Ngày 9 Tháng 11. 2009 vừa qua, Âu Châu đã tổ
chức trọng thể lễ kỷ niệm 20 năm Bức tường Berlin sụp đổ. Lần này buổi lễ được diễn
tiến rầm rộ, qui mô, hơn hẳn so với lần kỷ niệm 10 năm trước đây, năm 1999, khi
dư luận Âu châu lúc đó còn đang bị thu hút bởi cuộc chiến Kosovo.
Hiện diện trong buổi lễ tại Berlin vừa rồi, người ta nhận thấy nhiều
nguyên thủ quốc gia, và đặc biệt là 3 nhân vật
đầu não khi Bức tường sụp đổ. Đó là Gorbatchev, Tổng Bí Thư cuối cùng của
Liên Sô, cựu TT. Mỹ Bush "bố", và cựu Thủ tướng Đức Helmut Kohl.
Dưới trời mưa tầm tã, hàng trăm
ngàn người đã tụ tập tại cổng Brandenburg của thủ đô Berlin để chứng kiến các nghi lễ. Đặc biệt
là cảnh tượng các con bài dominos khổng lồ lần lượt theo nhau đổ sập, tượng
trưng cho sự sụp đổ dây chuyền của các chế độ CS Đông Âu. Người có vinh dự được
khai mạc, đẩy con bài domino đầu tiên, là Lech Walesa, nguyên thủ lãnh công
đoàn Đoàn kết (Solidarnosc), được coi là người đầu tiên đã khởi xướng phong
trào Dân chủ tại Ba Lan.
Ngoài ra, dịp này báo chí quốc tế
cũng phát giác cho thấy một số sự kiện, chẳng hạn không phải các lãnh tụ Phương
Tây khi đó đều muốn Bức tường Berlin sụp đổ. Điển hình là các nhân vật
như Thatcher (Anh quốc), Mitterrand, Giscard (Pháp), và Brandt (Đức) … đều
không muốn thấy một nước Đức thống nhất, và thầm mong giới lãnh đạo Liên Sô
hành động để ngăn chặn điều này.
Nhân vật Gorbatchev
Nhiều người nhắc lại vai trò quan
trọng của Gorbatchev, cho rằng ông là người đã có công giựt sập đế quốc Đỏ tại
Đông Âu.
Tuy nhiên một số dư luận phương
Tây đã phân tích, và nhận định khá chính xác, khi cho rằng Gorbatchev cũng chỉ
là "nạn nhân" của một sự sụp đổ mà chính bản thân ông, chính thâm tâm
Gorbatchev không mong muốn.
Điểm lại tình trạng Khối Liên Sô tại
Đông Âu thời Chiến tranh Lạnh, trong thập niên 1980, để thấy những gì "phải
đến đã đến". Sau nhiều thập niên dưới chế độ "bao cấp" theo mô
hình CS, nền kinh tế đã suy sụp đến giai đoạn "hết thuốc chữa" . Lại
thêm nhiều năm chịu đựng các áp lực từ bên ngoài, là cuộc chiến hao mòn tại
Afghanistan, là chính sách cứng rắn bao vây của Mỹ thời Reagan, là cuộc chạy
đua vũ khí trên không gian tốn kém (Star Wars). Tất cả các sự kiện này đã gây sức
ép, đã làm Liên Sô "mất máu" trầm trọng, gây xuất huyết hiểm nghèo
cho Đế quốc CS, mà chẳng cần phải trực tiếp đụng độ, chiến tranh với Phương
Tây. Người dân dưới các chế độ CS thiếu thốn kinh niên đủ mọi thứ. Họ đã bất
mãn cùng cực, lại thêm việc họ ý thức, so sánh thân phận của mình với cuộc sống
sung túc của người dân Tây Đức, đang hàng ngày diễn ra, sát ngay bên cạnh. Các
hình ảnh tin tức thường xuyên từ Phương Tây tràn sang, qua truyền thanh truyền
hình mà các chế độ CS không cấm cản nổi.
(Ở đây mở dấu ngoặc để ghi nhận sự
lợi hại của truyền thông, thông tin, vũ khí sắc bén mà các thể chế độc tài rất
khiếp sợ, sẽ được nhắc lại ở đoạn sau)
Chưa ai quên cảnh tượng, khi bức
tường Berlin vừa sụp đổ, người dân Đông Đức được xổ lồng, thì hành động đầu
tiên là nhào tới các siêu thị Tây Đức để tìm mua nhu yếu phẩm ! Cần phục vụ dạ
dày, phục vụ nhu cầu của đời sống hàng ngày trước đã, trước cả các nhu cầu khác
về Tự do, về Dân chủ … !
Nhắc lại khi lên cầm quyền giữa thập
niên 1980 và nhận thức được tình trạng bi đát của Đông Âu lúc đó, Gorbatchev là
một trong số hiếm hoi các lãnh tụ CS hiểu rằng không thể tiếp tục con đường cũ.
Nhưng có lẽ ông ta còn phần nào ngây thơ, chưa giác ngộ hẳn. Gorbatchev còn ảo
tưởng rằng hệ thống Sô Viết có thể sửa đổi mà không cần thay thế. Tưởng rằng có
thể đem lại cho chế độ CS một bộ mặt nhân đạo hơn, có "nhân tính" hơn
! (như Phương Tây thường mô tả: le Communisme à "visage humain").
Để "sửa
sai", Gorbatchev cho áp dụng các chính sách Perestroika (cải tổ, đổi mới),
và Glasnost (minh bạch, trong sáng) ...
hy vọng cứu vãn tình hình. Nhưng ông ta quên một điều cơ bản là trước
đó, Stalin, Mao, và đám đàn em, sở dĩ đã duy trì được hệ thống CS trong nhiều
thập niên, là không dựa trên bất cứ chuyện gì khác ngoài sức mạnh của nòng
súng. Không có súng đạn xe tăng hỗ trợ thì các thể chế CS đã tất yếu phải tan
rã từ lâu.
Có lẽ người
CS duy nhất lúc đó đã hiểu rằng "CS chỉ có thể bị thay thế, không thể thay
đổi" là Boris Eltsin. Và ngày nay người ta đã quên vai trò quyết định của
ông ta, khi đứng trên xe tăng hô hào cổ động dân chúng Nga xuống đường, không
chấp nhận bọn quân phiệt Liên Sô đang nổi loạn, muốn tái lập trật tự CS bằng sắt
máu.
Còn
Gorbatchev, công trạng duy nhất của ông có lẽ là đã tuyên bố sẽ bỏ mặc các đàn em CS Đông Âu , không ra
lịnh đưa xe tăng sang giúp để dẹp loạn, khi dân chúng bất mãn nổi lên. Cả một
guồng máy độc tài vĩ đại tại Đông Âu, khi mất chỗ dựa sinh tử là vũ lực, đã "hụt
cẳng" và sụp đổ dây chuyền không thể cứu gỡ.
Phải công
nhận các thể chế CS "da trắng" có lẽ đã phần nào "nhân đạo"
hơn các đồng đảng « da vàng » của họ bên Á Châu, tại Thiên An Môn, nơi mà chỉ 7
tháng trước cùng trong năm 1989 đó, một Đặng Tiểu Bình đã sẵn sàng nghiền nát
trong máu lửa hàng ngàn sinh viên vô tội để cứu vãn chế độ.
Đám lãnh đạo
Trung C ộng này hiểu
rõ hơn ai hết là đối với Cộng Sản, chỉ có "độc tài hay là chết" , chứ
không thể "vừa làm Cộng Sản vừa có nhân tính" ! Sau này Trung C ộng, có Việt Cộng
theo đuôi, đã khôn ngoan không đi vào vết xe đổ của Liên Sô. Thay vào đó, để
thích ứng tình thế, họ đã biến thể Cộng Sản sang một mô hình khác để tiếp tục
cai trị. Đó là các chế độ Mafia Đỏ, vững vàng hơn !
Thành ra
trên khía cạnh nào đó, đám thủ lãnh da vàng Bắc Kinh đã khôn ngoan hơn các lãnh
tụ da trắng kiểu Gorbatchev. Với tâm địa thâm sâu quỷ quyệt của người Tàu, di
truyền từ đời Tần Thủy Hoàng, nhóm đầu não Bắc Kinh đã nhận định là không thể để
cho nhen nhúm phong trào Dân Chủ. Đối với họ, một thể chế CS "chân chính"
là phải triệt để độc tài sắt máu. Trong chế độ CS, không thể có chỗ cho một bộ
mặt "cởi mở, trong sáng", mang "nhân tính" như ảo tưởng của
Gorbatchev.
Vài nhận định
Quan sát sự
sụp đổ của hệ thống Sô Viết tại Âu Châu cho phép nhận diện được vài yếu tố đã
đóng vai trò quyết định trong việc giải thể các chế độ độc tài.
Thứ nhất
là các áp lực đến từ bên ngoài để bao vây kinh tế, quân sự ... Điều này trong
Chiến tranh Lạnh đã được phe Tự Do áp dụng hữu hiệu. Nhưng ngày nay, trong bối
cảnh toàn cầu hóa, người ta thấy không ai khác hơn, lại chính là các nước Tư Bản
Phương Tây, vì lợi nhuận kinh tế ngắn hạn, đang hà hơi tiếp sức cho các thể chế
độc tài như Trung C ộng, Việt
Cộng ...
Thứ hai là
sự tàn bạo của cấp lãnh đạo. Nhóm độc tài nào, dám bắn vào đám biểu tình, dám
giết dân lành để giữ vững chế độ, sẽ tồn tại lâu bền. Điểm này tại Liên Sô trước
đây, coi bộ đám thủ lãnh CS da trắng còn "run tay", chưa dám "hạ
quyết tâm", "nhất trí", chưa dứt khoát được như các đồng chí "da
vàng" của họ tại Bắc Kinh, tại Hà Nội...
Sau cùng,
yếu tố thứ ba, và cũng là quan trọng nhất. Đó là sự can đảm của người dân bị áp
bức, dám vùng lên đòi lại quyền sống cho mình. Người dân Đông Âu trước đây đã
chứng tỏ lòng can đảm này, và ngày nay họ xứng đáng được hưởng Tự do Dân chủ.
Sự can đảm
thường đi đôi với mức giáo dục, với việc ý thức được nỗi "nhục nhã"
khi mất Tự Do, mất các quyền cơ bản của con người. Nếu người dân vẫn cảm thấy "thoải
mái" với cảnh chim lồng cá chậu, không thấy "nhục nhã", thì có lẽ cũng khó khơi dậy lòng "can đảm"
!
Qua những
nhận xét về 3 yếu tố kể trên, hình như viễn ảnh cho Tự Do Dân Chủ không mấy sáng sủa cho trường hợp hai nước CS
còn tồn tại ở Á Châu là Trung Hoa và Việt
Nam.
Thật vậy,
tại hai nước này, người ta không trông đợi gì nhiều về những biến chuyển trong
phạm vi của hai yếu tố đầu. Còn lại yếu tố thứ ba có lẽ là niềm hy vọng duy nhất.
Khơi dậy lòng can đảm, khơi dậy sự ý thức, qua thông tin, qua truyền thông ...
là điều còn lại trong tầm tay, có thể làm được.
Cơ hội bằng
vàng là các phương tiện truyền tin điện tử, Internet hiện nay. Người Việt Nam
còn có thuận lợi hơn vì dùng Quốc ngữ bằng mẫu tự La-tinh. Biết quốc ngữ rồi từ
đó học, và đọc ngoại ngữ (cũng dùng Latin) dễ dàng hơn người Trung Hoa.
Các tư tưởng
về Bình đẳng,Tự Do, Dân chủ ... thường phát xuất từ Phương Tây, qua tin tức,
báo chí dùng mẫu tự Latin, được phổ biến dễ dàng hơn. Một số thức giả Phương
Tây đã nhận định rằng truyền bá những tư tưởng này vào khối dân hơn một tỷ người
Trung Hoa mà đa số
không đọc được ngoại ngữ, ngoài chữ "Nho" (Hán), là điều khó khăn vô
cùng.
Thành ra,
một cơ may cho Việt Nam là nhờ quốc ngữ mà mọi thông tin được quảng bá rộng rãi
hơn trong quần chúng. Người Việt hiểu thêm về thế giới bên ngoài, ý thức được sự
cần thiết phải phá bỏ các xiềng xích tại quê hương mình, để có kiếp sống xứng
đáng hơn. Số người ý thức càng đông thì ngày tàn của chế độ càng gần.
Cho nên
trên phương diện nào đó, chúng ta hy vọng 8 chục triệu người Việt sẽ chuyển mình sớm hơn 1 tỷ người Trung Hoa.
Thụy Sĩ, Tháng 11. 2009
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét