L.X.Q


Nguyễn Vỹ: ’’Nhà văn An Nam khổ như chó’’ (Gửi Trương Tửu)

(Kỉ niệm 100 năm ngày sinh của Thi sĩ Nguyễn Vỹ (1912 – 2012), 41 năm ngày mất (7.2.1971 – 7.2.2012)
Tôi biết tiếng Nguyễn Vỹ từ hơn 40 năm trước nhân một lần dự sinh nhật của anh bạn viết văn trẻ Trần Qúy Thường. Khi rượu đã ngà ngà, Thường đọc cho cả bàn nghe 1 khổ thơ của bài Gửi Trương Tửu của ông mà ấn tượng nhất câu ‘’… nhà văn An Nam khổ như chó’’ .

Mọi người nghe xong trầm trồ đề nghị anh đọc toàn bài. Thường lắc đầu: Tớ cũng chỉ nghe thằng bạn là sinh viên Khoa Văn trường đại học Tổng hợp đọc một lần, cả bài dài, chỉ nhớ nhất đoạn thơ này…
Dạo đó, dứơi mắt tôi: Võ Huy Tâm tác giả tiểu thuyết Vùng Mỏ (ở Lò Thống nhất), Như Mai – tác giả truyện Thi Sĩ Máy – cây bút nổi danh trong phong trào Nhân văn giai phẩm (Báo Vùng Mỏ)), Võ Khắc Nghiêm, Trần Qúy Thường đồng niên, cùng ở Mỏ cọc 6, Lý Biên Cương (Hồng Gai)… – là những’’cường nhân’’! Và cái chính – ‘’ma lực’’ của nghề viết đã mê hoặc đám trẻ thích Văn chương. Tôi bỏ công ra thư viện Cẩm Phả tìm hiểu thân thế sự nghiệp của Nguyễn Vỹ, nhưng không hề có sách báo nào nhắc đến ông dù chỉ một dòng. Thời gian trôi đi, niềm hứng khởi tắt ngóm, đi vào quên lãng. Mãi đến đầu thế kỉ 21, một lần tình cờ đến thư viện Quận Hellersdoft của thủ đô Berlin, nước Đức, ở ngăn tiếng Việt tôi đã tìm được cuốn biên khảo của nhà phê bình văn học Nguyễn Tấn Long tựa đề Toàn Tập Thi Nhân Tiền Chiến Việt Nam, trong đó đầy đủ tư liệu về Nguyễn Vỹ cùng bài thơ Gửi Trương Tửu đính kèm với 14 câu thơ bị kiểm duyệt Pháp cắt bỏ.

Tôi luôn coi văn đàn Việt Nam ở những năm 30 của thế kỉ 20 là dòng văn chương rực rỡ của đất nước ở mọi thời đại, nhất là 3 năm (1936 – 1939) khi Mặt trận Bình Dân lên năm quyền ở Pháp khiến chế độ kiểm duyệt Văn hoá – Văn nghệ của thực dân ở Đông dương được nới lỏng… Nhờ đó văn đàn Việt Nam trở nên sôi động trong không khí tìm tòi sáng tạo, nhiều tác phẩm Văn, Thơ, Nhạc, Hoạ có gía trị Nhân văn – Nghệ thuật ra đời, đánh dấu một thời đại mới của Văn học – Nghê thuật Việt Nam đương đại phát triển mà trước hết phải kể sự chuyển mình của thi ca trong phong trào Thơ Mới!

Thơ – là ‘’Tiếng lòng’’ của người nghệ sĩ khi cảm xúc đã đến điểm đỉnh, thi sĩ chắt lọc ngôn từ, chọn phương pháp trình bầy để diễn đạt. Thơ Mới ra đời, bởi người viết hoàn toàn tự do, không bị các quy tắc gò bó, ảnh hưởng, ràng buộc (1). Nhờ vậy, đã mang lại cho Thi đàn Việt Nam luồng gió mới, sản sinh nhiều cây bút trở thành những ngôi sao sáng trên bầu trời Văn chương nước nhà. Thi sĩ Nguyễn Vỹ là một trong số những ngôi sao đó. Ông góp phần tô điểm diện mạo thi ca Việt trong buổi đầu chuyển mình. Sự hiện diện của Nguyễn Vỹ đã in dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc Việt Nam ở những năm 30 của thế kỉ 20 và tiếp tục trải dài cho đến hôm nay!

Theo Tuyển tập của Nguyễn Tấn Long (nhà xuất bản VH, năm 1998): Nguyễn Vỹ sinh năm 1912 (2) tại Đức Phổ, Quảng Ngãi. Thời thanh niên đã từng cắt tóc đi tu, tu không thành, phá giới đi gánh cát thuê ở bãi sông, bán kẹo ở Hà Nội, bán báo ở Sài Gòn… Sau thời gian lăn lộn trong mội trường thực tế đầy khắc nghiệt, lam lũ… khi cảm thấy đã đủ ‘’vốn sống’’, Nguyễn Vỹ quyết định về Hà Nội, hành nghề viết văn, làm báo cùng bạn văn đất Hà Thành. Ông đã cùng họa sĩ Nguyệt Hồ, thi sĩ Nguyễn Bính – thành lập nhóm Việt – Pháp, ra tờ báo tiếng Pháp Le Cygne, nhằm truyền bá tư tưởng tiến bộ góp phần nâng cao Dân trí cho nhân dân. Le Cygne có rất nhiều bài viết công kích chính sách, đường lối cai trị hà khắc của Thực dân Pháp. Cơ quan An ninh Văn hoá của chúng nhận ra đây mối họa tiềm ẩn đối với chế độ. Chúng’’dàn dựng’’ để bắt chủ báo Nguyễn Vĩ , đóng cửa vĩnh viễn tờ Le Cygne – kết án tù 6 tháng và phạt 3000 quan tiền (sách đã dẫn). Hết hạn, ra tù, trở về, ông lại viết báo chống quân phiệt Nhật – lại bị Nhật bắt…

Khi được thả, ông quyết định vào Sài Gòn, làm báo Tổ Quốc, rồi báo Dân chủ, Dân ta, tiếp tục đấu tranh, bảo vệ quyền lợi cho dân cần lao. Kết cục: Tất cả các tờ báo ông tham gia đều bị bị đóng cửa. Suốt thời gian dài, liên tục, Nguyễn Vỹ dùng cây bút để phản kháng, phê phán, đấu tranh với bất công… Ngày 7,2.1971 trên đường từ Sài gòn đi Tiền giang , NV mất trong một tai nạn xe hơi (3).

Ông Đỗ Đình Thọ kể lại trong cuốn Nguyễn Bính – Thơ và Đời (nxb Văn học 2000): Nguyễn Vỹ rất giỏi tiếng Pháp, làm thơ tiếng Việt khá hay. Một giai thoại văn chương rất thú vị, thời đó lưu truyền thể hiện thi tài, cá tính của Thi sĩ: Trong một lần Trưởng phòng Kiểm duyệt báo chí của sở Mật Thám Bắc Kì – René Creyssac (RC) – ‘’tạ sự’’ đến ‘’thăm’’ nhóm Việt – Pháp do 2 nhà thơ Nguyễn Vỹ, Nguyễn Bính và Họa sĩ Nguyệt Hồ, sáng lập, chủ trương. Theo tin của mật vụ Văn hóa – Văn nghệ cung cấp: Nhóm Việt – Pháp có xu hướng ‘’Dân chủ – Tự do – Bác ái’’ – mà bọn cai trị thực dân lại rất sợ dân chúng đòi được hưởng các quyền này. 3 người quyết định tìm cách đánh tan ấn tượng xấu về Le Cygne của R. Creyssac. Họ bàn bạc đi đến thống nhất: Rủ RC đi nhậu rồi ‘’chiêu đãi’’ thuốc Phiện ở tiệm thuốc nổi tiếng Hà Thành thời đó – Tiệm Phi Yến Thu Lâm ở phố Mã Mây.

Để quảng bá cho thương hiệu mình, chủ tiệm hút cho kẻ trên bảng hiệu chữ Phi Yến Thu Lâm – Yến bay trong rừng Thu. (Thời đó, chữ viếe trên bảng hiệu thường không đánh dấu , khách hút, tán: Phiện Thú Lắm (Phi Yến = Phiện. Thu Lâm = Thú Lắm).

RC là con cáo gìa trong nghề. Y rất sành thú chơi của giới Văn Nghệ Sĩ, giỏi tiếng Việt, tiếng Hán, thuộc Truyện Kiều am hiểu văn hóa Phương Đông. Cao hứng và cũng muốn thử tài văn sĩ Bắc Hà, khi hít xong một hơi, RC nói: Tôi ra một đề các bạn cùng làm thơ, nếu hay sẽ được thưởng.

Mọi người tán thành. RC chậm rãi ề à đọc:
‘’Phi yến Thu Lâm… nghĩ cũng hay’’ – đoạn dơ tay làm điệu bộ – xin mời!

Nguyễn Bính nối ngay:
‘’Nằm trên giường tựa nằm trên mây’’

Nguyễn Vỹ nối bằng tiếng Pháp nhưng lại hợp cảnh, hợp tình đúng niêm luật của thơ Đường:

‘’Uyn, đơ, troa, cát – Ken- cờ- Píp’’ (quelques Pipes)
Nguyệt Hồ – kết:
‘’Quật ngã A nam, ngã cả Tây’’!
Bài thất ngôn tứ tuyệt, liên hoàn – của cả 4 người – nói về cảnh hút thuốc Phiện và cái thú đi mây về gió:
Phi Yến Thu Lâm nghĩ cũng hay
Nằm trên giường tựa nằm trên mây
Uyn đơ, troa, cát – Ken cờ Píp (4)
Quật ngã A Nam, ngã cả Tây!

Quan Cẩm rất khó chịu câu thư 4 ‘’…quật… ngã cả Tây’’, nhưng Nguyễn Bính nhanh trí ‘’giải thích’’: Chúng ta làm tình nàng ấy, thì ai cũng bị quật ngã, chả cứ An Nam hay Tây!

Nguyễn Vỹ đế vào: Ha ha…- Moa ngã , Toa ngã chúng ta đều bị’’Nàng tiên nâu’’ – quật ngã cả!
Quan Cẩm hậm hực, miễn cưỡng nhưng cũng phải gật gù đồng tình.
Tuy vậy, Y vẫn chưa chịu, muốn thử tiếp nên chậm rãi lí giải : Hay thì có hay nhưng là của 4 người . Cần phải xác định thực tài của’’ thi sĩ Bắc Hà’’ – nghiã là chỉ từng người một, thôi!

- Nhưng nếu làm được bài thơ hay thì sao – Nguyễn Vỹ hỏi?
- Nếu hay, nhanh sẽ thưởng 4 điếu (thuốc phiện)’’chính hiệu con nai vàng’’ – RC khẳng định.
- Vậy quan ra đề đi – NV, giục.
RC đọc: Á phiến , Á phiện – xin mới!

NS Nguyệt Hồ nháy Nguyễn Bính: Ông Bính chiều quan đi chứ?

- Xong ngay thôi – NB dứt lời, đọc:
Phảng phât hồn mơ nấm mộ đen
Tai nghe giọt nhựa khóc trên đèn
Mê li cả một trời đông Á
Nhè nhẹ tâm hồn, lỏng khóa then!

Nếu ai đã từng chứng kiến các con nghiện đang hút mới cảm thấy cái hay của bài thơ: Trong căn phòng kín gió, mờ tối (người nghiện thuốc phiện rất sợ nước, sợ gió), khói thuốc mù mịt, ta cảm thấy như đang ở trong ngôi mộ’’đen’’.


Tai ta nghe thấy người’’bồi’’ thuốc đưa cục nhựa (cây thuốc phiên) hơ trên ngọn lửa của ngọn đèn đốt bằng dầu lạc, phát ra tiếng xèo xèo, rin rít… cứ như tiếng khóc nỉ non của’’hồn ma’’… rồi khi hít khói vào, con nghiện ‘’phê’’ thuốc, cảm thấy người như bay lượn trong không gian, rồi tâm hồn rạo rực, kích thích… cơ thể hưng phấn đến’’lỏng…khoá…then’’…

NV, NH, NB cười vang .

RC phải chịu tài của Nguyễn Bính và giữ đúng lời hứa.

xxx

Sự nghiệp Văn – Thơ và di sản của Nguyễn Vỹ để lại rất đồ sộ với nhiều tác phẩm gồm nhiều thể loại: Tiểu thuyết, Biên khảo, Thơ… Trong đó có 2 bài thơ rất gía trị: Gửi Trương Tửu và Sương Rơi. Đặc biệt là Bài Gửi Trương Tửu.

Đầu bài thơ đề tựa: Viết trong lúc say…

Gửi Trương Tửu – viết theo thể thơ thất ngôn trường thiên, độc vận. Toàn bài được Thi Nhân Việt Nam của Hài Thanh đăng tải, gồm 6 đoạn, 40 câu, mỗi đoạn nói về một vấn đề. Theo thông lệ của thơ Đường – Vào đề: Tác gỉa giải thích nguyên nhân có lá thư gửi cho bạn rượu – Trương Tửu:

Nay ta thèm rượu nhớ mong ai
Một mình rót uống chẳng hề say
Trước kia hai thằng hết một nậm
Trò truyện dông dài, mặt đỏ xẫm
Nay một mình ta một be con
Cạn rựơu rồi thơ mới véo von

Nhà thơ đang ‘’khát ‘’, có rựơu nhưng chỉ có một mình. Rượu ngon… (lại) không có bạn hiền, nên nhớ tới Trương Tửu, đành tâm sự với bạn trong tâm tưởng rồi khẳng định: Chỉ cạn rượu (say), ‘’thơ mới véo von’’.

Tiếng hót véo von của chim họa mi là tiếng hót hay.
Thơ ‘’véo von’’ cũng có thể hiểu là thơ hay…
Dạo ấy chúng mình nghèo xơ xác
Mà coi đồng tiền như cái rác
Kiếm được xu nào đem tiêu hoang
Rủ nhau chè chén nói huyênh hoang
Xáo lộn văn chương với chả cá
Chửi Đông, chửi Tây, chửi tất cả
Rồi ngủ một đêm, mộng với mê
Sáng dậy nhìn nhau cừơi hê hê…

Có hơi men, tác gỉa nhớ về qúa khứ, về thời – cả hai nghèo kiết xác. Nhưng khi có tiền, họ vẫn hoang toàng trong đời sống, vung vãi tinh lực, kiến thức – trong những trận say túy lúy càn khôn để có sức ‘’chửi Đông, chửi Tây, chửi tất cả’’ cho sướng miệng rồi kéo nhau đi thưởng thức món chả cá ngon có tiếng của đất Hà Thành.


Đêm đến tiếp tục say với mộng mơ… sáng dậy không còn nhớ chiếc ‘’Văn tự’’ mua bán… ‘’Trời’’ – kia. Sau trận ‘’quên hết sự đời’’. trở về cõi thực, cả hai nhìn nhau sảng khoái ‘’cười hê… hê’’.

Giấc Nam kha dứt, chợt giật mình – ‘’Bừng con mắt dậy thấy mình tay không’’, liên hệ với cuộc sống của kiếp nhà văn mà đau, buồn.

Thời đó, dân trí của ta qúa thấp, nhiều người mù chữ. Kinh tế qúa nghèo, cuộc đời đói khổ, dân lấy đâu ra tiền thừa đẻ mua báo, mua sách đọc giải trí, trừ số ít dân trung lưu, dân buôn bán nhỏ ở thành thị. Do vậy nhà văn không thể bán văn chương, thơ phú để lấy tiền sống tạm qua ngày. Cũng may, Mặt trận Bình Dân Pháp lên nắm quyền ở ‘’Mẫu quốc’’ (…), có một số thay đổi trong chính sách cai trị ở các nước thuộc địa. Chính phủ thực dân ở Đông Dương muốn lấy lòng dân thuộc địa để tô điểm cho khuôn mặt ‘’Bình dân’’ của Sếp mình, hòng ve vuốt giới trí thức bản địa – nguồn gốc của ngòi nổ phản kháng. Họ giảm bớt sức ép cai trị khiến dân chúng dễ thở hơn (…) trong đó có phần kiểm duyệt Văn chương…

Mới chỉ có chút ít quyền, được ‘’nói cho sướng miệng’’thế thôi, mà văn học nghệ thuật thời kì này đã nở rộ, ra đời nhiều tác phẩm gía trị . Còn đời sống của cả xã hội vẫn chưa có gì thay đổi lớn. Chúng ta nên nhớ: Giới Văn Nghệ Sĩ khi xưa không được nhà nước cho ăn lương như VNS thời XHCN – hôm nay. Tất cả đều tùy thân vận động’’Tùy nghi di tản’’ để tự nuôi sống mình mà…viết. (Nhân dân cần lao tất nhiên còn bi thảm hơn, ngoài chịu số phận của kẻ nô lệ – ‘’Một cổ đôi tròng’’(Thực dân – Phong kiến), còn bị cường hào, quan lại ‘’Đè đầu cưỡi cổ’’, ức hiếp…)

Sau phút ưu tư, trước hoàn cảnh bi đát… tác gỉa ghi lại cảm xúc đang dâng trào:

Thời thế bây giờ vẫn thấy khó
Nhà văn An Nam khổ như chó
Mỗi lần cầm bút nói văn chương
Nhìn đàn chó đói gặm trơ xương
Và nhìn chúng mình hì hục viết
Suốt mấy năm giời: Kiết vẫn kiết!
Mà thương cho tôi, thương cho anh
Đã rụng bao nhiêu mớ tóc xanh

Ông trở nên bất đắc chí, đem so sánh cuộc sống của nhà Văn với kiếp sống của chó – con vật mạt hạng nhất trong số các vật nuôi của dân ta.


Hãy bình tĩnh, hãy ghìm mình lại, đừng tự ái khi gã say ví ta với chó! Thật ra đây chỉ là’’Ngoa dụ’’ mà Nguyễn Vỹ dùng để miêu tả sự khốn cùng của kiếp nhà văn Việt dưới chế độ thực dân. Quan niệm của cả xã hội: Nhà Văn thưộc tầng lớp ở trên cao mà còn khổ như vậy thì dân đen sẽ như thế nào? Lời ví von có hơi cường điệu, nhưng nếu đem kiếp sống của nhà Văn mà ví với chó gia súc của dân ta thì hơi…qúa.

Song, nếu ví với chó Berger, chó cảnh của dân giầu, chó săn của ông chủ thực dân, thì… cũng chẳng ngoa chút nào!

Lại nữa – Người Việt có tính hay mẫn cảm: Tuy nghèo, đói nhưng, tính sĩ diện thì hết chê. Mặt khác: Quan niệm, cái nhìn về chó của người Việt hoàn toàn khác dân văn minh Tây Âu bởi con chó của dân ta cũng… ‘’khác‘’chú khuyển của họ.

Dù thế nào, đem Nhà văn – đại diện cho một tầng lớp Trí thức hạng cao – VNS – ví với chó thì thật… qúa xá!

Thi sĩ Tản Đà – nổi danh trên Văn trường Việt Nam từ đầu thế kỷ 20 (Tản Đà sinh năm 1888. Nguyễn Vĩ sinh năm 1912) dù là bậc trưởng thượng nhưng không hề phân biệt tuổi tác, thi tài, cụ vẫn coi NV là bạn văn, thường cùng uống rượu. Khi đọc được bài thơ của ‘’hậu bối bất trị’’ – cụ bất bình, hỏi: Sao anh lại ví nhà văn chúng mình với chó, anh không sợ xấu hổ à?

Nguyễn Vĩ mơ mơ màng màng – trả lời tiền bối đáng kính: Ví như vậy thì chó xấu hổ chú chúng ta xấu hổ cái nỗi gì?(5).

Ngay trong lúc mê, say, ông vẫn mơ giấc mơ đầy hoang tưởng:

Bao giờ chúng mình thật ngất ngưởng
Tôi làm Trạng Nguyên, anh Tể Tướng
Và anh bên Võ, tôi bên Văn
Múa bút tung gươm há một phen

…(*)

Theo nhà phê bình Nguyễn Tấn Long: Bắt đầu từ đây – 14 câu thơ – ‘’Thực dân Pháp không cho Nguyễn Vỹ nói’’ – bị kiểm duyệt cắt bỏ (chắc Hoài Thanh không được đọc đoạn thơ này):

Cho bõ căm hờn cái xã hội
Mà anh thường kêu, mục, nát, thối
Cho người làm ruộng, kẻ làm công
Đều được an vui, hớn hở lòng?

Bao giờ chúng mình gạch một chữ
Làm cho đảo điên pho lịch sử!
Làm cho bốn mươi thế kỷ xưa
Hất mồ ngồi dậy cười say sưa
Để xem hai chàng trai quắc thước
Quyét sạch quân thù trên đất nước?
Để cho toàn thể dân Việt Nam
Đều được tư do muôn muôn năm
Để cho muôn muôn đời dân tộc
Hết đói rét lầm than tang tóc
(hết đoạn bị kiểm duyệt)

Không thể ngờ được : Câu thơ NV viết đã gần 70 năm trước, hôm nay đọc lại, ta cứ cảm thấy như nhà thơ vừa mới viết ,vẫn đang sống quanh ta…

Rồi tiếp dòng mơ say, ông liên hệ với thực tại – so sánh:
Chứ như bây giờ là trò chơi
Làm báo làm bung, chán mớ đời
Anh đi che tàn một lũ ngốc
Triết lí con Từơu, văn chương Cóc (6)
Còn tôi bưng thúng theo đàn bà (7)
Ra chợ bán văn, ngày tháng qua
Đi che Tàn (lọng, ô) nghĩa là đi hầu.

Anh đi che tàn một lũ ngốc (…). Còn tôi bưng thúng theo đàn bà… – cũng là một loại đi hầu khác, mà lại là đi hầu…phụ nữ!
Anh làm Tể tướng, tôi Trạng Nguyên.

Anh bên Võ, Tôi bên văn – Đúng một phần đời hiện thực, trộn với giấc mơ của của tác gỉa lúc căn bệnh Đa nhân cách – trỗi dậy!

- ‘’Con Tườu’’ là con gì?
- Con Tườu là con khỉ.

Người Trung Hoa coi con khỉ, tập trung của cái xấu trước tiên là ngoại hình. Khi ghét người nào đó, họ thường nói câu cửa miệng: Mày hãy soi gương xem cái ‘’tướng Khỉ’’ của mày đi!

Nhưng khó chịu nhất: Khỉ không những hay bắt chước – bắt chước rất giỏi, mà còn không có chút ‘’lịch sự’’ tối thiểu như mọi con vật khác: Khi thấy nhiều người xúm vào xem nó vừa làm được một động tác’’người’, ngay lập tứ hậu duệ của Lão Tôn – Hoa qủa vương – vạch ngay chỗ kín ra… gãi, nghịch, hoặc tè bậy mà lẽ ra theo cách nghĩ của người: Phải kín đáo, dấu… đậy!

Con Tườu là vậy.

‘’Triết lí con Tườu’’ là thứ triết lí của kẻ hay bắt chước, triết lí đậm ’’Hầu… phẩm’’!
- Còn’’Văn Chương Cóc’’?
- Đó là văn chương giản lược, sao chép – là loại văn chương’’kể sự kiện’’ chứ không phải văn chương ’’Viết Sự Kiện’’ – như ngụ ý diễn giải trong một bài viết của cố GS Hoàng Ngọc Hiến lúc sinh thời đăng trên Báo Văn Nghệ của Hội Nhà Văn, nhiều người đọc và học trò của ông – tấm tắc tán thưởng.

Ẩn dụ này bắt ngưồn từ bài thơ Con Cóc trong dân gian:
Con cóc trong hang – Con có nhẩy ra
Con có nhẩy ra – Con cóc ngồi đấy
Con cóc ngồi đấy – Con cóc nhẩy đi!

Hoặc vịnh thơ con Chim, con Chó – khi’’nhà thơ’’ nổi hứng đạt đến cảnh giới sáng tạo… (*)
Qua phút chóang váng, tác gỉa xẹp đi, trở lại hiện trạng cuộc đời rồi tự an ủi mình, an ủi bạn… nhưng chỉ được ít phút, lại nổi xung… lần này tức giận thật sự bởi nhớ lời tiền nhân: ‘’Lập thân tối hạ thị văn chương’’, tự chửi đổng, chửi mình đã nhiễm nặng tật’’Thắu cáy’’ học được trong những canh bạc Xì tố. Nhà thơ chắc mẩm đã ‘’chơi nước cờ cao’’ (…) nhưng thực tế, té ra – cuộc thắu cáy trở nên rất thấp, dẫn đến gặp bĩ, thua đâm, thất vọng, ngẩn ngẩn, ngơ ngơ…. tự nhận hành động của mình – Điên!

Cho nên tôi buồn không biết mấy
Đời còn nhố nhăng, ta chịu vậy
Ngồi buồn lấy rượu uống say sưa
Bực chí thành say, mấy cũng vừa
Mẹ cha cái kiếp làm thi sĩ
Chơi nước cờ cao lại gặp bĩ
Rồi đâm ra điên, đâm ngẩn ngơ
Rút cục chỉ còn mộng với mơ!
(Viết trong lúc say – Báo Phụ nữ 193…(?)

Những vần thơ được tác gỉa sử dụng ngôn từ ‘’qúa thật’’ khiến nhà phê bình Hoài Thanh bức xúc, viết trong TNVN:

‘’Nguyễn Vĩ đã đến giữa làng thơ với chiêng trống, xập xoèng inh cả tai. Chúng ta đổ ra xem nhưng lại tưng hửng trở vào…’’.

Bất bình vì Nguyễn Vỹ làm ông ‘’…inh cả tai’’ (nhức óc). Hoài Thanh đã nhìn ông bằng con mắt không mấy thiện cảm. Có thể ông không được đọc 14 câu thơ mà kiểm duyệt Pháp cắt bỏ. Cũng có thể ông tự ái khi NV ví – ‘’Nhà văn An Nam… như… chó’’ nên trút giận rồi viết ra những giòng văn kia – chăng?

Trên đời này, con người không thích ai làm họ inh tai, nhất là kẻ kia lại cho họ ‘’cái bạt tai’’ làm họ ù tai, khiến nhức óc. Cái tai do trời ban cho con người, có hình thù đặc biệt: Âm thanh dội vào, được các vành tai tiếp nhận, uốn lượn đưa vào màng nhĩ. Âm thanh càng thẽ thọt, hiệu qủa có lúc – (chứ không phải mọi lúc) – càng cao. Âm thanh làm đinh tai, người nghe không chịu được – có lúc, (chứ không phải mọi lúc) – nhức óc, nổi cắu, thậm chí (phát) Điên. Người đã nổi điên, hành động vô ý thức – sẽ xẩy ra và đối tượng gây họa phải lãnh hậu qủa…
Nhưng, vì nói thẳng, nói thật, Gửi Trương Tửu vẫn có nhiều người thích nghe, thích đọc. Bài thơ được NV viết đã trên dưới 70 năm, đến nay vẫn còn nguyên gía trị Thời sự, Nhân văn, Nhân bản mang dấu ấn của thời đại…
Thi sĩ Nguyễn Vỹ là điển hình cho một lớp văn nghệ sĩ đương thời bất mãn vì có tâm huyết, có tài năng nhưng không được thi thố với đời để phục vụ nhân sinh. Gửi Trương Tửu đúng là tác phẩm gía trị của giòng văn chương ‘’Hiện Thực Phê Phán’’ – như cách xếp loại truyền thống của giới phê bình văn học Việt Nam…
Berlin 15.10 2007 – 15.2.2012
L.X.Q
© Đàn Chim Việt
Ghi chú:
(*) – Chuyện vui văn nghệ kể rằng: Có hai người rất háo danh, thích được người ta xưng tụng là nhà Thơ, thường gặp nhau đối ẩm, thù tạc. Nhân một lần uống rượu, khi đã ngà say, nổi hứng thách đố nhau. Một ông bảo: Ông thường tự nhận là vịnh thơ hay. Để chứng tỏ thực tài, ông có dám thể hiện tài của mình không?
- Sao lại không ? ông ra đề đi!
Ông kia nhìn quanh, thấy trước nhà có tổ chim câu đặt trên 4 chiếc cột, đôi chim đang’’thơm nhau’’ ở miệng tổ – bảo bạn: Vịnh chim câu đi.
Không cần suy nghĩ lâu’’Nhà thơ’’ đọc liền:
Bốn cột chênh vênh đứng giữa trời
Đứa thì bay bổng, đứa bay khơi
Ngày sau nó đẻ ra con chắu
Rán chả, băm viên đánh chén chơi!
Dứt lời cười vang vẻ thoả mãn với’’sang tác’’ của mình.
Ông kia có phần nể bạn …
Đột nhiên tác giả vịnh…chim, bảo: Tôi đã thể hiện xong tài năng, bây giờ đến lượt ông: Tôi đã vịnh con trên trời, bây giờ ông hãy vịnh con dưói đất xem!

Nhà thơ nhìn quanh thấy con chó nằm chầu hẫu dứơi chân, gật gù – ông nghe đây:
Chẳng phải voi, chẳng phải trâu
Chính là con chó cắn gâu gâu
Khi ngủ với nhau thì phải đứng
Quanh năm chẳng được chén trà tầu
… rồi cứ thế hai’’nhà Thơ’’ theo giòng văn thơ’’tả thực’’tiếp tục ngạm vịnh cho đến khi cả hai ngã kềnh vì say xỉn.
(1) – Thơ cũ: Đường luật, lục bát, song thật lục bát – có nhiều quy tắc… Thơ Mới ngược lại, không gò bó như thơ cũ…
(2) – Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh, Hoài Chân cho rằng: Nguyễn Vĩ sinh năm 1910.
(3) –Theo TNTCVN Toàn Tập – Nguyễn Tấn Long – nxb Văn Học – 1998.
(4) – Câu thơ tiếng Pháp này chỉ diễn giải qúa trình hút thuốc: Một hai ba bốn (đều) hút thuốc , nhưng lại rất đúng ý – nghĩa, vần điệu câu thơ nối, đúng niêm – luật…
(5) – Thi nhân Việt Nam. NXB Văn học 2002.
(6) – Trương Tửu lúc đó viết cho báo Hữu Ích của Lê Văn Trương. Nguyễn Vỹ viết cho báo Phụ Nữ của bà Nguyễn Thị Thảo.
(7) – Thời Nguyễn Vỹ làm bài thơ này, các Mẹ, các Bà, các Cụ Bà, vùng đồng bằng châu thổ Sông Hồng (Nam Định, Thái Bình…) – đi chợ thường đội thúng, khi đến chợ hạ thúng, bưng thúng, bầy hàng trên mẹt đậy – bán cho khách.

Không có nhận xét nào: