“Đại Tướng Dương Văn Minh , Công Và
Tội”
LNGT- Bài viết dưới đây của tác
giả Trọng Đạt, phổ biến trên Đàn Chim Việt trong dịp kỷ niệm 30/4/2012, nhằm
chứng minh rằng ông
Dương Văn Minh “không có tội mà cũng chẳng có công”
trong biến cố sụp đổ của Sài Gòn và miền Nam Việt Nam vào năm 1975. Chúng tôi
hoàn toàn đồng ý với tác giả ở vế đầu, “không có tội”, nhưng chỉ đồng ý
một phần với vế sau, “cũng chẳng
có công”, vì phân tích của tác giả chỉ dựa trên một yếu tố quân sự trong một giới hạn thời gian nhất định của những tháng cuối cùng trước lúc Sài Gòn thất thủ, mà không lý đến những yếu tố quan trọng khác trong suốt cuộc chiến gần 20 năm tại Việt Nam.
Tuy nhiên, những dữ kiện trong
bài nầy, ít nhất, cũng phá vỡ một huyền thoại mà người Việt chống Cọng ở hải
ngoại, từ hơn 30 năm qua, đã bám vào nó để biện minh cho lý do thất trận của
quân đội VNCH. Đó là huyền thoại, hay đúng hơn là lời chạy tội, rằng “Vì ông
Minh ra lệnh buông súng đầu hàng nên họ phải thua trận”. Huyền thoại nầy là
vỏ bọc cho một lời chạy tội nầy nhằm che lấp và/hoặc bóp méo ba dữ kiện:
― Thứ nhất, chiều 29-4-1975 ông
Minh mới nhậm chức Tổng Thống, và ngày 30-4-1975, lúc 10.30 giờ sáng, ông
Minh mới ra lệnh trao nạp vũ khí cho quân Mặt trận GPMN. Vậy thì TRƯỚC NGÀY
ĐÓ, kể từ cuộc triệt thoái Ban Mê Thuột vào trung tuần tháng 3, hàng vạn quân
nhân Quân lực VNCH trên cả 4 vùng chiến thuật bỏ đơn vị, tan hàng, vất vũ khí,
cởi quân phục tìm đường thoát thân cho đến sáng ngày 30-4, là theo lệnh ai? là
vì lý do gì? Lệnh đó không phải là lệnh của ông Minh, lý do đó không đến từ ông
Minh, vậy thì tại sao cứ lấy lý do vì “ông ra lệnh đầu hàng” vào sáng
30-4 đó để đổ “tội” cho ông ?
― Thứ nhì, giả dụ ông Minh, hay
cụ Hương, hay bất kỳ vị lãnh tụ của VNCH nào vào lúc 10.30 giờ sáng ngày 30-4-1975
đó, ra lệnh cho rất ít đơn vị còn cầm súng phải tử thủ để “bảo vệ
miền Nam” thì ai là người “tử thủ”, đơn vị nào sẽ quyết chiến, và súng ống
đạn dược đâu để tử thủ theo chiến lược gì? Quan trọng nhất, sau 55 ngày nhận
chịu hết thất bại nầy đến thất bại khác, sau 55 ngày tan rã hết quân khu nầy
đến quân khu khác, sau 55 ngày sức tàn lực kiệt, hổn quan hổn quân, và trực
thăng Mỹ thì đang vần vũ trên trời để bốc người di tản ra hạm đội 7 …, thì ai
là người chịu nghe lời “tổng thống”, vâng lệnh thượng cấp, để tiếp tục chiến
đấu chiếm lại Cao nguyên, lấy lại miền Trung và đẩy lui Cọng quân về lại sông
Bến Hải, … mà bây giờ lại bất nhân bất nghĩa đổ tất cả tội lên đầu một
người ?
― Cuối cùng, tâm cảnh của quân
dân Việt Nam Cọng hòa vào lúc 10.30 giờ sáng ngày 30-4 chủ yếu chỉ có
hai loại: (i) Hoặc là đã chán ngán cuộc chiến tranh vốn quá nhiều hủy hoại và
tang tóc từ gần 10 năm qua nên nhìn những ngày cuối tháng Tư như hồi chung cuộc
của cuộc chiến mà không cần biết đến tương lai sẽ ra sao, miễn chấm dứt được
chiến tranh; (ii) Hoặc là hốt hoảng bảo vệ thân mạng gia đình mình trong buổi
hoàng hôn của VNCH bằng cách vượt biển trốn ra nước ngoài hay đợi quân “giải
phóng” vào tiếp quản địa phương. Đó là tâm trạng “tự buông súng”, tâm trạng
“chờ đợi hòa bình”, tâm trạng “sợ sệt buông xuôi” của tuyệt đại đa số quân dân
miền Nam lúc Cọng quân đã dàn quân ở cửa ngõ Sài Gòn. Vậy thì cứ kết tội ông
Minh ra lệnh đầu hàng trong khi chính mình đã tự đầu hàng trong tâm trí rồi, đã
cuống quít vất bỏ vũ khí, thì có phải là … một “tiện lợi lịch sử” cho mình
không ?
Quân đội Việt Nam Cọng hòa đã có
nhiều cá nhân là anh hùng trong 20 năm chiến đấu. Nhưng 55 ngày cuối cùng của
mùa Xuân năm 1975, dù vị Tổng Tư lệnh Quân đội có phạm những lỗi lầm chiến lược
và sau đó, từ ngày 24-4, đã đào thoát ra nước ngoài, thì cuộc rút lui thê thảm
tại miền cao nguyên, và tình hình “tự đầu hàng” bạc nhược ở suốt miền Trung, đã
chứng tỏ đó là một quân đội không anh hùng chút nào hết trong 55 ngày đó !
Nhưng tồi tệ hơn cả, và phản anh hùng hơn cả, là cho đến gần 4 thập kỹ sau,
những người cựu quân nhân đó, bây giờ tóc đã điểm sương sống đời tha hương, vẫn
không có đủ can đảm và lương thiện để nhận tội của mình trước lịch sử như
một tập thể, mà lại đổ tất cả lên đầu chỉ một người đồng ngủ đã từng chia
sẽ màu cờ sắc áo là ông
Dương Văn Minh.
Nhưng thật ra, chiến dịch “đổ
tất cả tội lên đầu một người”, mà người đó phải là Dương Văn Minh chứ không
phải ai khác, có lý do của nó và có người lãnh đạo nó. Đó vốn là âm mưu của
một thế lực tôn giáo muốn trả thù cho lãnh tụ cũ của họ đã bị ông Minh cầm đầu
cuộc cách mạng lật đổ vào năm 1963. Thế lực đó là Công giáo Việt Nam, và lãnh
tụ đó là ông Ngô Đình Di ệm.
Cho nên, trên các diễn đàn hải
ngoại, nhất là diễn đàn truyền thông Công giáo, từ nhiều năm nay, ta thấy khi
phân tích về nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của VNCH, ai cũng có tội, người
nhiều kẽ ít. Từ Phật giáo đến đảng phái, từ trí thức đến sinh viên, tất cả đều
san sẽ cái “tội làm mât nước” với ông Minh, ngoại trừ lực lượng Công
giáo Việt Nam là được trắng án, không có tội gì cả, dù 20 năm của miền Nam
chống Cọng đã được lãnh đạo bởi hai ông Tổng thống Công giáo, dù
kinh viện và quân viện của Mỹ để chống Cọng đã chảy vào túi thế lực Công giáo
nhiều nhất.
Và cũng khi phân tích lý do “mất
nước”, những tay biện giải Công giáo đã bỏ qua rất nhiều yếu tố quan trọng
và to lớn khác trong một vấn đề phức tạp như chiến tranh VN, đã bỏ qua một
khoảng thời gian 12 năm (1963-1975) với bao biến động khác ở tầm quốc gia cũng
như quốc tế, để đơn giản và khô cứng kết luận rằng vì “đảo chánh Cụ 1963” nên “mất nước 1975” !.
Cái logic tàn bạo và gian xão đó đã lợi dụng được mặc cảm tội
lỗi, đã khai thác được hội chứng thất trận của anh em cựu quân nhân, và vận
dụng được lòng căm thù của cựu tù nhân cải tạo. Thế lực Công giáo đã thiết kế
và triển khai một huyền thoại để ru ngũ và xoa dịu được những ẫn ức và dồn nén
tâm lý của các tổ chức cựu quân nhân ở hải ngoại. Thế là như Ponce Pilate ngày
xưa khi xử tội Chúa Giêsu, anh em cựu quân nhân rữa được vết nhơ trên bàn
tay chiến bại của mình. Dù đó không phải là sự thật, dù đó là
Nhưng lịch sử không đứng về phía
kẽ thắng, lại càng chẳng đứng về phía kẻ bại. Lịch sử đứng về phía sự thật.
LNGT
Đại Tướng Dương Văn Minh , Công Và
Tội
Sau khi miền nam VN mất về tay
Cộng Sản ngày 30-4-1975 nhiều người kết tội Dương Văn Minh đầu hàng
giặc, dâng nước cho Bắc Việt, họ nói vì ông mà miền Nam mất. Những người cảm
tình với Dương Văn Minh
nói ông có công cứu Sài Gòn và miền Nam Việt Nam thoát chết, “nếu ông không
ra lệnh đầu hàng thì nó pháo kích chết hết !!!” Sau khi ra Hải ngoại trả
lời phỏng vấn báo chí ông nói : “Tôi không cứu được nước nhưng tôi phải cứu
dân”.
Sự thực ông ấy không có tội mà
cũng chẳng có công, dù ông có hay không ra làm Tổng thống ‘hơn một ngày rưỡi’
thì tình hình miền nam VN và Sài Gòn cũng vẫn y nguyên như thế. Hẳn mọi người
đều biết, vào thời điểm ấy miền nam VN hầu như vô chính phủ, các vị Tổng thống,
Thủ tướng, các vị Bốn sao , Ba sao, các ông lớn…đều đã “tẩu vi thượng sách”,
Việt Cộng đang tiến quân vào.
Ngược dòng thời gian tháng
11-1972 khi sắp ký Hiệp định Paris, Hoa kỳ đã vội vã cung cấp cho VNCH khoảng
gần 600 máy bay các loại gồm : 200 máy bay phản lực chiến đấu, khoảng 340 trực
thăng các loại và mấy chục máy bay vận tải, thám thính, ba tiểu đoàn pháo binh
175mm, hai tiểu đoàn thiết giáp M-48, 286. (Theo Nixon, No More Vietnams, trang
170-171). Miền Bắc bị thiệt hại nặng sau trận mùa hè đỏ lửa 1972, họ mất khoảng
100 ngàn quân, 700 xe tăng (Nguyễn đức Phương- Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập
trang 587), lại nữa cuối 1972, TT Nixon cho B-52 oanh tạc dữ dội Hà nội, Hải
phòng đánh phá tan nát bộ máy chiến tranh của Bắc Việt”( No More Vietnams.
Trang 158). Sau ngày ký Hiệp định Paris 27-1-1973, VNCH yên tâm vì tiềm năng
quân sự miền Nam mạnh hơn miền Bắc.
Tuy nhiên tình hình thay đổi rất
nhanh, cán cân lực lượng hai miền đã đảo ngược từ 1974, CS quốc tế vẫn tiếp tục
viện trợ quân sự đều đặn cho Hà Nội: Giai đoạn 1969-1972 BV được Nga, Trung C ộng viện trợ 684,666 tấn
vũ khí trang bị kỹ thuật. Giai đoạn 1972-1975 họ nhận được 649,246 tấn hàng vũ
khí, số lượng hàng viện trợ của hai giai đoạn tương đương nhau.(Bản tin của BBC.com
ngày 5-10-2006). Theo Kissinger, Hà nội đã xin được viện trợ của Xô viết tăng
gấp bội. Thàng 12- 1974, một viên chức cao cấp Nga viếng Hà Nội lần đầu tiên kể
từ sau ngày ký Hiệp định Paris . Tổng tham mưu trưởng Nga Viktor Kulikov tới
tham dự họp chiến lược với Bộ chính trị BV, nay họ bãi bỏ hạn chế trước đây. Xô
Viết đã chở vũ khí viện trợ quân sự cho Hà Nội tăng gấp 4 lần trong những tháng
sau đó. Nga khuyến khích BV gây hấn (Years of Renewal trang
481).
Trong khi đó miền Nam bị Quốc hội Mỹ xiết cổ từ từ, Hạ Viện Mỹ 1972 Dân
chủ chiếm đa số 242 ghế, Cộng Hòa 192 ghế, họ chống đối chiến tranh VN rất
mạnh, trước hết họ cắt giảm quân viện xương tủy mỗi năm khoảng 50%: Từ 2,1 tỷ
tài khóa 1973 xuống còn một tỷ tài khóa 1974 và xuống còn 700 triệu tài khoá
1975, cón số này thực ra chỉ bằng 500 triệu vì dầu thô lên giá, tiền mất giá
(theo Henry Kissinger, Years of Renewal trang 471). Ngày 15-8 -1973 ban
hành luật của Quốc hội cắt bỏ tất cả các ngân khoản dùng trực tiếp gián tiếp
cho các hoạt động quận sự Mỹ tại Đông Dương. Ngày 7-11-1973 Quốc Hội ban hành
luật War Powers Resolution hạn chế quyền Tổng thống trong chiến tranh, Tổng
thống muốn đem quân ra ngoại quốc phải đưa ra Quốc hội để trói tay hành pháp
thì số phận của VNCH coi như đã được quyết định rồi .
Kỳ bầu cử Hạ viện Mỹ tháng 11-1974, Dân chủ chiếm đại đa số, tỷ lệ 66.9%
Hạ viện với 291 ghế, Cộng Hòa 144 ghế. Dân chủ chống chiến tranh Đông Dương
quyết liệt, cắt bỏ bất cứ ngân khoản viện trợ nào giành cho Đông Dương. VNCH
lâm vào tình trạng đen tối. Hậu quả của cắt giảm quân viện khiến cho miền Nam ngày càng
thiếu thốn tiếp liệu đạn dược. Từ tháng 7-1974 quân đội chỉ xử dụng khoảng 19
ngàn tấn đạn một tháng so với 73 ngàn tấn một tháng thời gian trước đó, hoả lực
giảm trên 70%. Theo ông
Cao Văn Viên nạn đào ngũ (Những ngày cuối VNCH trang
79) khiến cho quân số thiếu hụt. Hàng tháng lính đào ngũ trung bình lên tới 1,5
hay 2 phần trăm tổng số quân và như vậy hàng năm quân đội mất đi gần 1/4 quân
số, hàng năm phải tuyển mộ từ 200 tới 240 ngàn người để thay thế số thương
vong, đào ngũ nhưng trên thực tế không tuyển mộ được đủ số tân binh như phỏng
định vì nạn trốn quân dịch.
Cuối 1974 đầu 1975, CSBV đánh chiếm Phươc Long để thăm dò Mỹ. Trước nguy
cơ sụp đổ, TT Thiệu gửi thư cho TT Ford xin Viện trợ bổ túc 300 triệu. Tháng
3-1974 BV tấn công chiếm Ban Mê Thuột, Quốc hội Mỹ bác bỏ khoản viện trợ cho
miền Nam và không chuẩn chi cho năm tới 1976.
Tình hình quân sự ngày càng thê thảm, ông Cao Văn Viên (Những
Ngày Cuối VNCH, trang 92) cho biết vào tháng 2-75, đạn tồn kho chỉ còn đủ dùng
khoảng 30 ngày. Tháng 4-1975, đạn tồn kho ở bốn kho dự trữ tuột dốc xuống mức
thấp nhất chỉ đủ xài từ 14 đến 20 ngày. Kể từ sau Hiệp định Paris , VNCH không còn trông cậy vào yểm trợ
của B-52 nữa.
Cuối tháng 3-1975, do kế hoạch tái phối trí lực lượng sai lầm của TT
Thiệu đã khiến VNCH mất hai quân khu I và II, mất luôn cả hai quân đoàn 1 và II
trong hai tuần lễ từ 14-3 tới 30-3-75. VNCH mất 5 sư đoàn bộ binh (22, 23, 1,
2, 3), 11 liên đoàn Biệt động quân, mất gần hết 2 sư đoàn tổng trừ bị.. vũ khí
đạn dược coi như mất hết, một phần lớn lọt vào tay Cộng quân.
BV hối hả đưa nốt 3 sư đoàn tổng trừ bị (thuộc quân đoàn 1) vào Nam, Hà
Nội dùng mọi phương tiện không quân, hải quân, đường bộ để chuyển quân gấp rút
vào Nam bao vây Saigon. Họ dốc toàn bộ lực lượng vào Nam . Lực lượng tham chiến của BV
vào khoảng gần 20 Sư đoàn (gồm 4 quân đoàn 1, 2, 3, 4 và đoàn 232, sáu trung
đoàn đặc công, 6 trung đoàn độc lập). Vũ khí đạn dược của BV gấp bội lần năm
1972.
Trong thời gian này tại Hoa
Th ịnh Đốn Kissinger báo cáo trong phiên họp Nội các:
“Toàn bộ lực lượng của QĐBV hiện đã vào nam, chỉ cần một Lữ đoàn TQLC
là ta có thể chiếm hết miền Bắc, một sự vi phạm trắng trợn (Larry Berman, No
Peace No Honor trang 266). Ông cũng nói “Chúng ta không còn tiền để chơi
ván bài”, sự thật Hành pháp đã bị Quốc hội trói tay.
Ngày 10-4-1975, VNCH còn hy vọng vào viện trợ khẩn cấp 722 triệu do TT
Ford đưa ra Quốc hội, ngày 18-4 ngân khoản này bị bác bỏ. Nhiều chính khách
nhận định khoản viện trợ này nếu được chấp thuận cũng chỉ kéo dài thêm sự hấp
hối của miền Nam
mà thôi. Ngày 21-4-1975, TT Thiệu từ chức, Phó Tổng Thống Trần văn Hương lên
thay, mấy ngày sau ông Thiệu và Thủ tướng Khiêm rời Sài Gòn ra đi hôm 24-4.
Trở lại chuyện ông Dương văn Minh. Sải gòn có nhiều tin đồn về việc ông Dương Văn Minh
sắp lên làm Tổng Thống thay Trần Văn Hương.
Cụ Hương lên thay ông Thiệu được bốn năm ngày bèn ngỏ lời với đồng bào về
hiện tình đất nước trên đài phát thanh Sài Gòn, giọng sướt mướt, vừa nói vừa
khóc.
“Thưa đồng bào, tình hình hiện nay vô cùng bi đát… Một vùng Hai miền
Trung đã hoàn toàn tan rã, vùng Ba, vùng Bốn nay cũng đã bị nhiều sứt mẻ. Rồi
mai đây những trận đánh sấm sét sẽ đổ xuống và rồi thủ đô Sài Gòn này sẽ thành
cái núi xương sông máu. Tôi đã nghĩ đến cái cảnh núi xương sống máu ấy và đã
bàn với anh Dương văn Minh, tôi có nói với ảnh như vầy “Bây giờ tôi bàn giao
chính quyền cho anh, nhưng bàn giao để anh tìm cái giải pháp hoà bình cho đất
nước chứ bàn giao cho anh để anh đầu hàng thì bàn giao làm gì. . hở trời!!. .
Người dân vừa sợ vừa thông cảm cho cụ già vì cụ quá thật thà, cụ đã đem
hết mọi bí mật quốc gia nói huỵch toẹt trên đài phát thanh!! Thực ra nay cũng
chẳng còn bí mật gì để giữ.
Những lời đồn nay đã thành sự thật, ông Dương văn Minh sẽ lên làm Tổng
thống. Theo lời kể của ông Nguyễn đình Toàn trong bài “Đại Tướng Dương Văn Minh : Em Làm Ch ứng Cho Goa”
(Người Việt Dallas, tháng 4-2011), ông Toàn và các ông Đỗ đình Tứ, Nguyễn Văn
Bình đi thuyết phục Dương
Văn Minh ra nhận nhiệm vụ, Đại tướng thất vọng nói:
“Đại Tướng trầm ngâm suy nghĩ, cúi đầu xuống một lúc rồi nói: “Em thấy
đó, tối hổm Trung Tư ớng
Đôn đã trình bày cho chúng ta biết về tình hình quân đội, về khả năng tái phối
trí của quân đội… quân của mình hầu như tan hàng hết rồi, không thể nào có thể
tái phối trí được nữa, quân tản mạn, phân tán khắp nơi, còn các kho vũ khí,
súng đạn của mình trên nguyên tắc là dự trữ từ 3 đến 6 tháng, nay cũng không
còn kiểm soát được nữa. Cả chục sư đoàn Cộng Sản Bắc Việt đang áp sát Sàigòn,
hàng chục ngàn hỏa tiễn 130 ly và 222 ly đang sẵn sàng bắn vào đây. Ngay cả chủ
quyền tối thiểu của mình cũng không còn, phi trường Tân Sơn Nhất người Mỹ họ ra
vào tự do, muốn đưa ai đi thì đưa, họ dùng đoàn xe MP và Thủy Quân Lục Chiến mở
đường để đưa người của họ vào, Quân Cảnh mình có chặn lại cũng bị MP và Thủy
Quân Lục Chiến Mỹ lên đạn uy hiếp nên đành phải để cho họ đi… Tình hình như vậy
em bảo làm sao mà ” Goa ” dám nhận nữa? Vậy em
nghĩ sao?”
Ông Toàn và mấy người bạn nói:
“Nếu Đại Tướng thương nước thương dân thì Đại Tướng phải biết hy sinh
chứ? Nếu bây giờ Đại Tướng nói tình hình nó nguy hiểm như thế, nó khó khăn như
vậy mà Đại Tướng không nhận nữa… thì Đại Tướng đâu có thương dân thương nước,
Tôi thuyết phục Đại Tướng cả gần tiếng đồng hồ như vậy, hai anh bạn tôi
cũng nói thêm vào. Cuối cùng Đại Tướng nhìn thẳng vào tôi và nói:
“Bây giờ em nói sao? Em nói “Goa” phải ôm, nó là cái vạc dầu đang sôi, em
biểu “Goa” ôm, “Goa” ôm rồi “Goa” chết một mình sao?”
Nghe lời thuyết phục của ông Toàn, về sau Đại Tướng Minh nhận ra trách
nhiệm cứu nước.
Tình hình quân sự khi ấy vô cùng nguy khốn. Trung Tư ớng Nguyễn Văn Toàn Tư
lệnh Quân đoàn Ba VNCH tổ chức phòng thủ Sài Gòn trên 5 tuyến chính với khoảng
cách tới trung tâm thành phố xa hơn tầm pháo của đại bác 130 ly của BV.
Phía Tây Bắc là Tuyến Củ Chi. Tuyến Bình Dương ở phía Bắc. Tuyến Biên Hoà
phía Đông Bắc. Tuyến Vũng Tầu và Quốc lộ 15 phía Đông. Tuyến Long An phía Nam . Lực lượng
mỗi tuyến chưa tới một Sư đoàn trong khi VNCH gần hết đạn phải đương đầu với
một lực lượng địch đông gấp năm, sáu lần với hỏa lực áp đảo.
Chiều ngày 28-4, Đại Tướng Dương Văn Minh lên nhậm chức Tổng Thống do Cụ Trần
Văn Hương trao lại. Ông đọc diễn từ ngỏ lời cùng đồng bào, một lúc sau, năm máy
bay CS ném bom phi trường Tân Sơn Nhât gây kinh hoàng cho cả thành phố Sài Gòn.
Ðúng bẩy giờ, đài BBC đọc bản tin tóm tắt về tình hình Việt Nam
“- Hôm nay tại Sài Gòn ông Dương Văn Minh được cử lên giữ chức vụ quyền
Tổng thống thay thế ông Trần Văn Hương để chuẩn bị cho một cuộc đầu hàng.
-Năm phi cơ lạ ném bom phi trường Tân Sơn Nhất.
-Nhiều loạt súng nổ tại Sài Gòn không biết thuộc phe nào.”
Qua phần bình luận và nhận định người xướng ngôn cho biết lễ bàn giao
chức vụ Tổng thống tại Dinh Ðộc lập chứng tỏ cho thấy sự tan rã của chính quyền
Sài Gòn.
Sáng ngày 29-4, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu đọc Văn thư của Tổng thống Dương Văn Minh yêu cầu cơ
quan Tùy viên quân sự DAO phải rút lui trong vòng 24 giờ đồng hồ. Ngay sau đó
đoàn trực thăng gồm 80 chiếc từ hạm đội vào phi trường Tân Sơn Nhất và tòa Ðại
Sứ Mỹ để di tản 1,000 người Mỹ và 6,000 người Việt ra ngoài hạm đội sau 19 giờ
bay liên tục.
Tối 29-4 ông
Dương Văn Minh vẫn kêu gọi các lực lượng Quân đội VNCH trên
đài phát thanh, lời kêu gọi lập đi lập lại suốt đêm.
“Các vị Tư lệnh Quân đoàn, Sư đoàn hãy giữ vững vị trí và chờ lệnh mới”
Các Tướng Tư lệnh Lý Tòng Bá, Lê Minh Đ ảo, Lê Nguyên V ỹ, Trần Quang Khôi… đã chiến đấu rất anh
dũng trong những giờ phút cuối cùng nhưng không cứu vãn nổi tình thế. Cộng quân
đã phá vỡ các phòng tuyến VNCH và tiến vào Thủ đô Sài Gòn. Lúc 10 giờ rưỡi sáng
30-4-75, ông Dương Văn
Minh kêu gọi các cấp quân đội giao nạp vũ khí cho Quân đội
Cộng Hòa miền nam VN nơi gần nhất để tránh đổ máu vô ích. Lúc 12 giờ trưa, Quân
dội BV tràn vào dinh Độc Lập bắt ông Dương Văn Minh lên đài phát thanh tuyên bố đầu
hàng không điều kiện.
Tính ra ông
Dương Văn Minh làm Tổng thống từ chiều tối ngày 28 -4 cho tới
12 giờ trưa 30-4 thì chỉ được có hơn một ngày rưỡi, chưa tới hai ngày. Nhiều
người trách ông không rút về Quân khu Bốn tiếp tục chiến đấu nhưng vấn đề không
đơn giản, nếu làm được thì người ta đã làm rồi. Khi ông vừa lên nhậm chức thì
CSBV tấn công hối hả, ông chưa kịp trở tay thì đã bị địch xông vào dinh Độc lập
thộp cổ rồi. Vấn đề rút về Quân khu Bốn không đơn giản, đạn dược còn bao nhiêu?
tinh thần còn bao nhiêu? chiến đấu được bao lâu? Cầm chắc cái thua trong tay
rồi chết thêm có lợi ích gì không?
Tác giả Vũ Ánh trong bài: 30 Tháng 4, 75 Và Cụ Nguyễn Văn Huyền,
đăng trên trang mạng Nguoivietboston tháng 4-2012 đã tiếp xúc với Phó Tổng
thống Nguyễn Văn Huyền khi ông tới đài Truyền hình Sài gòn chiều tối 28-4-1975.
Cụ Phó cho biết đã nhịn nhục vào Tân Sơn Nhất gặp phái đoàn CS chỉ để yêu cầu
họ đừng tấn công bằng hỏa tiễn vào Sài Gòn, chết người thêm vô ích. Cụ nói khi
ông Thiệu bỏ đi ai cũng biết tình hình cuối cùng sẽ bi đát như hiện nay, cụ ra
nhận trách nhiệm khi biết rõ không còn phương cách nào có thể cứu vãn được.
Trước khi cụ quyết định nhiều người ngăn cản đừng dại gì làm việc trong hoàn
cảnh này nhưng là kẻ sĩ thì không thể thiếu trách nhiệm được, thời bình thì xe
ngựa xênh xang, khi đất nước tan hoang thì bỏ trốn.
Nhiều người trách ông Dương văn Minh đầu hàng giặc, nhưng nếu ông không
ra cứu nước thì tình hình cũng không khác gì hơn. Chiều 28-4 các vị Tổng Tham
mưu trưởng, Tư lệnh Quân đoàn Ba đã “tẩu vi thượng sách”. Cụ Hương biết làm gì
hơn? Cụ cũng sẽ lên đài phát thanh than thở, khóc lóc cùng đồng bào và Cộng
quân cũng sẽ tiến vào dinh Độc Lập bắt tuyên bố đầu hàng, hoặc một người thay
mặt cụ tuyên bố hàng. Ông
Dương Văn Minh chẳng có tội gì với đất nước.
Nhiều người khen ông Minh có công
cứu nguy Sài gòn, nếu ông không lên làm Tổng thống và nếu không kêu gọi đầu
hàng thì Việt Cộng đã pháo kích chết hết, thành phố tan nát. Như đã nói ở trên
Tướng Toàn thành lập năm tuyến phòng thủ Sài Gòn cách trung tâm thành phố 27
cây số, bằng tầm pháo cùa đại bác 130 ly của quân thù.
Tại trận Ban Mê Thuột tháng
3-1975, Cộng quân không đánh theo lối bóc vỏ mà đánh chiếm thị xã trước rồi từ
đó mới đánh ra các quận bên ngoài. Khi đánh Sài Gòn thì ngược lại, họ đánh theo
lối bóc vỏ, tấn công phá sập các tuyến phòng thủ bên ngoài rồi mới tiến vào
trung tâm thành phố. Mà thực ra sau khi vòng đai bảo vệ Sài Gòn sụp đổ thì các
ổ kháng cự bên trong thành phố không còn bao nhiêu, VC chẳng cần phải pháo kích
cho tốn đạn, ông Dương
Văn Minh cũng chẳng có công trạng gì.
Trọng Đạt
Tham Khảo
Richard Nixon: No More Vietnams
, Arbor House, New York
1985
Henry Kissinger: Years of Renewal- Simon & Schuster 1999
Walter Isaacson: Kissinger A Biography Simon & Schuster 1992.
Larry Berman: No Peace No Honor, Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam -The
Free press 2001
Marvin Kalb and Bernard Kalb: Kissinger; Little, Brown and company 1974
The Word Almanac Of The Vietnam War: John S. Bowman – General Editor, A
Bison-book 1985
Wikipedia: Opposition to the US involvement in the Vietnam war
Nguyễn Kỳ Phong: Vũng Lầy Của Bạch Ốc, Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam 1945-1975,
Tiếng Quê Hương 2006
Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn
2001.
Vũ Ánh: 30 Tháng 4, 75 Và Cụ Nguyễn Văn Huyền, Nguoivietboston.com, tháng
4-2012..
Nguyễn Đình Toàn: Đại Tướng Dương Văn Minh : “Em làm chứng cho Goa
nha!”, Người Việt Dallas, tháng 4-2011.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét