lưu và năm
sáu người con đã trốn thoát xuống đây để theo đoàn di cư lánh nạn.
Bây giờ là gần cuối tháng hai, chỉ con
vài tháng nữa là hết hạn ba trăm ngày di cư, Việt Minh sẽ về tiếp thu Hải
Phòng. Anh em Hoàng, Khoa bèn vội lên
Hội Đồng Di Cư Bắc Việt để xin vé đi Nam vì cả nhà đã tề tựu đông đủ rồi, đi
tầu bay phải chờ lâu nên nhà muốn đi tầu thủy cho nhanh. Ngay hôm sau Hoàng,
Khoa ghi tên cho gia đình đi tầu thủy, họ phát vé đi vào giữa tháng ba, khoảng hai
tháng trước ngày hết hạn di cư, chuyến này do tầu Mỹ Marine Adder chuyên chở.
Đây là một chiếc tầu chở quân khổng lồ của Hạm Đội 7, mỗi chuyến trọng tải năm
nghìn người, ngoài ra mỗi ngày cũng có mấy chục chuyến máy bay vận tải Dakota
chở người vào Nam cho kịp thời hạn di cư.
Khoa, Phúc và mấy cậu con ông Lưu hàng
ngày rủ nhau lên nhà hát lớn, phòng thông tin, Hội đồng di cư xem triển lãm tranh ảnh, buổi chiều hoặc tối
đi nghe đội lính kèn hoà nhạc, diễn kịch tố Cộng. Các cậu rong chơi vui vẻ trong
những ngày còn ở Hải Phòng. Tại phòng thông tin người ta trưng bày những hình
ảnh đấu tố man rợ bên Trung Hoa đỏ, cảnh những người địa chủ bị trói giật cánh
khuỷu hai tay ra sau trước họng súng của đội hành quyết để cho người dân thấy
bộ mặt thật của Thiên Đường Cộng Sản.
Buổi tối nọ, ban quân nhạc trình tấu
xong bản nhạc hùng, một sĩ quan quân đội Quốc Gia lên trước loa nói lớn.
-Tôi nghĩ trong đám khán giả này có
nhiều anh Việt Minh, các anh hãy vểnh tai lên mà nghe tôi nói đây. .
Khán giả cũng thừa biết như vậy, Việt Minh
đã cho hàng nghìn người xuống Hải Phòng giả làm nhà buôn, đạp xích lô, bán hàng
quà bánh. . để nghe ngóng tin tức, làm
gián điệp và nhất là để tuyên truyền xúi
dục đồng bào di cư bỏ cuộc trở về. Có người đã lên tầu há mồm rồi bị mắc tuyên
truyền còn nhảy xuống nước bơi vào bờ.
Họ hàng vào Nam đã viết thư ra liên
lạc, nào chú Hai, chú Khang con ông Năm, Kính con bác Ba Thu… Ngoài ra Chú cả Hiên, bác Năm Tuấn vợ con còn
ở Đông Lao đã viết thư ra nhờ nhà bác Cả nhắn tin và đưa hộ xuống Hải Phòng, cô
Thoa lại đi Hà Nội để nhắn giúp cho họ hàng và mấy người bạn bè quen biết.
* * *
Thấm thoát đã gần đến ngày lên tầu đi
Nam, còn hai hôm nữa là gia đình bác Cả sẽ rời Hải Phòng mà vẫn chưa thấy Thoa
về, chị ta trở lại Hà Nội để nhắn hộ mấy người thân thuộc, trước khi ấy thầy mẹ
đã dặn nhớ phải về trước ngày mười lăm tây tháng ba như đã ghi trong vé đi tầu
Mỹ, Thoa vâng vâng dạ dạ mà nay ngày đi đã gần kề vẫn chưa thấy tăm hơi cô đâu
cả.
Thế rồi ngày mai sẽ phải lên đường mà
Thoa vẫn chưa về, ai nấy đã chuẩn bị khăn gói xong xuôi cả chỉ còn thiếu chị ấy
thôi. Suốt từ sáng đến chiều hôm ấy, hai vợ chồng bác Cả nóng lòng nóng ruột cứ
như lửa đốt, các em cô cũng sốt cả ruột gan mà chẳng thấy tăm hơi chị đâu cả,
thầy mẹ cô lại sợ có chuyện chẳng lành, ông bố than thở.
-Giời ơi chắc nó về làng nhắn tin hộ
chú Cả, bác Năm đấy, nó mật sứ gan lim mà.
Chiều tối hôm ấy cả nhà ngồi phòng
ngoài chờ đợi người về từng giây từng phút, bên phòng trong nhà ông Lưu cũng
sốt ruột hộ, họ cũng ra cửa ngóng xem có thấy tăm hơi gì không. Ngày mai dù
Thoa không về cả nhà cũng vẫn phải đi Nam không thể chần chờ được vì thời hạn
di cư chỉ còn chừng một tháng rưỡi nữa là cùng.
Ai nấy ngồi than vắn thở dài.
Trời đã tối mù mịt, ai nấy rối bời cả
ruột gan thì bỗng bà Lưu ở phòng ngoài cười lớn tiếng bảo.
-Ơ cô ấy về đây rồi!
Nhà ông Lưu cũng cười rộ lên vì mừng,
Thoa chào ông bà rồi bước mau ra phòng ngoài, thầy mẹ Thoa mừng quá quên cả
mắng nhiếc con, ai nấy thở phào nhẹ nhõm như qua được một thử thách cam go.
Tờ mờ sáng hôm sau cả gia đình khăn gói
xuống trước nhà thuê xe xích lô đến địa điểm tập trung trước Hội đồng di cư,
ông Lưu cũng xuống tiễn đưa, hai bên hẹn sẽ gặp nhau ở miền đất hứa. Mấy người
phu xe kỳ kèo đòi thêm tiền một lúc mới chịu đi.
Tới nơi trời vẫn còn tối mịt, hàng mấy
chục xe cam nhông đã đợi sẵn để chở đồng bào ra bến tầu. Hoàng trình vé làm thủ
tục cho cả nhà xong mọi người vội leo lên xe, dưới ánh đèn điện lờ mờ mấy chiếc
xe cam nhông đầy những người đã nổ máy sẵn sàng chuyển bánh, một ông cha mặc áo
dài đen nói đôi lời tiễn biệt.
-Thưa đồng bào, đã đến giờ khởi hành,
tôi xin có mấy lời cùng đồng bào, vào trong Nam đồng bào sẽ được chính phủ tiếp
đón giúp đỡ nơi cư ngụ tạm và trợ cấp bước đầu, trước giờ phút chia tay xin
chúc đồng bào may mắn thượng lộ bình yên.
Chiếc xe bên cạnh đã bắt đầu chuyển
bánh, bác gái bảo con.
-Kìa! nhìn kìa.
Mọi người đứng nhìn chiếc xe từ từ
chạy, đằng sau vài người đàn bà chạy bộ theo tay cầm nón lá vẫy, miệng khóc mếu
máo.
-Thôi đi nhá, khi nào đến nơi viết thư
về nhá. .
Thân nhân họ trên xe cũng mếu máo nói
đôi lời vĩnh biệt, người đi kẻ ở, bịn rịn chia tay, nhà bác cả trông theo mà
thấy se sắt cõi lòng. Bãi xe ngày càng trở nên ồn ào hơn trước, tiếng động cơ,
tiếng người tiễn đưa, tiếng khóc như hòa thành một bản nhạc não nùng bi thảm.
Xe chạy đến bến tầu thì trời đã sáng
rõ, một người lính Pháp tay cầm dùi cui điều khiển các xe đậu theo thứ tự. Đồng
bào bắt đầu xuống xe đi bộ một quãng rồi lên tầu há mồm của Tây, nhà bác Cả
bước vào miệng tầu rồi lên boong. Tầu há mồm là loại tầu nhỏ chở đồng bào ra
tầu Mỹ đậu ngoài khơi. Trên boong tầu Phúc ngước nhìn mấy người thủy thủ Pháp
ăn bánh vui đùa nhau, cậu bé lần đầu được thấy những cảnh khác lạ trong đời.
Gia đình kẻ đứng người ngồi quây quần trên sàn tầu, bên cạnh đấy mấy người
thanh niên ăn mặc com lê lịch sự, mấy cô mặc áo dài đang cắt bánh chưng ăn, họ
nói cười vui vẻ chắc là sinh viên đại học.
Tầu há mồm bắt đầu chạy qua vịnh Hạ
Long, nhà bác Cả lấy bánh chưng cắt ra chia nhau ăn, Phúc thấy chị Thoa vừa ăn
vừa thầm lặng khóc, bác gái cũng ứa hai hàng lệ, trên sân boong có nhiều người
tự nhiên ứa lệ khóc cho thân phận hẩm hiu đen bạc của mình. Thật vậy, suốt đời
họ chưa bao giờ gặp cảnh gian truân thảm thiết đến thế. Ngay cả những ngày
trong thời tao loạn quân Pháp tấn công đốt phá khắp nơi, họ cũng bám chặt không
rời quê cha đất tổ, nhưng nay thời thế quá phũ phàng đã sô đẩy họ vào bước
đường cùng, chẳng ai mà ngờ gặp phải cái thời kỳ tàn nhẫn đến thế. Một cơn gió
nhẹ thổi qua khe núi lên sàn tầu không đủ lau khô những giọt lệ xót xa của đám người biệt xứ.
Tầu đã vào địa phận Vịnh Hạ Long, hàng
nghìn hàng vạn ngọn núi như những hòn
non bộ chọc thủng mắt nước nhô lên, mỗi ngọn đều có cây cỏ xanh tươi đứng soi
mình trên mặt nước trong xanh, tầu chạy
gần một ngọn cao , Phúc lấy tay chỉ hỏi anh.
-Nó có đường đi lên ngọn, chắc trên ấy
có người ở.
Thật vậy, bên hông núi có một đường đất
mòn nho nhỏ uốn quanh sườn núi trông thật thi vị nên thơ, nó chạy dài từ chân
lên gần ngọn. Tầu há mồm yên lặng chạy trên mặt nước phẳng lặng như tờ, tịnh không
một tiếng sóng vỗ hay cá quẫy, chim kêu, chỉ thỉnh thoảng có tiếng còi tầu bin
bin não nuột. Các ngọn núi như dạt ra hai bên tránh lối cho tầu đi qua, thoáng
trông người ta có cảm tưởng nó như bức tranh thủy mạc của Tầu, một bức tranh vĩ
đại, vô cùng mỹ lệ của thiên nhiên trải rộng ra trước mặt đoàn người biệt xứ.
Nhưng dù cảnh trí xinh đẹp, núi non hữu tình đến đâu cũng không thể nào khuây
khoả được nỗi chua xót của đoàn hành khách bất hạnh trên tầu, những kẻ ra đi
với tấm vé một chiều trên tay.
Khoa nhìn những ngọn núi hai bên hỏi
anh.
-Núi nhiều thế mà sao nó biết cũng đường
đi nhỉ, sao nó không lạc mới tài?
Hoàng đáp.
-Nó có bản đồ, nó cứ theo đó mà chạy.
Phúc nhìn một chiếc thuyền bên cạnh, hai
đứa trẻ con bị buộc chân trên mũi thuyền, bác thuyền chài ngơ ngác nhìn tầu đi
qua, làn nước xanh biếc y như nước hồ lơ quần áo hiện rõ trên mái chèo, thỉnh
thoảng tầu lại gặp một hai chiếc thuyền gỗ của dân chài, Phúc nhìn theo, cậu ra
liên tưởng đến cuộc đời vô định, những kiếp người lênh đênh trên sóng nước. Tầu
vẫn lặng lẽ trôi đi giữa những ngọn núi đá dàn thành hình chữ nhất phía trước,
nhưng khi tầu tiến lên thì những núi đá thiên nhiên lại tự động tránh lối cho
tầu di qua.
Nước non vẫn vắng lặng và êm tĩnh lạ
thường, một sự yên lặng thê lương bi đát y như tâm trạng của bọn người lìa xứ,
những ngọn núi xinh đẹp như hòn non bộ vẫn yên lặng đứng soi mình trên mặt bể. Tầu
vẫn từ từ tiến lên như không bao giờ vượt qua khỏi cánh rừng non bộ nên thơ,
thỉnh thoảng một ngọn gió nhẹ của vịnh lướt qua boong tầu như một cánh tay vuốt
ve an ủi những kẻ ly hương bất hạnh.
Tầu Pháp chạy giữa rừng non bộ đến xế
trưa thì tới tầu Mỹ Marine.Adder, một tầu khổng lồ đứng sừng sững ngay trên mặt
bể. Tầu Pháp ghé sát tầu Mỹ, một cái thang sắt từ boong tầu Mỹ bắc xuống tầu há
mồm để đồng bào leo lên. Mọi người bắt đầu lên thang, một lúc sau nhà bác Cả
cũng theo đoàn người lên tầu Mỹ. Phúc vịn tay anh bước theo đến bậc trên cùng
sắp bước vào tầu, một người thủy thủ Mỹ đứng ngay đấy dúi vào tay cậu một túi
giấy trong có một quả cam, cái trứng luộc và gói cơm trắng, ai cũng được một
túi như thế. Đứng trên tầu Mỹ nhìn xuống người ta thấy tầu Pháp bé tí như chiếc
thuyền con.
Nhà bác Cả được hướng dẫn xuống tầu đi
qua hai ba cầu thang, qua hai ba phòng đến một phòng rộng đầy những giường vải
cái nọ chồng lên trên cái kia. Các phòng đều có bắc loa, độ một lúc lại có
người gọi loa tiếng Việt để thông báo đồng bào cử đại diện đi lãnh cơm, hay
những hòm xiểng của đồng bào trên boong cần phải buộc lại cho chặt. Chiều tối
hôm ấy họ phát cơm và đậu hộp xào cho mọi người, cơm nát và nhão nhẹt ăn chẳng
được.
Chiều hôm sau Phúc theo chị Thoa lên
boong để mua mực của thuyền chài, dân di cư xúm xít phía mũi tầu, phía dưới một
chiếc thuyền lại gần tầu Mỹ, người dân
chài ngước lên nói lớn.
-Bỏ tiền vào hòn đá ném xuống trước, tôi ném mực luộc lên sau.
Nói rồi anh ta ném hòn đá có buộc dây
lên, người trên boong buộc tiền vào ném xuống, Thoa chờ lâu mãi không mua được
may có người không thích mực bán lại, một người thủy thủ Mỹ vội lấy vòi rồng
phun nước xuống thuyền ào ào, anh thuyền chài tối tăm mặt mũi. Có người nói.
-Nó không cho mua bán qua lại.
Anh lính Mỹ vẫn phun nước ào ạt xuống,
thuyền vội quay đầu chạy, anh lính thủy vẫn phun theo, Phúc thấy vậy than.
-Nó ác thế, chìm thuyền người ta thì
sao.
Hai chị em vẫn chưa xuống phòng, Phúc
nhìn người lính thủy Mỹ đổ thùng cam xuống biển, có người nói.
-Nó mở thùng ra thấy một quả bị thối là
nó đổ luôn cả thùng.
Những quả cam đỏ ối nổi lềnh bềnh trên
mặt nước. Khi ấy người thuyền chài lại mon men đến gần để vớt, anh ta cầm cái
vợt lén lén múc từng quả một, Phúc theo dõi
diễn tiến không dời mắt, anh lính Mỹ lại lấy vòi rồng phun xuống ào ào
như thác lên đầu anh thuyền chài, một ông đứng gần đấy bảo.
-Nó không cho vớt, cam đổ đi không được
vớt.
Thoa bảo.
-Sao nó đổ đi rồi mà cũng không cho
người ta lấy.
Người thủy thủ hình như đùa cợt trên sự
khổ sở của anh thuyền chài chứ không có ý cảnh cáo hay ngăn cấm, anh ta nhe
răng ra, tay cầm vòi tiếp tục sối nước lên đầu anh thuyền chài.
Hôm sau lúc mọi người mới ăn cơm xong
thì tầu chuyển động mạnh, giường nằm bỗng nhiên lắc lư như đưa võng, một ông
bên cạnh bảo.
-Tầu bắt đầu chạy đấy, ba ngày nữa thì
đến Sài Gòn.
Khi ấy loa ở các góc phòng vang lên,
người ta nhắn đồng bào hãy buộc lại những hòm xiểng trên boong cho chặt vì tầu
bị sóng đánh ngả nghiêng có thể rơi xuống bể, tối ấy lúc con tầu bồng bềnh trên
làn sóng nước, đồng bào ai nấy đều yên giấc cả.
Ngày hôm sau tầu đã chạy một đoạn đường
xa nhưng vẫn đi dọc theo duyên hải, anh em Khoa, Phúc rủ nhau lên boong xem
cảnh bể cả mênh mông, hai cậu đi qua các phòng. Một phòng đồng bào bên giáo
đang đọc kinh nghe buồn bã, tầu rộng rãi to lớn như một tòa lâu đài, đi qua hai
ba cầu thang mới lên tới boong.
Trên boong vắng người, hai cậu bé đi
vòng vòng từ hông tầu bên phải sang bên kia, từ đằng mũi xuống đằng đuôi tầu,
Khoa bảo.
-Bây giờ chỉ có trời với nước thôi!
Thật vậy, bầu trời u ám như cái vung
vĩ đại úp lên trên mặt bể mênh mông bát ngát không còn biết đâu là bến bờ,
trong khoảnh khắc hai cậu thiếu niên tự thấy mình bé nhỏ li ti như con kiến
trước cảnh vĩ đại mênh mông của tạo hóa. Từng đàn cá bay vọt lên mặt bể là đà
trên không rồi lại chui xuống nước. Tầu vẫn lặng lẽ xé nước chạy xuôi về phương
Nam mang theo những người đi tìm Tự Do, Đất Hứa.
Hàng nghìn hàng vạn người mỗi ngày
theo đường hàng không, hàng hải tiến về phương Nam đi tìm một cuộc đời mới, nơi
mà con người được quyền nói điều mình muốn nói, được ở những nơi mình muốn ở,
được làm những công việc mình muốn làm. Đó là cuộc di cư vĩ đại nhất trong lịch
sử nước nhà đánh dấu sự thắng lợi to lớn của Thế Giới Tự Do, một trong những
biến cố lớn nhất trên thế giới trong năm.
Khoa đứng nhìn những chiếc ca nô treo
bên hông tầu gần sát boong ra vẻ hiểu biết nói với cậu em.
-Đó là những ca nô cấp cứu phòng khi
tầu bị đắm, hồi xưa cách đây bốn chục năm tầu Titanic đụng phải tảng đá băng
lớn chìm ngay, chỉ có một ít người được cứu sống.
Nói rồi cậu miên man nghĩ tới gia đình
mình, tới nghìn vạn những người di cư khác, số phận của gia đình cậu, của muôn
vạn người khác đã gắn liền vào số phận của đất nước y như những chiếc ca nô
treo trên thành tầu.
Gió vi vút thổi từ ngàn khơi, Phúc nhìn
đại dương mênh mông bát ngát nhớ lại những ngày chạy loạn xa xưa, những ngày
rong chơi của tuổi thơ bên đồng lúa chín, dưới bóng cây đa cây bàng trường học,
bên dòng sông Đáy êm đềm phẳng lặng …
cậu thấy đời người cũng y như
trong một giấc mơ. Trước mắt bây giờ chỉ có trời với nước.
Sóng bể vẫn rì rầm vỗ nhẹ vào thân tầu.
(trích trong Sài Gòn
Thất Thủ, xuất bản 2007)
Trọng Đạt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét