Nghiên cứu quá khứ

Học sử, đọc sử
            Tổng quát
            Khi còn là học sinh, sinh viên, người ta phải học sử. Nó có nghĩa là đọc, học và nghiên cứu sử, tùy lớp, tùy cấp. Nhiều người, sau khi thôi học, còn thích đọc sử.



            Sử là một lãnh vực nghiên cứu quá khứ của một người, một dân tộc hay toàn thể nhân loại. Đó có thể là một buổi “chuyện trò” với quá khứ, với tổ tiên ông bà, ca ngợi, vinh danh họ, thậm chí cả thờ phụng họ như một tôn giáo, và cũng có thể oán trách, chê bai, nếu như họ làm điều gì sai trái với chính họ, với tổ quốc, dân tộc. Sử có nhiều điều thích thú, hấp dẫn, nên dù ở thành phần nào, đẳng cấp nào, trình độ nào, người ta vẫn thích đọc sử. Các nhà chuyên về sử học, sử gia thì nghiên cứu.

            Ở cấp tiểu học, tới lớp ba, thầy cô giáo giới thiệu, tôi nói là giới thiệu chứ chưa hẵn là học, về di tích lịch sử ở địa phương, cùng với môn địa lý hình thể (mặt đất) về biển, đại dương, núi, đồi, eo biển, eo đất...

            Các anh chị - gọi là anh chị nhưng bây giờ cũng sáu bảy chục tuổi rồi cả đấy - ở Huế và miền trung khó quên sách lịch sử lớp nhì của cụ Trần Đinh, với những hình vẽ in kèm bài học của họa sĩ Phi Hùng. Nói như thế có nghĩa rằng khi lên lớp nhì, học trò phải học lịch sử hẵn hòi, về những nhân vật hay sự kiện lịch sử quan trọng. Lên lớp nhứt, năm cuối bậc tuổi học, học sinh học về lịch sử triều Nguyễn và Pháp xâm lăng nước ta.

            Những năm tôi còn học hai năm cuối bậc tiểu học, sách của cụ Trần Đinh chưa có. Thầy giáo phải tự soạn bài hay “bổn cũ soạn lại” của năm trước.

            Năm tôi thi tiểu học, câu hỏi về sử là việc  thất thủ thành Hà Nội lần thứ nhứt. Trong trận nầy, đại úy Francis Garnier bị giết ở Ô Cầu Giấy, tên phải viết trong bài thi là Francis Garnier chớ không phiên âm là Ngạc Nhi như các năm về sau.

            Tôi rất thích môn sử học. Ở đại học, tôi ghi danh học “chứng chỉ sử học”. Mười năm dạy học là mười năm tôi dạy môn lịch sử cùng với các môn Việt văn, Địa lý và Công dân Giáo dục.

            Vì nghề nghiệp, dĩ nhiên, tôi phải tìm đọc sách báo lịch sử. Tuy nhiên, các thầy giáo của tôi và các vị ưa thích đọc sử, nhiều vị có sách lịch sử trong tủ sách của họ. Tủ sách lớn của cụ Huỳnh Hữu Hiến, của anh Trần Hữu Tường ở Huế là nơi cho tôi thêm nhiều kiến thức về lịch sử đông tây.
            Như tôi nói, người học hay đọc sử, thấy nhiều điều hay, nhiều tư tưởng hay đẹp, thậm chí những thủ đoạn, tàn ác trong sách. Trong đó, người đọc sẽ thấy nhiều điều thích thú, bổ ích, mở mang kiến thức của chúng ta, cho chúng ta những kinh nghiệm của người xưa với từng cá nhân, với từng đất nước, từng dân tộc. Chúng ta biết ít nhiều về những cái nôi văn minh của nhân loại ở vùng Trung Đông, Bắc Phi. Cùng với sự phát triển của khoa học là sự bùng phát mạnh mẽ tư tưởng của Âu châu sau khi thoát khỏi những áp chế câu thúc của những thế lực lạc hậu và phản động châu Âu thế kỷ thứ 17. Cuộc cách mạng Mỹ năm 1776 đã lôi kéo theo nhiều cuộc cách mạng châu Âu đứng lên giành Tự do, Dân chủ. Trong hiện tại và tương lai, “Cách mạng Tự do Dân chủ” sẽ lan tràn khắp thế giới. Những quốc gia nào không có tự do dân chủ, tức là những nước độc tài, chuyên chế, sẽ trở thành “ốc đảo” trong thế giới ngày nay.

            Thế hệ người Việt lớn lên ở ngoại quốc không có cơ hội để học sử, đọc sử Việt Nam. Vì vậy, tôi cố gắng thu gom, tóm tắt, trích dẫn từ những tài liệu lịch sử đã có trước đây, như “Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca”, “Việt Nam Sử Lược”, “Việt Sử toàn Thư”... rút gọn phần nào cho thích hợp với khuôn khổ báo chí, trang mạng, tôi cũng viết thêm phần nhận xét mà khi còn làm giáo sư sử địa cấp trung học (cấp 2 và 3 bây giờ) giảng giải cho học sinh nghe biết, làm sáng tỏ thêm cái tinh hoa của người xưa, cũng như phê phán một vài hành động bất xứng của vua quan thời đó, mục đích là để làm kích thích tinh thần yêu nước của của các học sinh của tôi thời ấy, cũng nhu các bạn trẻ ở hải ngoại ngày nay.

            Xin nhớ rằng, bài nầy không hẵn là một tài liệu lịch sử theo cách viết của các sử gia, mà chỉ là bài viết lại, là một bài giáo khoa nên nó không thể đầy đủ.

            Nếu người nào đó muốn nghiên cứu sử học, xin tìm đọc các sách nói trên và nhiều sử liệu khác nữa, như các sách hiện xuất bản ở hải ngoại như các phẩm của ông Trần Gia Phụng.

            Các bạn học của tôi ngày trước ở trường Khải Định (sau nầy là Quốc Học), nhiều người yêu thích sử học, thay vì chỉ học bài giáo khoa của thầy cho thì họ lật “Việt Nam sử Lược” mà học thuộc lòng, khiến bạn đồng môn ngạc nhiên một cách thích thú. Những bạn học đó, ngày nay tôi còn nhớ tên như anh Trần Thành Tôn (dân Quảng Nam), anh Phan Văn Cẩn (dân Quảng Trị, anh rể ông Trần Gia Phụng), ông Trần Viết Ngạc, ông Hồ Viết Lê, nay còn ở trong nước.

            Đó là cách học sử, đọc sử kỷ hơn.

            Với thanh niên học sinh, sinh viên ở trong nước, học sử, đọc sử do sách của các giáo viên, sử gia trong nước viết ra, nhiều khi bị bóp méo khá nhiều, mất cả tính trung thực, nên các bạn hãy nhớ câu nầy: “Tận tín thư bất như vô thư” của Khổng Tử.

            Thực ra, tôi không tin mấy ở những người viết sử trong nước. Họ “giỏi” về “lịch sử đảng” hơn lịch sử dân tộc. “Bàn đá chông chênh dịch sử đảng” của Hồ Chí Minh chỉ là những thủ đoạn chính trị của Lê Nin, sự tàn ác của Staline, của Mao...

            Lịch sử, chỉ có ích khi nói lên được tinh thần, tinh hoa của một dân tộc, hơn là máu và nước mắt và gông cùm của dân tộc đó, chỉ đem lại sự oán thù.

Lịch sử Việt Nam

            Người học, đọc sử Việt Nam thấy hai điều khác thường thích thú trong lịch sử nước ta. Hai điều nầy thường đi đôi với nhau. Đó là lịch sử dai dẵng và kiên trì chống Tầu và những hậu quả của nó là những hình tượng, dã sử, cổ tích, ca dao rất đặc biệt mà lịch sử các dân tộc khác trên thế giới ít khi có.

            Ví dụ:

Bên cạnh câu chuyện chống giặc Ân là hình ảnh và câu chuyện cổ tích cậu bé làng Phù Đổng, bên cạnh câu chuyện vua Thục mất nước là hình ảnh con chim quốc và những viên ngọc trai sáng đẹp sau khi nó được rửa với giếng trong Loa thành, v.v...

            Những câu chuyện lịch sử đó như thế nào và hình tượng đặc biệt của mỗi biến cố lịch sử đó là gì? Tác giả xin lần lượt trình bày từng câu chuyện và hậu quả của nó như sau:

Các câu chuyện lịch sử chống lại các nước phương bắc

và lịch sử chống Tầu

            “Phong kiến phương bắc” và Tầu

            Nói về lịch sử Tầu xâm lăng nước ta, các “sử gia” Việt Cộng không dám gọi là “người Tầu”, “nước Tầu xâm lăng” nước ta mà họ tránh đi (giống như ngày xưa gọi là “phạm húy”) mà gọi là “Phong kiến phương Bắc”.

            Đối với người Việt Nam, họ gọi điều mà các “sử gia” Việt Cộng gọi là “phong kiến phương bắc” là Tầu, người Tầu, nước Tầu. Đó là cách gọi đã có từ rất xưa, trong sách sử và trong cách nói thông thường. Đọc “Việt Nam Sử Lược” của Trần Trọng Kim, chúng ta thấy cụ thường dùng danh từ Tầu, ít khi gọi là Trung Hoa hay Trung Quốc.

            Danh từ Tầu không bày tỏ lòng kính trọng hay yêu mến, mà còn có ý coi thường, ghét bỏ hay vài khi thù hận nữa. Có khi người ta còn gọi là Ba Tầu, Chệt hay chú Ba (Tầu), thằng Ngô, chú khách hay chú Chệt với cái ý nghĩa thân mật một chút nhưng cũng là coi thường. (1)

            Việt Cộng không bao giờ dám dùng chữ Tầu hay chú Ba hay chú Chệt. Họ cũng không gọi là Trung Hoa như dân chúng nước Việt Nam Cộng Hòa trước đây. Họ gọi một cách kính cẩn là Trung Quốc, nó có nghĩa họ chấp nhận Tầu là nước lớn (quốc), ở giữa (trung), còn Việt Nam, theo cách nghĩ của Việt Cộng, là phiên ly, rào dậu, chư hầu của Tầu.

            Để giữ cái hòa khí, tôn trọng lẫn nhau, nhiều người bây giờ, Tầu cũng như Việt, đề ngị đừng dùng danh xưng Tầu, cũng như không gọi là Cao Miên mà xưa, đời nhà Nguyễn, còn gọi là Cao Man. Man đồng nghĩa với man di mọi rợ.

            Về danh xưng Tầu, tác giả sẽ xử dụng tùy trường hợp sau đây, có thể gọi là Trung Hoa chớ không gọi là Trung quốc bao giờ.

1)- Truyện Phù Đổng Thiên Vương:

            Sơ lược câu chuyện lịch sử:

            Đời Hùng vương thú 6, có giặc Ân bên Tầu sang đánh nước ta. “Giặc Ân, hùng mạnh lắm, không ai đánh nổi. Vua mới sai sứ đi rao trong nước để tìm người tài giỏi ra đánh giặc giúp nước. Bấy giờ ở làng Phù Đổng, bộ Võ Ninh (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh), có đứa trẻ xin đi đánh giặc giúp vua”, in vua đúc cho một con ngựa và roi sắt.

            Sứ giả về tâu vua, vua lấy làm lạ, nhưng nghĩ là thần nhân giúp mình, bèn cho đúc ngựa và roi sắt. “Khi ngựa và roi đúc xong thì đứa trẻ ấy vươn vai một cái, tự nhiên thành người cao lớn”, rồi đứa bé đòi mẹ nấu cơm cho ăn. Ăn bao nhiêu cũng không đủ, dân làng phải cùng nhau nấu thêm đem tới. Đứa bé ăn hết “bảy nong cơm, ba nong cà”. Ăn xong, đứa bé cầm roi nhảy lên ngựa xông vào trại giặc đánh đuổi chúng, đến nỗi gãy cả roi sắt, đứa bé phải nhỏ cả mấy bụi tre làm khí giới. Chỗ bụi tre đó, hiện nay ở làng Phù Đổng còn dấu tích.

            “Phá được giặc Ân rồi, cậu bé đi đến núi Sóc Sơn thì biến mất. Vua nhớ ơn, truyền lập đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là làng Gióng về sau phong là “Phù Đổng Thiên Vương” hay còn gọi là Thánh Gióng.
Nhận xét:

a)- Đời vua Hùng Vương thứ 6 là vào khoảng năm 1600 trước Công nguyên. Lúc đó phía Bắc sông Dương Tử là nhà Thương (1766-1122), còn gọi nhà Ân, là một nước nhỏ, cách nước Văn Lang khá xa, nên không thể đem quân xâm lăng nước ta được. Câu nói “giặc Ân ở bên Tầu” chỉ là cách nói thông thường về những cuộc xâm lăng nước ta từ phía bắc xuống.

b)- Bấy giờ Văn Lang dưới 18 đời vua Hùng Vương được thái bình thạnh trị, các vua Hùng không phải quá bận tâm về những cuộc xâm lăng. Vã lại, các nước vùng phía nam sông Dương Tử cũng chưa có khả năng xâm lăng và đô hộ Văn Lang.

Vì vậy, việc binh bị bình thường, không cần có những đạo quân lớn. Khi giặc Ân xâm lăng, vì không chuẩn bị trước nên vua Hùng Vương thứ 6 phải kêu gọi dân chúng giúp vua giữ nước.

c)- Câu chuyện cậu bé làng Phù Đổng chỉ là huyền sử, không thể xác thực hoàn toàn, nhưng qua hình ảnh cậu bé, ta thấy vài điều bổ ích sau đây.

- Người Việt là một dân tộc có tín ngưỡng, thường tin vào Trời. Hễ khi gặp khó khăn thì có Trời giúp. Trời sai “người nhà trời” xuống thác làm cậu bé để giúp người Văn Lang chống giặc. Vì vậy cậu bé được dân chúng phong làm “Phù Đổng Thiên Vương”.

- Biểu tượng thứ hai, dù được trời giúp, cậu bé vẫn là là hình ảnh tượng trưng cho sự đoàn kết của dân tộc. Đoàn kết gây sức mạnh. Sức mạnh của cậu bé chính là sức mạnh của dân tộc, từ dân tộc mà có. Đoàn kết và sức mạnh đó chính là từ “bảy nong cơm, ba nong cà”, bởi vì cơm, cà là thức ăn chính của người Việt. Cơm là do gạo mà ra, gạo lúa và cà là sản phẩm nông nghiệp chính của dân chúng. Cậu bé không lớn lên bằng cao lương mỹ vị.

Ở nước ta, chung quanh mỗi làng thường có lũy tre bao bọc. Tre là vật liệu dùng làm nhà nhưng nó cũng là thành lũy giữ gìn an ninh, chống ngoại xâm của người Việt. Cậu bé nhổ tre làm khí giới đánh giặc, điều đó nói lên tính đặc sắc trong cuộc sống của người dân quê Việt Nam chiếm hơn 80 phần trăm dân số.

2)- Nhà Thục Mất Nước. (257-208 Tr CN)

Tục truyền khi An Dương Vương xây Loa Thành, yêu quái quấy nhiễu, xây mãi không được. An Dương Vương lập đàn cầu khấn. Thần Kim Qui hiện lên giúp vua trừ yêu quái, lại cho An Dương Vương một cái móng rùa, để làm cái lẫy nỏ. Lúc nào có giặc thì đem cái nỏ ấy ra bắn một phát, nỏ bay ra hàng vạn mũi tên, giết giặc khiến chúng hoảng sợ phải bỏ chạy.

Nhờ có cái nỏ ấy nên Triệu Đà đánh không được An Dương Vương. Triệu Đà dùng kế, cho con là Trọng Thủy sang lấy Mỵ Châu là con gái An Dương Vương, giả làm hòa thân để do thám.

Trọng Thủy lấy Mỵ Châu, biết chuyện cái nỏ. Trọng Thủy làm cái lẫy giả thay vào nỏ thần rồi xin về nước thăm cha. Khi sắp chia tay, Trọng Thủy hỏi Mỵ Châu: “Tôi về, lỡ khi có giặc tôi biết tìm nàng như thế nào?” Mỵ Châu đáp: “Thiếp có áo lông ngỗng, hễ khi chạy về đâu, thiếp sẽ lấy lông ấy mà rắc dọc đường, cứ theo dấu ấy mà tìm!”

Sau khi Trọng Thủy về, Triệu Đà đem binh đánh Âu Lạc. An Dương Vương cậy có cái nỏ, không phòng bị gì cả. Đến khi giặc đến chân thành mới đem nỏ ra bắn. Nỏ thần không hiệu nghiệm nữa. An Dương Vương đem Mỵ Châu lên ngựa chạy về phía nam.

Chạy đến núi Mộ Dạ (Nghệ An) gần bờ biển, giặc còn đuổi gấp lắm, An Dương Vương mới khấn thần Kim Qui. Thần Kim Qui hiện lên nói: “Giặc ngồi sau lưng bệ hạ đấy!” Bấy giờ nhà vua hiểu ra, tức giận, rút gươm chém chết Mỵ Châu, rồi nhảy xuống biển tự tử. Sau An Dương Vương hóa thành con chim Quốc, dân gian thường gọi là con chim cuốc.

Trọng Thủy theo dấu lông ngỗng đi tìm vợ, đến núi Mộ Dạ, thấy vợ chết nằm đó, ôm xác vợ mà khóc, rồi đem an táng. Xong Trọng Thủy trở về Loa Thành, nhảy xuống cái giếng ở trong thành mà tự tử.

Hiện ở làng Cổ Loa có cái miếu thờ An Dương Vương. Trước miếu là cái giếng, tục truyền là Trọng Thủy chết ở đấy.

Khi Mỵ Châu bị giết, máu của cô chảy xuống biển. Những con trai ăn phải cái máu ấy, làm ra những viên ngọc trai. Ai lấy được ngọc ấy, đem về rửa với nước giếng Trọng Thủy tự tử ở Loa Thành, ngọc ấy sáng và đẹp thêm ra.

Nhận xét:

            Có hai ý nghĩa và biểu tượng đặc biệt về câu chuyện nầy:

            a)- Một là sự chung thủy trong tình yêu vợ chồng của Mỵ Châu - Trọng Thủy. Sống có nhau mà chết cũng có nhau, như chim uyên ương. “Tại thiên nguyện tác tỵ dực điểu, tại địa nguyện vi liên lý chi”, nôm na là “Chim liền cánh, cây liền cành.” Cái tham vọng của người cha đã giết chết hanh phúc của con.

            b)- Thứ hai là tình yêu tổ quốc, và tín ngưỡng người Việt: Thờ Trời, Trời sai thần Kim Qui xuống giúp Lạc Việt xây thành Cổ Loa tức là xây dựng đất nước.

            Tình yêu tổ quốc còn thể hiện ở con chim quốc. An Dương Vương chết rồi nhưng lòng nhớ nước còn mãi mới biến thành con chim cuốc, tên chữ gọi  là quốc. Quốc cũng là nước (quốc gia).

            Câu chuyện Thục Phán chết hóa thành con chim quốc đi sâu vào tình cảm yêu nước của dân Việt, thường được nhắc nhở nhiều lần trong văn chương. Con chim quốc thường kêu suốt đêm mùa hè, đến sáng thì vỡ cổ, máu chảy và chết. Đó là truyền thuyết.

Về truyền thuyết nầy, Xuân Diệu viết: “Hát vô ích, thế mà chim vỡ cổ, Héo tim non cho quá độ tài tình.” Tôi không hiểu tại sao Xuân Diệu viết “hát vô ích”. Tiếng con chim quốc nói lên lòng yêu nước đấy chứ. Vì vậy, Bà Huyệnh Thanh Quan viết khác đi, trong bài thơ Qua Đèo Ngang: “Nhớ nước đau lòng con quốc quốc.”

            Bài thơ “Quốc kêu cảm hứng” của Nguyễn Khuyến nói rõ và đầy đủ hơn:



                        Khắc khoải sầu đưa giọng lững lơ

                        Ấy hồn Thục đế thác bao giờ

                        Năm canh máu chảy đêm hè vắng

                        Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ



Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,

Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ?

Thâu đêm ròng rã kêu ai đó.

Giục khách giang hồ dạ ngẩn ngơ.



3)- Khởi thủy “Một ngàn năm nô lệ giặc Tầu:



Sử chép:

“Triệu Ai-Vương.

Mậu-Thìn (113 tr. Tây lịch) Triệu Minh-Vương mất, thái tử Hưng lên làm vua, tức là Triệu Ai-Vương, trị-vì được một năm.

Bấy giờ vua nhà Hán cho An-quốc Thiếu Quý sang dụ Nam-Việt về chầu. Thiếu Quý nguyên là tình-nhân của Cù-thị lúc trước, đến khi sang Nam-Việt gặp nhau, lại tư thông với nhau rồi dỗ-dành Ai Vương đem nước Nam-Việt về dâng nhà Hán.

“Khi Cù-thị và Ai-Vương đã định về Hán-triều, thì có quan tể-tướng là Lữ Gia, biết rõ tình-ý, can-ngăn mãi không được, mới truyền hịch đi mọi nơi nói rằng vua và Cù-thái-hậu sắp đem nước dâng cho nhà Hán; rồi Lữ Gia cùng mấy đại thần đem quân cấm-binh vào giết sứ nhà Hán, Cù-thị và Ai-Vương. Đoạn tôn Kiến Đức lên làm vua. Kiến Đức là con trưởng của Minh Vương, mẹ là người Nam Việt làm vua.



“Triệu Dương-Vương.

“Kiến Đức lên làm vua, tức là Dương-Vương. Dương-Vương mới lên làm vua được độ một năm thì vua Vũ-đế nhà Hán sai Phục ba tướng quân là Lộ Bác Đức và Dương Bộc đem 5 đạo quân sang đánh lấy Nam Việt. Quan thái phó Lữ Gia chống cự không nổi, phải đem Dương Vương chạy. Quân nhà Hán đuổi theo bắt được, vua tôi đều bị giết cả.

            Năm ấy là năm Canh-Ngọ (111 tr. CN), nước Nam bị người Tàu chiếm lấy, cải là Giao chỉ bộ, chia ra làm 9 quận, và đặt quan cai trị như các châu quận bên Tàu vậy.



Nhận xét:

            Hành động bỉ ổi của vua Hán lợi dụng sự dâm dục của một người đàn bà để cướp nước Nam Việt.

Nhà Hán xâm lăng Nam Việt không dùng binh hùng tướng mạnh mà bằng mưu mẹo nhỏ nhen, mua chuộc sự dâm dục của một người đàn bà.

            Biết Cù thị góa chồng, thèm khát việc dâm dục, nên vua nhà Hán cho An quốc Thiếu Quí, giả đi sứ nhưng thực chất, anh ta là một tên “đĩ đực”, lén lút ân ái với Cù thị để rủ rê Cù thị đem đất nước của chồng mà sát nhập vào nhà Hán. Sự thỏa mãn dâm dục làm cho Cù thị vừa phản chồng vừa phản quốc!

            Người Tầu, đọc đoạn sử nầy, có vinh hạnh gì cho tổ tiên của họ trong hành động cướp nước hèn hạ nầy hay không?

            Trước kia, Triệu Đà đã cướp Lạc Việt của vua Thục mà sát nhập vào nước Nam Việt. Khi nhà Triệu mất nước, Lạc Việt phải cùng chung số phận. Một ngàn năm Bắc thuộc bắt đầu từ đó.



4)- Cột đồng Đông Hán tìm đâu thấy!



Sử chép:

            Bà Trưng quê ở Châu Phong

Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên

Chị em nặng một lời nguyền

Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân

Ngàn tây nổi áng phong trần

Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên

Hồng quần nhẹ bước chinh yên

Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thành

Kinh kỳ đóng cõi Mê Linh

Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta

Ba thu gánh vác sơn hà

Một là báo phục hai là Bá Vương

Uy danh động tới Bắc Phương

Hán sai Mã Viện lên đường tấn công

Hồ Tây đua sức vẫy vùng

Nữ nhi địch với anh hùng được sao!

Cẩm Khê đến lúc hiểm nghèo

Hai Bà thất thế cùng liều với sông!

Trước là nghĩa, sau là trung

Kể trong lịch sử anh hùng ai hơn.

 (Đại Nam quốc sử diễn ca)



Nhận xét:

            Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (năm 40 sau CN) cho ta thấy được gì?

            Thứ nhứt là vai trò của người phụ nữ trong xã hội Lạc Việt. Ngoài việc chăm lo đời sống thường nhật trong gia đình, ngoài những “công dung ngôn hạnh” thì đối với đất nước, dân tộc, người đàn bà cũng không kém gì đàn ông. Tục ngữ dạy: “Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh,”

            Đi trước xã hội Âu Mỹ hàng ngàn năm, - có người cho là nước ta hồi đó còn ảnh hưởng chế độ mẫu hệ - người đàn bà Việt Nam đã đứng lên đảm nhận vai trò vì dân vì nước mà không cần khoe khoang, hô hào “nam nữ bình quyền và trách nhiệm”. Hai Bà Trưng khởi nghĩa năm 40 sau CN, mãi gần 1,500 năm sau, Pháp mới có Jeane D’Arc (1412-1431).

Bên cạnh đó, người đàn bà Tầu chỉ nổi tiếng như những “mỹ nhân” chứ không thể là “nữ anh hùng” (anh thư). Trong tứ đại mỹ nhân của Tầu thì có “Tây thi gái Việt” chỉ được cái tài, cái sắc đẹp để mê hoặc người đàn ông, góp phần cho vua Việt Câu Tiễn đánh thắng Ngô Phù Sai, trong cuộc nội chiến giữa Bách Việt với nhau.

 “Chiêu quân” thì chịu sang đất Hồ lấy chúa Thuyền Vu để vua Hồ bỏ việc xâm lăng nước Tầu.

Điêu Thuyền thì đem cái sắc của mình để xúi Lữ Bố làm tên phản phúc. Còn như Dương Quí Phi thì ngoại tình với An Lộc Sơn đẻ gây nên cảnh binh đao.

            Có lẽ người Tầu thấy xấu hổ về người Tầu của họ, về người đàn bà của họ, nên bóp méo lịch sử khi viết rằng họ đã bắt hai chị em Bà Trưng đem về bên Tầu.

            So với cái mưu mẹo của vua nhà Hán khi dùng Thiếu Quí hoặc với tứ đại mỹ nhân của Tầu, nhìn chung, họ có đáng gì với ý chí, khí khách của Hai Bà Trưng?

            Cái biểu tượng thứ hai là “thù nhà nợ nước” là câu nói thường nhật của người Việt. Nguyễn Trãi đưa cha là Nguyễn Phi Khanh lên tới ải Nam Quan rồi trở về lo việc “báo thù cho cha, rửa hận cho nước” thì dù sao Nguyễn Trãi cũng là người đàn ông.

            Đánh đuổi Tô Định là báo thù cho chồng, đuổi quân Tầu ra khỏi lãnh thổ, giành độc lập là rửa hận cho nước. Việc ấy tỏ rõ cái khí phách, can đảm và cao thượng của Hai Bà.

            Bên cạnh Hai Bà, còn bao nhiêu nữ tướng khác, như Thánh Thiện, Lê Chân, Thục nương (Bát nàn đại tướng), nữ tướng Bạch Hạc (Nàng Nội), Nga Sơn công chúa (Lê thị Hoa), Hồ Đề, Xuân Nương (chồng là Thi Bằng, em Thi sách), Nàng Quỳnh, Nàng Quế, Đàm Ngọc Nga, Thiều Hoa, Quách A, Vĩnh Hoa, Le Ngọc Trinh, Lê Thị Lan, Phật Nguyệt, Phương Dung, Nàng Quốc, Tam Nương, Quí Lan, Sa Giang, Đô Thiện,...

            Đất nước chúng ta có quá nhiều anh thư, không hơn nước Tầu có nhiều mỹ nhân nhưng chỉ để làm thú vui cho bọn vua chúa hay sao?

            Người Việt có lòng yêu nước mãnh liệt và sâu sắc. Sau khi Hai Bà mất rồi, Tầu chia nước ta thành quận huyện mà cai trị, lại còn dựng cột đồng, khắc mấy chữ “Đồng trụ chiết, Giao chỉ diệt”, có nghĩa là nếu đồng trụ bị đổ xuống thì người Giao Chỉ, tức là người Âu Lạc sẽ bị tận diệt. Theo truyền thuyết thì sợ dân tộc mình bị tiêu diệt,  mỗi người khi đi ngang đồng trụ, mỗi người bỏ một viên đá vào đó để giữ chắc đồng trụ, đến nỗi đồng trụ bị lấp mất, không ai còn biết đồng trụ nằm ở đâu, tìm cũng không thấy. Có  kẻ dự đoán ở Thanh Hóa, có kẻ cho là ở lưu vực sông Nhị hà.

            Hành động lấp mất đồng trụ nói lên cái ý chí yêu đất nước của người Việt, luôn luôn bảo vệ gìn giữ dân tộc mình.

            Những ai rắp tâm theo Tầu mà quên tổ tiên mình là người Việt Nam được sao? không thấy hổ thẹn hay  sao?

            Cái hổ thẹn ấy, nếu có, là ở phía người Tầu, kẻ tham lam, xâm lược, nó không ở phía một dân tộc biết yêu dân tộc mình, giữ gìn nó tồn tại được lâu dài.

            Bài thơ Trưng Vương của Hoàng Cao Khải sau đây, nói lên cái tinh thần ấy, sự xấu hổ ấy của người Tầu:

                                  

Tượng đá trời nam giãi tuyết sương

Ngàn năm công đức nhơ Trưng Vương

Tham tàn trách bởi quan gây biến

Oanh liệt khen cho gái dị thường

Liều với non sông hai má phấn

Giành cho nòi giống một da vàng

Cột đồng Đông Hán tìm đâu thấy

Chỉ thấy Tây hồ bóng nước gương





Ghi chú về bài thơ:

1)- Mã Viện đời Đông Hán khi đán thắng Trưng Vương, có dựng lên một cái cột đồng đề chữ: “Đồng trụ chiết, Giao chỉ diệt”.

2)- Tác giả nghĩ rằng Tây hồ tức là hồ Lãng Bạc, nơi Ha Bà

Trưng Vương tự tử khi xưa.



5)- Bà Triệu (Triệu Thị Chinh)

“Năm Mậu-Thìn (248), Ngô chủ sai Lục Dận sang làm thứ-sử Giao-châu.

Năm ấy ở quận Cửu-chân có người đàn bà tên là Triệu Thị Chinh khởi binh đánh nhà Ngô.

“Sử chép rằng bà Triệu là người huyện Nông Cống bấy giờ. Thủa nhỏ cha mẹ mất cả, ở với anh là Triệu quốc Đạt, đến độ 20 tuổi gặp phải người chị dâu ác nghiệt, bà ấy giết đi rồi vào ở trong núi. Bà là người có sức mạnh, có chí khí và lắm mưu lược. Khi vào ở trong núi Bà chiêu mộ hơn 1,000 tráng sĩ để làm thủ hạ. Người anh thấy thế mới can bà. Bà bảo rằng: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp đường sóng dữ, chém cá tràng kình ở bể đông chứ không thèm bắt chước người đời cúi đầu cong lưng để làm tì-thiếp người ta.”

“Năm Mậu Thìn (248) vì quan lại nhà Ngô tàn ác, dân gian khổ sở, Triệu quốc Đạt mới khởi binh đánh quận Cửu chân. Bà đem quân ra đánh giúp anh, quân sĩ của Triệu quốc Đạt thấy bà làm tướng có can đảm, bèn tôn lên làm chủ. Khi ra trận Bà cưỡi voi, mặc áo giáp vàng là Nhụy kiều tướng quân.

“Thứ sử Giao châu là Lục Dận đem quân đến đánh, Bà chống nhau với nhà Ngô được năm sáu tháng. Nhưng vì quân ít thế cô, đánh mãi phải thua, Bà đem quân chạy đến xã Bồ điền thì tự-tử. Bấy giờ Bà mới 23 tuổi.

“Về sau vua Nam Đế nhà Tiền Lý, khen là người trung dũng sai lập miếu thờ, phong là: “Bất chính anh liệt hùng tài trinh nhất phu nhân”. Nay ở xã Phú-điền, tỉnh Thanh-hóa còn đền thờ.



Nhận xét:

            Bà Trưng thì có “thù nhà nợ nước” Bà Triệu thì không có thù nhà, chỉ có nợ nước.

Hai chị em Bà Trưng thì muốn ngang bằng với đàn ông, làm việc thì hơn đàn ông. Bà Triệu muốn hơn cả đàn ông khi bà nói câu: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp đường sóng dữ, chém cá tràng kình ở bể đông chứ không thèm bắt chước người đời cúi đầu cong lưng để làm tì thiếp người ta.”

Đàn ông cũng còn khó có cái ý tưởng ấy, nói được câu ấy, huống chi Bà Triệu. Xem thế đủ biết cái ý chí của Bà Triệu cao lắm, lớn lắm. Bà nói và Bà đã làm.



Đầu voi phất ngọn cờ vàng,

Sơn thôn mấy cõi chiến trường xông pha

Chông gai một cuộc quan hà,

Dù khi chiến tử còn là hiển linh

(Đại Nam quốc sử diễn ca –

Phạm Đình Toái và Lê Ngô Cát)



Người đời ngưỡng mộ Bà, có câu nói:



“Ru con con ngủ cho lành

Để mẹ gánh nước rửa bành cho voi

Muốn coi lên núi mà coi

Coi bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng

Túi gấm cho lẫn túi hồng

Têm trầu mũi mác cho chồng trẩy quân”



            Chuyện Bà Triệu thu phục được con voi trắng một ngà:

Người dân ở thôn Cẩm Trướng thuộc xã Định Công còn truyền lại câu chuyện như sau: Vùng núi này có con voi trắng một ngà rất dữ tợn hay về phá hoại mùa màng, mọi người đều sợ. Để trừ hại cho dân, Bà Triệu cùng chúng bạn đi vây bắt voi, lùa voi xuống đầm lầy (vùng sông Cầu nầy ngày xưa còn lầy lội) rồi dũng cảm nhẩy lên cưỡi đầu voi và cuối cùng đã khuất phục được con voi hung dữ. Chú voi trắng này sau trở thành người bạn chiến đấu trung thành của Bà Triệu.

Tiếng tăm cô gái 19 tuổi trị voi rừng vang dội khắp nơi, càng thu hút thêm nhiều người đi theo Bà.

                                   (Theo Tùng Sơn)



Tùng Sơn nắng quyện mây trời,

Dấu chân Bà Triệu rạng ngời sử xanh.



Vịnh miếu Bà Triệu



Miếu tạc bia truyền lẫn khói nhang

Nghìn thu oanh liệt Triệu Kiều quang

Cờ vàng khởi nghĩa quân Ngô khiếp,

Voi trắng tung hoành giặc Lữ tan.

Khăn yếm những mong đền nợ nước,

Áo cơm bao quản gánh giang sơn.

Núi Bồ làm dấu ghi thiên cổ,

Máy tạo hưng vong cũng khó lường.



            Tranh Đông Hồ

            Ở miền Bắc, làng Đông Hồ là làng sản xuất tranh dân gian, dùng để đặt ở các miếu thờ, trang trí ngày giỗ tết. Làng có sản xuất tranh Bà Triệu cởi voi đi đánh giặc.



                       





6)- Nhà tiền Lý: Tinh thần tự chủ

Lý Nam Đế (544-548)

Năm Tân Dậu (541) là năm Đại Đồng thứ 7 đời vua Vũ Đế nhà Lương, ở huyện Thái Bình có một người tên là Lý Bôn, tài kiêm văn võ, thấy nước mình, trong thì quan lại Tàu làm khổ, ngoài thì người Lâm Ấp cướp phá, bèn cùng với những người nghĩa dũng nổi lên, đánh đuổi Tiêu Tư về Tàu, rồi chiếm giữ lấy thành Long Biên.

Lý Bôn, có người gọi là Lý Bí, vốn dòng dõi người Tàu. Tổ tiên ở đời Tây Hán phải tránh loạn chạy sang Giao Châu, đến lúc bấy giờ là bảy đời, thành ra người bản xứ. Khi chiếm giữ được đất Giao Châu rồi, ông sửa sang mọi việc, định lập nghiệp lâu dài.

Năm Giáp Tý (544), Lý Bôn tự xưng là Nam Việt Đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, niên hiệu là Thiên Đức, rồi phong cho Triệu Túc làm thái phó, Tinh Thiều làm tướng văn, và Phạm Tu là tướng võ.

Năm Ất Sửu (545) vua nhà Lương sai Dương Phiêu sang làm thứ sử Giao Châu, và sai Trần Bá Tiên đem quân sang đánh Nam Việt. Lý Nam Đế thua phải bỏ thành Long Biên chạy về giữ thành Gia Ninh (tỉnh Phúc Yên). Trần Bá Tiên đem quân lên vây thành Gia Ninh, Lý Nam Đế chạy về giữ thành Tân Xương, tức là đất Phong Châu cũ thuộc tĩnh Vĩnh Yên bây giờ.

Nhà Lương lại tiến lên đuổi đánh, Lý Nam Đế thấy thế mình yếu, chống không nổi, mới rút quân lên đóng ở động Khuất Liêu (thuộc đất Hưng Hóa), để đợi thu xếp được quân sĩ lại ra đánh. Được non một năm, Lý Nam Đế đem hai vạn quân ra đánh nhau với Trần Bá Tiên ở hồ Điển Triệt, lại thua. Lý Nam Đế bèn giao binh quyền lại cho tả tướng quân Triệu Quang Phục chống nhau với quân nhà Lương rồi trở về Khuất Liêu.



Cuộc khởi nghĩa của Triệu Quang Phục (Triệu Việt Vương)

Triệu Quang Phục là con quan thái phó Triệu Túc người ở Châu Diên (Vĩnh Yên) theo cha giúp Lý Nam Đế lập được nhiều công

Năm Mậu Thìn (548) Lý Nam Đế ở trong Khuất Liêu phải bệnh mất, sang năm sau Triệu Quang Phục ở Dạ Trạch được tin ấy bèn xưng là Việt Vương. Bấy giờ quân của Việt Vương đã sắp hết lương, mà mãi không phá được quân Tàu. May nhờ gặp lúc bên Tàu có loạn Hầu Cảnh, vua nhà Lương phải triệu Trần Bá Tiên về để người tì tướng là Dương Sàn ở lại chống cự với Triệu Quang Phục. Quang Phục mới thừa thế đem quân ra đánh phá quân Tàu, rồi về lấy lại thành Long Biên. (thành Thăng Long sau nầy)

Khi Lý Nam Đế thất thế chạy về Khuất Liêu thì người anh họ là Lý Thiên Bảo cùng với người họ là Lý Phật Tử đem quân chạy vào quận Cửu Chân, rồi bị quân nhà Lương đuổi đánh chạy sang Lào, đến đóng ở động Dã Năng, xưng là Đào Lang Vương, quốc hiệu là Dã Năng.

Năm Ất Hợi (555) là năm thứ 7 đời Triệu Việt Vương, Lý Thiên Bảo mất, không có con, binh quyền về cả Lý Phật Tử. Đến năm Đinh Sửu (557) Lý Phật Tử đem quân về chống với Triệu Việt Vương. Đánh nhau mấy trận không được, Phật Tử mới xin chia đất giảng hòa. Triệu Việt Vương nghĩ tình họ Lý, cũng thuận chia đất cho Lý Phật Tử.

Lý Phật Tử đóng ở Ô Diên (Hà Đông). Triệu Việt Vương đóng ở Long Biên, lấy bãi Quân Thần làm giới hạn (bãi ấy thuộc làng Thượng Các, huyện Từ Liêm). Triệu Việt Vương lại gả con gái cho Phật Tử để tỏ tình hòa hiếu với nhau. Nhưng Phật Tử vẫn có ý muốn thôn tính, bởi vậy bề ngoài tuy hòa hiếu, nhưng bề trong vẫn sửa soạn để đánh lấy Long Biên.

Năm Tân Mão (571), Phật Tử bất thình lình đem quân đánh Triệu Việt Vương. Triệu Việt Vương thua chạy đến sông Đại Nha (Nam Định), nhảy xuống sông tự tận. Người ở đấy cảm nhớ Triệu Việt Vương, mới lập đền thờ ở chỗ sông Đại Nha. Nay còn có đền thờ ở làng Đại Bộ, gần huyện Đại An.



Hậu Lý Nam Đế (571-602).

Lý Phật Tử lấy được thành Long Biên rồi, xưng đế hiệu, đóng đô ở Phong Châu (Vĩnh Yên), sai Lý Đại Quyền giữ Long Biên và Lý Phổ Đỉnh giữ Ô Diên. Trong khi Lý Phật Tử làm vua ở Nam Việt thì vua Văn Đế nhà Tùy nhất thống nước Tàu. Đến năm Nhâm Tuất (602) vua nhà Tùy sai tướng là Lưu Phương đem quân 27 doanh sang đánh Nam Việt.

Lưu Phương sai người lấy lẽ họa phúc để dụ Lý Phật Tử về hàng. Hậu Lý Nam Đế sợ thế không địch nổi bèn nghe theo.

Từ đấy đất Giao Châu lại bị nước Tàu cai trị 336 năm nữa.


Nhận xét:

            Kể từ cuộc khởi nghĩa của Lý Bí, dựng nên nhà Tiền Lý năm 544 đến năm Lý Phật Tử chịu đầu hàng là năm 602, tính ra là 56 năm. Thời kỳ nầy được xem như là thời kỳ chuẩn bị để người Việt giành lại quyền tự chủ.

            Phần khác, nhà Tùy đã cai trị bên Tầu, lại có sức mạnh, sau thời kỳ phân liệt và suy yếu đời nhà Lương, lại vì người Việt chưa thống nhứt, đoàn kết để có đủ sức mạnh chống quân thù.

            Triệu Quang Phục là người có khả năng nhưng vì sự phân hóa nội bộ, mặc dù ông cố giữ hòa khí bằng cách gã con gái cho Lý Phật Tử, nhưng vì lòng tham lam và sự hèn nhát của Lý Phật Tử, chẳng bao lâu người Tầu lại đặt nền đô hộ nước ta, bắt đầu thời kỳ người Tầu đô hộ lần thứ ba.

            Sau khi Lý Nam Đế qua đời, dân chúng lập đền thờ, để tỏ lòng tôn kính, dân chúng không gọi ông là Lý Bí mà gọi là Lý Bôn. Trái bí thì gọi trại ra là trái bầu.

            Đầm Dạ Trạch, chỗ Triệu Quang Phục đóng binh là nơi có tên trong truyện tình cổ tích giữa anh chàng đánh cá Chữ Đồng Tử và công chúa Tiên Dung, con gái vua Hùng Vương Thứ Ba. Đầm đó còn có tên là Đầm Nhất Dạ. Người Tầu, sau khi bị Triệu Quang Phục đánh thua nhiều trận, gọi ông là “Dạ Trạch vương” (Vua Đầm Lầy).

            Khi người Tầu suy yếu, ta nên nhân đó mà nổi lên chống lại họ. Khi chốngTầu, luôn luôn chúng ta phải đoàn kết. Đó là hai bài học quí giá chúng ta học được ở thời kỳ nầy



7)- Thời kỳ trước khi tự chủ: Những cuộc  khởi nghĩa

Mai Hắc Đế (722).

Năm Nhâm Tuất (722), Mai Thúc Loan ở Châu Hoan nổi lên chống lại quân nhà Đường.

Ông người huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh bây giờ, mặt mũi đen sì, khỏe mạnh. Ông chiêu mộ những người nghĩa dũng, chiếm đất Hoan Châu tự xưng làm vua, tục gọi là Hắc Đế.

Vua nhà Đường sai quân sang đánh Mai Hắc Đế. Mai Hắc Đế chống không nổi thua chạy, ít lâu sau thì mất. Nay ở núi Vệ Sơn, tỉnh Nghệ An, thành cũ của Hắc Đế vẫn còn dấu tích, ở xã Hương Lãm, huyện Nam Đường có đền thờ.



Bố Cái Đại Vương (791).

Năm Tân Tỵ (791) ở quận Đường Lâm tỉnh Sơn Tây bây giờ có Phùng Hưng nổi lên đánh chiếm giữ phủ thành, được mấy tháng thì mất. Quân sĩ lập con Phùng Hưng là Phùng An lên nối nghiệp. Dân ái mộ Phùng Hưng, lập đền thờ, tôn làm Bố Cái Đại Vương, (cha là bố, mẹ là cái, nghĩa là tôn kính ông cha mẹ).

Tháng 7 năm ấy, nhà Đường sai Triệu Xương sang đánh. Phùng An chống không nổi phải xin hàng.



Họ Khúc Dấy Nghiệp: Khúc Thừa Dụ (906 - 907)

Bấy giờ bên Tàu loạn lạc, giặc cướp nổi lên nhiều nơi. Ở Giao Châu, ông Khúc Thừa Dụ, quê ở Hồng Châu (thuộc Hải Dương bây giờ) nhân cơ hội ấy nổi lên chống lại quân Tầu. Vua Tầu sợ, phong cho Khúc Thừa Dụ làm Tiết Độ Sứ, năm sau ông mất, giao quyền lại cho con là Khúc Hạo.



Khúc Hạo (907 - 917)

“Khúc Hạo thay cha làm Tiết Độ Sứ, lập ra lộ, phủ, châu, xã, đặt quan lại, sửa sang việc thuế má, việc sưu dịch và lại cho con là Khúc Thừa Mỹ sang sứ bên Quảng Châu, kết hiếu với nhau, và để dò thăm hư thực.



Khúc Thừa Mỹ (917 - 923).

Năm Đinh Sửu (917) Khúc Hạo mất, truyền nghiệp lại cho con là Khúc Thừa Mỹ. Vua  Nam Hán sai tướng là Lý Khắc Chính đem quân sang đánh bắt được Khúc Thừa Mỹ.


Dương Diên Nghệ và Kiểu Công Tiện (931 - 938).

“Năm Tân Mão (931) Dương Diên Nghệ là tướng của Khúc Hạo ngày trước mới nổi lên, tự xưng làm Tiết Độ Sứ. Được 6 năm, Dương Diên Nghệ bị nha tướng là Kiểu Công Tiện giết đi mà cướp lấy quyền.



Nhận xét:

            Trước khi giành quyền tự chủ hoàn toàn, nước ta trãi qua một “thời kỳ loạn lạc”. Thực ra, có thể coi đó như là một thời kỳ “chuyển mình”, đề giành quyền hoàn toàn tự chủ.

Thời kỳ “chuyển mình” nầy bắt đầu năm 722 đến năm 938 sau CN. Năm sau 939, Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, đất nước không còn bóng dáng các người Tầu cai trị An Nam nữa.

Cuộc khởi nghĩa đầu tiên do Mai Thúc Loan lãnh đạo, tục gọi là Mai Hắc Đế vì da ông đen (Hắc có nhĩa là Đen). Cuộc khởi nghĩa của ông kéo dài không bao lâu vì lực lượng khởi nghĩa còn yếu. Tuy nhiên, dân chúng không quên ơn ông nên ông vẫn có đền thờ.

Tiếp nối công nghiệp của Mai Thúc Loan là cuộc khởi nghĩa của Phùng Hưng. Dân chúng gọi ông là Bố Cái Đại Vương, coi ông như cha mẹ.

Trong cách gọi nầy, chúng ta thấy có sự hình thành của chữ Nôm. Đại vương là tiếng Hán Việt. Bố (cha) Cái (mẹ) là tiếng Nôm.

Rõ ràng trong khi bị người Tầu đô hộ, người Việt đã có tinh thần độc lập trong việc xây dựng và phát triển ngôn ngữ của mình. Đó là tiếng Nôm, mặc dù khi đó, người Tầu muốn và đã có chính sách Hán hóa người Việt. Chính cái tinh thần độc lập đó là tinh thần “nước Nam là của người Nam” thể hiện qua tiếng Nôm. Nôm là Nam đọc trại ra.

Tiếng Nôm được phát triển mạnh cùng với tinh thần và nền độc lập của người Việt, bắt đầu đi vào văn chương (Văn chương chữ Nôm) vào đời nhà Trần.

Khi họ Khúc “dấy nghiệp” chính là lúc người Việt biết lợi dụng sự loạn lác bên Tầu, nước Tầu suy yếu đi để lật đổ họ.

Cuộc khởi nghĩa của Dương Diên Nghệ, có tướng giỏi là Ngô Quyền, chỉ là điểm kết thúc cuộc đô hộ kéo dài một ngàn năm.

8. Độc lập:

Ngô Quyền Phá Quân Nam Hán

“Tướng của Dương Diên Nghệ là Ngô Quyền, quê ở Đường Lâm, cử binh đi đánh Kiểu Công Tiện để báo thù cho chúa. Ngô Quyền làm quan với Dương Diên Nghệ. Dương Diên Nghệ thấy người có tài trí mới gả con gái cho, và phong cho vào giữ Ái Châu (Thanh Hóa). Khi được tin Kiểu Công Tiện giết Dương Diên Nghệ, Ngô Quyền liền đem quân ra đánh. Kiểu Công Tiện cho sang cầu cứu ở bên Nam Hán, Hán Chủ cho thái tử là Hoằng Tháo đưa quân đi trước, mình tự dẫn quân đi tiếp ứng.

Khi quân Hoằng Tháo vào gần đến sông Bạch Đằng, thì bên này Ngô Quyền đã giết được Kiểu Công Tiện (938), rồi một mặt truyền lệnh cho quân sĩ phải hết sức phòng bị, một mặt sai người lấy gỗ cặp sắt nhọn, cắm ngầm ở dưới lòng sông Bạch Đằng, xong rồi chờ đến lúc nước thủy triều lên, cho quân ra khiêu chiến; quân Nam Hán đuổi theo, đến lúc nước xuống, Ngô Quyền hồi quân đánh ập lại, quân Nam Hán thua chạy, bao nhiêu thuyền mắc vào cộc gỗ thủng nát mất cả, người chết quá nửa, Hoằng Tháo bị Ngô Quyền bắt được, đem về giết đi.

Hán Chủ nghe tin ấy, khóc òa lên, rồi đem quân về Phiên Ngung, không dám sang quấy nhiểu nữa.

Ngô Quyền, trong thì giết được nghịch thần, báo thù cho chủ, ngoài thì phá được cường địch, bảo toàn cho nước, thật là một người trung nghĩa lưu danh thiên cổ, mà cũng nhờ có tay Ngô Quyền, nước Nam ta mới cởi được ách Bắc thuộc hơn một nghìn năm, và mở đường cho Đinh, Lê, Lý, Trần, về sau này được tự chủ ở cõi Nam vậy.



Nhận xét:

            Đây là chiến thắng có ý nghĩa nhất trong lịch sử chống Tầu xâm lăng Đại Việt. Nó mở đầu thời kỳ tự chủ, kéo dài cho tới khi thực dân Pháp cai trị nước ta.

Người Tầu quen thói mạnh hiếp yếu, đông hiếp ít.

            Chiến thắng của Ngô Quyền chứng tỏ ngược lại, có hai điều rất đáng ca ngợi:

            - Một là tinh thần dân tộc, tinh thần tự chủ được phát triển “tinh thần chữ Nôm” ở giai đoạn trước: Nước Nam của người Nam.

            - Hai là sự chiến thắng của mưu trí. Ngô Quyền biết lợi dụng thủy triều lên xuống một ngày hai lần trên sông Bạch Đằng để dụ quân Nam Hàn vào chỗ đóng cọc để đánh tan chúng.

            Khi nghe thái tử Hoằng Tháo bị giết, vua Nam Hán khóc rống lên. Tiếng khóc rống nầy khôn chỉ vang lên trên sông Bạch Đang mà còn vang rộng tới bên Tầu, khiến người Tầu “cạch”, không dám dòm ngó đến phương Nam nữa.



9)- Phá Quân Tống:

Lê Đại Hành (980-1005)

Lê Hoàn là người làng Bảo Thái, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam bây giờ, làm quan Thập đạo tướng quân nhà Đinh. Nhân khi vua nhà Đinh còn trẻ tuổi, và lại có quân nhà Tống sang xâm, quân sĩ tôn Lê Hoàn lên làm vua, tức là Đại hành Hoàng đế.

“Vua Đại hành lên làm vua rồi sai sứ đưa thư sang nhà Tống nói dối là thư của Đinh Tuệ (Phế-đế) xin phong, có ý để nhà Tống hoãn binh. Vua nhà Tống không nghe, sai sứ sang trách Đại hành rằng sao được xưng đế, và lại nói rằng: “Nhà Đinh truyền tập đã ba đời, vậy cho Đinh Tuệ làm Thống-soái, Lê Hoàn làm phó. Nhược bằng Đinh Tuệ còn trẻ tuổi không làm được, thì Lê Hoàn phải bắt mẹ con Đinh Tuệ sang chầu Bắc triều, rồi sẽ phong quan tước cho Lê Hoàn”. Vua Đại hành biết mưu nhà Tống bèn không chịu và sửa sang sự phòng bị.


Phá Quân Nhà Tống

“Nhà Tống thấy vua Đại-hành không chịu nghe lời, bèn sai tướng đem quân sang đánh. Tháng 3 năm Tân-Tỵ (981) thì bọn Hầu Nhơn Bảo và Tôn Toàn Hưng tiến quân sang mặt Lạng Sơn, bọn Lưu Trừng đem thủy quân sang mặt Bạch-đằng-giang.

“Vua Đại hành đem binh thuyền ra chống giữ ở Bạch đằng. Quân nhà Tống tiến lên, thế mạnh lắm, quan quân đánh không lại, phải lùi. Bấy giờ lục quân của bọn Hầu Nhân Bảo sang đến Chi Lăng (thuộc Ôn Châu, Lạng Sơn), vua Đại hành sai người sang trá hàng để dụ Hầu Nhơn Bảo đến chổ hiễm bắt chém đi, rồi đuổi đánh quân nhà Tống chém giết được quá nửa, và bắt được hai người bộ tướng.

“Bọn Lưu Trừng thấy lục quân đã tan vỡ, vội vàng đem thủy quân rút về.

“Quân ta tuy thắng trận, nhưng vua Đại hành sợ thế lực không chống với Tàu được lâu, bèn sai sứ đem hai viên tướng bắt được sang trả nhà Tống và xin theo lệ triều cống. Vua Tống phong cho vua Đại hành làm chức Tiết độ sứ, sau phong Giao chỉ quận vương, rồi lại phong là Nam bình vương.

“Bấy giờ sứ nhà Tống thường hay đi lại, có khi vua Đại hành phụng chiếu mà không lạy, nói dối rằng đi đánh giặc ngã ngựa đau chân. Nhà Tống biết là nói dối, cũng phải làm ngơ.

 
Nhận xét:

            Trước khi đón khách, chúng ta nên dọn sạch nhà cửa.

            Trước khi đem quân chống lại quân Tầu, chúng ta nên dẹp loạn trong nước, củng cố đất nước, chuẩn bị cho chính mình trước. Đó là bài học lịch sử cho chúng ta ngày nay, ngay bây giờ.

            Có người phê phán hành động ngoại tình của thái hậu Dương Vân Nga. Thế chúng ta không nghĩ đến hành động bà lấy long bào mặc cho Lê Hoàn khi tướng sĩ tôn ông lên làm vua, để lãnh đạo đất nước trước họa xâm lăng cua nhà Tống.

            Cao hơn cái tình riêng của bà và ông Lê Hoàn, hành động biểu tượng đó của bà là biết đặt quyền lợi của đất nước, dân tộc trên cái tình cảm riêg tư mẹ con.

            Giả tỉ như Đinh Tuệ vẫn cứ là vua, dĩ nhiên, ông vua trẻ con đó không đủ sức chống lại quân xâm lược, và khi người Tầu đặt được nền đô hộ, thì liệu tính mạng của bà và con bà có được an toàn hay chăng?

            Hành động cứu nước của bà cũng là tự cứu cho bà và con bà vậy.

            Nếu đem sử cũ mà liên hệ đến tình hình bây giờ, ta thấy gì?

            Sở dĩ Đinh Tuệ phải nhường ngôi cho Lê Hoàn vì Đinh Tuệ không đủ khả năng làm vua, cai trị đất nước, nhất là lúc tình hình nước nhà đang bị đe dọa xâm lăng.

            Vậy đảng Cộng Sản Việt Nam bây giờ có đủ khả năng để lãnh đạo đất nước chống Tầu Cộng xâm lược hay không, hay họ đang chuẩn bị bán nước cho Tầu Cộng? Đinh Tuệ còn nhỏ, không đủ sức làm vua nhưng không bán nước cho Tầu. Cộng Sản VN tệ hơn thế, đã không đủ sức lãnh đạo đất nước (làm vua như Đinh Tuệ) mà còn bán nước nữa.

            Vậy thì tại sao không làm như tổ tiên chúng ta, phế bỏ Dziệt Cộng đi mới tính đến việc chống ngoại xâm được.

            Đó là những gì lịch sử dạy chúng ta!!!

           

10)- Nhà Lý phá quân Tống.

Năm 1075, Vương An Thạch tâu với vua Tống là Đại Việt bị Chiêm Thành đánh phá, quân còn sót lại không đầy vạn người, có thể dùng kế chiếm lấy được. Vua Tống sai Thẩm Khởi, và Lưu Di ngầm dấy binh người Man động, đóng thuyền bè, tập thủy chiến, cấm các châu huyện không được mua bán với Đại Việt.

“Vua Lý biết tin, sai ông và Tôn Đản đem hơn 10 vạn binh đi đánh. Quân bộ gồm 60.000 người do Tôn Đản tổng chỉ huy, cùng các tướng Thân Cảnh Phúc, Lưu Kỷ, Hoàng Kim Mãn, Vi Thủ An tập trung ở các châu Quảng Nguyên, Môn (Đông Khê), Quang Lang, Tô Mậu rồi tràn sang đánh các trại Vĩnh Bình, Thái Bình, Hoành Sơn, châu Tây Bình, Lộc Châu. Một cánh quân khác đóng gần biên giới Khâm châu cũng kéo tới đánh các trại Như Hồng, Như Tích và Đề Trạo, “quân ta tới đâu như vào nhà trống không người”.

“Lý Thường Kiệt chỉ huy 40.000 quân thủy cùng voi chiến đi đường biển từ châu Vĩnh An (Quảng Ninh) đổ bộ lên đánh các châu Khâm, Liêm; Tôn Đản vây châu Ung. Ngày 30 tháng 12 năm 1075, quân Nam tiến chiếm thành Khâm châu, bắt toàn bộ quan quân mà không phải giao chiến một trận nào. Ba ngày sau, 2 tháng 1 năm 1076, Liêm châu cũng thất thủ.

“Được tin hai châu Khâm, Liêm đã mất, nhà Tống rất hoang mang. Ti kinh lược Quảng Nam tây lộ vội vã xin viện binh: 20.000 quân, 3.000 con ngựa, thêm khí giới, đồ dùng và một tháng lương, và xin được điều động các dân khê động, tất cả lấy dọc đường từ Kinh đến Quảng Tây. Để điều khiển quân được mau chóng, ti ấy cũng xin dời đến thành Tượng, gần phía bắc Ung châu. 

“Triều đình Tống đối phó rất lúng túng. Vua Tống cách chức Lưu Di và sai Thạch Giám thay coi Quế Châu và làm kinh lược sứ Quảng Tây.

“Quân nhà Lý hoàn toàn làm chủ. Lý Thường Kiệt cho đạo quân ở Khâm và Liêm châu tiến lên phía Bắc. Đạo đổ bộ ở Khâm châu kéo thẳng lên Ung châu. Còn đạo đổ bộ ở Liêm châu tiến sang phía đông bắc, chiếm lấy Bạch châu, để chặn quân tiếp viện của Tống từ phía đông tới. Hẹn ngày 18 tháng 1 năm 1076, hai đạo quân sẽ cùng hội lại vây chặt lấy Ung châu.

Ung châu là một thành lũy kiên cố, do tướng Tô Giám cùng với 2.800 quân cương quyết cố thủ.

Đô giám Quảng Tây là Trương Thủ Tiết đem quân đến cứu. Lý Thường Kiệt đón đánh ở cửa ải Côn Lôn (Quảng Tây) phá tan được, chém Trương Thủ Tiết tại trận.

Tri Ung châu là Tô Giám cố thủ không hàng. Quân Đại Việt đánh đến hơn 40 ngày. Sau cùng quân Việt dùng hỏa công, bắn các chất cháy như nhựa thông vào thành, trong thành thiếu nước, không thể chữa được cháy. Cuối cùng quân Nam bắt dân Tống chồng bao đất cao đến hàng trượng để họ trèo lên thành. Ngày thứ 42, thành bị hạ, tướng chỉ huy Tô Giám tự thiêu để khỏi rơi vào tay quân Lý. Dân chúng trong thành không chịu hàng, nên bị giết hết hơn 58.000 người, cộng với số người chết ở các châu Khâm, Liêm thì đến hơn 100.000. Tuy nhiên quân Lý cũng tổn thất đến một vạn người và nhiều voi chiến.

Lý Thường Kiệt làm cỏ xong thành Ung, lại lấy đá lấp sông ngăn cứu viện rồi đem quân lên phía Bắc lấy Tân châu. Viên quan coi Tân châu, nghe thấy quân Nam kéo gần đến thành, liền bỏ thành chạy trốn. Mục tiêu hoàn thành, Lý Thường Kiệt cho rút quân về.



Phòng thủ sông Như Nguyệt

Do tiền đồn ở Ung châu bị phá tan, nhà Tống phải điều động thêm nhân lực và lương thảo để đánh Đại Việt.

Tháng 3 năm 1076, nhà Tống sai Quách Quỳ, Triệu Tiết, đem quân 9 tướng, hẹn với Chiêm ThànhChân Lạp sang xâm lấn Đại Việt, nhưng quân Chiêm Thành và Chân Lạp không dám tiến vào Đại Việt. Quân Tống lên đến 10 vạn quân, một vạn ngựa và hai mươi vạn dân phu, thế rất mạnh.

Lý Thường Kiệt dựa vào sông núi, các đèo hiểm trở, các sông rộng và sâu để phòng thủ. Về đường thủy, để chặn địch qua sông, quân Nam chỉ cần đóng thuyền ở bến Lục Đầu.

Các tướng lĩnh thuộc Man Động như: Nùng Quang Lãm, Nùng Thịnh Đức coi ải Hà Nội, Hoàng Kim Mãn và Sầm Khánh Tân giữ châu Môn, Vi Thủ An giữ châu Tô Mậu, Lưu Kỷ coi Quảng Nguyên khi quân Tống sang đã đầu hàng. Duy  phò mã Thân Cảnh Phúc giữ châu Quang Lang (Lạng Sơn) không những không chịu hàng mà còn rút vào rừng đánh du kích, giết rất nhiều quân Tống. Những tướng lĩnh này trước kéo quân qua đất Tống, đánh rất giỏi. Viên tri châu Quang Lang là phò mã, bị thua, bèn trốn vào trong rừng Động Giáp, rồi đánh du kích hậu phương quân Tống. Rình lúc bất ngờ đánh úp quân địch làm chúng rất sợ hãi”.

Quân Tống tràn xuống, tới phía tây bờ sông Phú Lương; trong khi đó, một cánh quân tách ra tới sông Cầu.

Vua Lý Nhân Tông sai Lý Thường Kiệt đem quân đón đánh, lập chiến lũy sông Như Nguyệt để chặn quân Tống. Sông Cầu rất quan trọng. Đằng sau sông, ở về phía tây có dãy núi Tam Đảo, là một cái thành không thể vượt.

Lý Thường Kiệt đem chủ lực chặn con đường từ  Vĩnh Bình đến sông Cầu

Để cản quân Tống qua sông, Lý Thường Kiệt sai đắp đê nam ngạc cao như bức thành. Trên thành, đóng tre làm giậu, dày đến mấy từng. Thành đất lũy tre, nối với dãy núi Tam Đảo, đã đổi thế sông Nam Định và bờ nam ngạn ra một dãy thành hào, che chở cả vùng đồng bằng Giao Chỉ. Thành hào ấy dài gần trăm cây số, khó vượt qua và nhưng lại dễ phòng thủ hơn là một thành lẻ như thành Thăng Long.

Thuỷ binh Tống do Hòa Mân và Dương Tùng Tiểu chỉ huy đã bị chặn đánh ngoài khơi lối vào Vĩnh An. Quân Tống có kỵ binh mở đường tiến công quyết liệt, có lúc đã chọc thủng chiến tuyến quân Nam tràn qua sông Như Nguyệt, nhưng quân Nam đều kịp thời phản kích, đẩy lùi quân Tống.

Lý Thường Kiệt còn dùng chiến tranh tâm lý để khích lệ tinh thần quân Nam chiến đấu. “Đang đêm, nghe tiếng vang trong đền đọc bài thơ ấy, quân ta đều phấn khởi. Quân Tống sợ, táng đảm, không đánh đã tan”.

Quân Tống tiến không được, thoái không xong, hao mòn vì chiến sự và khí hậu, không được thủy quân tiếp viện. Quân Nam lại tập kích, doanh trại của phó tướng Triệu Tiết bị phá, dù quân Tống giết được hoàng tử quân Nam là Hoàng Chân và Chiêu Văn.

Quân Tống 10 phần chết đến 6, 7 phần.

Lý Thường Kiệt biết tình thế quân Tống đã lâm vào thế bí, mà người Nam bị chiến tranh liên miên cũng nhiều tổn thất, nên sai sứ sang xin “nghị hoà” để quân Tống rút về. Quách Quỳ vội chấp nhận giảng hòa và rút quân.



Nhận xét:

            Bấy giờ tể tướng Vương An Thạch nhà Tống muốn áp dụng “Tân pháp”, bị nhiều người trong triều chống đối. Vương An Thạch khuyên vua nên đánh Đại Việt. Nếu thắng, sẽ giải quyết được mâu thuẫn trong nội bộ.

            Biết tin ấy, vua tôi nhà Lý ra tay trước, áp dụng chiến thuật 

“Tiên hạ thủ vi cường”

            Lý Thường Kiệt chiếm châu Khâm, châu Ung bên Tầu, làm chấn động triều đình nhà Tống. Lý Thường Kiệt giết sạch 58 ngàn dân thành Ung Châu.”

            Chiến công nầy có 2 ý nghĩa:

            - Một là chứng tỏ cho người Tầu thấy người Đại Việt không sợ người Tầu.

            - Thứ hai, việc tàn sát 58 ngàn dân trong thành châu Ung làm cho người Tầu thêm sợ Đại Việt, mất tinh thần khi sang đnáh phục thù, chưa đánh đã chạy. Người Tầu không đủ can đảm để lấy việc trả thù người dân thành Ung châu bị giết để lên tinh thần khi sang đánh nước ta.

            Lý Thường Kiệt là người đầu tiên dùng “tâm lý chiến” làm lung lạc tinh thần chiến đấu quân thù. Cứ đêm đêm nghe đọc bài thơ “Nam quốc sơn hà Nam đế cư”, quân Tầu thấy cái phi nghĩa của họ. Khi biết mình làm điều phi nghĩa, lại thêm sợ hãi vì chiến tranh thì họ còn đánh đấm gì nữa. Quách Quỳ không chịu giảng hòa cũng không được!

           

11)- Chiến tranh với Mông Cổ

Trong cuộc kháng chiến lần thứ nhất chống quân xâm lược Mông Cổ, Trần Thủ Độ có vai trò hết sức quan trọng.

“Tháng 12 năm Đinh Tỵ (tức tháng 1-1258), quân Mông Cổ, sau khi tiêu diệt nước Đại Lý (Vân Nam), đã tiến vào lưu vực sông Hồng. Thế giặc rất mạnh. Quân Đại Việt bị đánh lui, vua Thái Tông phải bỏ Thăng Long rút xuống phía nam. Vua ngự thuyền nhỏ đến thuyền em ruột là Thái úy Trần Nhật Hạo hỏi kế. Nhật Hạo lấy ngón tay chấm nước viết hai chữ “Nhập Tống” ở mạn thuyền, ý khuyên vua nên chạy sang nhờ vả nước Tống. Vua bèn rời thuyền đến hỏi Thái sư Trần Thủ Độ, Trần Thủ Độ trả lời:

- “Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo!”

“Vào lúc gay go nhất của cuộc kháng chiến, câu trả lời đanh thép ấy của ông đã giữ vững được tinh thần dám đánh và quyết thắng của quân dân Đại Việt trong cuộc phản công quyết liệt đánh vào Đông Bộ Đầu ngày 29-1-1258, buộc địch phải rút chạy về nước.


“Trần Thủ Độ xứng đáng được xếp vào hàng những nhân vật kiệt xuất, đi đầu trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước trong lịch sử dân tộc.



Sài Thung Sang Sứ An Nam

“Sài Thung, sứ nhà Nguyên đến kinh-thành, lên mặt kiêu-ngạo,cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương minh, rồi cho người đưa thư vào trách Nhân tông rằng: “Sao không xin phép triều-đình nhà Nguyên, mà dám tự lập, vậy phải sang chầu Thiên triều Hoàng đế”. Nhân tông sai quan đại thần ra tiếp. Thung không thèm đáp lễ; vua bày yến mời, Thung không thèm đến. Đình thần An nam ai cũng lấy làm tức giận.

“Vua dọn yến ở điện Tập hiền, mời mãi Sài Thung mới đến. Đương khi uống rượu, Nhân tông bảo Sài Thung: “Quả-nhân xưa nay sinh trưởng ở trong cung không quen phong thổ, không thể đi được”.

“Được mấy hôm Sài Thung về nước. Nhân tông sai sứ mang thư sang Tàu nói không thể sang chầu được.



“Trần Di Ái theo nhà Nguyên.

“Nhân tông sai người chú họ là Trần Di Ái và Lê Tuân, Lê Mục đi sứ. Nhưng Nguyên chủ không bằng lòng, quyết ý cai trị nước Nam, đặt quan liêu  thuộc để sang giám trị các châu huyện.

“Quan nhà Nguyên sang đến nơi, Nhân tông, đuổi về Tàu.

“Nguyên chủ thấy vậy giận lắm, bèn lập Trần di Ái làm An nam quốc vương, phong cho Lê Mục làm Hàn lâm học sĩ, Lê Tuân làm Thượng thư lệnh, và sai Sài Thung dẫn 1,000 quân đưa bọn ấy về nước.

“Sài Thung đưa bọn Trần di Ái đến gần ải Nam quan, có tin phi báo về Kinh đô. Nhân tông liền sai tướng dẫn một đội quân lên đón đường đánh lũ nghịch thần. Sài Thung bị tên bắn mù mất một mắt, trốn chạy về Tàu.


Thoát Hoan Sang Đánh Lần Thứ Nhất.

“Nguyên chủ thấy Sài Thung bị thương chạy về tức giận lắm, bèn sai con là Thoát Hoan, cùng Toa Đô, Ô Mã Nhi dẫn 50 vạn quân, giả tiếng mượn đường đi qua nước Nam sang đánh Chiêm thành.

“Quan trấn thủ Lạng-sơn do thám được tin ấy, sai người về Kinh đô phi báo. Nhân tông ngự thuyền ra sông Bình-Than hội các vương hầu bách quan lại bàn kế chống giữ.

“Trần quốc Tuấn và Trần khánh Dư quyết xin đem quân đi phòng giữ các nơi hiểm-yếu, không cho quân Mông Cổ sang nước Nam. Nhân tông ưng nghe lời ấy, phong cho Hưng đạo vương là Trần quốc Tuấn làm Tiết chế thống lĩnh mọi quân chống giữ với quân Nguyên.

“Trần quốc Tuấn truyền hịch cho các vương hầu hội hết quân sĩ tại bến Đông bộ đầu để điểm duyệt. Quân thủy và quân bộ hết cả thảy 20 vạn, sai Trần bình Trọng đem quân đi đóng đồn ở trên sông Bình Than, Trần khánh Dư đem quân ra giữ mặt Vân đồn  còn các tướng thì chia ra đóng các nơi hiểm yếu. Trần quốc Tuấn tự dẫn đại quân đóng ở Vạn kiếp để tiếp ứng.

Nhân tông nghe tin báo nhà Nguyên sắp sửa kéo sang Lạng sơn.

 “Thoát Hoan tiến binh sang. Nhân tông thấy vậy, lập tức cho triệu các bô lão dân gian hội tại điện Diên-Hồng để bàn xem nên hòa hay nên đánh. Các bô lão đều đồng thanh xin đánh. Vua thấy dân gian một lòng như vậy, cũng quyết ý kháng cự.

“Quân Nguyên chia ra làm hai đạo: một đạo do tướng Mông Cổ là Toa Đô đem 10 vạn quân từ Quảng-châu đi hải đạo sang đánh Chiêm Thành; còn Thoát Hoan thì kéo đại binh đến ải-quan,

“Thoát Hoan thúc quân kéo sang mạn Lạng sơn,

“Hưng-đạo-vương Trần quốc Tuấn phân binh giữ ải Khả-li và Lộc-châu còn mình thì tự dẫn quân đi đóng giữ núi Kì-cấp. Những chiến thuyền thì đóng ở Bái-tân giữ mặt thủy.



Trần Hưng Đạo Vương Quân Thua Về Vạn Kiếp

“Thoát Hoan thấy Hưng-đạo-vương giữ cả các nơi, liền tiến binh lên đánh núi Kì-cấp, ải Khả-lị và ải Lộc-châu. Quân hai bên đánh nhau ở núi Kì-cấp hai ba trận không phân thắng bại. Nhưng sau vì Khả-lị và Lộc-châu thất thủ, quân An-nam phải rút về ải Chi-lăng. Thoát Hoan dẫn đại binh đến đánh Chi-lăng, Hưng-đạo-vương kém thế, thua chạy ra bến Bái-tân, xuống thuyền cùng với bọn gia-tướng, là Dã Tượng và Yết Kiêu về Vạn-kiếp. Các tướng thu nhặt tàn quân dần dần cũng kéo về đấy cả.

“Nhân-tông nghe Hưng-đạo-vương thua chạy về Vạn-kiếp, liền ngự một chiếc thuyền nhỏ xuống Hải-đông rồi cho vời Hưng- đạo-vương đến bàn việc, nhân thấy quân mình thua, trong bụng lo sợ, mới bảo Hưng-đạo-vương rằng: “Thế giặc to như vậy, mà chống với nó thì dân- sự tàn-hại, hay là trẫm hãy chịu hàng đi để cứu muôn dân”.

“Hưng-đạo-vương tâu rằng: “Bệ-hạ nói câu ấy thì thật là lời nhân- đức, nhưng mà Tôn-miếu Xã-tắc thì sao? Nếu bệ-hạ muốn hàng, xin trước hãy chém đầu tôi đi đã, rồi sau sẽ hàng!”. Vua nghe lời nói trung-liệt như vậy, trong bụng mới yên.

“Hưng-đạo-vương chiêu-tập quân các đạo, hội tại Vạn-kiếp được hơn 20 vạn quân, thế lại nổi to. Bấy giờ Hưng-đạo-vương có soạn ra một quyển Bình-thư yếu-lược rồi truyền hịch khuyên-răn các tướng-sĩ.


Thành Thăng Long Thất Thủ

“Các tướng-sĩ được lời khuyên- răn ấy, ai nấy hết lòng luyện-tập, quyết chí đánh giặc, cho nên người nào cũng lấy mực thích vào cánh tay hai chữ “Sát Đát” nghĩa là giết quân Mông-cổ. Khi Thoát Hoan lấy xong các ải ở Lạng-sơn rồi, thừa thắng đánh xuống Vạn-kiếp, quân An-nam non thế, địch không nổi thua chạy, bao nhiêu chuyến thuyền mất cả. Quân Mông-cổ bắt được quân An-nam thấy người nào cũng có hai chử “Sát Đát” ở cánh tay, giận lắm, đem giết sạch cả, rồi kéo tràn sang mặt Kinh-bắc. Thoát Hoan thả quân cho cướp phá vùng Võ- ninh, Gia-lâm, Đông-ngạn rồi kéo về đóng tại bến Đông-bộ-đầu, Hưng-đạo- vương lập trại mé ngạn để phòng giữ. Thoát Hoan thấy phía nam ngạn sông Hồng-Hà có trại quân An-nam đóng giữ, mới sai quân lấy súng đại-bác bắn sang, phá tan cả các trại, quân-sĩ khiếp-sợ bỏ chạy hết sạch. Quân Mông Cổ bấy giờ làm cầu phao qua sông, kéo đến tận chân thành Thăng-long hạ trại.

“Hưng-đạo-vương rước xa-giá Thượng-hoàng và vua ra ngoài Thăng- long, để các tướng ở lại giữ thành. Đến khi Thoát Hoan vây đánh, hạ được thành, biết rằng Hưng-đạo-vương đã rước xa-giá xuống mặt nam rồi, liền sai tướng dẫn quân đi đuổi đánh.

Toa Đô Đánh Nghệ An

“Toa Đô là tướng đạo thứ hai quân Nguyên, đi đường bể sang đánh Chiêm-thành, đánh mãi không được. Toa Đô theo đường bộ kéo ra mặt Nghệ-an, hợp với quân Thoát Hoan để đánh An-nam.

“Thoát Hoan được biết tin ấy, liền sai tướng Ô mã Nhi dẫn quân đi đường bể vào tiếp-ứng cho Toa Đô để đánh tự mặt trong đánh ra, còn ở mặt ngoài thì chiến thuyền của nhà Nguyên chia ra giữ các bến đóng ở sông Hồng-hà từ Thăng-long xuống đến khúc sông Đại-hoàng.

Hưng Đạo Vương Đem Vua Về Thanh Hóa

“Bấy giờ Hưng-đạo-vương dẫn các tương hộ-vệ xa-giá xuống Thiên-trường, nghe Toa Đô từ vùng trong kéo ra, Hưng-đạo-vương tâu vua xin sai Thượng-tướng Trần quang Khải đưa binh vào đóng mặt Nghệ-an, giữ chặn đường hẽm, không cho Toa Đô ra, và sai Trần Bình Trọng ở lại giữ Thiên-trường cự nhau với quân Thoát Hoan, rồi rước xa-giá ra Hải-dương.

“Trần quang Khải vào đến Nghệ-an, chia quân phòng giữ, nhưng mà quân nhà Nguyên thế mạnh, đi đến đâu đánh tan đến đấy, lại có Ô Mã Nhi ở mặt bể đánh vào. Quang Khải đương không nổi, phải lui quân ra mặt ngoài.

“Khi quân Nguyên đến địa-phận Lạng Sơn thì có người thổ-hào ở đấy tên là Nguyễn thế Lộc và Nguyễn Lĩnh ở Thiên-trường, Trần Bình Trọng thấy quân nhà Nguyên đã đến bãi Đà-Mạc  liền đem binh ra đánh, nhưng chẳng may bị vây bắt.

“Quân Nguyên đưa Bình Trọng về nộp cho Thoát Hoan. Thoát Hoan biết Bình Trọng là tướng khỏe-mạnh, muốn khuyên-dỗ về hàng, thết-đãi cho ăn uống, nhưng Bình Trọng không ăn, dỗ dành hỏi dò việc nước, Bình Trọng cũng không nói. Sau Thoát Hoan hỏi rằng: “Có muốn là vương đất Bắc không?” Bình Trọng quát lên rằng: “Ta thà làm quỉ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc. Ta đã bị bắt thì có một chết mà thôi, can gì mà phải hỏi lôi-thôi!” Thoát Hoan thấy dỗ không được, sai quân đem chém.

“Thánh-tông thượng-hoàng cùng Nhân-tông và Hưng-đạo-vương nghe tin Trần Bình Trọng tử-tiết, ai nấy động lòng thương-xót.

“Hưng-đạo-vương thấy thế nguy-cấp lắm, bèn rước xa-giá ra Quảng-yên. Thuyền đi về đường sông Tam-chỉ sai một tướng dẫn chiếc thuyền rồng ra cửa bể Ngọc-sơn làm cho nghi tình quân giặc. Tướng nhà Nguyên là Lý Hằng và Khoan Triệt sai người do-thám biết thuyền ra Ngọc Sơn là giả, mới dẫn quân đuổi theo đến sông Tam-Chỉ, Hưng-đạo-vương rước xa-giá lên bộ đi đến làng Thủy-Chú rồi lại xuống thuyền ra sông Nam-triệu (tức Bạch-đằng-giang) rồi vào Thanh-Hóa. Bấy giờ quân Nguyên thế mạnh lắm, đóng khắp các nơi, từ vùng Bắc-Ninh, Thăng-Long, Thiên-Trường, chỗ nào cũng có quân đóng. Ở vùng Nghệ-An lại có Toa Đô, Đường Ngột Ngải, Ô Mã Nhi đánh ra. Nhân-tông kinh-hãi,

“Thượng-hoàng đêm ngày lo sợ. Nhà nước ngất-ngưởng nguy như trứng chồng. Bọn Hoàng-tộc là Trần Ích Tắc, Trần Tú Viên đều ra hàng cả. Chỉ có Hưng-đạo-vương phụng xa-giá đi, trèo non vượt bể, trải gió dầm mưa, thế lực tuy cùng, nhưng vẫn bền vững một lòng, tìm kế đánh giặc, lo liệu việc nước không rối sợ lúc nào.

Trận Hàm Tử Quan –

Trần Nhật Duật phá quân Toa Đô:

“Đạo quân của Toa Đô ở Chiêm Thành kéo ra lấy Nghệ An. Trần Quang Khải đem quân lùi ra mặt ngoài giữ các đường hiểm yếu. Toa Đô đánh mãi không được, mà lương thảo thì một ngày một cạn, bèn cùng với Ô Mã Nhi dẫn quân xuống thuyền vượt bể ra ngoài Bắc để hợp binh với Thoát Hoan. Trần Quang Khải được tin ấy, cho người về Thanh Hóa phi báo. Nhân-tông hội quân-thần lại hỏi kế, Hưng-đạo-vương tâu rằng: “Toa Đô tự Chiêm Thành trở ra, qua vùng Ô-Lý (Thuận-hóa), Hoan (Nghệ-an), Ái (Thanh-hóa), đường sá gập-ghềnh, quân-sĩ vất-vả, nay lại vượt bể ra Bắc, thì sức lực cũng đã mỏi mệt. Vậy nay nên sai một tướng nên ra đón đường mà đánh thì chắc phá được”.

“Nhân-tông nghe lời, sai Chiêu-văn-vương Trần nhật Duật làm tướng và Trần Quốc Toản làm phó-tướng cùng với tướng-quân là Nguyễn Khoái đem 5 vạn quân ra đón đường đánh Toa Đô ở mặt Hải-dương. Tháng tư năm Ất-Dậu (1285) Trần Nhật Duật ra đến Hàm Tử (thuộc huyện Đông An, Hưng Yên) thì gặp chiến thuyền của Toa Đô, Nhật Duật liền phân binh ra đánh. Quân Nhật Duật bấy giờ có bọn Triệu Trung là tướng nhà Tống sang xin tùng chinh, mặc áo đeo cung như quân nhà Tống. Đến khi giáp trận, quân Nguyên trông thấy bọn Triệu Trung, tưởng là nhà Tống đã khôi phục được nước Tàu, rồi cho quân sang cứu An Nam, đứa nào cũng sợ hãi bỏ chạy. Quân ta đuổi đánh, quân giặc thua to chết hại rất nhiều. Toa Đô phải lùi ra Thiên Trường.

“Trần nhật Duật thắng trận, cho Quốc Toản đưa tin về Thanh Hóa. Hưng đạo vương được tin mừng ấy, vào tâu với vua rằng: “Quân ta mới thắng, khí-lực đang hăng, mà quân Nguyên mới thua, tất cũng chột dạ. Vậy nên nhân dịp này mà tiến quân đánh Thoát Hoan để khôi phục Kinh thành”.

“Vua nghe lời truyền sắp sửa tiến binh. Sực có Thượng tướng Trần Quang Khải ở trong Nghệ An ra, xin đi đánh Thoát Hoan. Vua liền sai Quang Khải thu xếp quân sĩ để ra đánh Thăng Long và truyền hịch sai Trần Nhật Duật đóng quân giữ chặn đường không cho bọn Toa Đô kéo lên hợp với Thoát Hoan.



Trận Chương Dương Độ -

Trần Quang Khải khôi phục Thăng Long.

“Khi bấy giờ đại binh của Thoát Hoan đóng tại Thăng Long, còn chiến thuyền thì lại đóng ở bến Chương Dương, địa phận huyện Thượng Phúc.

“Trần Quang Khải với Trần Quốc Toản và Phạm Ngũ Lão đem quân từ Thanh Hóa đi thuyền vòng đường bể ra đến bến Chương Dương, sấn vào đánh chiến thuyền của quân Nguyên. Quan quân đánh hăng quá, quân Nguyên địch không nổi phải bỏ chạy. Quan quân lên bộ đuổi đánh về đến chân thành Thăng Long hạ trại. Thoát Hoan đem đại quân ra cự địch, bị phục binh của Trần Quang Khải đánh úp lại, quân Nguyên phải bỏ thành Thăng Long chạy qua sông Hồng Hà sang giữ mặt Kinh Bắc (Bắc Ninh).

“Trần Quang Khải đem quân vào thành mở tiệc khao quân. Đến khi uống rượu vui vẻ, Quang Khải ngâm bài thơ rằng:



Đoạt sáo Chương-dương-độ
Cầm hồ Hàm-tử quan
Thái-bình nghi nỗ lực
Vạn cổ thủ giang-san

Dịch nôm:


Chương-dương cướp giáo-giặc
Hàm-tử bắt quân thù
Thái-bình nên gắng sức
Non nước ấy nghìn thu



“Trần Quang Khải sai người về Thanh Hóa dâng biểu báo tin thắng trận. Vua Nhân-tông thấy quân thế đã mạnh, trong hai tháng đánh được hai trận, quân sĩ ai nấy đều nức lòng đánh giặc, bèn rước Thượng hoàng và cất binh mã ra đóng ở Tràng an (Ninh-bình).

Trận Tây Kết –

Tướng Nhà Trần Chém Toa Đô:

“Toa Đô đóng quân ở Thiên Trường xa cách Thoát Hoan hơn 200 dặm, cho nên chưa biết Thoát Hoan đã thua chạy về Bắc-Giang rồi, bèn tiến bình vào đóng ở sông Thiên-Mạc định để hợp sức với Thoát Hoan làm thế ỷ giốc. Được mấy hôm Toa Đô biết đạo tiền quân của mình đã bại trận, mà các bến thì chỗ nào cũng có quân nhà Trần án ngữ, mới lui về đóng ở Tây Kết rồi cho người đi dò xem quân Thoát Hoan đóng ở đâu.

“Quân An Nam từ khi đánh được trận Hàm Tử và trận Chương Dương rồi, quân thế phấn chấn lắm. Hưng-đạo-vương mừng rỡ, vào tâu với Nhân-tông xin một mặt sai Chiêu-văn-vương Trần Nhật Duật, hợp với Thượng- tướng Trần Quang Khải dẫn quân chặn các đường, không cho Thoát Hoan, Toa Đô đi lại thông tin với nhau, và một mặt xin tự tiến binh ra đánh Toa Đô, rồi đánh Thoát Hoan.

“Nhân-tông nghe lời ấy, cho Hưng-đạo-vương tùy ý mà sai khiến. Khi quân ra đến Tây Kết, Hưng-đạo-vương chia quân ra đánh trại quân Nguyên, và đặt phục binh để bắt Toa Đô.

“Quân ta đánh hăng quá, quân Nguyên không địch nổi, Toa Đô và Ô Mã Nhi đem binh lên bộ chạy ra mặt bể, nhưng bị quân An Nam vây đánh, Toa Đô trúng tên chết, còn Ô Mã Nhi thì tìm đường chạy vào Thanh Hóa, nhưng bị quân ta đánh đuổi ngặt quá, phải một mình lẻn xuống chiếc thuyền con chạy ra bể, trốn về Tàu.

“Khi các tướng thắng trận, đưa đầu Toa Đô về nộp, Nhân tông thấy người dũng kiện mà lại hết lòng với chúa, mới than rằng: “Làm bầy tôi nên như người này!” rồi cởi áo ngự bào đắp vào đầu Toa Đô, sai quan dùng lễ mai táng cho tử tế.

“Trận Tây Kết đánh vào tháng năm, năm Ất-Dậu (1285) quan quân bắt được quân Nguyên hơn 3 vạn người, và chiến thuyền khí giới không biết bao nhiêu mà kể. Hưng-đạo-vương được trận toàn thắng, mở tiệc khao thưởng ba quân, rồi lên đánh mặt bắc, để tiểu trừ Thoát Hoan.



Trận Vạn Kiếp –

Thoát Hoan Chạy Về Tàu

“Bấy giờ Thoát Hoan đóng quân ở Bắc Giang, nghe tin đồn Toa Đô tử trận, Ô Mã Nhi đã trốn về Tàu, quân binh tướng sĩ ai nấy đều ngã lòng cả.

Hưng-đạo-vương cũng biết cơ Thoát Hoan tất phải chạy, liền sai Nguyễn Khoái, Phạm ngũ Lão dẫn 3 vạn quân đi lên đường núi, phục sẵn hai bên rừng sậy ở bên sông Vạn Kiếp, để chờ lúc quân Nguyên chạy đến thì đổ ra đánh; sai hai con là Hưng-võ-vương Nghiễn và Hưng-hiếu-vương Úy dẫn 3 vạn quân đi đường Hải Dương ra mặt Quảng Yên, giữ chặn đường về châu Tư-minh; Hưng-đạo-vương tự dẫn đại quân lên Bắc Giang đánh quân Nguyên. Quân Nguyên thua chạy, Thoát Hoan dẫn đại binh chạy đến bến Vạn Kiếp, gặp bọn Nguyễn Khoái ra đánh, quân Nguyên mười phần tổn hại mất năm. Tướng nhà Nguyên là Lý Hằng bị tên bắn chết. Còn Thoát Hoan, Phàn Tiếp, A bát Xích, Lý Quán cố sức đánh lấy đường mà chạy. Sau thấy quân An Nam đuổi kíp quá, Thoát Hoan phải chui vào cái ống đồng để lên xe bắt quân kéo chạy. Về gần đến châu Tư Ninh lại gặp bọn Hưng-võ-vương Nghiễn và Hưng-hiếu-vương Úy đánh đuổi một trận nửa. Lý Quán trúng tên chết. Thoát Hoan, A Bát Xích và Phàn Tiếp chạy thoát về Tàu được.

“Thế là đại quân của Thoát Hoan lúc đầu mới sang lừng-lẫy bao nhiêu, bây giờ tan nát mất cả. Trong sáu tháng trời, từ tháng chạp năm Giáp Thân (1284) đến tháng sáu năm Ất Dậu (1285), quân An Nam đuổi 50 vạn quân Mông Cổ ra ngoài bờ cõi, chỉnh đốn giang sơn lại như cũ.


Nguyên Chủ khởi binh phục thù

“Hưng-đạo-vương Trần Quốc Tuấn phá được quân Nguyên rồi thì kéo quân về Trường-Yên, rước Thượng-hoàng và Nhân-tông ra Thăng Long. Bọn Thoát Hoan bại trận về Tàu, nghĩ khi đi thì thanh thế lừng lẫy bao nhiêu, khi về thì hao binh tổn tướng, lấy làm xấu hổ lắm. Định xin Nguyên chủ cho thêm binh mã sang đánh báo thù. Nguyên chủ thấy bọn Thoát Hoan bại trận về, giận lắm, muốn bắt chém cả,

“Nhà Nguyên truyền hịch cho ba tỉnh Giang Hoài, Hồ Quảng, Giang Tây tụ tập quân sĩ, định đến tháng tám thì cất quân noi đường châu Khâm, châu Liêm sang đánh nước Nam để báo thù.

“Nhân-tông nghe tin Nguyên-triều sắp sửa cất quân sang đánh An- nam, bèn vời Hưng-đạo-vương vào hỏi rằng: “Thoát Hoan bại trận trở về, chuyến này căm-tức định sang đánh báo thù, quân-thế hẳn to hơn trước, ta nên dùng kế gì mà chống lại được?” Hưng-đạo-vương tâu rằng: “Nước ta xưa kia, quân dân hưởng thái-bình đã lâu, không tập đến việc chiến-trận, cho nên năm trước quân Nguyên vào cướp còn có kẻ trốn-tránh theo hàng giặc. May nhờ có oai-linh Tổ tông, và thần võ của bệ hạ, đi đến đâu đánh được đến đấy, cho nên mới quét sạch được bờ-cõi. Còn như bây giờ quân ta quen việc chinh-chiến, mà quân nghịch thì đi xa mỏi-mệt. Vả lại thấy Toa Đô, Lý Hằng, Lý Quán tử trận, tất cũng chột dạ, quân tình đã sinh nghi sợ, hẳn không dám hết sức mà đánh. Cứ như ý tôi, thì chuyến này dù có quân Nguyên sang đây, ta phá cũng dễ hơn phe trước, xin bệ hạ đừng lo”.



Thoát Hoan sang đánh lần thứ Hai

“Sang mùa xuân tháng hai năm Đinh Hợi (1287) Nguyên-chủ kén lấy 7 vạn quân, 5 trăm chiếc thuyền, 6 nghìn quân Vân Nam và 1 vạn 5 nghìn quân ở bốn châu ngoài bể, sai Thoát Hoan làm Đại nguyên súy, đem hơn 30 vạn quân sang đánh nước Nam, Lại sai Vạn hộ Trương văn Hổ theo đường bể tải hơn 17 vạn thạch lương sang cấp cho quân sĩ.

“Qua tháng mười một, Thoát Hoan dẫn quân noi đường Châu Khâm, châu Liêm đến châu Tư Minh; sai bọn Trương Ngọc Lĩnh 2,000 quân coi việc chở lương thực, khí giới lại sai Trình Bằng Phi, Áo Lỗ Xích, mỗi người dẫn 1 vạn quân đi đường bộ; Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp suất lĩnh thủy quân đi đường bể, đều tiến sang An Nam.

“Quan trấn thủ ở biên-thùy phi báo về Thăng Long. Các quan xin tuyển thêm binh. Hưng-đạo-vương nói rằng: “Binh cốt giỏi, chứ không cốt nhiều, nếu nhiều mà không giỏi, thí dụ như Bồ Kiên có trăm vạn quân cũng không ích gì!”

“Nhân-tông sai Hưng-đạo-vương thống lĩnh các vương hầu, chia quân phòng giữ các nơi.

“Hưng-đạo-vương sai Trần Nhật Duật, Nguyễn Khoái dẫn 3 vạn quân lên giữ mặt Lạng Sơn; sai Trần Quốc Toản, Lê Phụ Trần dẫn 3 vạn quân và giữ mặt Nghệ An; tự mình thống đại quân ra giữ mặt Quảng Yên. Một mặt sai tiền quân lên gần châu Tư Minh chia ra đóng làm ba đồn: Sa, Từ, Trúc, để chống giữ quân Nguyên; một mặt sai tướng đem quân ra giữ chặt cửa sông Đại Than (thuộc Hải Dương) còn đại quân của Hưng-đạo-vương thì đóng lại núi Phù Sơn.

“Quan quân tuy đóng giữ như vậy, nhưng quân Nguyên thế to lắm, chống không nổi, phải rút về Vạn Kiếp; Thoát Hoan tiến lên chiếm giữ núi Phả Lại và núi Chí Linh, lập trại chống nhau với quân ta, rồi sai tướng là Trình Bằng Phi đem hai vạn lính đánh lấy đồn Vạn Kiếp, lại sai Ô Mã Nhi và A Bát Xích dẫn quân từ sông Lục Đầu đánh xuống sông Hồng Hà.

“Hưng-đạo-vương rút quân về giữ Thăng Long và sai tướng rước xa giá tạm lánh về Hám Nam.

“Nhưng sau khi bị bọn Ô Mã Nhi đuổi ngặt quá, Thượng-hoàng và Nhân-tông phải xuống thuyền ra bể đi vào Thanh Hóa. Ô Mã Nhi đuổi không kịp, đem quân trở về qua Long Hưng (Thái-bình) biết ở đấy có Thiên Lăng, là lăng tổ nhà Trần, bèn sai quân đến phá nát cả đi.

“Thoát Hoan đem binh mã tiến lên vây đánh Thăng Long không được, phải rút về giữ Vạn Kiếp, Chí Linh và Phả Lại, Hưng-Đạo đại-vương cũng tiến quân lên lập trại để chống với giặc.

“Nhân-tông thấy quân Nguyên đã lùi rồi bèn rước Thượng-hoàng ra Bắc.



Trận Vân Đồn –

Trần khánh Dư cướp lương của quân Nguyên.

“Quân Nguyên đóng mãi ở Vạn Kiếp lương thực sắp cạn, Thoát Hoan bèn sai Ô Mã Nhi dẫn thủy quân ra cửa bể Đại Bàng  đón thuyền lương của Trương Văn Hổ. Ô Mã Nhi đem thuyền đi đến ải Vân Đồn (Quảng-yên) gặp quân của Trần Khánh Dư chặn đường không cho đi. Ô Mã Nhi thúc quân đánh rát một trận, quân Khánh Dư thua bỏ chạy cả. Quân Nguyên kéo thẳng ra bể đi đón thuyền lương.

“Thượng-hoàng nghe tin thủy-quân ở Vân-đồn bại trận, cho sứ ra bắt Khánh Dư về hỏi tội.

“Khánh Dư từ khi thất trận, đang nghĩ kế phục binh thù, bỗng thấy sứ ra bắt, Khánh Dư tiếp sứ rồi nói rằng: “Tôi sai tướng-lệnh đành thôi chịu tội, nhưng xin khoan cho tôi một vài hôm, may mà tôi lập được công khác để chuộc tội chăng?”

“Được mấy hôm Ô Mã Nhi ra bể gặp thuyền lương của Trương Văn Hổ, lại đem quân trở vào đi trước dẹp đường. Trương Văn Hổ đem thuyền lương theo vào sau.

“Khánh Dư đồ rằng Ô Mã Nhi đã phá được quân ta, trong bụng hắn chắc rằng không còn ai ngăn trở gì nữa, cho nên mới khinh thường đem binh thuyền đi trước. Khánh Dư bèn nhặt nhạnh thuyền bè phục quân sẵn đợi thuyền lương của Trương Văn Hổ đến thì kéo ra đánh.

“Quả nhiên Trương Văn Hổ tải các thuyền lương vào cửa bể Lục Thủy Dương Khánh Dư đổ quân ra đánh. Văn Hổ địch không nổi, bao nhiêu thuyền lương bị quân của Khánh Dư phá cướp mất cả, và bắt được khí giới rất nhiều. Còn Trương Văn Hổ thì chạy xuống chiếc thuyền nhỏ trốn về Quỳnh châu.

“Khánh Dư thắng trận đưa thư về báo tiệp. Thượng-hoàng mừng rỡ, xá tội trước không hỏi, và bảo Hưng-đạo-vương rằng: “Quân Nguyên cốt trông cậy có lương thảo khí giới, nay đã bị ta cướp được cả rồi, thì thế nó không tràng cửu được nữa. Nhưng nó chưa biết tất còn đắc chí, vậy ta nên tha những quân bị bắt cho về báo tin với Thoát Hoan, thì quân sĩ của nó tất ngã lòng, bấy giờ mới phá rất dễ”.

“Hưng-đạo-vương tuân lệnh, cho quân Nguyên về. Từ đấy quân của Thoát Hoan xôn xao, có bụng muốn về Tàu, mà lương thực một ngày một cạn. Ô Mã Nhi từ khi ở ải Vân Đồn trở về, chờ mãi không thấy thuyền lương đến, bèn đem quân đến phá trại An Hưng rồi rút về Vạn Kiếp.



Trận Bạch Đằng Giang Ô Mã Nhi bị bắt

“Quân Nguyên từ khi thua trận Vân Đồn, lương thảo một ngày một cạn đi, Thoát Hoan muốn cho người về Tàu cầu viện và lấy thêm lương, Hưng-đạo-vương biết ý, sai tướng lên giữ núi Kỳ Cấp và ải Nữ Nhi ở mặt Lạng Sơn không cho người Tàu đi lại.

“Các tướng thấy vậy bèn vào bàn với Thoát Hoan rằng: “Quân ta đóng ở đây, thành trì đã không có, kho tàng lại cạn cả; và bây giờ là đang lúc hết xuân sang hạ, khí trời nồng nực, mà lại những chổ hiểm yếu đều mất cả, chi bằng hãy rút quân về, rồi sau sẽ liệu kế khác”.

“Thoát Hoan thấy quân thế của Hưng-đạo-vương mạnh lắm, chưa có thể phá được, bèn nghe lời các tướng, sai Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp dẫn thủy quân theo đường sông Bạch-đằng về trước. Còn mặt bộ thì sai Trình Bằng Phi, Trương Quân dẫn binh đi chặn hậu. Sửa soạn định vài hôm nữa thì rút về.

“Hưng-đạo-vương biết mưu ấy, bèn sai Nguyễn Khoái dẫn binh lẻn qua đường tắt mé sông thượng lưu sông Bạch-đằng, kiếm gỗ đẽo nhọn bịt sắt đóng khắp giửa giòng sông, rồi phục binh chờ đến lúc nào nước thủy triều lên thì đem binh ra khiêu chiến, nhử cho thuyền giặc qua chỗ đóng cọc. Hễ lúc nào nước thủy triều xuống thì quay binh lại hết sức mà đánh. Lại sai Phạm Ngũ Lão, Nguyễn chế Nghĩa dẫn quân lên phục ở ải Nội Bàng (thuộc Lạng-sơn) chờ quân Nguyên chạy lên đến đấy thi đổ ra mà đánh.

“Các tướng đi đâu đấy cả rồi. Hưng-đạo-vương tiến quân lên đánh giặc, sực nghe tin báo rằng Ô mã Nhi đã kéo quân về đến Bạch-đằng, Hưng đạo vương mới hô quân sĩ , trỏ sông Hóa Giang mà thề rằng: “Trận này không phá xong giặc Nguyên, thì không về đến sông này nữa!” Quân-sĩ ai nấy đều xin quyết chiến, kéo một mạch đến sông Bạch-đằng.

“Những chiến thuyền của Ô mã Nhi, Phàn Tiếp theo giòng sông Bạch Đằng, bỗng chốc thấy tướng nhà Trần là Nguyễn Khoái dẫn chiến thuyền đến khiêu chiến. Ô mã Nhi tức giận thúc quân xông vào đánh, Nguyễn Khoái liền quay thuyền chạy. Bấy giờ đang lúc thủy triều lên, mặt nước mênh mông, Ô Mã Nhi vô tình, thấy địch quân chạy, cứ việc thúc thuyền đuổi theo. Nguyễn Khoái nhử quân đi khỏi xa chỗ đóng cọc, rồi mới quay thuyền đánh vật lại. Hai bên đánh đang hăng, thì đại quân của Hưng-đạo-vương tiếp đến. Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp thấy quan quân to thế lắm, mới quay thuyền chạy trở lại. Khi chạy đến khúc sông có cọc đóng thì nước thủy triều đã rút xuống, thuyền của quân Nguyên vướng mắc phải cọc, đổ nghiêng đổ ngửa, đắm vở mất nhiều. Quan quân thừa thắng đánh cực hăng, quân Nguyên chết như rạ, máu loang đỏ cả khúc sông. Tướng Nguyên là Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ, Cơ Ngọc đều bị bắt cả.



Trận Bạch-đằng-giang đánh vào tháng ba năm Mậu-Tý (1288) lấy được chiến thuyền của quân Nguyên hơn 400 chiếc và bắt được quân sĩ rất nhiều.


Hưng Đạo Vương Đại Phá Nguyên Binh

“Thoát Hoan nghe tin quân thủy vở tan rồi, dẫn bọn Trình Bằng Phi, A Bát Xích, Áo Lỗ Xích, Trương Quân, Trương Ngọc, đi đường bộ chạy về đến ải Nội Bàng, bỗng gặp quân phục của Phạm Ngũ Lão đổ ra đánh. Các tướng hết sức giữ gìn Thoát Hoan, vừa đánh vừa chạy. Trương Quân dẫn 3,000 quân đi đoạn hậu cố sức đánh lấy đường chạy, bị Phạm Ngũ Lão chém chết. Thoát Hoan chạy thoát ra được cửa ải, quân sĩ mười phần, mất 5, 6 phần.

“Bọn Thoát Hoan đang đi, bỗng lại có tin báo rằng tự cửa ải Nữ Nhi đến mãi núi Kì Cấp hơn 100 dặm, chỗ nào cũng có đồn ải. Nghe tin ấy quân sĩ đều xôn xao sợ hãi, và mé sau lại nghe tiếng ầm ầm quan quân đuổi theo và sắp kéo đến. Thoát Hoan vội vàng sai A Bát Xích, Trương Ngọc dẫn quân đi trước mở đường, Áo Lỗ Xích đi đoạn hậu.

“A Bát Xích, Trương Ngọc gặp phải quan quân chặn đường phục ở hai bên sườn núi bắn tên thuốc độc xuống như mưa. Hai tướng đều tử trận, và quân sĩ chết thây nằm ngổn ngang từng đống. Còn Trình Bằng Phi hết sức giữ gìn Thoát Hoan chạy ra Đan Kỹ, qua Lộc-châu rồi đi lẻn con đường tắt về châu Tư Minh. Áo Lỗ Xích đi sau, chạy thoát được, mới nhặt nhạnh tàn quân theo cả Thoát Hoan về Yên kinh.

“Hưng-đạo-vương chuyến này thực là trừ hết quân Mông-cổ mới hội cả tướng, dẫn quân rước xa-giá Thượng-hoàng và Nhân-tông về kinh-sư. Khi về đến Long-hưng, Nhân-tông đem bọn tướng Nguyên bị bắt là Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ, Cơ Ngọc vào làm lễ hiến-phù ở trước Chiêu-lăng.



“Nhân thấy giang-sơn lại được như cũ, Thánh-tông Thượng-hoàng có làm hai câu thơ để làm kỹ-niệm:


Xã-tắc lưỡng hồi lao thạch mã,

Sơn-hà thiên cổ điện kim âu.



Dịch nôm:

Xã-tắc hai phen bọn ngựa đá,

Non sông thiên cổ vững âu vàng.



“Về đến Thăng-long vua sai mở tiệc khao thưởng tướng-sĩ, cho dân sự mở hội vui vẻ ba ngày, gọi là Thái-bình diên-yến.

Sứ An Nam Sang Tàu Xin Hòa

“Quân nhà Nguyên sang đánh An-nam tuy thua hai ba phen thật, nhưng thế nhà Nguyên vẫn mạnh lắm, mà nước Nam ta sánh với nước Tàu lại là một nước nhỏ mọn, cô lập một mình, không nương tựa vào đâu được; nếu cứ tranh chiến mãi thì sự thắng bại chưa biết ra thế nào, mà muôn dân lại phải lầm-than, khổ-sở. Vì những lẽ ấy, cho nên đến tháng mười năm Mậu-Tý (1288) vua Nhân-tông sai quan là Đỗ thiên Thứ sang sứ nhà Nguyên, xin theo lệ cống hiến như xưa.

“Nguyên-chủ thấy quân mình thua mấy lần rồi, trong bụng cũng nản, cho nên cũng thuận cho thông hòa.



Định công, phạt tội

“Vua lại sai văn-thần ghi-chép công-trạng của các tướng hợp biên làm quyển sách gọi là Trung hưng thực lục và lại sai thợ vẽ tranh các tướng để treo ở gác công thần.

“Định công xong rồi mới xét đến tội những người hàng giặc. Khi quân Nguyên đang cường thịch, triều thần lắm kẻ hai lòng, có giấy-má đi lại với giặc. Sau giặc thua chạy về bắc, triều-đình bắt được tráp biểu hàng của các quan. Đinh thần muốn lục ra để trị tội, nhưng Thượng-hoàng nghĩ rằng làm tội những đồ tiểu-nhân cũng vô ích, bèn sai đem đốt cả tráp đi, cho yên lòng mọi người.

Nhận xét:

1)- Tinh thần độc lập và những câu nói khẳng khái:

a)- Trần Thủ Độ - “Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo!”

b)- Trần Hưng Đạo:“Bệ-hạ nói câu ấy thì thật là lời nhân- đức, nhưng mà Tôn-miếu Xã-tắc thì sao? Nếu bệ-hạ muốn hàng, xin trước hãy chém đầu tôi đi đã, rồi sau sẽ hàng!”.

c)- Trần Hưng Đạo: “Lời thề  sông Hóa”:“Trận này không phá xong giặc Nguyên, thì không về đến sông này nữa!”

d)- Trần Bình Trọng: “Ta thà làm quỉ nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc. Ta đã bị bắt thì có một chết mà thôi, can gì mà phải hỏi lôi-thôi!”

           

2)- Đoàn kết: Vua tôi và dân chúng một lòng:

            a)- Hội nghị Bình Than:

            “Quan trấn-thủ Lạng-sơn do-thám được tin ấy, sai người về Kinh-đô phi báo. Nhân-tông ngự thuyền ra sông Bình-than hội các vương-hầu bách quan lại bàn kế chống giữ.

            b)- Hội Nghị Diên Hồng:

“Thoát Hoan tiến binh sang. Nhân-tông thấy vậy, lập tức cho triệu các bô-lão dân-gian hội tại điện Diên-Hồng để bàn xem nên hòa hay nên đánh. Các bô-lão đều đồng thanh xin đánh. Vua thấy dân-gian một lòng như vậy, cũng quyết ý kháng cự.



3)- Ý chí chiến đấu

            - Trần Quốc Toản:

Tháng 10 năm 1282, vua Trần ở hội nghị Bình Than để bàn kế chống quân Nguyên. Vua thấy Trần Quốc Toản còn trẻ tuổi, không cho dự bàn. Quốc Toản trong lòng phẫn kích, tay cầm quả cam, bóp nát lúc nào không biết. Sau đó Quốc Toản lui về, tập hợp hơn nghìn gia nô và thân thuộc, sắm vũ khí, đóng chiến thuyền, viết lên cờ sáu chữ: “Phá cường địch, báo hoàng ân”. Về sau, khi xông trận, ông tự mình tiến lên trước quân sĩ, giặc không dám đối địch.



            - Phạm Ngũ Lão:

            Hưng Đạo Vương cùng binh lính đi ngang qua Đường Hào thấy Phạm Ngũ Lão ngồi đan sọt bên đường. Quân lính kéo đến, dẹp lối đi. Phạm Ngũ Lão vẫn ngồi thản nhiên. Quân lính cầm giáo đâm vào đùi chảy máu mà ông vẫn không nhúc nhích. Thấy vậy Vương dừng lại hỏi, bấy giờ Phạm Ngũ Lão mới trả lời rằng đang nghĩ một câu trong binh thư nên không để ý. Biết người có tài, Trần Hưng Đạo cho ông ngồi cùng kiệu đưa về kinh. Từ đó Phạm Ngũ Lão trở thành môn khách của Trần Hưng Đạo.

            - “Sát Đát” Binh lính nhà Trần khi đánh nhau với quân Mông, để bày tỏ ý chí chiến đấu của mình, họ xâm vào cánh tay hai chữ “Sát Đát”, có nghĩa là giết quân Mông. Ai bị quân Mông bắt được, ở cánh tay có hai chữ ấy, đều bị giết cả.



4)- Dân vi quý:

Lấy dân làm gốc

“Tháng 6 năm 1300, Hưng Đạo Vương ốm. Vua ngự tới nhà thăm, hỏi rằng: “Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?”

“Hưng Đạo Vương trả lời: “Ngày xưa Triệu Vũ Đế (tức Triệu Đà) dựng nước, vua nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã, đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam, còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời.

“Đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê dùng người tài giỏi, đất phương nam mới mạnh mà phương bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời.

“Vua nhà Lý mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh là vì có thế.

“Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy.

“Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như các tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vã lại, khoan thứ sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy.”



5)- Nợ nước nặng hơn  thù nhà:

            a)- Trần Thủ Độ và ngai vàng:

Trần thủ Độ cướp ngôi nhà Lý, đưa Trần Cảnh lên ngôi, tức Trần Thái Tông (vua đầu tiên nhà Trần).

            Vợ Thái Tông là Lý Chiêu Hoàng không con, Trần Thủ Độ bắt vua Thái Tông lấy chị dâu, lúc ấy có thai ba tháng, tức vợ Trần Liễu làm vợ. Đó là mối hận của Trần Liễu. Trước khi chết, Trần Liễu dặn con là Trần quốc Tuấn, tức Trần Hưng Đạo phải trả mối thù nầy. Vì việc nước, Trần Quốc Tuấn bỏ mối thù riêng.

            Vua Trần Thái Tông vẫn có mối lo về mối thù ấy. Tuy nhiên, Trần Hưng Đạo thì rất khảng khái, và có khi rất tế nhị để yên lòng vua.

Lúc ấy, xa giá đưa nhà vua trốn khỏi Thăng Long. Trần Quốc Tuấn theo vua, tay cầm cây gậy có bịt sắt nhọn. Mọi người nhìn, lo ngại. Trần Quốc Tuấn hiểu ý, liền rút đầu sắt nhọn vứt đi chỉ chống gậy không.

            Khi vận nước lung lay, quyền uy hoàn toàn ở tay Hưng Đạo, ông đem lời cha trăn trối dò ý tỳ tướng là Dã Tượng và Yết Kiêu. Hai tì tướng bẩm rằng: “Làm kế ấy tuy được phú quý một thời nhưng để lại tiếng xấu ngàn năm.”

Một hôm Quốc Tuấn vờ hỏi con là Trần Quốc Hiền:

“Người xưa có cả thiên hạ để truyền cho con cháu, con nghĩ thế nào?”

Hưng Vũ vương Trần Quốc Hiến thưa: “Dẫu khác họ cũng không nên, huống chi là cùng một họ!”

Lại một hôm Trần Quốc Tuấn đem chuyện ấy hỏi người con thứ là Trần Quốc Tảng. Tảng tiến lên thưa: “Tống Thái Tổ vốn là một ông lão làm ruộng, đã thừa cơ dấy vận nên có được thiên hạ.”

Trần Quốc Tuấn rút gươm mắng: “Tên loạn thần là từ đứa con bất hiếu mà ra” và định giết Quốc Tảng. Hưng Vũ vương hay tin, vội chạy tới khóc lóc xin chịu tội thay, Quốc Tuấn mới tha.



            b)- Trần Hưng Đạo và Trần Quang Khải:

            Một hôm, Trần Hưng Đạo từ Vạn Kiếp tới. Trần Quang Khải xuống thuyền chơi suốt ngày mới trở về. Trần Quang Khải vốn sợ tắm, Trần Hưng Đạo thì thích tắm thơm, nói đùa với Trần Quang Khải: “Mình mẩy cáu bẩn, xin tắm giùm”. Nói rồi cởi áo Trần Quang Khải ra, tắm cho ông và nói: “Hôm nay được tắm cho Thượng tướng.” Trần Quang Khải cũng nói: “Hôm nay được Quốc công tắm cho.”

Trước đây, lo lắng về mối thù của Trần Liễu nên hai ông xa cách. Sau việc tắm rửa nầy, hai ông trở  nên thân tình, tin tưởng nhau, tình nghĩa thêm mặn mà. Nhờ vậy, trong việc chống giặc, hai ông có công đầu.



c)- Ngựa đá:

Sau khi đánh thắng quân Mông, vua Nhân Tông cùng phụ vương và triều thần làm lễ hiến tiệp tại lăng vua Thái Tông. Thấy chân các ngựa đá trước lăng lấm bùn, vua Nhân Tông nói với triều thần tổ tiên cũng đã cỡi ngựa đi đánh giặc. Nhân đó nhà vua làm hai câu thơ:



Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,

Sơn hà thiên cổ điện kim âu.



(Xã tắc hai phen chồn ngựa đá,

Non sông nghìn thuở vững âu vàng.)



6)- Chiến công vĩ đại

            Thời bấy giờ, Mông Cổ là đạo quân bách chiến bách thắng, đánh đâu thắng đó, đè bẹp và đàn áp kẻ thù hoàn toàn. Tự hào với những chiến công ấy, Thành Cát Tư Hãn nói: “Vó ngựa quân ta đến đâu, cỏ ở đấy không mọc được nữa.” Đế quốc Mông Cổ chiếm một vùng đất lớn từ Á sang Trung Đông, một phần châu Âu.

            Quân Mông Cổ thắng nhiều nơi. Hai nơi quân Mông thất bại nặng nề nhứt là Việt Nam và Nhật Bản. Thực ra, Nhật Bản gặp may. Khi chiến thuyền quân Mông tiến đánh Nhựt thì gặp bão. Với Đại Việt thì Mông Cổ không gặp gì kém may mắn, nhưng sở dĩ quân Mông đại bại - đại bại tới ba lần - là vì vua, quan và dân chúng Đại Việt một lòng đánh giặc, có ý chí vững mạnh, không chịu khuất phục trước kẻ thù.



12)- Nhà Minh xâm lược

Việc Giao Thiệp Với Nhà Minh.

“Nhân khi Hồ Hán Thương sai sứ sang xin phong, vua Thành Tổ sai quan là Dương Bột sang xem hư thực thể nào.

“Đến năm Giáp Thân (1404) có Trần Khang ở mạn Lão Qua đi đường Vân Nam sang Yên Kinh, đổi tên là Trần Thiểm Bình, xưng là con vua Nghệ Tông rồi kể rõ sự tình Hồ Quý Ly tiếm nghịch. Vua Thành Tổ nhà Minh sai quan ngự sử Lý Ỷ sang tra xét việc ấy. Lý Ỷ về tâu quả thật là họ Hồ làm điều thoán đoạt.

“Từ đấy nhà Minh muốn mượn tiếng đánh Hồ để lấy đất An Nam. Ở bên này cha con họ Hồ cũng biết ý ấy, hết sức tìm cách chống giữ.

“Năm Ất Dậu (1405) nhà Minh sai sứ sang đòi đất Lộc Châu. Trước Hồ Quý Ly đã không chịu, sau phải cắt ra 59 thôn ở Cổ Lâu nhường cho Tàu.

“Họ Hồ biết thế nào rồi quân Minh cũng sang đánh, bèn sai đắp thành Đa Bang, bắt lấy gỗ đóng cọc ở sông Bạch Hạc để chặn đường quân Minh sang, và chia các vệ quân ở Đông Đô ra giữ mọi đường hiểm yếu. Đoạn rồi hội cả nội ngoại bách quan văn võ lại bàn việc nên đánh hay nên hòa. Người thì bàn đánh, người thì bàn hòa. Quý Ly nhất định đánh.

“Khi Hồ Quý Ly sai tướng lên đón ở cửa Chi Lăng, đánh quân Minh, bắt được Thiểm Bình đem về giết đi, cho những công hầu được quyền mộ những người đào vong làm lính, đặt thiên hộ, bách hộ để làm quản những lính mộ ấy. Và ở các cửa sông thì đóng cừ lại, để giữ quân giặc ở mặt bể vào. Về phía nam ngạn sông Nhị Hà thì đóng cừ dài hơn 700 dặm.


Nhà Minh Đánh Họ Hồ

“Nhân việc Hồ Hán Thương giết Thiểm Bình, Thành Tổ nhà Minh Chu Năng làm đại tướng, Trương Phụ, Mộc Thạnh, làm tả hữu phó tướng, chia binh ra làm hai đạo sang đánh An Nam.

“Đạo quân của Trương Phụ ở Quảng Tây đi từ đất Bằng Tường sang đánh lấy cửa Ba Lụy, tức Nam Quan bây giờ, rồi tiến sang phía tây bắc sông Cái. Còn đạo quân của Mộc Thạnh ở Vân Nam theo đường Mông Tự sang đánh lấy cửa Phú Lĩnh, tiến đến đến sông Thao.

 “Tướng nhà Minh biết rằng người An Nam không phục họ Hồ, bèn làm hịch kể tội họ Hồ, và nói rằng quân Tàu sang là để lập dòng dõi nhà Trần lên. Trương Phụ sai viết hịch ấy vào những mảnh ván nhỏ bỏ xuống sông, trôi đến đâu, quân sĩ An Nam bắt được, nhiều người không đánh và theo hàng quân Minh; vì thế cho nên quân Minh đi đến đâu đánh được đến đấy. Quân Hồ phải lui về giữ thành Đa Bang.



Thành Đa Bang thất thủ.

“Quân Hồ thua to, phải bỏ chạy vào Hoàng Giang (Hoàng Giang tức là khúc sông Hồng Hà thuộc về huyện Nam Xương tỉnh Hà Nam). Quân Minh thừa thế đánh tràn xuống sông Cái, tiến lên đánh lấy Đông Đô.


Trận Mộc Phàm Giang

“Hồ Nguyên Trừng đem 30 chiếc thuyền ra đánh bị quân Mộc Thạnh ở hai bên bờ sông đánh ụp lại. Nguyên Trừng thua chạy về cửa Muộn Hải

“Bọn Hồ Nguyên Trừng rước Quý Ly và Hán Thương ở Tây Đô ra, rồi đem quân lên Hoàng Giang để chống giữ với giặc.

Trận Hàm Tử Quan.

“Quân Hồ bấy giờ cả thủy và bộ được 7 vạn, giả xưng là 21 vạn, rồi phân quân bộ ra làm hai đạo tiến lên Hàm Tử Quan. Quân bộ của nhà Hồ đương không nổi, bỏ chạy cả.

“Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương đưa bọn liêu thuộc chạy ra bể, rồi về Thanh Hóa, vào đến Lỗi Giang gặp quân Minh đuổi đến, quân Hồ không đánh mà tan. Tướng nhà Hồ là Ngụy Thức thấy thế nguy cấp lắm, bảo Quý Ly rằng: “Nước đã mất, làm ông vua không nên để cho người ta bắt được, xin Bệ Hạ tự đốt mà chết đi còn hay hơn!” Quý Ly giận lắm, bắt Ngụy Thức chém rồi chạy vào Nghệ An.

Họ Hồ Phải Bắt.

“Trương Phụ, Mộc Thạnh biết là Quý Ly chạy vào Nghệ An, bèn đem binh đi đường bộ đuổi theo, lại sai Liễu Thăng đem thủy sư đánh đuổi mặt thủy. Quý Ly vào đến cửa Kỳ La bị quân nhà Minh bắt được. Hán Thương và những con cháu họ Hồ đều bị giặc bắt được cả ở núi Cao Vọng. Những quan nhà Hồ, người thì ra hàng, người thì bị bắt, người thì không chịu nhục nhảy xuống sông tự tử.


Trần Quý Khoách (1403-1413).

“Bấy giờ con ông Đặng Tất là Đặng Dung và con ông Nguyễn Cảnh Chân là Nguyễn Cảnh Dị đem quân bản bộ về Thanh Hóa rước vua Quý Khoách vào huyện Chi La tôn lên làm vua, đặt niên hiệu là Trùng Quang.



Trương Phụ Trở Sang An Nam.

“Quý Khoách ở Bình Than sai Đặng Dung đến giữ Hàm Tử Quan. Nhưng quân của Đặng Dung thiếu lương, phải bỏ chạy. Quý Khoách thấy quân của Đặng Dung đã thua, liệu thế giữ không nổi, bèn bỏ Bình Than chạy về Nghệ An.

“Trương Phụ thắng trận, đi đến đâu giết hại quân dân, và làm những điều tàn bạo gớm ghê như là: xếp người thành núi, hoặc rút ruột người treo lên cây, hoặc nấu thịt người để lấy đầu. Còn những người An Nam ai tòng phục nhà Minh mà giết được nhiều người bản quốc thì được thưởng cho làm quan. Thật bấy giờ tha hồ cho bọn hung ác đắc chí!

“Năm Canh Dần (1410) Trần Quý Khoách cùng với bọn Nguyễn Cảnh Dị lại đem quân ra đánh quân Minh ở Hồng Châu, được thắng trận, rồi lại ra đóng ở Bình Than. Ở các nơi lại nổi lên đánh giết quân nhà Minh; Tuy vạy, khi quân Minh đến đánh, quân nhà Trần lại thua, phải chạy về Nghệ An.

“Trương Phụ đưa quân đánh Nghệ An, Quý Khoách chạy vào Hóa Châu.

“Nay Quý Khoách lại sang Nguyễn Biểu ra cầu phong với Trương Phụ. Trương Phụ bắt giữ không cho về. Nguyễn Biểu giận mắng Trương Phụ rằng: “Chúng bay trong bụng thì chỉ lo đường chiếm giữ, ngoài mặt lại giương tiếng đem quân nhân nghĩa đi đánh dẹp; trước thì nói sang lập họ Trần, sau lại đặt quận huyện để cai trị, rồi tìm kế để vơ vét của cải, ức hiếp sinh dân; chúng bay thật đồ ăn cướp hung ngược!” Trương Phụ tức giận đem giết đi.



Hóa Châu Thất Thủ

“Quân Trương Phụ vào đến Nghệ An, quan Thái Phó nhà Hậu Trần là Phan Quý Hữu ra hàng, nhưng được mấy hôm thì mất. Trương Phụ cho con là Quý Hữu là Liêu làm tri phủ Nghệ An. Phan Liêu muốn tâng công, Quý Khoách có bao nhiêu tướng tá người nào giỏi, người nào dở, quân số nhiều ít, sơn xuyên chổ hiểm, chỗ không thế nào, khai cả cho Trương Phụ biết. Trương Phụ bèn quyết ý vào Hóa Châu,

“Trương Phụ nhất định vào đánh cho được, nói rằng: “Ta sống cũng ở đất Hóa Châu này, mà chết cũng ở đất Hóa Châu này. Hóa Châu mà không lấy được thì không mặt mũi nào về trông thấy chúa thượng!” Lập tức truyền cho quân thủy bộ tiến vào đánh Hóa Châu.

“Quân Trương Phụ vào đến Thuận Hóa, Nguyễn Súy và Đặng Dung nửa đêm đem quân đến đánh trại Trương Phụ. Đặng Dung đã vào được thuyền của Trương Phụ định để bắt sống lấy nhưng không biết mặt, vì thế Trương Phụ mới nhảy xuống xông lấy cái thuyền con mà chạy thoát được.

“Bấy giờ quân nhà Trần ít lắm. Trương Phụ thấy vậy đem binh đánh úp lại, bọn Đặng Dung địch không nổi phải bỏ chạy.

“Từ khi thua trận ấy rồi, Trần Quý Khoách thế yếu quá không thể chống với quân giặc được nữa, phải vào ẩn núp ở trong rừng núi. Chẳng được bao lâu Trần Quý Khoách, Nguyễn Cảnh Dị, Đặng Dung, Nguyễn Súy đều bị bắt, và phải giải về Yên Kinh cả. Đi đến giữa đường, Quý Khoách nhảy xuống bể tự tử, bọn ông Đặng Dung cũng tử tiết cả.

“Cha con ông Đặng Dung đều hết lòng giúp nước phò vua, tuy không thành công được, nhưng cái lòng trung liệt của nhà họ Đặng cũng đủ làm cho người đời sau tưởng nhớ đến, bởi vậy hiện nay còn có đền thờ ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.

“Ông Đặng Dung có làm bài thơ thuật hoài như sau này, mà ngày nay còn có nhiều người vẫn truyền tụng:



Thế sự du du nại lão hà !
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca
Thời lai đồ điếu thành công dị
Sự khứ anh hùng ẩm hận đa
Trí chủ hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà
Quốc thù vị phục đầu tiên bạch
Kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma!



Dịch



Việc đời bối rối tuổi già vay
Trời đất vô cùng một cuộc say
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay
Vai khiêng trái đất mong phò chúa
Giáp gột sông trời khó vạch mây
Thù nước chưa xong đầu đã bạc

Gươm mài dưới nguyệt đã bao ngày.



“Nhà Hậu Trần nổi lên toan đường khôi phục, nhưng hiềm vì nỗi lòng người ly tán, thế lực lại hèn yếu, cho nên chỉ được 7 năm thì mất.



Nhận xét:

            a)- Về Hồ Quí Ly

            Tổ tiên Hồ Quý Ly gốc ở nước Ngu bên Tầu. Vì vậy, sau khi lên làm vua, ông đặt tên nước là Đại Ngu (nước Ngu vĩ đại). Điều đó ta thấy đúng câu tục ngữ “Đất lành chim đậu”. Người Tầu thường trung thành với nơi đã cho họ hạnh phúc, không mặn mà lắm với nơi làm cha ông họ khốn khổ, bị đầy đọa, phải bỏ quê hương mà đi.

            Hồ Quý Ly là người thông minh. Sau khi lên làm vua ông có nhiều cải cách hay về cai trị, giáo dục, thi cử, đi trước các nước khác. Đặc biệt hai cải cách sau đây rất tiến bộ:

            Ông cho in tiền giấy và trong các khoa thi có môn toán pháp.



            b)- Sự chia rẽ đất nước trước hiểm họa xâm lăng:

            Biết nhà Minh sẽ xâm lăng, Hồ Quí Ly chuẩn bị chống đỡ, nhưng ông không thu phục được lòng người. Lòng người còn nhớ nhà Trần, nhất là trong việc ba lần chống quân Mông Cổ xâm lược. Khi Hồ Quí Ly kêu gọi đoàn kết chống Tầu thì không mấy ai theo ông.



            c)- Sự dối gạt của người Tầu.

            Khi nhà Minh đem quân đánh Hồ Quí Ly, người Tầu núp dưới chiêu bài nhân nghĩa “Phù Trần, diệt Hồ”. Không ít người tin theo họ. Đến khi thắng được nhà Hồ, bọn Tầu nói rằng vì không tìm được con cháu nhà Trần nên phải đạt quan cai trị.

            Sự dối trá ấy được Nguyễn Biểu vạch trần khi ông giận dữ mắng vào mặt Trương Phụ: “Chúng bay trong bụng thì chỉ lo đường chiếm giữ, ngoài mặt lại giương tiếng đem quân nhân nghĩa đi đánh dẹp; trước thì nói sang lập họ Trần, sau lại đặt quận huyện để cai trị, rồi tìm kế để vơ vét của cải, ức hiếp sinh dân; chúng bay thật đồ ăn cướp hung ngược!”



            d) Cuộc chiến đấu với nhiều hào khí văn chương>

            Khi vua Trần Trùng Quang sai Nguyễn Biểu đi sứ cầu hòa với Trương Phụ, vua tôi làm thơ đối đáp nhau, xem ra rất kỳ thú.

           

- Bài thơ (Nôm) thứ nhứt, vua Trần Trung Quang làm để tiển Nguyễn Biểu đi sứ:



Mấy vần thơ cũ ngợi hoàng hoa

                        Trịnh trọng rầy nhân dựng khúc ca

                        Chiếu phượng mười hàng tơ cặn kẽ

                        Vó câu ngàn dặm tuyết xông pha

                        Tang bồng đã bấm lòng khi trẻ

                        Khương quế thêm cay tính tuổi già

                        Việc nước một mai công ngõ vẹn

                        Gác lân danh tiếng dọi lầu xa



Bài họa của Nguyễn Biểu:



                        Tiếng ngọc từ vâng trước bệ hoa

                        Ngóng tai đồng vọng thuở thi ca

                        Đường mây vó ký lần lần trải

                        Ải tuyết cờ mao thức thức pha

                        Há một cung tên lồng chí trẻ

                        Bội mười vàng sắt đúc gan già

                        Hổ mình vả thiếu tài chuyên đối

                        Dịch lộ ba ngàn dám ngại xa





Nguyễn Biểu đi sứ cầu hòa. Trương Phụ không cho hòa, còn bắt giữ Nguyễn Biểu, khiến ông tức giận chưởi mắng bọn tướng Tàu giả nhân giả nghĩa. Trương Phụ giận lắm, nhưng trước khi giết Nguyễn Biểu, Phụ muốn thử cái gan dạ của người Nam như thế nào bèn sai nấu một cái đầu lâu trong nồi mời Nguyễn Biểu ăn. Nguyễn Biểu biết ý Trương Phụ và muốn tỏ rõ cho y thấy người Nam gan dạ như thế nào, bèn lấy đũa gắp hai con mắt ăn trước, nhắp chén rượu, làm bài thơ “Cổ đầu người”.



Cổ Đầu Người



                        Ngọc thiện trân tu đã đủ mùi

                        Gia hào thêm có cổ đầu người

                        Nem cuông chã phượng còn thua béo

                        Thịt gũ gan lân cũng kém tươi

                        Ca lối lộc minh so cũng một

                        Đọ bề vàng sắt bội hơn mười

                        Kia kìa ngon ngọt tày vai lợn

                        Tráng sĩ như Phàn tiếng để đời



Bài thơ thuật hoài Đặng Dung, nói lên tâm sự người thất chí, việc nước không thành, ngày nay nhiều người vẫn còn truyền tụng:

Thế sự du du nại lão hà !
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca
Thời lai đồ điếu thành công dị
Sự khứ anh hùng ẩm hận đa
Trí chủ hữu hoài phù địa trục
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà
Quốc thù vị phục đầu tiên bạch
Kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma!



13)-Lam Sơn Khởi Nghĩa:

Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn

“Lúc ấy có một đấng anh hùng nổi lên, kéo cờ nghĩa để chống với giặc Minh, trong 10 năm ấy lại được giang sơn cũ, và xây đắp lại nền độc lập cho nước Nam.

Đấng anh hùng ấy, người ở làng Lam Sơn, huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa, họ Lê, tên là Lợi. Đã mấy đời làm nghề canh nông, nhà giàu có, lại hay giúp đỡ cho kẻ nghèo khó, cho nên mọi người đều phục, và những tôi tớ ước có hàng nghìn người. Ông Lê Lợi khẳng khái, có chí lớn, quan nhà Minh nghe tiếng, đã dỗ cho làm quan, nhưng ông không chịu khuất, thường nói rằng: “Làm trai sinh ở trên đời, nên giúp nạn lớn, lập công to, để tiếng thơm muôn đời, chứ sao lại chịu bo bo làm đầy tớ người ta!” Bèn giấu tiếng ở chỗ sơn lâm, đón mời những kẻ hào kiệt, chiêu tập những kẻ lưu vong.

“Mùa xuân năm Mậu Tuất (1418) đời Thành Tổ nhà Minh, ông Lê Lợi cùng với tướng là Lê Thạch, Lê Liễu khởi binh ở núi Lam Sơn, tự xưng là Bình Định Vương, rồi truyền hịch đi gần xa kể tội nhà Minh để rõ cái mục đính của mình khởi nghĩa đánh lại kẻ thù cướp nước.

“Thế lực của Bình Định Vương lúc đầu còn kém lắm, tướng sĩ thì ít, lương thực không đủ, phải về núi Chí Linh ba lần, và phải nguy cấp mấy phen, thật là gian truân vất vả. Lấy được đất Nghệ An, rồi từ đó mới có thể vẫy vùng, đánh ra mặt Bắc, lấy lại được giang sơn nước nhà.



Về Chí Linh lần thứ nhất

Mã Kỳ ở Tây Đô, nghe tin Bình Định Vương nổi lên ở núi Lam Sơn, liền đem quân đến đánh. Vương sang đóng ở núi Lạc Thủy để đợi quân Minh. Khi quân Mã Kỳ đến, phục binh của Vương đổ ra đánh, đuổi được quân nghịch, nhưng vì thế yếu lắm chống giữ không nổi, Vương phải bỏ vợ con để giặc bắt được, đem bại binh chạy về đóng ở núi Chí Linh.



Về Chí Linh lần thứ hai

“Tháng tư năm Kỷ Hợi (1419) Bình Định Vương lại ra đánh lấy đồn Nga Lạc giết được tướng nhà Minh là Nguyễn Sao, nhưng quân của Vương bấy giờ hãy còn ít, đánh lâu không được, lại phải rút về Chí Linh.

“Quan nhà Minh đem binh đến vây đánh. Vương bị vây nguy cấp lắm. Bấy giờ có ông Lê Lai liều mình vì nước, xin mặc thay áo ngự bào cưỡi voi ra trận đánh nhau với giặc. Quân nhà Minh tưởng là Bình Định Vương thật, xúm nhau lại vây đánh, bắt được giết đi rồi rút quân về Tây Đô.



Bình Định Vương về đóng Lư Sơn

“Vương thu nhặt những tàn quân về đóng ở Lư Sơn

“Ngay năm ấy, ở Nghệ An có quan tri phủ là Phan Liêu làm phản nhà Minh; ở Hạ Hồng có Trịnh Công Chứng, Lê Hành; ở Khoái Châu có Nguyễn Đặc; ở Hoàng Giang có Nguyễn Đa Cấu, Trần Nhuế; ở Thủy Đường có Lê Ngà, nổi lên làm loạn, quân nhà Minh phải đi đánh dẹp các nơi cho nên Bình Định Vương ở vùng Thanh Hóa cũng được nhân dịp mà dưỡng uy súc nhuệ.



Bình Định Vương về đóng Lỗi Giang

Năm 1420 Bình Định Vương đem quân ra đóng ở làng Thôi, tướng nhà Minh là Lý Bân được tin ấy, đem quân đến đánh, bị phục binh của Vương đánh phá một trận, quân Minh bỏ chạy. Vương lại đem quân lên đóng ở Lỗi Giang (2) và ở đồn Ba Lậm. Quân Minh phải lùi về đóng ở Nga Lạc và Quan Du để phòng giữ Tây Đô.

Nguyễn Trãi

“Khi Bình Định Vương về đánh ở Lỗi Giang, thì có ông Nguyễn Trãi vào yết kiến, dâng sách “Bình Ngô”, vua xem lấy làm hay, dùng ông ấy làm tham mưu.

“Ông Nguyễn Trãi là con ông Bảng Nhãn Nguyễn Phi Khanh. Đời nhà Hồ, ông đã thi đỗ tiến sĩ (1400). Khi ông Nguyễn Phi Khanh bị nhà Minh bắt về Kim Lăng, ông theo khóc, lên đến cửa Nam Quan không chịu trở lại. Ông Phi Khanh bảo rằng: “Con phải trở về lo trả thù cho cha, rửa hận cho nước, chứ đi theo khóc lóc phỏng có ích gì ?” Nguyễn Trãi nghe lời cha rở về, ngày đêm lo việc phục thù, sau ra giúp Bình Định Vương, bày mưu định kế để lo sự bình định.

Bình Định Vương phá quân Trần Trí

“Năm Tân Sửu (1421) tướng nhà Minh là Trần Trí đem mấy vạn quân đến đánh Bình Định Vương ở đồn Ba Lậm, lại ước với người Lào sang cùng đánh hai mặt. Vương đem quân vào cướp trại Minh, giết được hơn 1,000 người. Trần Trí thấy vậy giận lắm, sáng hôm sau truyền lệnh kéo toàn quân đến đánh. Quân An Nam đã phục sẵn, thấy quân Minh đến, liền đổ ra đánh hăng quá, quân Minh lại phải lui về.



Về Chí Linh lần thứ ba

 “Năm1422 Bình Định Vương tự đồn Ba Lậm tiến lên đánh đồn Quan Gia, bị quân Minh và quân Lào hai mặt đánh lại, phải thua chạy về giữ đồn Khôi Sách. Quân Minh và quân Lào thừa thế đổ đến vây kín bốn mặt. Vương thấy thế nguy quá, mới bảo các tướng rằng: “Quân giặc vây kín rồi, nếu không liều sống chết đánh tháo lấy đường chạy ra, thì chết cả!” Quân sĩ ai nấy đều cố sức đánh phá, quân giặc phải lùi. Vương lại đem quân về núi Chí Linh.

“Từ khi Bình Định Vương đem binh về Chí Linh, lương thực một ngày một kém, trong hai tháng trời quân sĩ phải ăn rau ăn cỏ, có bao nhiêu voi ngựa làm thịt ăn hết cả. Tướng sĩ mỏi mệt, đều muốn nghỉ ngơi, xin Vương hãy tạm hòa với giặc. Vương phải sai Lê Trăn đi xin hòa. Quan nhà Minh bấy giờ thấy đánh không lợi, cũng thuận cho hòa.



Bình Định Vương hết lương phải hòa với giặc

“Năm Quý Mão (1423) Bình Định Vương đem quân về Lam Sơn. Bấy giờ tướng nhà Minh là bọn Trần Trí, Sơn Thọ thường hay cho Vương trâu, ngựa, cá mắm và thóc lúa; Vương cũng cho Lê Trăn đưa vàng bạc ra tạ. Nhưng sau bọn Trần Trí ngờ có bụng giả dối, bắt giữ Lê Trăn lại, không cho về, vì vậy Vương mới tuyệt giao không đi lại nữa, rồi đem quân về đóng ở núi Lư Sơn.



Bình Định Vương lấy đất Nghệ An

“Năm Giáp Thìn (1424) Bình Định Vương hội các tướng bàn kế tiến thủ. Quan thiếu úy là Lê Chích nói rằng: “Nghệ An là đất hiểm yếu, đất rộng người nhiều, nay ta hãy vào lấy Trà Long (phủ Tương Dương) rồi hạ thành Nghệ An, để làm chỗ trú chân, nhiên hậu sẽ quay trở ra đánh lấy Đông Đô, như thế thiên hạ có thể bình được.”

“Vương cho kế ấy là phải, bèn đem quân về nam, đánh đồn Đa Căng, tướng nhà Minh là Lương Nhữ Hốt bỏ chạy.

“Lấy được đồn Đa Căng rồi, Vương tiến quân vào đánh Trà Long, đi đến núi Bồ Liệp, ở phủ Quỳ Châu, gặp bọn Trần Trí, Phương Chính đem binh đến đánh, Vương bèn tìm chỗ hiểm phục binh; khi quân Minh vừa đến, quân ta đổ ra đánh, chém được tướng nhà Minh là Trần Trung, giết được sĩ tốt hơn 2,000 người, bắt được hơn 100 con ngựa. Quân Minh bỏ chạy, Vương đem binh đến vây đánh Trà Long. Quan tri phủ là Cầm Bành chờ cứu binh mãi không được, phải mở cửa thành ra hàng.

“Từ khi Bình Định Vương khởi nghĩa cho đến giờ, đánh với quân nhà Minh đã nhiều phen, được thua đã trải qua mấy trận, nhưng quan nhà Minh vẫn lấy làm khinh thường, cho nên không tâu về cho Minh Triều biết. Bấy giờ Hoàng Phúc về Tàu rồi, vua nhà Minh sai Binh Bộ Thượng Thư là Trần Hiệp sang thay.

“Trần Hiệp thấy Bình Định Vương lấy được châu Trà Long, thanh thế lừng lẫy, bèn vội vàng làm sớ tâu cho vua nhà Minh biết. Minh Đế mới xuống chiếu trách mắng bọn Trần Trí, Phương Chí, bắt phải dẹp ngay cho yên giặc ấy. Bọn Trần Trí sợ hãi đem cả thủy bộ, cùng tiến lên đánh Bình Định Vương.

“Vương sai Đinh Liệt đem 1,000 quân đi đuờng tắt ra giữ Đỗ Gia, còn Vương thì đem cả tướng sĩ đến ở mạn thượng du đất Khả Lưu ở bắc ngạn sông Lam Giang, rồi tìm chỗ hiểm yếu phục binh để đợi quân Minh.

“Khi quân Minh đã đến Khả Lưu, Vương bèn sai người ban ngày thì kéo cờ đánh trống, ban đêm thì bắt đốt lửa để làm nghi binh, rồi cho binh sang bên kia sông phục sẵn. Sáng hôm sau quân Minh tiến lên bị phục binh bốn mặt đổ ra đánh, tướng nhà Minh là Chu Kiệt phải bắt, Hoàng Thành phải chém, còn quân sĩ bỏ chạy cả. Trần Trí phải thu quân về giữ thành Nghệ An.

“Năm1425 Vương đem binh về đánh thành Nghệ An, đi đến làng Đa Lôi ở huyện Thổ Du, dân sự đưa trâu đưa rượu ra đón rước, già trẻ đều nói rằng: không ngờ ngày nay lại thấy uy nghi nước cũ. Bấy giờ lại có quan tri phủ Ngọc Ma (phủ Trấn Định) là Cầm Quý đem binh mã về giúp.

“Vương bèn xuống lệnh rằng: “Dân ta lâu nay đã phải khổ sổ về chính trị bạo ngược của người Tàu, quân ta đi đến đâu cấm không được xâm phạm đến chút gì của ai. Những gạo thóc trâu bò mà không phải là của người nhà Minh thì không được lấy”. Đoạn rồi, phân binh đi đánh lấy các nơi, đi đến đâu các quan châu huyện ra hàng cả, đều tình nguyện đi đánh thành Nghệ An. Vương bèn đem quân về vây thành; quân Minh hết sức giữ gìn không dám ra đánh.

“Đương khi vây đánh ở Nghệ An, tướng nhà Minh là Lý An ở Đông Quan đem quân đi dường bể vào cứu. Quân của Trần Trí ở trong thành cũng đổ ra đánh, Vương nhử quân Minh đến cửa sông Độ Gia, rồi dùng phục binh đánh tan quân giặc. Trần Trí bỏ chạy về Đông Quan, còn Lý An vào giữ thành, Vương lại đem quân về vây thành.



Vây thành Tây Đô

“Đến tháng năm, Vương sai quan Tư Không là Đinh Lễ đem binh đi đánh Diễn Châu, Đinh Lễ đi vừa đến nơi, thì gặp tướng nhà Minh là Trương Hùng đem 300 chiếc thuyền lương ở Đông Quan mới vào, quân ở trong thành ra tiếp, bị phục binh của Đinh Lễ đánh đuổi. Bao nhiêu thuyền lương Đinh Lễ cướp lấy được cả, rồi đuổi Trương Hùng ra đến Tây Đô. Bình Định Vương được tin ấy liền sai Lê Sát và Lưu Nhân Chú đem binh ra tiếp ứng Đinh Lễ. Đinh Lễ nhân dịp tiến lên vây thành Tây Đô.



Lấy Tân Bình và Thuận Hóa

“Qua tháng bảy, Vương sai quan Tư Đồ Trần Nguyên Hãn, Thượng Tướng Lê Nỗ đem hơn một nghìn quân vào lấy châu Tân Bình và châu Thuận Hóa. Đi đến Bố Chính thì gặp tướng nhà Minh là Nhâm Năng, hai bên đánh nhau, quân nhà Minh bị phục binh đánh chạy tan cả. Bấy giờ lại có đạo thủy quân của Lê Ngân đem hơn 70 chiếc thuyền đi đường bể vào, Trần Nguyên Hãn liền đem cả thủy bộ tiến lên đánh hạ được hai thành ấy, mộ thêm mấy vạn tinh binh đưa ra đánh mặt bắc.

“Từ đây binh thế của Bình Định Vương một ngày một mạnh, các tướng tôn ngài lên làm “Đại Thiên Hành Hóa”, nghĩa là thay trời làm mọi việc.



Bình Định Vương tiến ra Đông Đô

“Năm 1426 Vương thấy tinh binh của nhà Minh ở cả Nghệ An, ở ngoài Đông Đô không có bao nhiêu người, bèn sai Lý Triện, Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả, Đỗ Bí ra đánh Quốc Oai, Quảng Oai, Gia Hưng, Quý Hóa, Đà Giang, Tam Đái (Bạch Hạc), Tuyên Quang để chặn đường viện binh ở Vân Nam sang. Sai Lưu Nhân Chú và Bùi Bị ra đánh Thiên Trường, Kiến Xương, Tân Hưng, Thượng hồng (Bình Giang), Hạ Hồng (Ninh Giang), Bắc Giang, Lạng Giang để chặn đường viện binh ở Lưỡng Quảng sang. Lại sai Đinh Lễ, Nguyễn Xí đem binh đi thẳng ra đánh Đông Quan.

“Quân của Bình Định Vương đi đến đâu giữ kỷ luật rất nghiêm, không xâm phạm đến của ai chút gì, cho nên ai ai cũng vui lòng theo phục. Bọn Lý Triện lấy được Quốc Oai và Tam Đái rồi đem quân về đánh Đông Quan.

“Quan tham tướng nhà Minh là Trần Trí đem binh ra đóng ở Ninh Kiều và ở Ứng Thiên để chống giữ; quân Lý Triện đến đánh, Trần Trí thua chạy về đóng ở phía tây sông Ninh Giang. Chợt có tin báo rằng có hơn một vạn quân Vân Nam sang cứu. Lý Triện sợ để hai đạo quân của Minh hợp lại thì khó đánh, bèn bảo Phạm Văn Xảo đem hơn một nghìn người đi đón chặn đường quân Vân Nam; còn mình thì cùng với Đỗ Bí đem quân đến đánh Trần Trí. Trần Trí thua chạy; bọn Lý Triện đuổi đến làng Nhân Mục bắt được tướng nhà Minh là Vi Lạng, chém được hơn 1,000, rồi lại quay trở về Ninh Giang hợp binh với Văn Xảo để đánh quân Vân Nam.

“Phạm Văn Xảo đến cầu Xa Lộc thì gặp quân Vân Nam sang, đánh một trận, quân nghịc thua chạy về giữ thành Tam Giang.

“Trần Trí thấy thế ở Đông Quan yếu lắm bèn viết thư vào Nghệ An gọi Phương Chính đem binh ra cứu, để giữ lấy chỗ căn bản.

Phương Chính được thư bèn sai Thái Phúc ở lại giữ thành Nghệ An, rồi đem quân xuống thuyền đi đường bể ra Đông Quan.

“Bình Định Vương nghe tin ấy, liền sai Lê Ngân, Lê Văn An, Lê Bôi, Lê Thận, Lê Văn Linh ở lại vây thành Nghệ An; Vương tự đem đại quân cả thủy bộ Phương Chính ra bắc. Ra đến Thanh Hóa, Vương đem binh vào đánh thành Tây Đô, nhưng quân Minh giữ vững thành trì đánh không được, Vương đem quân đến đóng ở Lỗi Giang.

Trận Tụy Động - Vương Thông thất thế

“Vua Minh sai Chinh Di Tướng Quân là Vương Thông và Mã Anh đem 5 vạn quân sang cứu Đông Quan. Trần Trí và Phương Chính thì phải cách hết cả quan tước bắt phải theo quân đi đánh giặc,

“Vương Thông sang đến đất Đông Quan hội tất cả quân sĩ lại được mười vạn, cùng với bọn Trần Hiệp chia làm ba đạo đi đánh Bình Định Vương.

“Vương Thông đem quân đến đóng ở bến Cổ Sở. Phương Chính đóng ở Sa Thôi, Mã Kỳ đóng ở Thanh Oai, đồn lũy liên tiếp nhau một dãy dài hơn mấy mươi dặm.

“Bọn Lý Triện, Đỗ Bí ở Ninh Kiều đem quân và voi đến phục ở Cổ Lãm, rồi cho quân đến đánh nhữ Mã Kỳ. Mã Kỳ đem tất cả quân đuổi đến cầu Tam La bị phục binh của Lý Triện đổ ra đánh, quân Minh thua chạy, nhiều người xuống đồng lầy, chạy không được, bị chém hơn 1,000 người. Lý Triện đuổi quân Minh đến Nhân Mục, bắt được hơn 500 người. Mã Kỳ một mình một ngựa chạy thoát được.

 “Lý Triện thừa thắng tiến lên đánh đạo quân Phương Chính. Nhưng Phương Chính thấy Mã Kỳ đã thua cũng rút quân lui, rồi cùng Mã Kỳ về hội với Vương Thông ở bến Cổ Sở.

“Vương Thông liệu tất thế nào quân An Nam cũng đến đánh, bèn phục binh và phòng bị trước. Chợt có quân của Lý Triện đến. Quân Minh giả ra đánh rồi bỏ chạy, nhử quân ta và chỗ hiểm có chông sắt. Đi đến đấy, voi xéo phải chông đi không được, rồi lại có phục binh đổ ra đánh, Lý Triện thua chạy về giữ Cao Bộ (ở vùng Chương Đức, Mỹ Lương) và cho người về Thanh Đàm (Thanh Trì bây giờ) gọi bọn Đinh Lễ và Nguyễn Xí đến cứu.

“Đinh Lễ và Nguyễn Xí đem 3,000 quân và hai con voi lập tức đêm hôm ấy đến Cao Bộ, rồi phân binh ra phục sẵn ở Tụy Động và ở Chúc Động. Chợt bắt được tên thám tử của quân Minh, tra ra thì biết rằng quân Vương Thông đóng ở Ninh Kiều, có một đạo quân đi lẻn ra đường sau quân Lý Triện để đánh tập hậu, đại quân sang đò chỉ chờ lúc nào nghe súng thì hai mặt đổ lại cùng đánh.

“Biết mưu ấy rồi, đến canh năm đêm hôm ấy, Đinh Lễ sai người bắn súng làm hiệu để đánh lừa quân giặc. Quả nhiên quân giặc nghe tiếng súng đều kéo ùa đến đánh. Bấy giờ phải độ trời mưa, đường lầy, quân Minh vừa đến Tụy Động thì bị quân ta bốn mặt đổ ra đánh, chém được thượng thư Trần Hiệp, Lý Lượng. Còn những quân sĩ nhà Minh thì chết hại nhiều lắm: phần thì giày xéo lẫn nhau mà chết, phần thì ngã xuống sông chết, cả thảy đến hơn năm vạn người; còn bị bắt sống hơn một vạn người, các đồ đạc khí giới thì lấy được không biết bao nhiêu mà kể. Trận Tụy Động đánh vào tháng mười năm Bính Ngọ (1426).

“Phương Chính và Mã Kỳ chạy thoát được, rồi cùng với Vương Thông về giữ thành Đông Quan.

“Bọn Đinh Lễ thừa thắng đem binh về vây thành và cho người về Lỗi Giang báo tin thắng trận cho Bình Định Vương biết.

“Vương liền tiến binh ra Thanh Đàm, rồi một mặt sai Trần Nguyên Hãn đem 100 chiếc thuyền đi theo sông Lung Giang ra cửa Hát Giang rồi thuận dòng sông Nhị Hà xuống đóng ở bến Đông Bộ Đầu; một mặt sai Bùi Bị đem hơn 1 vạn quân đi lẻn ra đóng ở Tây Dương Kiều, Vương tự dẫn đại quân đến hạ trại ở gần thành Đông Quan. Quân Minh giữ ở trong thành không ra đánh, bao nhiêu chiến thuyền thì Vương lấy được cả.

“Kể từ ngày Bình Định Vương đem binh vào đánh Nghệ An đến giờ, tuy rằng đánh đâu được đấy, nhưng chưa có trận nào quan hệ bằng trận Tụy Động này. Bởi vì việc thắng bại trong 10 phần, đánh xong trận này, thì đã chắc được 7, 8 phần rồi. Quân thế nhà Minh chỉ còn ở trong mấy thành bị vây nữa mà thôi, mặt ngoài thì viện binh lại chưa có, mà dẫu cho có sang nữa, thì thế của Bình Định Vương cũng đã vững lắm rồi.



Vây Đông Đô

“Từ khi Bình Định Vương ra Đông Đô, những kẻ hào kiệt ở các nơi đều nô nức về theo, xin hết sức đi đánh giặc. Vương dùng lời úy dụ và lấy cái nghĩa lui tới mà giảng giải cho mọi người nghe, rồi cứ tùy tài mà thu dùng.



Vương Thông xin hòa lần thứ nhất

“Vương Thông ở Đông Quan cứ bị thua mãi, liệu thế đánh không được nữa, muốn bãi binh về Tàu, nhưng sợ mang tiếng, bèn lục tờ chiếu của vua nhà Minh, nói về việc tìm con cháu họ Trần, rồi cho người ra nói với Bình Định Vương tìm người dòng dõi họ Trần lập lên, để xin bãi binh.

“Vương nghĩ đánh nhau mãi, trong nước tàn hại, dân tình khổ sở, bèn y theo lời Vương Thông. Nhân lúc bấy giờ có người tên là Hồ Ông trốn ở Ngọc Ma, xưng là cháu ba đời vua Nghệ Tông, vương bèn cho người đi đón Hồ Ông về đổi tên là Trần Cao, lập nên làm vua, mà Vương thì xưng làm Vệ Quốc Công để cầu phong với nhà Minh, cho mau xong việc.

“Vương Thông cho người đưa thư ra xin hòa, và xin cho đem toàn quân về nước. Bình Định Vương thuận cho, định ngày để Vương Thông gọi quân ở các nơi về hội tại Đông Đô, rồi về Tàu. Việc đã định như thế, nhưng mà bấy giờ có mấy người An Nam theo nhà Minh, như những tên Trần Phong, Lương Nhữ Hốt, sợ quân Minh về thì mình phải tội, bèn lấy chuyện Ô Mã Nhi ngày trước can Vương Thông đừng rút quân về. Vương Thông nghe lời, bề ngoài tuy nói hòa, nhưng bề trong sai người đào hào, rắc chông, rồi cho người đi lẻn đem thư về Tàu cầu cứu.

“Bình Định Vương bắt được người đưa thư, giận lắm, không giao thông với quân Minh nữa, rồi sai Lê Quốc Hưng đánh thành Điêu Diêu (Bắc Ninh) và thành Thị Kiều (Võ Giang, Bắc Ninh); Trịnh Khả và Lê Khuyển đánh thành Tam Giang (tức là Tam Đái, nay là huyện Bạch Hạc); Lê Sát và Lê Thụ đánh thành Xương Giang ( tức là Phủ Lạng Thương bây giờ); Trần Lựu, Lê Bôi đánh thành Kỳ Ôn. Chẳng bao lâu những thành ấy đều lấy được cả.



Bình Định Vương Đóng Quân ở Bồ Đề

“Năm Đinh Mùi (1427), Bình Định Vương tiến quân lên đóng ở chỗ Bồ Đề, ở phía bắc sông Nhị Hà, rồi sai tướng đánh thành Đông Quan: Trịnh Khả đánh cửa Đông, Đinh Lễ đánh cửa Nam, Lê Cực đánh cửa Tây, Lý Triện đánh cửa Bắc.

“Quân nhà Minh một ngày một kém, tướng nhà Minh giữ thành Nghệ An và thành Diễn Châu là bọn Thái Phúc và Tiết Tụ đều ra hàng cả. Bình Định Vương lại sai Lại Bộ Thượng Thư là ông Nguyễn Trãi, làm hịch đi khuyên tướng sĩ các nơi về hàng.

Trận Chi Lăng - Liễu Thăng tử trận

“Vương Thông cho người về tâu với Minh Đế để xin thêm binh. Minh Đế thất kinh, liền sai Chinh Lỗ Phó Tướng Quân An Viễn Hầu là Liễu Thăng, Lương Minh, Thôi Tụ, Lý Khánh, Hoàng Phúc, Nguyễn Đức Huân, đem 10 vạn quân, hai vạn ngựa, đi đường Quảng Tây sang đánh cửa Ba Lụy, bấy giờ là tháng chạp năm Bính Ngọ (1427). Lại sai Mộc Thạnh, Từ Hanh, Đàm Trung đi đường vào Vân Nam sang đánh cửa Lê Hoa.

“Khi các tướng nghe viện binh của quân Minh sắp đến, nhiều người khuyên Vương đánh ngay lấy thành Đông Quan để tuyệt đường nội ứng, nhưng Vương không nghe, bảo rằng: “Việc đánh thành là hạ sách, nay ta hãy cứ dưỡng binh súc nhuệ để đợi quân địch đến thì ra đánh. Hễ viện quân mà thua, thì quân trong thành tất phải ra hàng. Thế có phải làm một việc mà thành được hai không?” Đoạn rồi bắt phải giữ gìn mọi nơi cho nghiêm nhặt,
Đến tháng mười (1427) Bình Định Vương nghe tin quân của bọn Liễu Thăng sắp sang đất An Nam, liền hội các tướng lại bàn rằng: “Quân kia cậy khoẻ khinh yếu, lấy nhiều nạt ít, chỉ cốt đánh cho được, chứ không tưởng đến điều khác. Nay đường xa nghìn dặm, mà đi có mấy ngày, nếu ta nhân lúc người ngựa của chúng đang mỏi mệt, ta “dĩ dật đãi lao”, đánh là tất được. Bèn sai Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Linh, Đinh Liệt, Lê Thụ đem 1 vạn quân và 5 con voi lên phục sẵn ở cửa Chi Lăng, để đợi quân Minh. Lại sai Lê Lý, Lê Văn An, đem 3 vạn quân cứ lục tục kéo lên đánh giặc.

“Bấy giờ Trần Lựu đang giữ cửa Ba Lụy (Nam Quan) thấy quân Minh đến, lui về giữ Ải Lưu; đến khi quân giặc đến đánh Ải Lưu, Trần Lựu lại lùi về giữ Chi Lăng, cứ cách từng đoạn, chỗ nào cũng có đồn, quân Minh đi đến đâu không ai dám chống giữ, phá luôn một lúc được những mấy cái đồn. Liễu Thăng đắc ý đuổi tràn đi. Bình Định Vương lại làm ra bộ khiếp sợ, cho người đưa thư sang nói với Liễu Thăng xin lập Trần Cao lên làm vua để xin bãi binh. Liễu Thăng tiếp thư không mở ra xem cho người đưa về Bắc Kinh, rồi cứ tiến lên đánh.

“Ngày 18 tháng 9, quân Liễu Thăng đến gần cửa Chi Lăng. Lê Sát sai Trần Lựu ra đánh rồi bỏ chạy. Liễu Thăng mừng lắm, chỉ đem 100 lính kỵ đuổi theo, bỏ đại đội ở lại sau. Đuổi được một đoạn, phải chỗ bùn lầy đi không được, phục binh ta đổ ra đánh, chém Liễu Thăng ở núi Đảo Mã Pha (Mã Yên Sơn, Ôn Châu). Việc ấy vào ngày 20 tháng 9 năm Đinh Mùi. (2)

“Bọn Lê Sát, Trần Lựu thừa thắng đuổi đánh quân Minh giết hơn 1 vạn người. Lúc bấy giờ đạo quân của Lê Lý cũng vừa đến, hội lại tiến lên đánh quân Minh, chém được Lương Minh ở giữa trận. Lý Khánh thì tự tử. Còn bọn Hoàng Phúc và Thôi Tụ đem bại binh chạy về thành Xương Giang, nhưng được nửa đường bị quân của Lê Sát đuổi đến đánh phá một trận; Thôi Tụ cố đánh lấy đường chạy về Xương Giang, không ngờ thành ấy đã bị bọn Trần Nguyên Hãn lấy mất rồi, quân Minh sợ hãi quá bèn lập trại đắp lũy ở giữa đồng để chống giữ.

“Bình Định Vương sai quân thủy bộ vây đánh, sai Trần Nguyên Hãn chặn đường tải lương của quân Minh, lại sai Phạm Vấn, Lê Khôi, Nguyễn Xí đem quân thiết đội vào đánh chém quân Minh được hơn 5 vạn, bắt sống được Hoàng Phúc, Thôi Tụ và 3 vạn quân. Thôi Tụ không chịu hàng phải giết.

“Bấy giờ Mộc Thạnh đánh nhau với Phạm Văn Xảo và Trịnh Khả ở cửa Lê Hoa. Trước Vương cũng đã liệu rằng Mộc Thạnh là người lão luyện tất chờ xem quân Liễu Thăng thắng bại thế nào rồi mới tiến quân, bèn sai đưa thư dặn bọn Văn Xảo cứ giữ vững chứ đừng ra đánh. Đến khi quân Liễu Thăng thua rồi, Vương cho những tên tì tướng đã bắt được, đem những giấy má ấn tín lên cho Mộc Thạnh biết.

“Mộc Thạnh được tin ấy, sợ quá, đem quân chạy, bị quân Trịnh Khả đuổi theo chém được hơn 1 vạn người và bắt được cả người lẫn ngựa mỗi thứ hơn một nghìn.



Vương Thông xin hòa lần thứ hai

“Bình Định Vương sai đưa bọn Hoàng Phúc và hai cái hổ phù, hai dấu đài ngân của quan Chinh Lỗ Phó Tướng Quân về Đông Quan cho Vương Thông biết.

“Vương Thông biết rằng viện binh sang đã bị thua rồi, sợ hãi quá, viết thư xin hòa. Vương thuận cho, rồi cùng với Vương Thông lập đàn thề ở phía nam thành Đông Quan, hẹn đến tháng chạp thì đem quân về Tàu.



Trần Cao dâng biểu xin phong.

Bình Định Vương đã hòa với Vương Thông rồi, quân Minh ở Tây Đô và ở các nơi đều giải binh cả. Vương sai Lê Thiếu Dĩnh, Lê Quang Cảnh và Lê Đức Huy đem tờ biểu và phương vật sang sứ nhà Minh.



Những đồ phương vật là:
1. Hai người bằng vàng để thay mình.
2. Một lư hương bằng bạc.
3. Một đôi bình hoa bằng bạc
4. Ba mươi tấm lượt.
5. Mười bốn đôi ngà voi.
6. Mười hai bình hương trầm.
7. Hai vạn nén hương duyến.
8. Hai mươi bố cây hương trầm.



“Bấy giờ có người xui Vương rằng: lúc trước người Minh tàn ác lắm, nên đem giết cả đi. Vương nói rằng: “Phục thù báo oán là cái thường tình của mọi người, nhưng cái bản tâm người có nhân không muốn giết người bao giờ. Vả người ta đã hàng mà lại còn giết thì không hay. Nếu mình muốn thỏa cơn giận một lúc, mà chịu cái tiếng muôn đời giết kẻ hàng, thì sao bằng để cho muôn vạn con người sống mà khỏi được cái mối tranh chiến về đời sau, lại để tiếng thơm lưu truyền thiên cổ trong sử xanh”.

“Vương không giết người Minh lại cấp cho thủy quân 500 chiếc thuyền giao cho Phương Chính và Mã Kỳ quản lĩnh; cấp lương thảo cho lục quân giao cho Sơn Thọ, Hoàng Phúc quản lĩnh; còn 2 vạn người đã ra hàng và đã bị bắt thì giao cho Mã Anh quản lĩnh đem về Tàu. Vương Thông thì lĩnh bộ binh đi sau. Bình Định Vương tiễn biệt rất hậu.

“Giặc Minh lục tục về bắc, bấy giờ mới thật là: Nam Quốc Sơn Hà, Nam Đế Cư; nước Nam lại được tự chủ như cũ.


Tờ Bình Ngô Đại Cáo.

Bình Định Vương dẹp xong giặc Minh rồi, sai ông Nguyễn Trãi làm tờ bá cáo cho thiên hạ biết.

Tờ Bình Ngô Đại Cáo này làm bằng Hán Văn, là một bản văn chương rất có giá trị đời nhà Lê.



Nhận xét:

            a)- Về vua Lê Lợi:

- Lòng yêu nước thì ai cũng như nhau, không phải chỉ có “giai cấp vô sản” mới yêu nước còn những giai cấp khác thì không.

            Theo lịch sử, Lê Lợi tuy là người nhà nông, nhưng ông thuộc hạng gì? nông dân vô sản? Tiểu nông? Trung nông, phú nông hay đại phú nông?

            Trần Trọng Kim viết về Lê Lợi như sau:

“... người ở làng Lam Sơn, huyện Thụy Nguyên, phủ Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa, họ Lê, tên là Lợi. Đã mấy đời làm nghề canh nông, nhà giàu có, lại hay giúp đỡ cho kẻ nghèo khó, cho nên mọi người đều phục, và những tôi tớ ước có hàng nghìn người. Ông Lê Lợi khẳng khái, có chí lớn, quan nhà Minh nghe tiếng, đã dỗ cho làm quan, nhưng ông không chịu khuất, thường nói rằng: “Làm trai sinh ở trên đời, nên giúp nạn lớn, lập công to, để tiếng thơm muôn đời, chứ sao lại chịu bo bo làm đầy tớ người ta!” Bèn giấu tiếng ở chỗ sơn lâm, đón mời những kẻ hào kiệt, chiêu tập những kẻ lưu vong.

            “Tôi tớ có hàng ngàn người” thì vô sản thế nào được? Lê Lợi phải là hàng đại phú nông! (Nếu ông ta sống cùng thời với Hồ Chí Minh, với Cộng Sản ở thế kỷ 20, thì Lê Lợi đã bị đấu tố trong cái gọi là “Cải cách ruộng đất” của Cộng Sản rồi).

            Bên cạnh đó, ông là người có chí lớn. Lê Lợi nói: “Làm trai sinh ở trên đời, nên giúp nạn lớn, lập công to, để tiếng thơm muôn đời, chớ sao lại chịu bo bo làm đầy tớ người ta.”

            Nói được câu nói như thế, chứng tỏ Lê Lợi là người có học. Có học mới ý thức được quyền lợi của dân tộc và đất nước, mới thấy cái trách nhiệm của mình, đứng lên đấu tranh đánh đuổi quân Minh, giành độc lập cho đất nước.

            (Những vô sản chính cống như Chí Phèo, Thị Nở của Nam Cao, những Cự Đình, Bối, Đơm, Duyên của Tô Hoài trong “Ba người khác” làm sao có thể có ý thức để phản kháng. Chẳng qua, Cộng Sản lợi dụng những phần tử dốt nát nầy để phục vụ cho chúng mà thôi).

            (Các tay viết sử Việt Cộng ca ngợi “anh hùng Lê Lợi áo vải đất Lam Sơn” chỉ là nhận vơ cho đẹp mặt của chúng mà thôi.

            Lê Lợi là người có lòng nhân ái, (không “cách mạng triệt để” như Cọng Sản). Chẳng hạn:

Sau khi thắng trận, “Bấy giờ có người xui Vương rằng: lúc trước người Minh tàn ác lắm, nên đem giết cả đi. Vương nói rằng: “Phục thù báo oán là cái thường tình của mọi người, nhưng cái bản tâm người có nhân không muốn giết người bao giờ. Vả người ta đã hàng mà lại còn giết thì không hay. Nếu mình muốn thỏa cơn giận một lúc, mà chịu cái tiếng muôn đời giết kẻ hàng, thì sao bằng để cho muôn vạn con người sống mà khỏi được cái mối tranh chiến về đời sau, lại để tiếng thơm lưu truyền thiên cổ trong sử xanh”.

“Vương không giết người Minh lại cấp cho thủy quân 500 chiếc thuyền giao cho Phương Chính và Mã Kỳ quản lĩnh; cấp lương thảo cho lục quân giao cho Sơn Thọ, Hoàng Phúc quản lĩnh; còn 2 vạn người đã ra hàng và đã bị bắt thì giao cho Mã Anh quản lĩnh đem về Tàu. Vương Thông thì lĩnh bộ binh đi sau.”



-  Nhớ ơn “Lê Lai cứu chúa”

Sau khi lên ngôi hoàng đế, vua Lê Lợi truy tặng công lao cho Lê Lai là người đã hy sinh cứu mạng sống cho Bình Định Vương.

Trước khi mất vua Lê Lợi nói với con, Lê Thái Tông là người sẽ nối ngôi rằng: “Ta có được ngày hôm nay là nhờ có Lê Lai. Vậy sau khi ta chết phải làm giỗ cho Lê Lai một ngày trước khi làm giỗ cho ta.”

Ngày 22 tháng 8 năm 1433 Lê Thái Tổ băng hà. Từ đó ngày giỗ Lê Lai được tổ chức trước ngày giỗ vua Lê Thái Tổ. Dân gian có câu “Hâm mốt Lê Lai, hâm hai Lê Lợi” là bắt nguồn từ câu nói đó.



            b)- Về Nguyễn Trãi

            Nếu nhìn theo lăng kính giai cấp của Cộng Sản như vừa nói về Lê Lợi như trên thì Nguyễn Trãi thuộc dòng dõi nhà quan. Ông là con của Nguyễn Phi Khanh, Tư nghiệp Quốc tử giám đời nhà Hồ. Nguyễn Trãi cũng là cháu ngoại Trần Nguyên Đán, dòng dõi thượng tướng Trần Quang Khải đời Trần Nhân Tôn, có công lớn trong công cuộc ba lần chống quân Mông Cổ xâm lăng nước ta.

            Nguyễn Trãi đổ thái học sinh đời nhà Hồ. Khi thân phụ ông bị quân nhà Minh, đem về Tầu, ông đi theo khóc lóc. Đến cửa Nam Quan (Khi ấy cửa Nam quan còn là của Việt Nam chứ không như bây giờ), Phi Khanh bảo con: “Con hãy trở về lo trả thù cho cha, rửa hận cho nước, chứ đi theo khóc lóc phỏng có ích gì?!”

            Nghe lời cha, Nguyễn Trãi trở về. Khi nghe tin Lê Lợi khởi nghĩa, ông vào Lỗi Giang ra mắt Bình Định vương, dâng sách “Bình Ngô” được Lê Lợi rất tin tưởng, dùng làm tham mưu, bàn định nhiều mưu kế, giúp Lê Lợi đánh thắng quân nhà Minh.

Không những ông là người có công lớn với nhà Lê mà còn là môt nhà tư tưởng văn học lớn, một nhà chiến lược quân sự... là tác giả “Bình Ngô Đại Cáo”, một áng văn tuyệt tác trong văn học chữ Hán nước ta.

            Theo truyền thuyết, ông có nhiều mưu mẹo trong việc tuyên truyền dân chúng theo phò Lê Lợi. Ông sai người viết lấy mỡ mấy chữ “Lê Lợi vi vương, Nguyễn Trãi vi thần” (Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm vua). Kiến ăn những dấu mỡ, làm chữ hiện ra. Rồi đem những lá ấy thả trên sông cho dân chúng bắt được, tưởng thế là điềm trời báo trước, khiến ai nấy nức lòng theo phò Bình Định Vương.



            c)- Việc giao thiệp với nhà Minh.

            Biết Tầu là nước lớn, Đại Việt là nước nhỏ. Nếu hai bên đánh nhau, chiến tranh sẽ lâu dài nên Lê Lợi cầu hòa để chấn dứt ciến tranh, dân chúng đỡ phải khốn khổ.

            Để khỏi phải mất mặt, trong số cống phẩm có hai người bằng vàng, được gọi là “đại thân kim nhân” thế mạng cho Lễu Thang và Vương Minh bị giết ở ải Chi Lăng. Thật ra, đây chỉ là hình thức hối lộ Tầu mà thôi.

            Cầu hòa và xin phong, không có nghĩa là Đại Việt phụ thuộc nước Tầu. Trong ngoại giao có nhiều phương cách. Đây chỉ là một phương cách để nước yếu khỏi bị nước lớn bắt nạt mà thôi.



            d)- Việc tráo trở của người Tầu:

            Vương Thông xin hòa rồi trở mặt khi nghe tin Liễu Thăng đem binh sang cứu. Đến khi Liễu Thăng tử trận, Vương Thông thấy tuyệt vọng bèn xin hòa lần thứ hai. Bình Định Vương cũng cho hòa.



            e) Thần Kim Qui, con rùa vàng trong lịch sử Việt Nam

Totem (vật tổ) của người Việt là con chim lạc. Chính nhờ chim lạc mà người Lạc Việt đi về phương nam và tồn tại cho đến ngày nay. Hình con chim vẽ trên trống đồng là chim Lạc.

Người Lạc Việt đi về phương Nam, định cư ở lưu vực sông Nhị Hà, ở lại sống cùng với dân Anh-đô-ni-iêng bản địa và lập ra nước Văn Lang.

Tuy nhiên, theo dã sử, thần Kim Qui lại nhiều lần hiện lên giúp người Việt Nam xây dựng đất nước như giúp An Dương Vương xây Loa Thành và dân gươm cho bình Định Vương dẹp giặc Minh. Do đó, Hà Nội mới có sự  tích Hồ Gươm (hay Hồ Hoàn Kiếm - trả lại gươm thần), sự tích “Thần Tháp Rùa” (Tháp Rùa ở giữa Hồ Gươm).

Trong tứ linh, (long lân qui phượng), thường được dùng làm vật trang trí trên bàn thờ, không có chim Lạc mà chỉ có chim Phượng) và có rùa (qui). Có phải vì qui là một trong tứ linh nên qui được đưa vào lịch sử Việt Nam. (3)

 
14)- Mạc Đăng Dung làm điều nhục nhã

Giao-Thiệp Với Nhà Minh.

“Từ khi nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê rồi, quan nhà Lê đã có người sang kêu cầu bên Tàu để xin viện binh. Vua nhà Minh đã sai quan đi đến Vân-nam cùng với quan Tuần- phủ sở-tại tra-xét bên An-nam thực hư thế nào.

“Quan nhà Lê sang Vân-Nam kể rỏ việc họ Mạc làm điều thí nghịch. Quan nhà Minh tâu với vua xin cử binh-mã sang đánh.

“Việc định sang đánh họ Mạc không phải là vua nhà Minh có vị gì họ Lê, nhưng chẳng qua cũng muốn nhân lúc nước Nam có biến, lấy cớ mà sang làm sự chiếm giữ như khi trước sang đánh họ Hồ vậy. Ta phải biết rằng phàm những việc nước nọ giao-thiệp với nước kia thì thường là người ta mượn tiếng “vị nghĩa” mà làm những việc “vị lợi” mà thôi.

“Năm Đinh-Dậu (1537) vua nhà Minh bèn sai Cừu Loan làm đô-đốc, Mao bá Ôn làn Tán-lý-quân-vụ, đem quân sang đóng gần cửa Nam-quan rồi truyền hịch đi mọi nơi, hễ ai bắt được cha con Mạc đăng Dung thì thưởng cho quan-tước và hai vạn bạc. Lại sai người đưa thư sang cho Mạc đăng Dung bảo phải đưa sổ ruộng-đất nhân-dân sang nộp và chịu tội, thì được tha cho khỏi chết.

“Mạc đăng Dung sai bọn Nguyễn văn Thái sang sứ nhà Minh để xin hàng.

“Đến tháng 11 năm Canh-Tý (1540), Mạc đăng Dung thấy quân nhà Minh sửa soạn sang đánh, sợ hãi quá chừng, bèn để Mạc Phúc Hải ở lại giữ nước, rồi cùng với bọn Vũ như Quế cả thảy hơn 40 người, tự trói mình ra hàng, sang chịu tội ở cửa Nam Quan, lạy phục xuống đất để nộp sổ điền thổ và sổ dân đinh, lại xin dâng đất 5 động: là động Tê Phù, Kim Lạc, Cổ Xung, Liễu Cát, La Phù, và đất Khâm châu. Lại đem vàng bạc dâng riêng cho nhà Minh.

“Quan nhà Minh tuy làm bộ hống-hách nói đem binh sang đánh, nhưng cũng sợ phải cái vạ như mấy năm bình định ngày trước, và lại được tiền bạc của Đăng Dung rồi, cái lòng nhiệt thành vị quốc cũng nguội đi, cho nên mới tâu với vua nhà Minh xin phong cho Mạc đăng Dung làm chức Đô thống sứ hàm quan nhị phẩm nhà Minh.

“Đối với vua là nghịch thần, đối với nước là phản quốc, đối với cách ăn ở của loài người, là không có nhân phẩm; một người như thế ai mà kính phục? Cho nên dẫu có lấy được giang sơn nhà Lê, dẫu có mượn được thế nhà Minh bênh vực mặc lòng, một cái cơ nghiệp dựng lên bởi sự gian ác hèn hạ như thế, thì không bao giờ bền chặt được. Cũng vì cớ ấy cho nên con cháu họ Lê lại trung hưng lên được.



Nhận xét:

            Mạc Đăng Dung thuộc giai cấp vô sản. Ông làm nghề đánh cá ở đất Hải Dương. Nhờ có sức khỏe, vai u thịt bắp nên thi đổ “đô lực sĩ” hàng võ quan. Vậy có khác chi vô sản Đỗ Mười làm nghề hoạn heo. Mạc Đăng Dung có hai điều sai:



            a)- Về cá nhân:

            “Đến tháng 11 năm Canh Tý (1540), Mạc Đăng Dung thấy quân nhà Minh sửa soạn sang đánh, sợ hãi quá chừng, bèn để Mạc Phúc Hải ở lại giữ nước, rồi cùng với bọn Vũ Như Quế cả thảy hơn 40 người, tự trói mình ra hàng, sang chịu tội ở cửa Nam Quan, lạy phục xuống đất”

            Phục xuống đất mà lạy thì làm người cũng không xứng, nói chi tới vua là người đại diện cho một nước.



            b)- Về việc làm vua:

            “... nộp sổ điền thổ và sổ dân đinh, lại xin dâng đất 5 động. Cắt đất mà dâng cho ngoại bang ấy là tội bán nước, phản quốc.

            Có điều đáng nói là đất 5 động do Mạc Đang Dung dâng cho Tầu chỉ là đất khống, nghĩa là chỉ có trên giấy tờ mà không có trên thực địa. Khi đi nhận đất, người Tầu mới biết bị lừa mà không làm gì được Đăng Dung. Hội quân lại mà đánh một lần nữa là việc không dễ dàng. Vã lại, quan Tầu đã ăn hối lộ của Mạc Đăng Dung rồi, lòng vị quốc cũng bị cái lòng tham lam làm cho nó mờ nhạt đi...!!!!

            (Ghi chú đặc biệt:

Lịch sử nhục nhã của Mạc Đăng Dung ngày nay đang hiển hiện trở lại. Có vẻ như “Tổng bí thư” (Mặc Đăng Dung) cùng 40 triều thần (40 thành viên bộ Chính Trị) không phải lên ải Nam Quan để hàng giặc mà phải lếch thếch qua tới Bắc Kinh. Điều đó không vẻ vang cho đảng Cộng Sản Việt Nam cả.

(Tuy nhiên, việc làm của Đăng Dung còn khá hơn Dziệt Cộng giao ải Nam Quan cho Tầu. Ải Nam quan không phải là “đất khống”  mà nằm chềnh ềnh ra đó, không che tội cho Dziệt Cộng được.)



15)- Vua Quang Trung đại phá quân Thanh

Tôn Sĩ Nghị đem quân sang An Nam.

“Bấy giờ quan tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị dâng biểu tâu với vua Càn Long nhà Thanh, đại lược nói rằng: “Họ Lê là cống thần nước Tàu, nay bị giặc lấy mất nước, mẹ và vợ Tự quân sang cầu cứu, tình cũng nên thương. Vả nước Nam vốn là đất cũ của nước Tàu, nếu sau khi cứu được nhà Lê, và lại lấy được đất An Nam, thực là lợi cả đôi đường.”

“Vua Càn Long nghe lời tâu ấy sai Tôn Sĩ Nghị khởi quân bốn tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu, Vân Nam, đem sang đánh Tây Sơn. Tôn Sĩ Nghị chia quân ra làm 3 đạo, sai quan tổng binh tỉnh Vân Nam và Quý Châu đem một đạo sang mạn Tuyên Quang, sai Sầm Nghi Đống là tri phủ Điền Châu đem một đạo sang mạn Cao Bằng. Sĩ Nghị cùng với đề đốc là Hứa Thế Hanh đem một đạo sang mạn Lạng Sơn, hẹn ngày tiến binh sang đánh An Nam. Tướng Tây Sơn là Ngô Văn Sở ở Thăng Long được tin quân Tàu sang, sợ thế yếu đánh không nổi, bèn rút quân thủy bộ về đóng giữ từ núi Tam Điệp, sai người về Phú Xuân cáo cấp.

“Tôn Sĩ Nghị kéo quân đến Kinh Bắc (Bắc Ninh), vua Chiêu Thống ra chào mừng rồi theo quân Tàu về Thăng Long. Sĩ Nghị đóng đồn ở giữa bãi, về mé nam sông Nhị Ha, bắc cầu phao ở giữa sông để tiện đi lại, và chia quân ra giữ các mặt.

“Vua Chiêu Thống tuy đã thụ phong, nhưng các tờ văn thư đều phải đề niên hiệu Càn Long. Mỗi khi buổi chầu xong rồi, lại đến dinh Sĩ Nghị để chầu chực việc cơ mật quân quốc. Vua cưỡi ngựa đi với độ mười người lính hầu mà thôi. Sĩ Nghị thì ngạo nghễ, tự đắc, ý tứ xử với vua rất là khinh bạc;



Vua Quang Trung phá quân Thanh.

“Bắc Bình Vương được tinh quân nhà Thanh đã sang đóng ở Thăng Long, lập tức hội các tướng sĩ để bàn việc đem binh ra đánh, các tướng đều xin hãy chính ngôi tôn, để yên lòng người rồi sẽ khởi binh.

“Bắc Bình Vương bèn sai đắp đàn ở núi Bàn Sơn, Vương làm lễ lên ngôi Hoàng Đế, rồi tự mình thống lĩnh thủy bộ đại binh ra đánh giặc Thanh. Ra đến Nghệ An nghỉ lại 10 ngày để kén lấy thêm binh, cả thảy được 10 vạn quân và hơn 100 con voi.

“Vua Quang Trung điểm duyệt quân sĩ, truyền dụ nhủ bảo mọi người phải cố gắng đánh giặc giúp nước. Đoạn rồi kéo quân ra Bắc, đến ngày 20 tháng chạp thì đến núi Tam Điệp. Bọn Ngô Văn Sở, Ngô Thì Nhiệm đều ra tạ tội, kể chuyện quân Tàu thế mạnh, sợ đánh không nổi, cho nên phải lui về giữ chỗ hiểm yếu.

“Vua Quang Trung cười mà nói rằng: “Chúng nó sang phen này là mua cái chết đó thôi. Ta ra chuyến này thân coi việc quân đánh giữ, đã định mẹo rồi, đuổi quân Tàu về chẳng qua 10 ngày là xong việc. Nhưng chỉ nghĩ chúng là nước lớn gấp 10 nước ta, sau khi chúng thua một trận rồi, tất chúng lấy làm xấu hổ, lại mưu báo thù, như thế thì đánh nhau mãi không thôi, dân ta hại nhiều, ta sao nỡ thế. Vậy đánh xong trận này, ta phải nhờ Thì Nhiệm dùng lời nói cho khéo để đình chỉ việc chiến tranh. Đợi mươi năm nữa, nước ta dưỡng được sức phú cường rồi, thì ta không cần phải sợ chúng nữa.”

“Vua Quang Trung truyền cho tướng sĩ ăn tết Nguyên Đán trước, để đến hôm trừ tịch thì cất quân đi, định ngày mồng 7 tháng giêng thì vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Đoạn rồi, truyền lệnh cho ba quân đến nghe lệnh điều khiển.

“Đại tư mã Sở, Nội Hầu Lân đem tiền quân đi làm tiên phong. Hô hổ Hầu đem hậu quân đi đốc chiến.

“Đại đô đốc Lộc, Đô đốc Tuyết đem hữu quân cùng thủy quân, vượt qua bể vào sông Lục Đầu. Rồi Tuyết thì kinh lược mặt Hải Dương, tiếp ứng đường mé đông; Lộc thì kéo về vùng Lạng Giang, Phượng Nhỡn, Yên Thế để chặn đường quân Tàu chạy về.

“Đại đô đốc Bảo, đô đốc Mưu đem tả quân cùng quân tượng mã đi đường núi ra đánh phía tây. Mưu thì xuyên ra huyện Chương Đức, tiện đường kéo thẳng đến làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì, đánh quân Điền Châu; Bảo thì thống suất quân tượng mã theo đường huyện Sơn Lãng ra làng Đại Áng thuộc huyện Thanh Trì tiếp ứng cho mặt tả.

“Năm quân được lệnh đều thu xếp đâu đấy, đến hôm 30 khua trống kéo ra Bắc. Khi quân sang sông Giản Thủy (3) cánh nghĩa quân của nhà Lê tan vỡ chạy cả. Vua Quang Trung thân đốc các quân đuổi theo đến huyện Phú Xuyên bắt sống hết được toán quân Tàu đóng ở đấy, không một người nào chạy thoát được; vì thế cho nên không có tin báo về, những quân Tàu đóng ở làng Hà Hồi và làng Ngọc Hồi không biết gì cả. Nửa đêm ngày mồng 3 tháng giêng năm Kỷ Dậu (1789) quân vua Quang Trung đến làng Hà hồi vây kín đồn giặc, rồi bắc loa lên gọi, các quân dạ rầm cả lên, có hàng muôn người. Quân canh đồn bấy giờ mới biết, sợ hãi thất thố, đều xin hàng, bởi thế, lấy được hết cả quân lương và đồ khí giới. Sáng mờ mờ ngày mồng năm, quân Tây Sơn tiến lên đến làng Ngọc Hồi, quân Tàu bắn súng ra như mưa. Vua Quang Trung sai người lấy những mảnh ván, ghép ba mảnh lại làm một, lấy rơm cỏ giấp nước quấn ở ngoài, rồi sai quân kiêu dũng cứ 20 người khiêng một mảnh, mỗi người dắt một con dao nhọn, lại có 20 người cầm khí giới theo sau. Vua Quang Trung cưỡi voi đi sau đốc chiến, quân An Nam vào đến gần cửa đồn, bỏ ván xuống đất, rút dao ra, xông vào chém, quân đi sau cũng kéo ùa cả vào đánh. Quân Tàu địch không nổi, xôn xao tán loạn, xéo lẫn nhau mà chạy. Quân Nam thừa thế đánh tràn đi, lấy được các đồn, giết quân Thanh thây nằm ngổn ngang khắp đồng, máu chảy như tháo nước. Quân các đạo khác cũng đều được toàn thắng. Quan nhà Thanh là đề đốc Hứa Thế Hanh, tiên phong Trương Sĩ Long, tả dực Thượng Duy Thăng đều tử trận cả; quan phủ Điền Châu là Sầm Nghi Đống đóng ở Đống Đa bị quân An Nam vây đánh cũng thắt cổ mà chết.

“Tôn Sĩ Nghị nửa đêm được tin báo, hoảng hốt không kịp thắng yên ngựa và mặc áo giáo, đem mấy tên lính kỵ chạy qua sông sang Bắc. Quân các trại nghe tin như thế, xôn xao tan rã chạy trốn, tranh nhau sang cầu, một lát cầu đổ, sa cả xuống sông chết đuối, sông Nhị Hà đầy những thây người chết.

“Ngày hôm ấy vua Quang Trung đốc quân đánh giặc, áo ngự bào bị thuốc súng bắn vào đen như mực. Đến trưa thì vào thành Thăng Long, sai tướng đem binh đuổi đánh quân nhà Thanh đến cửa Nam Quan. Những dân Tàu ở gần Lạng Sơn sợ khiếp, đàn ông, đàn bà dắt díu nhau mà chạy, từ cửa ải về mé bắc hơn mấy trăm dặm, yên tịnh không nghe thấy tiếng một người nào.

“Vua Quang Trung vào thành Thăng Long, hạ lệnh chiêu an, phàm những người Tàu trốn tránh ở đâu ra thú tội, đều được cấp cho áo mặc, lương ăn. Lại bắt được cả ấn tín của Tôn Sĩ Nghị bỏ lại, trong những giấy má bắt được có tờ mật dụ của vua Càn Long nói rằng: “Việc quân nên từ đồ, không nên hấp tấp. Hãy nên đưa hịch truyền thanh thế đi trước, và cho các quan nhà Lê về nước cũ hợp nghĩa binh, tìm tự quân nhà Lê đem ra đứng đầu để đối địch với Nguyễn Huệ, thử xem sự thể thế nào. Nếu lòng người nước Nam còn nhớ nhà Lê, có quân ta kéo đến, ai là chẳng gắng sức. Nguyễn Huệ tất phải tháo lui; ta nhân lấy dịp ấy mà sai Tự quân đuổi theo, rồi đại binh của ta theo sau, như thế không khó nhọc mấy nỗi mà nên được công to, đó là mẹo hay hơn cả. Ví bằng suốt người trong nước, nửa theo đằng nọ, nửa theo đằng kia, thì Nguyễn Huệ tất không chịu lui. Vậy ta hãy đưa thư sang tỏ bảo đường họa phúc xem nó đối đáp làm sao. Đợi khi nào thủy quân ở Mân, Quảng đi đường bể sang đánh mặt Thuận Hóa và Quảng Nam rồi, bộ binh sẽ tiến lên sau. Nguyễn Huệ trước sau bị địch, thế tất phải chịu thua. Bấy giờ ta sẽ nhân mà là ơn cho cả hai bên; tự đất Thuận Hóa Quảng Nam trở vào Nam, thì cho Nguyễn Huệ; tự châu Hoan, châu Ái trở ra Bắc thì phong cho Tự quân nhà Lê. Ta đóng đại binh lại để kiềm chế cả hai bên, rồi sẽ có xử trí về sau”.

“Vua Quang Trung đem tờ mật dụ ấy bảo với Ngô Thì Nhiệm rằng: “Ta xem tờ chiếu của vua nhà Thanh chẳng qua cũng muốn mượn tiếng để lấy nước ta đó thôi. Nay đã bị ta đánh thua một trận, tất là lấy làm xấu hổ, chắc không chịu ở yên. Hai nước mà đánh nhau thì chỉ khổ dân. Vậy nên dùng lời nói khéo, để khiến cho khỏi sự binh đao; việc ấy nhờ nhà người chủ trương cho mới được”.

“Ngô Thì Nhiệm vâng lệnh làm thư đại khái nói rằng: “Nước Nam vốn không dám chống cự với đại quốc, nhưng chỉ vì Tôn Sĩ Nghị làm nhỡ việc cho nên phải thua. Vậy nay xin tạ tội và xin giảng hòa.”

“Vua Quang Trung sai sứ đem thư sang Tàu, và lại sai đem những quân nhà Thanh đã bắt được, để ở một nơi, cấp cho lương thực, đợi ngày cho về nước. Xếp đặt mọi việc xong rồi, đem quân về Nam, lưu Ngô Văn Sở và Phan văn Lân ở lại tổng thống các việc quân quốc; còn những việc từ lệnh giao thiệp với nước Tàu thì ủy thác cho Ngô Thì Nhiệm và Phan Huy Ích cho được tự tiện mà khu xử, hễ không có việc gì quan hệ thì bất tất phải đi tâu báo mà làm gì.


Nhận xét:

            a)- Bách chiến bách thắng:

Việc vua Quang Trung đánh bại quân Thanh là một chiến công vô cùng hiển hách của người Đại Việt. Nó đặc sắc ở chỗ: Lấy ít đánh nhiều, chuyển quân thần tốc, tấn công như sấm sét, dứt điểm mau chóng và gọn.

            Trước hết, nói về ý chí của vua Quang Trung và binh lính:

            Khi nghe tin quân nhà Thanh sang đánh, vua Quang Trung nói: “Chúng nó sang phen này là mua cái chết đó thôi. Ta ra chuyến này thân coi việc quân đánh giữ, đã định mẹo rồi, đuổi quân Tàu về chẳng qua 10 ngày là xong việc...”



            Trong lời hịch tướng sĩ của nhà vua,  có đoạn:

“Đánh cho để dài tóc,/

Đánh cho để đen răng./

Đánh cho nó chích luân bất phản,/

Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn./

Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”.



            Ghi chú:

            Người nhà Thanh thường cạo tóc phía trước, phía sau chừa cái đuôi chuột.

            Đen răng là tục nhuôm răng của người Việt.

            “Chích luân bất phản”: Chẳng còn cái xe mà về.

            “Phiến giáp bất hoàn”: Chẳng còn manh giáp

            “Sử tri Nam Quốc anh hùng chi hữu chủ”: Lịch sử biết rằng nước Nam anh hùng có vua làm chủ.



            - Quân Tôn Sĩ Nghị tính chung cả ba đạo là 2 trăm ngàn người. Quân của vua Quang Trung ít hơn. Khi tới Nghệ An, nhà vua mới tuyển thêm được 10 vạn nữa.

            Quân địch, kể cả Tôn Sĩ Nghị thì ỷ y coi thường Đại Việt, chiếm xong Thăng Long, Nghị để cho binh sĩ mặc tình cướp phá.

            Sau khi làm lễ lên ngôi chỉ 10 ngày là quân của vua Quang Trung  đã tới Nghệ An. Vua cho binh lính ăn tết trước, để chờ đến Tết, trong khi quân Tầu đang vui chơi ăn uống no say trong ba ngày tết thì bị quân vua Quang Trung tấn công bất thần. Bất ngờ là yếu tố chiến thuật quan trọng khi tấn công địch.

            Chiến thuật thứ hai là đánh như sấm sét: tấn công mãnh liệt, áo ạt, quyết chiến làm cho quân giặc không kịp trở tay, vô cùng khiếp đảm. Quân khí là ván tẩm rơm ướt để tránh tên địch, xông vào hàng ngũ địch, cận chiến bằng đoản đao, lại phối hợp voi ngựa. Địch không phản ứng được, không có cách xoay sở, chỉ chết hoặc đầu hàng.

            Nhà vua lại đích thân chỉ huy, áo vua đen những thuốc súng.

            Chiến huật thứ ba là dứt điểm: Từ sông Giản Thủy đến đồn Hà Hồi, Ngọc Hồi là những đồn tiền tiêu phòng thủ thành Thăng Long đều bị đánh dứt điểm, không cho tên giặc nào chạy thoát, nên chúng không báo tin cho nhau được.

           

b) Bỏ cả ấn tín mà chạy:

Khi quân vua Quang Trung tới gần thành Thăng Long, lúc nửa đem, Tôn Sĩ Nghị mới biết, bèn bỏ cả ấn tín mà chạy. Quân Tầu chạy trốn cả, tranh nhau qua cầu phao trên sông Nhị Hà, cầu sập, binh lính Tầu chết đuối, xác chết lấp dầy sông.

            (bài “Thăng Long Hành Khúc” của Văn Cao có câu: “Nhị Hà còn đây, Nhị Hà còn đó, xác quân chàng Tôn sập cầu trôi đầy sông)



            c)- Gò Đống Đa:       

Đêm 4 rạng ngày 5 tháng giêng năm Kỷ Dậu (1789) Đô Đốc Long chỉ huy quân Tây Sơn diệt đồn Khương Thượng. Tri phủ Điền Châu chỉ huy quân Thanh ở đây phải treo cổ tự tử ở Loa Sơn (nôm na gọi là núi Ốc). Trận nầy mở đường cho quân Tây Sơn đánh thẳng vào thành Thăng Long.



            Bài thơ Loa Sơn điếu cổ của Ngô Ngọc Du có câu:



                        Thành Nam thập nhị kình nghê quán

                        Chiến điệu anh hùng đại vũ công

Có nghĩa là:

                        Thành Nam xác giặc mười hai đống

                        Ngời sáng anh hùng đại vũ công



            Xác quân Thanh gom lại chôn, lấp đất lên thành gò, về sau cây cối mọc  um tùm, gọi là Gò Đống Đa. NGười Tầu ở Hà Nội có lập miếu thờ Sầm Nghi Đống và quân Thanh  ở đây.

            Hiện nay, tới ngày mồng 5 Tết, người Việt mở hội mừng chiến thắng của vua Quang Trung cũng diễn ra ở đây

           

            d) Giấc mộng không thành của vua Quang Trung:

            Vua Quang Trung còn muốn xuất quân đánh nhà Thanh, cho quấy rối nội địa Tầu bằng cách lợi dụng “Thiên Địa Hội”. Nhà vua cũng xin cầu hôn với Thanh triều, đòi đất Lưỡng Quảng là đất Nam Việt khi xưa của Triệu Đà. Việc chưa thành thì nhà vua đã băng hà.



            e)- Dùng mưu để kích thích quân sĩ:

            Trước khi đi đánh quân Thanh, sau khi làm lễ lên ngôi xong, nhà vua sai mang đến một cái mâm, trên có các đồng tiền.

Vua Quang Trung nói với binh lính:

            “Chuyến nầy ra Bắc, nếu đại thắng thì Trời cho các đồng tiền đều sấp cả. Còn như có đồng tiền ngữa, thì đại sự có trắc trở.”

            Nói xong, vua Quang Trung chấp tay khấn vái, bưng mâm tiền dâng cao rồi đổ cả xuống đất. Thấy đồng tiền nào cũng sấp, quân sĩ vui mừng reo hò ầm ĩ, tin chắc lần nầy sẽ thắng giặc.

            Thực ta, tất cả những đồng tiền đó, do lệnh cua vua, đúc sẵn, chỉ có mặt sấp mà thôi.



16)- Viễn tượng

            Trong tương lai, liệu người Tầu còn xâm lang nước ta?

            a)- Tham vọng

Người Tầu không bao giờ bỏ cái mộng Đại Hán của họ. Không những họ là Trung Quốc” của nước Tầu mà còn muốn là Trung quốc” của Đông Nam á, châu Á và toàn thế giới nữa.

            Trong quá trình bành trướng đó, Việt Nam là tảng đá lớn trên con đường người Tầu tiến xuống phía nam, tới eo biển Malacca, tới Indonesia và cả Úc, Tay Tây Lan. Họ phải chiếm đóng Việt Nam cho bằng được. Chiếm Việt Nam có nghĩa là thống trị bán đảo Đông Dương.

            b)- Phương cách xâm lược

            Người Tầu xâm lược nước ta bằng hai phương cách thông thường nhứt:

            - Một là, bằng vũ lực. Kể từ giặc Ân đến cuộc đại phá quân Thanh của  vua Quang Trung, viễn chinh bằng quân sự, người phương Bắc, (nói chung cả cả Mông - Thanh) đã thất bại không ít lần. Người Việt vẫn luôn luôn giữ được nền tự chủ.

            - Hai là, bằng chính sách đồng hóa. họ muốn biến người Lạc Việt thành người Hán, nhưng cũng thất bại nốt.



            Trước kia, khi xâm lăng nước ta, về tâm lý, rõ ràng người Tầu chủ quan, khinh địch: Từ Trương Phụ đến Tôn Sĩ Nghị, có bao giờ người Tầu không chủ quan, kiêu ngạo và vì vậy, họ phải thua.

            Về chiến thuật, hai lần bị phục binh trên đường rút về qua Lạng Sơn, hai lần thủy quân của người Tầu bị đại bại trên sông Bạch Đằng, cho chúng ta thấy người Tầu không chịu rút kinh nghiệm của những lần thua trước.



            Bây giờ, người Tầu sẽ không chủ quan như vậy. Và chưa hẵn họ dựa hoàn toàn vào quân sự để xâm lăng nước ta.

            Trong tình hình thế giới hiện nay, không dễ gì một nước lớn đem quân xâm lăng một nước nhỏ mà thế giới để yên, không phản ứng, không lên án...

            Lấy ví dụ cuộc xâm lăng của Tầu Cộng ở 6 tỉnh biên giới Hoa Việt năm 1979, để trấn an thế giới, và đặc biệt với Liên Xô, Đặng Tiểu Bình phải tuyên bố việc “dạy cho Việt Nam một bài học” có “giới hạn về không gian và thời gian”, nghĩa là cuộc tấn công chỉ giới hạn ở biên giới, không kéo dài quá một thời gian hạn định nào đó.

            Ý chính của Đặng là muốn nói với Liên Xô bởi vì bên kia Hắc Long Giang (biên giới Nga-Hoa), theo những tấm hình Kissinger đưa cho Chu Ân Lai “để làm quà” lần đầu tiên khi Kissinger tới Bắc Kinh năm 1971, là bấy giờ 40 sư đoàn quân Liên Xô đang đóng dọc theo con sông nầy, chờ lệnh để sang sông. Khi xua quân tấn công Dziệt Cộng, ngoài việc e ngại thái độ của Hoa Kỳ, có lẽ Đặng sợ nhứt là 40 sư đoàn nầy, sẽ là cú đấm mãnh liệt phía sau Tầu Cộng.

            Mặc dù ngày nay Liên Xô tan rã, sau lưng nước Tầu, dọc theo Hắc Long Giang không còn sư đoàn nào nữa nhưng liệu người Tầu có e ngại ít nhiều về người Nga đang ở thế yếu kém quân sự.

            Tầu càng ngày càng mạnh dần về kinh tế. Vì vậy, họ sẽ dùng sức mạnh nầy để đánh Dziệt Cộng. Lấy tiền để đánh một anh nhà nghèo, anh nghèo sớm sụp đổ. Ví dụ: Mậu dịch tự do Tầu Việt là lưỡi gươm kề cổ Dziệt Cộng.

            Người Tầu cũng đánh Dziệt Cộng bằng chính trị. Cả một đám đông trong bộ Chính Trị muốn ngã theo Tầu để bảo vệ quyền lợi của đảng và của riêng họ. Ngày xưa, chỉ có một Trần Di Ái, một Trần Ích Tắc, một Lê Chiêu Thống. Bây giờ trong bộ chính trị Dziệt Cộng, đống rác nầy cao lắm, không bao giờ dọn sạch được.

Dĩ nhiên, Tầu Cộng cũng đánh về văn hóa, phim ảnh, thông tin, sách báo, v.v... Nhưng quan trọng nhứt là “đạo quân thứ năm”.

Lo sợ về đạo quân thứ năm, Lê Duẫn chơi một trò độc: Lột sạch rồi đuổi ra biển.

Thật ra, người Tầu ở các nước Đông Nam Á, không phải bao giờ họ cũng là đạo quân thứ năm cả.

Ở nước ta, tổ tiên nhà Lý, nhà Trần, nhà Hồ từ bên Tầu mới có mấy đời. Trần Tiễn Thành, Phạm Phú Thứ, Phan Thanh Giản, Ngụy Khắc Đản, Lý Văn Phức, Mạc Cửu, v.v.... đều trung thành với tổi quốc quê hương thứ hai của họ. Người Tầu ở Siangapor, ở Indônesia, ở Thái Lan, Mã Lai... đâu có muốn nơi họ sinh sống trở thành thuộc địa của Tầu.

Chúng ta không ngại về những người Tầu qua nước ta đã mấy đời, nhưng phải cảnh giác với những người Tầu mới qua để khai thác bô xít nhôm, nhà máy, hầm mỏ, v.v... bởi vì những người đó, trước khi qua Viêẹt Nam, đã được học tập và có sứ mạng tổ quốc giao cho. Họ phải “diện hướng tổ quốc” hằng ngày như người theo đạo Thiên chúa xưng tội vậy. Đó là những kẻ hãnh tiến, tham lam có sứ mạng làm nội ứng khi có chiến tranh xâm lược của Tầu.

Cộng Sản Tầu không tấn công ồ ạt mà sẽ tấn công từng đợt, từng vùng, theo kiểu tằm ăn dâu, tiến hai bước, lùi một bước.



Ví dụ:

Khi vụ xung đột biển đông bắt đầu xảy ra, các nước Đông Nam Á chủ trương họp chung (quốc tế), một bên là các nước Đông Nam Á, một bên là Tầu. Hà Nội cũng chung lập trường như thế.

Tầu Cộng chủ trương ngược lại: Họp với từng nước một, tay đôi giữa Tầu và quốc gia đó.

Sau vụ xung đột ở biển đông, Tầu cắt giây cáp tàu thăm dò dầu lửa của Hà Nội, là người Tầu tiến hai bước. Dziệt Cộng vừa mới sai Hồ Xuân Sơn qua Bắc Kinh họp riêng với Tầu. Như vậy là Tầu lùi một bước. Tiến hai, lùi một là coi như đạt được một bước. Cứ thế, người Tầu sẽ đi tới hoài.

Rồi ra, khi đã họp tay đôi, vấn đề khai thác dầu hỏa được thỏa thuận. Nhưng trên thực tế, người Tầu vừa đông, vừa mạnh, vừa giàu. Việt Nam thì ngược lại. Như vậy thì với quyền lợi dầu khí, người Tầu hưởng bao nhiêu phần trăm? Người Việt hưởng bao nhiêu phần trăm? Không nói độc giả cũng đã biết. Làm ăn chung với người giàu, người nghèo bao giờ cũng chịu thiệt.

Đó là tương lai hợp tác Tầu - Việt khi Dziệt Cộng chịu họp tay đôi và hợp tác khai thác quyền lợi biển giữa hai bên.



Chính sách xâm lược của người Tầu, nguy hiểm nhứt là “tằm ăn dâu”. Bằng chính sách “tự do mậu dịch”, “tự do đi lại”, “tự do cư trú”, người Tầu từ phương Bắc xuống phương nam ngày càng đông. Ở nước ta, người Tầu đang thực hiện những “phố Tầu”. Trên Cao nguyên đã có những “đặc khu Tầu”. Rồi ra sẽ có những “thành phố Tầu”, những “làng Tầu”, “huyện Tầu”, “đặc khu Tầu”...  Việt Nam có 80 triệu dân, người Tầu sẽ di dân đến đó hơn 80 triệu người Tầu nữa. Kampuchia có 14 triệu dân, Tầu sẽ di dân đến đó 15 triệu dân. Lào có 7 triệu dân, Tầu sẽ di dân đến đó 10 triệu. Người Tầu sẽ lấy con gái Việt, giựt vợ của người Việt, như chính sách của Cộng Sản Hà Nội thực hiện sau khi chiếm miền nam đối với những gia đình chúng gọi là “ngụy” vậy. Người miền Nam đã không chống lại nỗi chính sách đó của Dziệt Cộng. Vậy, trong tương lai, người Việt có chống lại nỗi chính sách đó của Tầu Cộng hay không?

Di dân mới, cộng thêm với người Tầu bản địa quay lưng với nơi cho họ hạnh phúc, hợp tác với bọn Tầu mới tới, họ có một đa số áp đảo, làm sao chính quyền, - dù có bầu cử ngay thẳng -, vuột khỏi tay họ?

Chính sách nầy không khó thực hiện khi chính quyền Hà Nội, Pnom-Pênh, Vạn Tượng là những kẻ ngoan ngoãn như chính phủ Hà Nội bây giờ.

Vã lại, Dziệt Cộng, “dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác”, tinh thần quốc gia là “cục bộ” trước tương lai “thế giới đại đồng”. Không có cái gì là của Việt Nam hay của Tầu, mà chính là tài sản của nhân dân toàn thế giới.

Chính với “tinh thần quốc tế vô sản” đó, Phạm văn Đồng ngày 14 tháng 9 năm 1958, đã ký công hàm “Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc.”



            Giống như thời kỳ bắc thuộc, người Tầu chỉ giữ tạm vùng lưỡi bò hay lãnh thổ phía nam một ngàn năm nữa, trước khi nhân loại tiến lên “thế giới đại đồng” như “lời Mác đã dạy”.

            Đảng Cộng Sản Việt Nam có thiệt thòi gì đâu khi họ “đem đất nước để xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa” như nhận xét của tổng thống Nixon.

            Xem ra, chính quyền Hà Hội đang chậm chậm tiến lên chủ nghĩa xã hội, không nôn nóng như Pol Pot, Khiêu Xamphon, Ieng Xary của Khmer Đỏ, khi bọn nầy cầm quyền ở Phom-Pênh từ 1975 đến 1979.

            Tuy nhiên, cai trị một đất nước có 1 tỷ 300 triệu dân, trong số có 400 triệu đang nghèo đói triền miên là một việc khó. Không chắc người Tầu có thể cai trị một lãnh thổ lớn hơn, dân cư đông hơn mà làm được. Đế quốc càng rộng, sự sụp đổ càng đến gần. Lịch sử đế quốc La Mã, đế quốc Tây Ban Nha, đế quốc Anh, Pháp chứng minh điều đó.

            Vã lại, lịch sử cho thấy tinh thần độc lập, tự chủ, đấu tranh kiên trì, quyết liệt của người Đại Việt. Sau một ngàn năm bắc thuộc, họ đã trỗi dậy được. Liệu Tầu Cộngcai trị Việt Nam được bao nhiêu năm, sau khi Cộng Sản Hà Nội cõng rắn cắn gà nhà?/



hoànglonghai



 (1)

Vợ thằng Ngô đốt vàng cho chú Khách,
Một tay cầm cái dù rách
Một tay xách cái chăn bông
Em đứng bờ sông
Em trông sang nước người:
“Hỡi chú chiệc ơi là chú chiệc ơi”
Một tay em cầm quan tiền,
Một tay em xách thằng bù nhìn
Quan tiền nặng thì quan tiền chìm
Bù nhìn nhẹ thì bù nhìn nổi,
Ơi ai ơi, của nặng hơn người...



(2) Liễu Thăng ăn hối lộ

(3) Con rùa trong Văn hoá Việt Nam (trích)




Hình gốm Rùa thần mang trên lưng thanh kiếm Vua Lê Lợi trả.

Có lẽ đặc thù văn hóa sông nước của người Việt, con rùa nước đã trở thành một biểu tượng thiên liêng và thần thánh hoá trong tâm trí người. Cụm từ Kim Qui được gán cho một nhân vật thần thánh với hình dáng là con rùa vàng to lớn xuất hiện từ biển cả.






Mũi tên đồng tại Thành Cổ Loa




Sơ đồ thành Cổ Loa

Trong văn hóa Việt Nam, con rùa mang biểu tượng thần thánh, linh thiên lần đầu tiên xuất hiện trong truyền thuyết thời An Dương Vương dựng nước.  Theo truyền thuyết, thần Kim Qui xuất hiện hai lần để giúp nhà vua. Lần đầu tiên để giúp An Dương Vương xây Loa thành và cho nhà vua một cái móng thần của mình để làm cái lẫy nỏ có thể bắn ra hàng trăm ngàn mủi tên, để bảo vệ đất nước khỏi sự xâm lăng của giặc phương Bắc. Lần thứ hai Thần Kim Qui xuất hiện để chỉ ra Mỵ  Châu là  người theo địch.

Ngoài ra rùa nổi bật trong quá trình giữ nước. Theo truyền thuyết rùa thần đã giúp Lê Lợi đánh bại quân Tầu bằng cách cho Bình Định Vương mượn  gươm thần. Sau khi đánh tan giặc Minh, thần Kim quy lấy lại gươm ở  hồ  Hoàn Kiếm khi nhà vua ngự thuyền rồng trên hồ này.

Ngày nay con rùa vẫn giữ một nét đặc trưng cơ bản mang tính thiêng liêng trong quan niệm và văn hoá của người Việt. Tại hồ Gươm, hiện vẫn còn một vài “cụ” rùa, được xác định là sống cách thời chúng ta vài trăm năm, và là biểu tượng của Thủ đô ngàn năm văn hiến và cho cả Việt Nam.


Không có nhận xét nào: