Nguyễn Tuân sinh 10-7-1910, mất ngày
28-7-1987 tại Hà Nội
Chùa Đàn là truyện ma quỉ của Nguyễn
Tuân viết vào năm 1945 đã được một số
nhà phê bình coi như tác phẩm đặc sắc nhất của ông, có người nói đã đạt tới đỉnh cao nghệ thuật.
Truyện đã được tái bản tại Sài Gòn trước năm 1975. Sau ngày Việt Minh cướp
chính quyền tại Hà Nội, Nguyễn Tuân “giác ngộ cách mạng” bèn viết thêm một phần
mở đầu gọi là Dựng và một phần kết gọi là Mưỡu Cuối để biến câu chuyện thành
một tác phẩm “văn chương vô sản” do Quốc Văn xuất bản tại Hà Nội 1946.
Năm 1947 Chùa Đàn được nhà xuất bản Tân
Việt in lại tại Sài Gòn.
Sau khi Nguyễn Tuân viết thêm, Chùa Đàn
viết năm 1945 đã trở thành phần thứ hai và được gọi là Tâm Sự Của Nước Độc .
Chùa Đàn viết 1945 đã được quay thành
phim Mê Thảo Thời Vang Bóng năm 2002, đạo diễn Việt Linh
Trước hết chúng tôi xin đề cập tới Chùa
Đàn viết năm 1945, phần tác giả viết thêm sẽ đề cập sau.
Chùa Đàn nay đã được in lại trong tập
III, bộ Nguyễn Tuân Toàn Tập, nhà xuất bản Văn Học năm 2000, bìa cứng rất đẹp
và trang trọng. Truyện cũng đã được in lại trong cuốn Yêu Ngôn Của Nguyễn Tuân,
truyện ngắn do nhà xuất bản Hội Văn Hà Nội ấn hành năm 1999.
Nói về truyện quái đản nổi tiếng trên
thế giới phải kể đến những đoản thiên của Edgar Allan Poe, một thi sĩ, văn sĩ
cổ điển Mỹ (1809-1849), truyện nổi tiếng nhất của ông là
The Fall Of
The House Of Usher (1839), có người dịch là Giọt Máu Cuối Cùng Dòng Họ Usher,
chắc nhiều quí vị đã đọc qua. Nhà thi hào Pháp Charles Baudelaire (1821-1867)
đã dịch các truyện của Edgar Poe trong cuốn Les Histoires extraordinaires
d’Edgar Poe (Những truyện quái đản của Edgar Poe), đây là một trường hợp đặc
biệt, bản dịch lại được người ta coi là hay hơn bản chính.
Tại Á Đông chúng ta phải kể Bồ Tùng Linh
(1644-1715) với bộ truyện ma quỉ lừng danh Liễu Trai Chí Dị (1670-1707) đã làm
say mê nhiều thế hệ đã qua với mầu sắc, không khí quái đản của đông phương. Tác
phẩm này đã được nhiều người hâm mộ từ thế kỷ 17 đến nay.
Nguyễn Tuân chịu ảnh hưởng của truyện ma
quỉ Liễu Trai, vào năm 1943 ông viết một số truyện ma theo lối Bồ Tùng Linh
đăng trên các tờ Thanh Nghị và Trung B ắc chủ nhật, hết sức hoang đường, kỳ quái.
Hồi ấy tác giả đã có ý định thu thập các
truyện quái đản trên để in trong một tuyển tập lấy tên là Yêu Ngôn nhưng vì
chiến tranh bùng nổ nên công việc đã phải bỏ dở. Năm 1999 nhà nghiên cứu văn
học trong nước Nguyễn đăng Mạnh đã thu thập những đoản thiên ma quái ấy để in
thành tập Yêu Ngôn, nhà xuất bản Hội Nhà Văn ấn hành gồm: Khoá Thi Cuối Cùng,
Trên Đỉnh Non Tản, Đới Roi, Xác Ngọc Lam, Rượu Bệnh, Lửa Nến Trong Tranh, Loạn
Âm, Tâm Sự Của Nước Độc (tức Chùa Đàn), Nguyễn Mạnh Đăng có nhận xét như sau.
“Nhưng Nguyễn Tuân tìm vào thế giới yêu ma
có lẽ còn do một yêu cầu khác. Con người này luôn thèm khát những cảm giác mới
lạ và mãnh liệt. . . . những cảm giác ấy, Nguyễn Tuân không thể tìm được trong
cái môi trường vẫn vây bọc lấy ông trong cuộc sống hàng ngày mà ông chỉ thấy là
lèm nhèm, lẹt đẹt và xám xịt”
Vào những năm 1943, 1944, 1945 Nguyễn
Tuân đã chuyển hướng từ tùy bút sang viết những truyện ngắn ma quỉ như trên và
Chùa Đàn viết năm 1945 là truyện quái đản cuối cùng của ông. Nó cũng là tác
phẩm thuần túy văn chương cuối cùng của tác giả vì sau đó theo Cộng Sản, ông đã
trở thành cây bút phục vụ tuyên truyền cho chế độ. Từ thập niên 80 về trước
Chùa Đàn đã bị coi như loại văn nghệ duy tâm phản động, nay với tinh thần đổi
mới tư duy, trong nước người ta đã đánh giá lại Chùa Đàn và đã đề cao giá trị
của tác phẩm như sau.
“Nhiều độc giả
ái mộ và am hiểu văn chương Nguyễn Tuân đã đánh giá Chùa Đàn là tác phẩm đặc
sắc nhất của nhà văn. Trong các sáng tác của mình, nhà văn Nguyễn Tuân biểu lộ
một tài năng sáng tạo đặc biệt. Mỗi công trình nghệ thuật đều in đậm dấu ấn đỏ
chói của ông, không thể lẫn với một ai khác, không một người nào khác mô phỏng
được. Với Chùa Đàn, tài năng sáng tạo của nhà văn đã vươn tới thượng đỉnh”.
( Hoàng Như Mai – Tác phẩm Chùa Đàn Của
Nguyễn Tuân.)
Hoặc
“. . . Tất
nhiên Chùa Đàn là một hiện tượng độc đáo và phức tạp. Đọc Chùa Đàn phải thấy
Lãnh Út,. . . Bá Nhỡ hay Cô Tơ, những
nhân vật tài hoa nghệ sĩ ấy, tất cả đều là Nguyễn Tuân”
(Nguyễn Đăng Mạnh - Đọc Lại Chùa Đàn Của
Nguyễn Tuân.)
Sơ lược.
Tại ấp (đồn
điền) Mê Thảo, Lãnh Út một chủ ấp còn trẻ, vợ bị chết trong một tai nạn xe lửa
lật, quá thương vợ Lãnh Út đâm thù oán cơ khí máy móc. Cậu bán rẻ hay đem cho
hết những sản phẩm của nền văn minh máy móc như ô tô, xe đạp, máy bơm nước, máy
hát, máy chữ, lò cồn, đèn măng sông, súng
săn… Khách đến chơi không được
đem đến ấp những vật dụng về máy móc như
đồng hồ, bật lửa, bút máy… vì vậy ấp đã vắng khách, làm ăn cũng kém hẳn
đi, nay việc kinh tế chỉ trông vào trồng dâu, nuôi tằm.
Dân trong ấp
than thở về ông chủ ngày càng khùng điên, gàn dở, uống rượu sáng đêm, ngày càng
càn dỡ. Nay chỉ có Bá Nhỡ thông cảm chủ
ấp Lãnh Út. Bá có họ hàng xa với vợ Lãnh Út, tòng phạm một vụ án mạng, bị kết
án tử hình. Vợ Lãnh đã đưa Bá lên đây nhờ chồng làm giấy tờ giả cho Bá ẩn náu
trong ấp. Bá Nhỡ chịu ơn Lãnh Út nên hết sức trung thành, Bá nay là quản gia
quán xuyến mọi việc trong ấp, Bá cũng có tài đàn hát giỏi.
Lãnh Út thương
vợ chết trẻ, buồn rầu, rượu chè, say sưa, sao nhãng việc sản xuất, có khi áp
bức đánh đập dân trong ấp. Bá Nhỡ dàn xếp mọi việc êm thắm, nếu không có Bá ấp
Mê Thảo đã tiêu tan rồi, vì thế người dân biết ơn quản gia Bá Nhỡ vừa chịu khó
lại công bằng. Bá vừa lo phục hưng kinh tế ấp còn săn sóc tinh thần cậu Lãnh.
Bữa rượu tối nào của Lãnh, Bá cũng ngồi hầu rượu, bình văn, ngâm thơ Đường,
diễn lại truyện Tây Hán, Đông Chu hay gẩy đàn. Có khi Bá dựng nhà rạp cho tìm
các gánh hát về làm cho cậu Lãnh vui, nhưng cậu vẫn u sầu. Bá lo lắng cho ấp vì
cậu Lãnh cứ thương vợ khóc lóc, rượu chè say sưa mãi có ngày ấp cũng tiêu tan.
Ngày giỗ vợ, Lãnh Út khóc um lên, cậu uống rượu hết bình này sang bình khác,
rồi cho đào rượu ở tửu phần lên, đây là khu mả rượu, Bá đã cất rượu rồi đem
chôn ngoài gò.
Sau trận giỗ
ấy, cậu Lãnh Út không khóc, chỉ ra mồ hôi tóc, cậu không nói nửa nhời, Bá Nhỡ
càng lo, bèn đi tìm bọn con hát nhà nghề để cứu vãn cái tâm hồn đau khổ ấy.
Phường chèo, hát đến diễn tuồng một hồi, cậu lại dở chứng bãi cuộc vui, không
uống rượu nữa, đòi mua pháo đốt, tằm giật mình chết cả lứa vì tiếng pháo của
người cuồng, dân ấp nhiều người bỏ trốn, Bá Nhỡ ngồi chờ ngày tận thế của Mê
Thảo.
Cậu bây giờ
lại thôi không uống, không khóc, không nghe đàn hát. Trông cậu ngày càng thê
thảm, ngày đêm ngồi sừng sững như nhà sư nhập định, khối óc đã cầm cho tương
tư. Bỏ rượu cả năm nay rồi một đêm mưa gió cậu đòi rượu. Bá vừa quán xuyến việc
ấp còn lo cho cậu trở lại yêu đời, tục huyền với đời sống. Rượu vào cậu lại nhớ
đến đàn hát, sai Bá đi tìm cô Tơ, một danh ca về hát cho cậu nghe, chỉ cho một
người đánh đàn đi theo cô. Bá mừng rỡ đi tìm cô Tơ hy vọng chữa cho cậu hết
bệnh tâm thần, Bá tìm cùng cả sau phải về tận quê cô Tơ và gặp cô ở một nếp nhà
tranh vùng quê. Ông
Chánh Thú chồng cô đã mất, cô Tơ bỏ tỉnh về quê vui
việc đồng áng, Bá nài nỉ cô về hát cho Lãnh Út nghe, cô Tơ chối từ nói từ ngày
chồng mất, cô giải nghệ, bây giờ hát sợ động vong hồn người xưa.
Bá ngủ nhờ tối
ấy, hôm sau năn nỉ cô Tơ nhưng cô vẫn một mực chối từ, Bá tưởng cô không nhận
lời vì cho là không có ai đàn cho xứng, Bá trước đây cũng là tay đàn điêu
luyện. Về Mê Thảo Bá đón một người đàn giỏi về luyện lại ngón đàn cho mình,
kiếm mua cây đàn đáy cũ rồi đến quê cô Tơ dạo thử một khúc cho cô nghe. Cô Tơ
khâm phục ngón đàn ấy nhưng vẫn chối từ vì đã chót thề với tổ, Bá thật tình kể
bệnh trạng cậu Lãnh ra cho cô nghe, cô cũng thật tình kể lại từ khi chồng chết
đã thề không hát nữa, ai mà cầm cây đàn đáy của chồng gẩy sẽ gặp tai biến hay
vong mạng.
Đàn làm bằng
ván nắp cỗ quan tài một cô gái đồng trinh, như có yểm bùa, hồi chồng còn sống
nó đã có nhiều chứng, nay chồng mất, gần ngày giỗ cây đàn ấy đổ mồ hôi phát ra
những tiếng thở dài. Bá Nhỡ đòi xem cây đàn, vào đến gần bỗng một tiếng nổ
tách, một sợi dây đứt, Bá thắp nhang thì bỗng các chân nhang cháy bùng lên, cô
Tơ và Bá sợ tái mặt. Cô tơ nói năm ngoái có ông khách cũng sành đàn ôm cây đàn
cũ ấy gẩy được vài khổ thì lăn đùng ra sau bị bán thân bất toại.
Bá Nhỡ về ấp
suy nghĩ miên man, bỏ cả công việc, nghĩ rằng hễ cầm cây đàn của Chánh Thú là
phải chết hay thân bại danh liệt, Bá cũng muốn đánh liều một bản rồi thác như
con tằm rút ruột nhả tơ. Tự nhiên tóc Bá bạc hẳn đi, Bá và cậu Lãnh Út đối ẩm,
hai người nay lại thân thiết nhau hơn.
Tối nọ cô Tơ
mơ thấy chồng hiện về bảo sẽ có người sẽ đến lấy cây đàn ở gần bàn thờ gẩy, sau
đó hắn sẽ chết sẽ thế mạng cho ông ở dưới cung Thủy Tinh. Ông sẽ đầu thai lên
làm người dương gian, cô giật mình ghê sợ. Sau Bá Nhỡ lại đến, cô nhớ ra giấc
mơ tối nọ bèn mời Bá uống nước rồi lẻn vào buồng khấn chồng tha mạng cho Bá
Nhỡ, chờ người khác, nhưng Chánh Thú không thuận.
Một hôm Bá lại
tới quê tìm cô Tơ, hắn đòi ôm cây đàn bên bàn thờ đánh mấy khúc và xin chịu mọi
oan khiên xảy ra. Hắn cương quyết cầm cây đàn đó và nói cậu Lãnh Út sẽ đi võng
xuống đây để cầm trống chầu, và rồi cậu đã tới.
Bá vào buồng
ôm đàn ra, cậu Lãnh Út cầm chầu, cô Tơ hát nhưng trong lòng như người mất hồn,
tiếng đàn của Bá thật đau khổ ngậm ngùi, nhức nhối. Tiếng hát cô Tơ, tiếng đàn
Bá Nhỡ dắt nhau mà lướt bổng, Bá Nhỡ nhận thức mình đang chết dần, mười đầu
ngón tay chảy máu, quần áo Bá dần dần đỏ như vóc đại hồng, máu trong người Bá
cứ thấm ra ngoài. Mỗi tiếng đàn là một miếng thịt nẩy ra, cô Tơ rùng mình,
tiếng đàn hát như đang sa lầy trên bãi sình mênh mông. Bỗng dây đàn đứt phựt
bắn vào mặt cô Tơ, khi ấy tiếng hát cô như mọc cánh bay lên, tiếng trống chầu
lợi hại, cậu đang ngủ cái thôi miên của âm nhạc.
Trong buồng có tiếng cười trên bàn thờ Chánh
Thú, bát hương vỡ đôi lăn xuống đất kêu một tiếng soảng, cô Tơ hiểu đó là điều
linh thiêng. Bá Nhỡ ngày càng ốm yếu sa sút vì mất máu rồi bỗng gục xuống đàn
lạnh ngắt, cô Tơ oà lên khóc, đỡ xác Bá Nhỡ, vuốt mắt cho y, chiếc đàn tự nhiên
nổ tung vỡ tan ra đất. Lãnh Út ngủ ngồi bên xác tới hôm sau, khi tỉnh giấc Lãnh
đặt thi thể Bá vào võng cho người khiêng đưa về Mê thảo, cô Tơ lẽo đẽo theo
sau. Bá Nhỡ được hạ thổ lúc xế chiều, tửu phần bị khai quật, Lãnh Út vứt bó
đuốc vào gò rượu khiến phát hoả, thảo mộc chim muông bị say lây, Lãnh thề bỏ
rượu, đàn hát.
Một năm sau,
chùa Đàn mọc lên ở ấp, cô Tơ giữ việc kinh kệ, Lãnh Út bán ấp, giữ lại hai mẫu
nơi dựng chùa Đàn”
Các nhà nghiên cứu phê bình cho rằng Chùa
Đàn là một tác phẩm đạt tới đỉnh cao nghệ thuật, một truyện ngắn hơn bốn mươi
trang cho thấy bút pháp của Nguyễn Tuân thật kỳ ảo như rồng bay phượng
múa.
“Với Chùa Đàn,
tài năng sáng tạo của nhà văn đã vươn tới thượng đỉnh”
(Hoàng Như Mai)
Tác phẩm có thể bao gồm trong ba khía
cạnh chính: Nhân bản, Nghệ thuật, và Quái đản.
Khía
Cạnh Nhân Bản - Như đã sơ lược, truyện gồm có ba nhân vật chính: Lãnh Út
chủ ấp, Bá Nhỡ quản gia và cô Tơ đào hát. Các nhân vật đều đã được Nguyễn Tuân
xây dựng bằng những nét kỳ quái cho phù hợp với không khí ma quỉ: Lãnh Út, một
chủ đồn điền còn trẻ, vợ chết trong một tai nạn xe lửa lật xuống vực khiến y
trở nên thù ghét cơ khí máy móc. Lãnh đã vứt bỏ, bán tống táng hết những đồ đạc
do nền văn minh cơ khí sản xuất ra như ô tô xe đạp, máy bơm nước, máy chữ… để
trở về thời trung cổ chỉ vì quá thương yêu vợ, cậu đã trở thành kẻ thù của nền
văn minh cơ khí.
Út đã không nguôi sầu mà ngày càng đau
khổ hơn, ngày giỗ vợ cậu uống rượu liên tu bất tận đến phát điên cuồng. Cậu
khóc ầm lên trong ngày giỗ khiến cho chim cú cũng phải tắc tiếng cầm canh. Dân
trong ấp bắt đầu lo sợ. Cậu ngày càng hoá rồ, hoá dở vì thương vợ, công việc
kinh tế bỏ bê, đồn điền có cơ tận thế.
Sau cậu không khóc mà lại tịnh khẩu, cứù
ngồi yên lặng ngắm bức tranh vợ như nhà sư nhập định rồi còn sai mua pháo đùng
về đốt ầm ầm khiến bao nhiêu tằm phải chết. Cậu bỏ rượu cả năm rồi lại uống nữa
cho đến khi Bá Nhỡ người quản gia trung thành đã chết thê thảm vì cây đàn ma
quỉ, Lãnh Út mới tỉnh cơn mê muội và chuyển tình thương yêu sang cho Bá Nhỡ.
“Lảo đảo, Lãnh
Út lắp bắp ấm ớ nói mê giữa một giấc chiêm bao không ngày tháng: Sau một cái tử
biệt, bây giờ ta phải tính đến một nỗi sinh ly khác. Đối với đàn hát từ bây giờ
ta nguyện làm một người điếc, một người cô đơn, một người phản bội. Và trên
vong linh Bá Nhỡ, ta thề độc là không bao giờ cầm đến một cái chén nào của cuộc
đời này”
Cái chết bất đắc kỳ tử của người vợ thân
yêu đã khiến cậu trở nên điên khùng mấy năm vì quá thương vợ, nay cái chết thê
thảm của Bá Nhỡ, một người quản gia trung thành với cậu đã tìm hết cách để đưa
cậu về đời, tục huyền với đời sống để rồi Bá phải bỏ mạng vì cây đàn ghê gớm
ấy. Bá đã khiến cậu Lãnh tỉnh mộng, tỉnh cơn điên và xót thương cho người quản
gia trung thành đã chết vì mình và bây giờ tình thương lại chuyển sang cho Bá
Nhỡ.
Bá Nhỡ có liên hệ một vụ giết người ở
dưới trung châu, bị kết án tử hình, vợ Lãnh Út đã đưa Bá về Mê Thảo đổi lại lý
lịch cho làm quản gia. Cảm cái ơn cứu tử của Lãnh nên Bá đã hết sức trung thành
ra sức cứu vãn ngày tận thế của ấp Mê thảo. Bá quán xuyến mọi việc sổ sách,
trồng dâu nuôi tằm. Không những thế Bá còn lo cho cậu Lãnh Út tỉnh cơn điên dại
vì thương cậu. Bá coi cậu như anh em ruột, Bá đã cứu vãn được ngày tàn của ấp
Mê thảo mà còn cứu người chủ nhân vì lòng trung thành, vì tình thương.
Bá hầu rượu cậu, bình văn ngâm thơ để làm
cậu quên mối sầu nhớ người thiên cổ, dựng nhà rạp, tìm gánh hát về múa hát cho
cậu giải khuây. Lòng thương của Bá thể hiện trong lời tự nhủ như sau.
“Còn
việc làm trong ấp, cái kén cái tơ, cái lá dâu, thuế má, công xá người làm, cậu
cứ mặc em tính liệu. Miễn là cậu đừng buồn. May ra ông giời mà thương lại, xui
cho cậu lại tục huyền với đời sống- đời sống nhiều khi cũng lại chỉ tượng trưng
bằng cái hình người đàn bà muôn năm!- Cậu lại tục huyền mà hồi dần lại với cuộc
đời cần lao như ngày cũ thì em này vui sướng đến đâu”
Cậu muốn được nghe cô Tơ hát, một ca kỷ
có tiếng, thế là Bá bèn lặn lội về tận quê tìm cô Tơ, hai ba lần năn nỉ cô lên
ấp không xong. Bá đã luyện lại tay tay đàn xuống tận quê Nhộn của cô Tơ, sai
người võng cậu Lãnh xuống để cậu cầm chầu, Bá sẵn sàng chấp nhận cái chết vì ôm
cây đàn của Chánh Thú.
“Thưa
Cô, tôi về ấp đã nghĩ kỹ rồi. Tôi sẽ đánh đúng vào cây đàn thờ dựng trong
buồng. Sự gì sẽ phải xảy ra cho tôi, tôi vui lòng chịu lấy. Cô không nên lo sợ
ái ngại gì cho tôi cả”
Bá thương cậu
như y như tình ruột thịt.
“Cậu Lãnh đãi
mình rất hậu. Đấy là cái ơn tri ngộ. Ta muốn trở nên một chút ánh sáng, ta muốn
trở nên một cái đốm lửa để làm bừng dậy trong lòng con người tê dại này”
Cô Tơ một goá phụ đoan chính, một danh
ca có tình thương và căn tu. Mặc dù Bá nài nỉ nhiều lần nhưng vì đã chót thề
giải nghệ nên đã không lên ấp Mê thảo hát cho cậu nghe. Cô quí trọng tài nghệ
của Bá Nhỡ, cảm thông cho lòng trung thành của hắn nên cũng đã cố sức cứu mạng
cho Bá: Một tối nọ cô nửa ngủ nửa mê thì chồng (Chánh Thú) hiện hồn về cho biết
một ngày rất gần đây sẽ có người đến nghe cô hát, cứ để hắn lấy cái đàn ở bàn
thờ mà gẩy, gẩy xong hắn sẽ lăn ra chết thế mạng cho ông dưới cung Thủy
Tinh để ông đầu thai lên dương thế.
Chánh Thú than đàn hát cho Diêm Vương trong mười vương phủ tối tăm khổ lắm.
Khi Bá Nhỡ đến nhà cô Tơ lần thứ ba, nhớ
ra giấc mộng hôm nọ, cô đã gắng công cứu mạng cho Bá như sau.
“Nếu mộng
triệu ứng vào người khách chơi đàn trên ấp Mê Thảo đang ngồi ngoài kia, thì tôi
muốn xin mình tha cho người ấy. Mình chờ đến người sau rồi hãy đầu thai lên lại
với cuộc đời bằng thịt bằng xương thật này. Cũng không lâu gì đâu . . . .
. Nhưng đến cái người ngồi ngoài nhà
kia thì tôi thấy không đang tâm. Tôi xin mình, mình chứng giám cho tấm lòng
ngay thẳng và thương người của vợ mình. Tôi gieo tiền, mình bằng lòng thì một
đồng sấp một đồng ngửa”
Tiền
khất đài một mặt bôi vôi, ba lần gieo xuống đĩa thì ba lần chỉ quay tít mà cười
rồi lăn ngửa cả ra đĩa, chứ không keo nào được cả. .”
Chánh Thú muốn đầu thai lên làm người đã
không tha mạng cho Bá, cô Tơ hoa mắt nghẹn họng y như ngồi trên đống lửa. Cái
gì phải đến đã đến, Bá Nhỡ chết vì cây đàn ma quái gây xuất huyết, cô Tơ oà lên
khóc thảm thương rồi vuốt mắt cho Bá Nhỡ.
Khi bọn lực điền khiêng xác Bá về Mê Thảo,
cô Tơ lẽo đẽo chạy theo. Một năm sau chùa Đàn đã được dựng lên tại Mê Thảo, cô
Tơ đã xuất gia thoát tục trầm mình trong cõi từ bi.
Khía Cạnh Nghệ Thuật – Chùa Đàn cũng là
một đoản thiên chan hòa nghệ thuật đàn ca của nền âm nhạc ả đào cổ truyền của
dân tộc. Nhà biên khảo Nguyễn Mạnh Đăng có viết.
“Những
đoạn văn như thế, phi Nguyễn Tuân, chắc không ai viết được. Bởi vì trong giới
cầm bút, ai sành sỏi được như Nguyễn Tuân về các ngón nghề của hát ả đào, của
cây đàn đáy, của chiếc trống chầu”
Hoặc Hoàng Như Mai đã viết.
“Với Chùa Đàn
Nguyễn Tuân còn tung phóng cái vốn kiến thức và cái tài dẫn truyện ở mức cao
hơn. Những trang tả từ thời tiết phong cảnh đến nghệ thuật đánh đàn, hát ả đào,
đến phong tục tín ngưỡng…. khiến độc giả say mê vì chất bác học và chất thơ
chứa đựng trong từng câu từng chữ”
Mặc dù là một truyện quái đản, ma quỉ
theo lối Liễu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh nhưng Nguyễn Tuân đã đưa vào tác
phẩm tất cả kiến thức của mình về thuật đàn hát của lối ả đào cũng như sự say
mê nghệ thuật của ông qua hình ảnh Bá Nhỡ, cô Tơ, Cậu Lãnh những người sành về
đàn hát, trống chầu. Nhất là Bá Nhỡ một tay đàn tài hoa đã đón người về luyện
lại tay nghề đã bỏ từ lâu rồi ôm đàn về quê tìm cô Tơ để đàn vài khúc cho cô
nghe thử một cách say sưa khiến cô phải cảm phục.
“Cô chưa hết
ngẩn ngơ thì cô đã phải chú ý đến ngón đàn khuôn của ông khách. Nh ững
chỗ buông bắt sao mà giống cái nghệ thuật ngày xưa của ông Chánh Thú
đến thế”
Bá đã được cô Tơ nói cho biết sự thật
ghê gớm về cây đàn đáy của Chánh Thú dựng bên bàn thờ, hễ ai cầm vào là phải
chết thế nhưng Bá vẫn quyết cầm đàn để rồi thác như con tằm nhả tơ.
“Nhả cái tơ
lòng ấy ra, đánh lên cái tơ ấy cho dội vang lên một giây phút của thời gian rồi
mà hết luôn với tất cả chung quanh”
Hoặc.
“Một người
uống để kéo dài đời mình ra bằng sự nhớ thương một cái bóng trắng. Một người
đánh đàn để càng cảm thấy rằng đời mình rồi sắp là cuộc đời của một sợi tơ do
tay mình cấu đứt….”
Phần kết thúc của Chùa Đàn là cảnh đàn
hát trống chầu của ba tay nghề ả đào, trúc tơ, tiếng đàn của Bá Nhỡ được mô tả
là ngậm ngùi hậm hực
“Nó nghẹn
ngào liễm kết cái u uất vào tận bên trong lòng người thẩm âm… nó là niềm vang
dội quằn quại của những tiếng chung tình”
Cuộc đàn hát đưa người về cõi chết cũng
là một sự biểu diễn nghệ thuật điêu luyện, Nguyễn Tuân đã trổ hết am tường của
mình vào buổi ca nhạc cuối cùng này. Độc giả tưởng như đang hoà mình tham dự
vào một buổi đàn ca không tiền khoáng hậu.
“Dưới mười ngón tay hoa múa dẻo quánh, tre
trúc bật nẩy lên vì thỏa thích. Đàn và hát dắt nhau mà lướt bổng. Cậu Lãnh Út
mềm tay roi, càng mê tơi đi vì tơ trúc ríu ran. Chưa hồi tỉnh cuộâc rượu của
ấp, Cậu lại tự bồi thêm trận rượu của đêm nhạc”.
Cậu Lãnh như đang ngủ cái giấc thôi miên
của âm nhạc dẫu cả cái vùng này có cháy nhà động đất cậu cũng chẳng hay. Phần
kết thúc Chùa Đàn là một tấn thảm kịch của đàn hát, Bá Nhỡ say sưa trong tiếng
đàn ca và cũng nhận ra mình đang chết dần mòn giữa tiếng nhạc, tiếng trúc,
tiếng tơ đánh lên để đưa Bá ngả dần về cõi chết.
“Có người tự
tử bằng mùi hoa ngát, có người tự tử bằng hơi nhạc”
Bá Nhỡ đàn, cô Tơ hát, Lãnh Út cầm chầu,
họ trổ hết tài nghệ trong buổi đàn hát chết người ghê rợn và chính Nguyễn Tuân
cũng đã trổ hết tài nghệ của ông để xây dựng, dàn cảnh cho buổi hòa nhạc tuyệt
diệu ấy.
Trong phần giới thiệu cuốn Yêu Ngôn,
Nguyễn Đăng Mạnh viết.
“Ai có được
cái máu nghệ sĩ đậm đặc và cái kho từ vựng giầu có và đầy giá trị tạo hình như
Nguyễn Tuân để mô tả cái tâm trạng ghê gớm dữ dội của một anh kép đàn tài hoa
quyết đem mạng sống của mình để đánh đổi lấy mấy giây phút điên rồ của cảm hứng
nghệ thuật, mấy giây phút chói ngời của anh hoa phát tiết, mấy giấy phút khoái
cảm tuyệt vời của cuộc giao hòa thiêng
liêng giữa những tâm hồn nghệ sĩ tri âm tri kỷ?....
Vâng, để viết được những trang như thế,
tôi cho rằng Nguyễn Tuân phải thật sự đắm mình trong thế giới nghệ thuật mà
mình sáng tạo nên”
Khía
Cạnh Quái Đản – Đây cũng là một đặc điểm chính của tác phẩm, Chùa Đàn đã
nằm trong số những truyện ma quỉ của Nguyễn Tuân, một chuyển hướng mới của ông
đi tìm cảm giác lạ. Đây là truyện quái đản cuối cùng của ông và phần lớn giá
trị của truyện dựa trên tính chất ma quái kinh dị.
Hoàng Như Mai có nói.
“Nhưng cũng
không ít độc giả, trong đó có cả những người mến phục Nguyễn Tuân, tỏ ra phân
vân, thậm chí có thể nói là hoang mang khi đọc Chùa Đàn. Tác giả kể một câu
chuyện có nhiều yếu tố hoang đường khó tin, hơn thế nữa, kinh dị, ma quái”
Những truyện ma quái thật ra không hẳn
là không có thật ở thế giới hữu hình. Có thể khó thấy ở nơi thị tứ náo nhiệt
đông người nhưng lại sẵn có ở nơi hẻo lánh xa xôi rừng thiêng nước độc Miên,
Lào vùng thượng du, rừng rú. Vả lại người sáng tạo nghệ thuật trong đề tài ma
quỉ không nhất thiết phải bị gò bó trong giới hạn nào. Nghệ thuật không hẳn
phải là tả chân hiện thực như ở Thạch Lam, Tô Hoài mà nó cũng có thể là hư cấu
hoặc được mang nhiều kịch tính.
Nguyễn Tuân đã trổ hết tài nghệ của ông
trong Chùa Đàn để cho truyện nhuốm mầu sắc quái dị ghê hồn, nhân vật, tình tiết
được bao trùm bằng một mầu ma quái như tiếng khóc của cậu Lãnh Út thương người
thiên cổ.
“Cậu
Lãnh khóc to dần mãi lên… Rồi tiếng khóc
vụt rống lên in hệt cái tiếng người rừng…
Cơn khóc rống đã đổi sang thành tiếng hú hồn. Gió hưu hưu trên nương
dâu, kéo lê thê những tiếng thảm rợn ấy xuống những vùng phụ cận thấp xa.”
Mê Thảo có một bãi tha ma chôn rượu gọi
là tửu phần, mả rượu. Trên các luống mả có những thẻ tre ghi ngày tháng từng
lứa rượu, cảnh đào rượu ban đêm không ngoài cái không khí quái đản của Chùa
Đàn.
“Cảnh
ấp, những đêm đào rượu chôn, trở nên quái đản. Khách qua đường đêm vắng tưởng
đấy là một vụ chôn của hoặc là đào mả trộm”
Nhân vật có nhiều cá tính: Bá Nhỡ trung
thành, nghệ sĩ tài hoa, Lãnh Út điên rồ vì thương người thiên cổ, cô Tơ có
tiếng hát như mọc cánh bay lên, Chánh Thú hồn ma chỉ chờ người thế mạng để đầu
thai lên cõi trần gian, và cả cây đàn của Chánh Thú cũng đã được mô tả bằng
những nét kinh dị, cầm đến là phải chết.
“Nguyên
cây đàn đó hình như có phù trú yểm bùa biếc gì ấy. Tang đàn làm bằng nắp ván
thôi cỗ quan tài một người con gái đồng trinh. Hồi còn mồ ma nhà tôi, cái đàn
ấy cũng đã sinh ra nhiều chứng lắm rồi. Về sau này, cứ vào những đêm tối giời…
nhất là vào những đêm áp ngày giỗ nhà tôi, thường cây đàn vẫn dở giời, thành đổ
mồ hôi cứ vã ra như tắm và thùng đàn phát lên những tiếng thở dài và vật mình
vật mảy với bức vách, cứ lủng củng suốt đêm”
Một tâm hồn giầu tưởng tượng như Nguyễn
Tuân khiến câu chuyện ngày càng trở nên kỳ ảo như rồng bay phượng múa đậm nét
ghê rợn với những tình tiết mà trong văn chương Việt Nam ít người nghĩ được.
Xây dựng nhân vật người kỳ dị, ông cũng dựng lên nhân vật hồn ma dưới cung Thủy
Tinh như Chánh Thú đàn hát cho Diêm Vương trong mười vương phủ tối tăm cực khổ muốn đầu thai lên dương thế, Chánh đã hiện về
nói cho cô Tơ biết sẽ bắt Bá Nhỡ xuống thế mạng cho y.
“Cô Tơ ngồi
hẳn dậy thì không thấy gì nữa. Và một điều lạ là trong buồng thờ lại có ánh
đèn, ai thắp?... . ba sợi dây tiểu dây trung dây đại ở đàn đáy kế tiếp nhau mà
cùng đứt. Một con đom đóm vờn bay trên cây đàn nhễ nhại mồ hôi. Trên nền tang
đàn gỗ ngô đồng, có những đốm lân tinh lập lòe. Cô Tơ lại gần nhìn thì mới biết
đấy là máu của dây đàn đứt. Đầu các dây còn rung lên, ruột sợi tơ rỉ tuôn ra
một thứ nước đặc sệt như máu con giời leo và xanh đục như ruột bọ nẹt.”
Và rồi khi Bá Nhỡ nâng chén độc ẩm tại
nhà cô Tơ qua hình ảnh một tội nhân sắp lên đoạn đầu đài mở đầu cho những cảnh
ghê rợn của của buổi đàn hát chết người.
“Bởi vì, chốc
nữa - chỉ một chốc nữa thôi – khi mà Bá Nhỡ cầm đúng cây đàn thờ ấy lên, hễ bắt
đầu sòng lên ba tiếng tức là ký vào một bản án tử hình đấy”
Cây đàn thì quái gở, tiếng đàn ngậm
ngùi, ngẹn ngào u uất y như cơn gió chẳng lọt kẽ mành thưa nhưng ghê rợn nhất
của đoạn kết của tác phẩm, cái chết oan nghiệt của Bá Nhỡ bị Chánh Thú gọi hồn.
“Trong
buồng Chánh Thú có tiếng cười sằng sặc ở sau cái bài vị. Bát gương bàn thờ sứ
chẻ dọc làm hai mảnh, tiếng nẻ toác to gọn như mắt tre nổ trong lửa. Hai mảnh sứ nhào lăn xuống nền
đất, kêu đánh xoảng. Riêng cô Tơ nhận thấy tiếng đổ vỡ này và hiểu nó là điềm
báo hiệu một điều linh thiêng gì. Qua cái màn mỏng nước mắt, người hát trừng
trừng vào người đàn. Bá Nhỡ vốn đã còm, giờ lại càng khô sút hẳn đi. Máu tuôn
ra nhiều quá, đánh đống quanh chỗ Bá Nhỡ như một khối hồng hoa.”
Máu tuôn từ năm đầu ngón tay qua những
tiếng đàn u uất và kết thúc bằng cái chết thê thảm của người tài hoa bạc mệnh.
“Máu tuôn đã
hết chất nồng và chỉ còn tỏa ra một mùi tanh nhạt.
Bá Nhỡ gục
vào đàn, nách cắp lấy thành đàn mà nhoài ra giường. Gỗ bục đêm và thân người
nhoài ra kia lạnh bằng nhau.
Phía sau gáy
Bá Nhỡ, vụt bay lên một con bướm đen loang lổ những chấm tròn hồng hoàng.
Tinh hồn Bá
Nhỡ đã xuất thoát ra kia đang ríu đôi cánh ốm rồi biến dần vào bóng khuya. Một
con châu chấu ma nổ ruột trên tim nến lả lay”
Thế là hết hẳn
ngân rung của chỉ đàn.
Điệu hát Hoà
Mã, chưa quá một phần ba”
Và rồi cây đàn Bá Nhỡ vùa buông ra cũng
nổ tan thành từng mảnh giữa tiếng khóc nức nở của cô Tơ. C ảnh ghê rợn cuối cùng của Chùa Đàn khi Bá
Nhỡ được dưa về mai táng tại Mê Thảo. Chủ ấp Lãnh Út đã cho khai quật gò rượu
và rồi nổi lửa đốt tửu phần.
“Sẵn
bó đuốc cháy, lãnh Út vứt luôn vào tửu phần khai quật. Gò rượu phát hỏa. Lửa
men khê nồng bốc lên liên tiếp. Cho đến hết canh ba mà ngọn lửa men rượu xanh
lè cũng chưa dịu ngọn. Đêm phóng hoả tửu phần, thảo mộc chim muông vùng Mê Thảo
bị một trận say lây. Cây cành cỏ lá đều miên man rũ rượu rầu nhũn. Thú ngàn
rống to lên như cảnh động rừng. Chim bị say, cánh cụp cứng lại mà lìa khỏi tổ,
rụng xuống đất như quả chín rời cành mẹ”
Có lẽ Nguyễn Tuân đã trổ hết tài nghệ
của mình, vận dụng hết trí tưởng tượng
để dựng lên hoạt cảnh buổi đàn hát, một tấn thảm kịch kết thúc một đời người
khiến ta không khỏi ngậm ngùi cho kiếp nhân sinh. Bá Nhỡ đã mang bản án tử
hình, cuối cùng Bá đã buông xuôi cuộc đời cho số mệnh khi nhất quyết ôm cây đàn
của Chánh Thú để tấu lên những bản nhạc định mệnh kết thúc đời mình.
Đoạn kết tấn thảm kịch diễn ra ngoài sức
tưởng tượng khiến ta có cảm tưởng như đang mơ màng không biết mình đang sống
trên dương gian hay nơi âm cảnh.
“Nhờ
thế ông đã có thể tạo ra được những cảnh tượng mà người đọc khó phân biệt được
là âm hay dương, là người sống hay người chết, là thế giới ông tưởng tượng ra
hay những điều ông tin như thế thật và nhìn thấy như thế thật”
(Nguyễn Đăng Mạnh – Lời giới thiệu cuốn
Yêu Ngôn.)
Nguyễn Tuân đã sống thật sự với hồn ma,
với các nhân vật quái đản của ông để đưa người đọc vào một thế giới ma quái cho
đến khi tấn thảm kịch đã kết thúc, ta vẫn tưởng như đang sống trong cơn ác mộng
không biết đâu là hư đâu là thực, là dương gian hay âm phủ. Về giá trị văn chương, đoạn kết tấn thảm kịch
đã đưa Chùa Đàn lên đến đỉnh cao của nghệ thuật, không còn gì cao hơn được.
PHẦN VIẾT THÊM
Chùa Đàn vừa đề cập trong phần trên là
tuyện ma quỉ viết năm 1945, nhưng sau cách mạng mùa thu, Nguyễn Tuân đã vẽ rắn
thêm chân vào tác phẩm để lập công với cách mạng. Ông đã viết thêm phần mở đầu
gọi là Dựng, phần kết gọi là Mưỡu Cuối, phần giữa tức truyện Chùa Đàn cũ đổi
tên thành “Tâm Sự Của Nước Độc”.
Toàn bộ cả ba phần kể trên làm thành
Chùa Đàn năm 1946, Nguyễn Tuân mở đầu tác phẩm bằng câu.
“.
. . Mày hãy diệt hết những con người cũ ở trong mày đi. . . mày phải tự hoại
nội tâm mày đi đã. Mày hãy lấy mày ra làm lửa mà đốt cháy hết những phong cảnh
cũ của tâm tưởng mày”
(Nguyễn)
Có nghĩa là tác giả thề sẽ tự lột xác,
tự hủy để trở thành con người cách mạng. Nhìn chung sau khi viết thêm phần Dựng
và Mưỡu Cuối Nguyễn Tuân đã chữa “lợn lành thành lợn toi”, Chùa Đàn đã trở thành một truyện đầu Ngô mình
Sở vì toàn bộ ba phần của tác phẩm hoàn toàn không có sự “kết hợp hài
hòa”.
Xin sơ lược phần Dựng.
Người kể truyện (tác giả) bị Pháp bắt
đi đầy một tỉnh phía tây, miền Bắc. Đây là một trại giam những người làm cách
mạng chống Pháp, ông chú ý đến một anh tù tên Lịnh mang số 2910, tượng trưng
cho những người trí thức say đắm với cách mạng, trại an trí V.B gồm toàn tù
chính trị Kinh, Thổ. Tù nhân có quyền mua bán thực phẩm do tiền người nhà gửi
lên, được viết, đọc họ tương đối có tự do.
Lịnh nhiều áo len, nhiều ngân phiếu ở ngoài
gửi vào, nhiều thư. Tết anh còn được người nhà gửi cho lịch, một củ thủy tiên,
mứt sen, trà mạn… Lịch đã trải qua nhiều
trại giam, đã từng tuyệt thực, vượt ngục, nhiều án chính trị nhưng anh vẫn
không sờn lòng. Tác giả có cảm tình với Lịnh, tìm cách gần anh. Một buổi trưa,
Lịnh mời tác giả uống trà dưới bếp, anh khuyên ông đừng ngủ trưa để tránh
bệnh… anh đưa thuốc cho ông uống, khuyên
nên giữ mình để sau này trở về hoạt động cho cách mạng.
Lịnh dạy ông học ngoại ngữ, anh đọc
sách, biên chép luôn tay. Mấy người lính gác nhờ Lịnh viết thư, anh sốt sắng
giúp họ, anh nghiên cứu kinh Dịch và đưa nó vào biện chứng pháp duy vật, Lịnh
hiểu biết rộng. Khi lao động ngoài bãi, làm việc xong anh chui vào bụi đọc
viết. Lịnh dư tiền, hay giúp đỡ anh em túng thiếu, anh em tù thường gửi mua
bánh ngọt, thuốc lá, trà tầu, xà phòng, gà vịt, rượu lậu… Lịnh chỉ mua giấy mực
để biên chép, anh giúp các bạn tù, dạy họ học, ít nói, anh thường tập thể thao.
Lịnh được cử đọc báo cho anh em, anh bình luận chính trị rất hay, tin tưởng vào
cách mạng. Tác giả coi Lịnh như anh cả, mỗi khi đi ra ngoài làm, ông xin lính
gác cho đi theo Lịnh, nhiều người tù uống rượu tiêu sầu, Lịnh không bao giờ
uống.
Trước đây tác giả la cà đắm đuối đàn
hát, chèo, ca Huế, cải lương… nhưng từ khi bị tù nay thì không còn nghĩ đến
nữa, viên đội coi tù biết Lịnh là tay tài hoa, biết làm bài hát nói. Một hôm
qua sông cắt cỏ, ông đội xin Tây cho anh em đi làm xa và có mời đào hát cho anh
em ăn nhậu vui chơi. Lịnh lánh mặt không tham dự nên buổi hát không thành hình.
Một hôm Lịnh kể cho tác giả chuyện hát ả
đào, hắn rành lắm, rồi đưa cho tác giả xem một truyện do hắn đã viết “Tâm Sự
Của Nước Độc”, (tức Chùa Đàn 1945) và như vậy nhân vật cậu Lãnh Út, chủ ấp Mê
Thảo, người đã say rượu điên đảo, mê hát ả đào bây giờ trở thành nhà cách mạng
Lịnh (người mang số 2910).
Đây là một sự lột xác giả tạo y như một
trò diễu. Trước thập niên 80 Chùa Đàn bị xếp vào loại duy tâm phản động nhưng
nay vì chính sách đổi mới tư duy, người ta đã đánh giá lại cho công bằng hơn,
ngay cả những nhà nghiên cứu trong nước như Nguyễn Đăng Mạnh ngày nay cũng phải
khó chịu về cái lối xám hối như trên.
“Rõ
ràng là nó nằm trong cái mạch văn xám hối, lột xác. Tuy chân thật nhưng cũng
không tránh khỏi bốc đồng một cách ấu trĩ của Nguyễn Tuân cũng như của nhiều
nhà văn tiền chiến khác trong buổi đầu đi theo cách mạng”
Nguyễn Đăng Mạnh cũng nói.
“Vừa giác ngộ
cách mạng được ít ngày, tác giả Yêu Ngôn, cũng như của Vang Bóng Một Thời,
Thiếu Quê Hương. . . làm sao đã có thể lột xác ngay được”
Nhà nghiên cứu xã hội chủ nghĩa còn phải
thấy cái giả tạo trơ trẽn của trò lột xác ấy.
“Chủ trương
của ông có phần trái qui luật, trái tự nhiên vốn là tình trạng chung của quan
niệm những người hoạt động trên lãnh vực văn hoá tư tưởng lúc bấy giờ. Ngày nay
nghĩ lại thấy cũng nông nổi thật! Việc gì mà phải diệt hết những con người cũ ở
trong mày đi”
Trong con người cũ, tư tưởng cũ cũng có
thiếu gì những yếu tố tốt cần được phát huy, gìn giữ.
Mưỡu Cuối.
Sau phần ruột, Nguyễn Tuân viết thêm
phần kết luận gọi là Mưỡu Cuối.
Xin sơ lược
Kính gửi sư thầy Tuệ Không.
Tác giả gửi thư cho nhà sư Tuệ không tức
cô Tơ nay đã xuất gia vào nơi cửa Phật. Tôi vào bụi lau đọc xong “Tâm Sự Của
Nước Độc” (tức Chùa Đàn viết 1945) do Lịnh viết xong năm 1932 trên một con tầu
bể sau khi bỏ ấp Mê thảo xuất dương làm bồi tầu đi làm cách mạng ngoài xứ, Tâm
Sự Của Nước Độc là quãng đời niên thiếu của Lịch lúc còn theo cá nhân chủ
nghĩa, hưởng lạc. Tập truyện hồi ký đã cho tôi nhiều rung động hiếm có. Ấp Mê
Thảo như một cái ngục tối, lính canh là rượu, hát, kỷ niệm, thương tiếc vợ đã
ra người thiên cổ, cái ấp nay những lạc thú ấy đã không giữ được Lịnh (Lãnh Út), thế mà Lãnh Út đã thoát ra.
Tôi nhìn Lịnh và cảm phục, một người đã
chìm nổi vì rượu chán ngấy tửu ca, nay Lịnh sợ rượu, ả đào hơn cả tù đầy của
thực dân Pháp. Lịnh đã đem tuổi trẻ cầm cố cho rượu. Lịnh đổi cái đối tượng của
mê mải, nay là tình nhân của cách mạng. Lịnh tặng tôi luôn tập truyện Tâm sự
Của Nước Độc để tôi nghiền ngẫm.
Bạch sư thầy Tuệ Không .
Cô Tơ chính là sư thầy Tuệ Không lúc
này, tác giả nói mình đã mãn tù đến nói chuyện với sư thầy: Xin thầy hãy gấp
cuốn Kinh Hoa Nghiêm lại mà luận định một thái độ với kẻ vô đạo này.
Phải chăng sư thầy nay muốn lấy cái mộc
mạc lặng lẽ thay cho cái xán lạn ồn ào ngày trước: đi tu, đi hát có khi nào
thầy nghĩ tới những người đã cung cấp cơm ăn áo mặc cho thầy không? như người
thợ mộc, thợ dệt, thợ nề? trước kia
thầy gõ cái phách ca hát bây giờ thầy gõ mõ. Cô Tơ đã đi tìm đến Chùa Đàn để tự
tử dần dần hay đi tu cũng thế. Cho đến nay sư thầy vẫn sống để nhai hạt lúa của
cuộc đời. Sư thầy ăn cơm không thịt không cá mà không có nợ với xã hội xung
quanh hay sao?
Đối với cuộc đời ta cần phải sòng phẳng.
Ông Phật nói diệt dục, nhưng ý thức cách mạng là dục vọng chính đáng sâu sắc,
rộng rãi mỹ miều, đi tu như sư thầy để diệt dục, ăn gạo của cuộc đời là trò lộn
sòng, đánh bạc gian. Đời sống nay còn lệch vẹo nhưng mai kia sẽ tươi đẹp hơn.
Sư thầy bỏ công cuộc kiến tạo chung để xây dựng hạnh phúc riêng cho mình, để
thành Phật một mình, đi tu như thế chẳng khác nào ăn cắp gạo vải của cuộc đời.
Tác giả khuyên cô Tơ phải sống, phải trở
lại cuộc đời, vứt bỏ cái mõ, vứt bỏ cuốn kinh trở lại nghề ca để đem tiếng hát
cho xứ sở cho nhân dân cho cách mệnh.
Như chúng ta đã biết nhân vật cô Tơ và
Tuệ Không là do tác giả dựng lên từ khi viết cuốn Chùa Đàn năm 1945, một cô Tơ
từ bi có lòng nhân đức, xót thương cho thân phận bi thảm của Bá Nhỡ đã phải
xuống Thủy Cung. Sau cô đã gửi thân nới cửa thiền môn thành nhà sư Tuệ Không
thế mà có gần một năm sau tác giả lại xỉ vả Cô Tơ, Tuệ Không bằng những lời lẽ
nặng nề nhất. Tại Chùa Đàn ông xây dựng Lãnh Út như một tên điên khùng, rồ dở
chống lại nền văn minh cơ khí và bây giờ lại hết lời tán tụng hắn qua hình ảnh
Lịnh, đã lột xác thành người đàng hoàng có đạo đức cách mạng.
“Nhưng sau cái
cái thời kỳ hỗn loạn của ấp Mê Thảo, giờ Lịnh là người tình nhân của cách mạng”
Và cô Tơ bây giờ trở thành thầy Tuệ
Không, một người ăn bám xã hội, đi tu để chối sự sống.
“Hoặc đi hát
hoặc đi tu, riêng trong hai việc mặc và ở dẫn ra đó, có lúc nào sư thầy nghĩ
đến những người đã cung cấp cho sư thầy những điều cần dùng hàng ngày ấy cho
thể xác không? Có lúc nào sư thầy nghĩ đến một người thợ dệt- dệt tơ dệt vải
cũng thế- một người thợ mộc thợ nề?”
Ông nói đi tu là ngồi ngoài rìa của sự
sống! Để nhai cái hạt lúa của cuộc đời tạo ra, ông nói rằng những người xuất
gia như thầy Tuệ Không là đánh bạc gian.
“Còn có dục
vọng nào chính đáng sâu sắc rộng đẹp bằng ý thức cách mệnh... vậy mà có những
pho sách gỗ in đã bảo sư thầy nên diệt hết những dục vọng cao quí ấy đi để rồi
chạy theo một bóng hạnh phúc ở chỗ huyền ảo nào. Ấy thế rồi sư thầy mặc áo thật
của cuộc đời, ăn gạo thật của cuộc đời để phản ngay đời sống bằng cái sống lộn
sòng như thế đấy”
Nguyễn Tuân kết án những người gửi thân
nơi cửa Phật thay vì tham gia vào công việc xây dựng chung khổng lồ, lại chạy
trốn cuộc sống đi tìm một mái chùa nếu có thành quả thì cũng chỉ là một cái tội
ích kỷ.
“...
Bỏ cái nhà mình đến ở một cái nhà của ông Phật để trở nên một ni cô, nghĩa là một
người ăn cắp gạo vải của cuộc đời”
Nếu nói như Nguyễn Tuân, những người đi
tu là ích kỷ, tìm cái hạnh phúc riêng cho mình, là ăn cắp cơm gạo của xã hội,
là cái trò đánh lộn sòng cuộc đời thì trên đời này không có gì được gọi là chân
thiện mỹ, thế giới tâm linh mà được gọi chung là duy tâm phản động.
Tất cả những tinh hoa của giáo lý, chân
lý, tất cả tinh hoa của nền văn minh tinh thần đã bị chôn sâu lòng đất. Con
người dưới lăng kính duy vật chủ nghĩa của tác giả chỉ cần thỏa mãn những nhu
cầu vật chất cơm ăn áo mặc, con người chỉ sống theo bản năng động vật và cũng
sẽ chẳng hơn gì con vật.
Ở Chùa Đàn năm 1945, Nguyễn Tuân đưa cô
Tơ vào chùa nương náu cửa từ bi để xuất gia thoát tục và bây giờ ông lại kêu
gọi cô Tơ vứt bỏ kinh kệ trở về nghề hát để phục vụ cách mạng.
“Hãy vứt bỏ
lại cái mõ, cầm ngay lấy đoạn trúc xưa mà hát lên một bài cho xứ sở, rung thêm
lên nữa với công cuộc đang sinh thành”
Hoặc.
“Lịch
sử đang chép những thanh âm của cô đấy và đánh giá tiếng hát cô ngang hàng hàng
với những nhát búa, nhát bay, tiếng gặt hái của tất cả một thời.
Cô
hát nhiều nữa lên. Lời đã có thời đại đặt hộ. Điệu cũng thế.
Cho tới ngày
nay, chưa có cuộc Cách Mệnh nào của con người mà bỏ được tiếng hát, cô Tơ
ạ”
Nguyễn Tuân đã xây dựng tô điểm, nhân
vật cô Tơ năm 1945 và bây giờ 1946 ông lại bôi bác, phỉ báng cái nhân vật ấy vì
ông đã lột xác, đã diệt hết con người cũ ở trong bản thân mình. Nhân vật cô Tơ
đã đi theo con đường duy tâm phản động, đi tìm hạnh phúc cho riêng mình thay vì
tham gia vào công cuộc xây dựng cách mạng to lớn. Thật chẳng khác nào tác giả
rủa nhân vật của mình cũng như chửi lại chính mình.
Thật đáng tiếc cho tác phẩm của Nguyễn
Tuân, cho một công trình văn nghệ có giá trị mà ông đã đóng góp cho văn hóa dân
tộc, trong phút chốc dưới sự đổi trắng thay đen, nó đã tiêu tan thành tro
bụi.
Tác phẩm đã được độc giả say mê thưởng
thức, tài nghệ của ông đã được bao người ngưỡng mộ mà chỉ trong chớp mắt nghệ
thuật và tài năng của ông đã bị chôn sâu đáy mộ.
Phải chăng chỉ vì Nguyễn Tuân quá sợ hãi,
quá khiếp nhược để rồi phải đổi trắng thay đen, phải uốn cái lưỡi không xương
nói ngược nói xuôi và kết án chính bản thân mình.
Thật đáng buồn cho ông, cho cái lối ngụy
biện, lý luận ngược đời của ông và thật không hiểu ông đã lầm đường hay cô Tơ
lạc lối?
Trọng Đạt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét