Khi cuộc chiến tranh Đông dương lần thứ nhất và lần thứ hai chấm
dứt, các nhà lãnh đạo đã rút ra những bài học, tôi xin đan cử một số kinh
nghiệm của họ như dưới đây
Bài học của Henri Navarre
Trước hết ý kiến của
Tướng Henri Navarre, Tư lệnh quân viễn chinh Pháp tại Đông Dương (1)
Tháng 9/1945 người Pháp
theo chân quân Anh vào Đông Dương giải giới quân Nhật để chiếm lại thuộc địa
này, họ còn nhiều quyền lợi như hầm mỏ, xí nghiệp, đồn điền, dinh thự, đất đai…
Việt Minh lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp, được Trung Cộng viện trợ vũ khí
ồ ạt và huấn luyện quân sự từ 1950. Mới đầu cuộc chiến tranh chỉ giới hạn tại
Việt Nam sau lan rộng ra các nước Mên
Lào
thành ra chiến tranh Đông Dương. Từ 1952 Pháp bị thiệt hại nhiều trước hỏa
lực mạnh của Việt Minh, cuộc chiến của Pháp nay không còn để chiếm lại thuộc địa vì chế độ
thuộc địa đã cáo chung mà chuyển sang chống Cộng Sản. Những năm 1953, 54 Pháp
nhận nhiều viện trợ của Mỹ, họ cũng cố giữ Đông Dương, trả độc lập dần dần cho
Việt, Mên, Lào để đưa vào Liên hiệp Pháp.
Tháng 5/1953 Tướng Henri Navarre được cử
sang Việt Nam để cứu nguy Đông Dương, một năm sau Pháp bại trận tại Điện Biên
Phủ, Navarre được triệu về nước đầu tháng 6/1954. Năm 1956 ông viết Đông Dương
Hấp Hối, Agonie de l’Indochine để biện minh cho quân đội Pháp và cho chính ông
về sự thất bại này. Theo Navarre sở dĩ thua trận do ở Trung ương Paris không có
chính sách rõ ràng về cuộc chiến, không yểm trợ đầy đủ, quân phí nghèo nàn, quân
đội thiếu thốn về cả nhân lực lẫn hỏa lực.. trong khi đối phương được Trung
Cộng viện trợ ồ ạt, họ có tinh thần và có đường hướng chính trị nghiêm chỉnh.
Tôi xin sơ lược một số nhận định của tác giả
về bài học rùt ra từ cuộc chiến Đông Dương lần thứ nhất 1946-1954. Navarre nói để có được những bài học từ sự
thất bại ta phải phân tích đúng những nguyên nhân thật.Thế mà ít khi sự phân
tích này được đầy đủ hoặc nó không dựa trên những dữ kiện giả mạo. Nhất là khi các nhà lãnh đạo chính trị có sai
lầm, các ông thường tránh trách nhiệm và đổ lỗi cho các nhà quân sự. Đó là cách
chạy tội cổ điển của các chính phủ, họ không biết chuẩn bị hoặc lãnh đạo một
cuộc chiến tranh. Sự qui trách nhiệm này sẽ không quan trọng nhiều nếu nó chỉ
có hậu quả là đưa các Tướng lãnh làm bung xung và cho các chính trị gia lợi
dụng để phô trương. Nó quan trọng ở chỗ nó làm tổn thương đến tương lai đất
nước, nó ngăn chận ta rút ra được một bài học từ sự thất bại trong quá khứ để
ta có thể tránh những tai họa ở tương lai.
Tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp - Tướng Navarre (bên phải) và thuộc cấp rất thích đặt tên những loại chim biển, phụ nữ và thần thoại Hy Lạp cho các đơn vị quân đội của mình |
Sau khi đã thất bại ở Đông Dương, những người
đứng đầu chính phủ đã lãnh đạo cuộc chiến tồi tệ và tìm hòa bình vụng về. Họ đã
đánh lừa dư luận cho rằng nguyên nhân chính, duy nhất là do Quân đội mà thực ra
theo Navarre những thất bại tất nhiên do chính trị. Sau khi đã thổi phồng vấn
đề, họ lấy cớ để đình chiến trong những điều kiện mà tình trạng quân sự không
được đặt ra. Những hậu quả do thất trận Điện Biên Phủ đem lại những kích thước
thật, chúng ta định nghĩa thất bại thế nào?
Tại Đông
Dương các Tư lệnh quân đội viễn chinh kế tiếp nhau đều đã khinh địch (2), nói
riêng ra họ không nhận thức kịp thời sự thay đổi cơ bản của sự thành lập quân
đội chính qui Việt Minh. Kế hoạch này có thể tham gia theo tầm vóc chiến lược
và thách đố bộ máy chiến tranh quân sự của Pháp, như thề là để địch đi trước mà
ta khó theo kịp. Họ không thúc đẩy việc thành lập Quân đội các nước Liên kết (tức
Việt, Mên, Lào) và như thế không có phương tiện thành lập nhiều chủ lực quân
cần thiết giữ nước để có tự do hành động, bằng lấy bớt những đơn vị trong Quân
đoàn viễn chinh.
Người ta đã không thích nghi quân đội Pháp
với tính chất của địch và với địa thế. Họ chỉ chú ý tới hỏa lực nhưng không
quan tâm tới sự lanh lợi nhẹ nhàng, mưu lược, tin tức của quân đội. Họ không
cần hiểu sự cần có một kế họach dài hạn được chính phủ chấp thuận cho họ những
phương tiện cần thiết theo đuổi có phương pháp kiên cường.
Đó là
những lời trách cứ bộ chỉ huy Sài Gòn (3) , nhưng có nhiều lý do bào chữa. Trừ trường
hợp Thống chế De Lattre (vừa là Tư lệnh, vừa là
Tổng cao ủy), các Tư lệnh quân đội Pháp tại Đông Dương phải dưới quyền
các công chức dân sự cao cấp: Toàn Quyền, Cao ủy, Tổng cao ủy. Tư Lệnh không
chủ động trong quyết định mà phải theo một phạm vi chính trị. Chiến lược của
Pháp không có chính trị trái ngược với của Việt Minh. Viện trợ Mỹ cho Pháp khiến
cuộc chiến mang tính chất khác, nó cho ta hỏa lực nhưng nó cũng đăt gánh nặng
cho Pháp. Một khi vào con đường này không thoát ra được
Tướng René Cogny (trái), Đại tá Christian de Castries (đầu trần) và Tướng Henri Navarre (ngồi giữa) thảo luận kế hoạch tại chiến trường |
Các nước Liên kết không lập được quân đội
riêng không phải do ở ông Tư lệnh Pháp mà vì họ không muốn vào con đường bấp
bênh xa vời. Nói về không có kế hoạch quân sự tổng quát là vì không có kế hoạch
chính trị cơ bản, bởi thế nói cho đúng thì lỗi lầm quân sự ở Đông Dương không
thể xác định được nhất là nguyên do ở chính trị.
Một
trách nhiệm quân sự khác do ở Paris, Đông Dương không bao giờ được coi là trọng
tâm của ưu tư trong các Cơ quan quân sự mà chỉ coi nó là một gánh nặng không
muốn đóng góp mà chỉ chi tiêu một số tiền nhỏ thôi. Chiến tranh Đông Dương luôn
được thực hiện rẻ tiền bằng phương pháp những khoản nhỏ, chi phí thiếu hụt, sĩ
quan, chủ lực quân bộ binh yếu kém, quân đội thiếu huấn luyện, vũ khí lỗi thời
không thích hợp. Không quân được cung cấp chút ít về máy bay, nhân lực và hạ
tầng cơ sở, phi trường. Do đó các Tổng tham mưu trưởng kế tiếp nhau của Bộ Quốc
phòng và các TMT của Lục quân, Không quân chịu trách nhiệm nhiều, nhưng họ dưới
quyền Bộ trưởng và trách nhiệm sau cùng ở cấp Chính phủ.
Những ông TTMT đã không đề
nghị những giải pháp thuận lợi, những quyết định hữu hiệu để nếu không tạo
chiến thắng thì cũng tạo được giải pháp chính trị thuận lợi cho cuộc chiến
tranh. Nếu họ làm thì chắc đã được vinh danh, nhưng không nghe nói tới. Trong
hệ thống chính trị của Pháp, người ta chỉ thích dùng người dễ sai bảo. Những lý
do thất bại căn bản là chính trị, từ đầu chí cuối cấp lãnh đạo Ba Lê không bao
giờ biết họ muốn gì hoặc hoặc nếu biết cũng không dám xác nhận.
Họ không bao giờ dám nói cho đất nước biết có
chiến tranh tại Đông Dương
Họ không biết đưa quốc gia vào cuộc chiến
cũng không tìm hòa bình.
Họ không có khả năng định nghĩa sự lãnh đạo đối
với các nước Việt, Mên, Lào mà cứ xài những giải pháp lai căng cũ rich. Họ
không có can đảm lựa chọn thẳng thắn giữa chế độ thuộc địa mà đã tuyên bố bỏ
nhưng cũng muốn giữ những quyền lợi vật chất dưới danh nghĩa khác. Họ cũng muốn
lập một Liên hiệp các nước tự do mà họ muốn nhưng thực hiện chậm.
Họ không định được vị trí liên quan giữa Pháp
và Mỹ, chỉ biết xin viện trợ mà cuối cùng có hại nhiều hơn lợi, người ta cố ý
phá những quyền lợi của Pháp bằng đường lối ích kỷ
Đối với
cuộc chiến mà họ không biết định nghĩa mục đích của nó, các nhà lãnh dạo chính
phủ không cho nó một đặc tính quốc gia, không biết nói cho cả nước biết lý do
Pháp tham chiến. Tự cấm mình không đòi họ hy sinh để chiến thắng vì thế họ cũng
tự nguyện ru ngủ đất nước bằng những bài diễn văn lạc quan, dễ dãi với bọn chủ
bại và cuối cùng để quân đội nhà nghề chiến đấu một mình không được nâng đỡ về tinh
thần, không đủ phương tiện vật chất.
Ngoài ra họ lại để quân đội bị đánh sau lưng (4)
họ khoan dung cho những sự phản bội của đảng Cộng Sản và đồng bọn, cho báo chí
được quyền bất khả xâm phạm, làm mât tinh thần các chiến sĩ có hại cho quốc gia
và phổ biến những bí mật quân sự. Do dự, sai lầm, hèn nhát tích lũy từ tám năm
quá nhiều không biết qui trách cho ai, cho Chính phủ nào. Đó là kết quả của chế
độ tự do, nó bắt nguồn từ bản chất, hệ thống chính trị Pháp. Một chế độ làm mất
uy quyền quốc gia mà tinh thần chung của quốc gia biến mất. Nó ngăn cấm sự vững
chắc của chính quyền thay thế bằng chủ nghĩa kinh nghiệm rời rạc nơi mà đảng
phái không thể hiện lý tưởng mà chỉ vì quyền lợi. Nỗ lực bầu cử, kết hợp những
nhà lãnh đạo vô trách nhiệm, bất lực về đối ngoại, nhượng bộ địch và phụ thuộc
vào đồng minh.
Một chế
độ hủy bỏ tinh thần quốc gia, cô lập quân đội với chính phủ, không cho quân đội
một chỗ tinh thần, một nơi vật chất mà không có nó quân đội không thể tồn tại.
Chế độ khuyến khích che chở những lời vu khống mạ lỵ, một chế độ mà một đảng (Cộng
Sản Pháp) công khai nhận lệnh bên ngoài, phản bội tự do. Chế độ mà báo chí biến
thành một công ty làm suy yếu tinh thần quốc gia và cung cấp tin cho địch. Một
chế độ như thế không thể đương đầu với một cuộc chiến dù trong đế quốc của mình
hay tại biên giới chính quốc (Métropole). Hệ thống chính trị trong bốn thập
niên xưa đưa dất nước đã từng chiến thắng năm 1918, thành một bệnh nhân yếu
đuối ở Âu châu và trong những thập niên tới sẽ suy yếu già nua.
Đó là những bài học từ cuộc chiến Đông Dương,
nó thể hiện trong tất cả các lãnh vực, mọi người Pháp có thể suy nghĩ và sẽ cảm
thấy một sự mâu thuẫn giữa việc giữ chế độ và giữ cho nước Pháp như một cường
quốc. Nhiều người sẽ còn tự hỏi nếu kết luận này có thể áp dụng cho cả Tây
phương không? Và nếu đối phó với chủ nghĩa Cộng Sản và chủ nghĩa Quốc gia mà
người ta đang hun đúc, những chế độ dân chủ sẽ bị hủy hoại như thành La mã suy
tàn hay Byzance (Hy lạp) trước quân thù mọi rợ (5). Nếu chế độ không thay đổi cùng
những lý do đã mất Đông Dương hôm qua, ngày mai sẽ mất Bắc Phi và tất cả những
gì thuộc về Đế quốc Pháp. Những nguyên do chống lại Pháp ở Đông Dương sẽ xuất
hiện trong đế quốc nhất là tại châu Phi.
Nhìn chung, Navarre ghi nhận những nhược điểm
của chính phủ Pháp trước cuộc chiến như không tha thiết, không đặt tầm quan
trọng cho cuộc chiến. Người ta đã không trang bị đầy đủ về vật chất, không có
một ý hướng chính trị trong khi đối phương Việt Minh, phía Cộng Sản có đường
hướng rõ ràng lại có hoả lực mạnh nhờ viện trợ của Trung Cộng. Thực ra người
Pháp không có chính nghĩa, quân Pháp quá tàn ác trong các cuộc hành quân, người Việt nam tại miền quê đều biết cả. Chế
độ thực dân đã lỗi thời, đó là tất cả những nguyên do đưa tới thất bại sụp đỏ
Đông Dương. Nhưng Navarre cũng quá bi
quan trong nhận định về hiểm họa chủ nghĩa CS khi ông cho rằng Tây phương, chế
độ dân chủ sẽ bị suy tàn trước các nước Cộng sản nghèo đói.
Bài học của Robert S. McNamara.
Tôi xin đề
cập tới ý kiến của McNamara, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ 1961-1968 (6). Năm 1960
nhận lời mời làm Bộ trưởng quốc phòng, McNamara được toàn quyền cai quản, sau
này được TT Johnson tin tưởng cũng giao cho ông soạn thảo kế hoạch, chiến lược
cho cuộc chiến VN. Người ta cũng gọi ông là Kiến trúc sư của cuộc chiến VN. Năm
1995 McNamara viết Hồi Tưởng, Thảm Kịch Và Bài Học Của Việt Nam kể lại diễn
tiến cuộc chiến can thiệp tại VN giữa thập niên 60 và cũng để biện minh cho sự
thất bại của mình. Hoa kỳ bắt đầu đưa nhiều quân vào miền Nam từ giữa 1965, đến
cuối năm này họ có 184, 000 lính tại miền nam VN, hàng năm đều cho tăng quân,
tới 1968 lên đến 530,000.
Cựu bộ trưởng nói Mỹ rút khỏi nam VN 1973,
mất hơn 58,000 người, kinh tế bị ảnh hưởng nặng vì chiến phí , xã hội bị chia
rẽ trầm trọng, có đáng phải trả giá cao như vậy không? Dean Rusk, Walt Rostov,
Lý Quang Diệu… và nhiều nhà chính trị khác tới nay cho là đúng, họ nói nếu Mỹ không
can thiệp vào VN, CS đã bành trướng tại các nước Đông nam Á như Nam Dương, Thái
Lan và Ấn độ. Có người đi xa hơn nói Sô Viết sẽ thừa cơ gây ảnh hưởng khắp nơi
trên thế giới nhất là Trung Đông. Khi những văn khố của Nga, Trung Cộng, Việt
Nam cho các nhà học giả tham khảo thì ta mới thấy ý định thực sự của họ.
McNamara cho rằng nguy cơ CS gây hấn trong bốn thập niên thời chiến tranh lạnh
là có thật, tuy nhiên suốt những thập niên 50, 60, 70, 80 Tây phương nhận định
sai và phóng đại nguy cơ của phương Đông (CS) này lên
Cho là vậy, McNamara đặt vấn đề ảnh hưởng Nga,
Trung Cộng sẽ như thế nào nếu Mỹ không vào Đông Dương hoặc rút bỏ Việt Nam từ
giữa thập niên 60. Ông nói điều hiển nhiên là TT Kennedy gửi cồ vấn sang VN
không hiệu quả vì tình hình chính trị không ổn định và khó thực hiện và nam VN
mặc dù được Mỹ huấn luyện và viện trợ tiếp liệu họ không tự vệ chống CS được.
Theo
McNamara (7) Hoa Kỳ có ba cơ hội để rút bỏ VN từ cuối 1963 khi tình hình xáo
trộn sau khi ông Diệm bị đảo chính hoặc cuối 1964, hay đầu 1965 khi VNCH yếu
kém về chính trị và quân sự. Ông không tin nếu Mỹ rút khỏi VN và nói cho người
dân Mỹ cũng như thế giới biết sẽ khiến Tây Âu và Nhật mất tin tưởng và đòi ta
bảo đám an ninh cho họ vì sợ hãi. Trái lại ông cho rằng Mỹ phải rút bỏ VN để
giữ lực lượng bảo vệ những nơi khác để làm cho họ tin ta hơn.
Có
người cho rằng thế giới sau thời chiến tranh lạnh sẽ khác hẳn thế giới hồi xưa
nên bài học cuộc chiến VN sẽ không áp dụng được, không liên hệ gì tới thế kỷ
21, McNamara bác bỏ ý kiến này. Nếu không học hỏi từ quá khứ ta sẽ đi mua thất
bại, tất cả có 11 nguyên nhân đưa tới thảm họa ở VN.
1-Nhận
định sai về ý đồ, tham vọng của địch, phóng đại mối nguy của địch
2-Chúng
ta tưởng các nhà lãnh đạo miền nam VN khao khát và kiên quyết chiến đấu cho tự
do dân chủ. Ta đã đánh giá sai hoàn toàn lực lượng chính trị trong nước họ.
3-Chúng
ta đánh giá thấp tinh thần quốc gia đưa dân tộc chiến đấu đến chết cho niềm tin
của họ ở đây cụ thể lả BV và VC, chúng ta vẫn tiếp tục sai lầm trên thế giới.
4-Chúng ta
đánh giá sai bạn, thù chứng tỏ ta mù tịt về lịch sử, văn hóa chính trị của
người dân trong vùng cũng như con người các nhà lãnh đạo của họ. Trên thực tế
không có nhân vật Đông nam Á nào để ta tham khảo ý kiến trước khi quyết định về
VN.
5-Chúng
ta không hề nhận thức được giới hạn của của vũ khi tối tân và không có lý
thuyết để đương đầu với phong trào nổi dậy bằng chiến tranh không qui ước. Ta
không tranh thủ nhân tâm với dân tộc có văn hóa khác biệt ta hoàn toàn.
6- Chúng
ta đã không đưa Quốc hội , người dân vào
cuộc tranh luận, bàn thảo khoáng đại để ủng hộ hay chống lại việc can thiệp qui
mô của Mỹ vào Đông nam Á trước khi hành động.
7-Khi ta
tiến hành việc can thiệp có nhiều biến cố buộc ta phải bỏ kế hoạch, ta thất bại
không giữ được sự ủng hộ của người dân vì ta đã không giải thích đầy đủ về diễn
tiến và tại sao ta can thiệp. Sức mạnh của một quốc gia không nắm ở quân sự mà ở
sự đoàn kết dân tộc, ta thất bại ở điểm này.
8-Trong
khi an ninh đất nước ta không bị trực tiếp đe dọa, việc quan tâm một nước khác
cần bàn thảo tại nghị trường quốc tế. Chúng ta không có quyền buộc mỗi nước
theo mô hình ta muốn.
9- Chúng
ta không theo nguyên tắc khi Mỹ chưa bị trực tiếp đe dọa, hành động can thiệp
của ta phải được nhiều nước tham gia thực sự chứ không phải chỉ tượng trưng mầu
mè.
10-Chúng
ta không biết trong vấn đề quốc tế có thể có những vấn đề không cần giải pháp
tức thời, ta phải chấp nhận một thế giới không hoàn hảo
11-Ta thất
bại vì không phân tích và thảo luận về hành động của ta tại Đông Nam Á, mục
tiêu, những sự nguy hiểm, tốn kém của một đường lối khác, và phải thay đổi
phương thức khi thất bại rõ ràng.
Sau đó
tác giả nói về bài học VN áp dụng cho Mỹ thời sau chiến tranh lạnh, ông nói
những thất bại ấy liên kết nhau, mỗi thất bại là một nút quan trọng. Lấy ra
những sai lầm ấy khiến ta có một bài học của VN và sẽ áp dụng cho thời sau
chiến tranh lạnh. Giữa thập niên 80 chiến tranh lạnh chấm dứt, các nước chưa
xét lại chính sách ngoại giao, quốc phòng vì chưa biết tương lai sẽ ra sao.
Thế rồi Iraq
tiến chiếm Kuwait, nội chiến tại Nam Tư cũ, những biến cố tại Chechnya,
Somalia, Haiti, Sudan, Burundi, Armenia và Tajikistan cho thấy thế giới trong tương lai không bao
giờ hết chiến tranh, nội chiến, chiến tranh với nước khác. Xung đột chủng tộc,
tôn giáo vẫn còn mãi. Chủ nghĩa quốc gia sẽ là sức mạnh trên thế giới
Thê
giới tương lai sẽ không khác gì trong quá khứ, tranh chấp trong và ngoài nước
vẫn y như thế, trong 45 năm qua có 125 cuộc chiến khiến cho 40 triệu người tại
thế giới Thứ Ba bị thiệt mạng. Thế giới trong tương lai sẽ không khác gì ngày
nay và quá khứ, nội chiến, chiến tranh giữa các nước sẽ không bao giờ hết.
Nhưng tương quan giữa các nước sẽ thay đổi rất nhiều. Thời hậu chiến Hoa Kỳ sẽ
là một siêu cường có thể xếp đặt thế giới theo ý mình nhưng thế kỷ sau sẽ không
có khả năng làm chuyện ấy. Trong tương lai Nhật sẽ đóng vai trò quan trọng về
kinh tế, chính trị và Âu châu trong tương lai cũng vậy.
Thế kỷ
sau các nước Thứ Ba sẽ tăng rất nhanh về dân số, kinh tế như Ấn độ, Nigeria, Ba
Tây. Nếu Trung Cộng đạt mục tiêu kinh tế năm 2000 tiếp tục như thế nhưng không
tăng trưởng mạnh trong 50 năm nữa, họ sẽ có lợi tức, sẽ ảnh hưởng Tây phương
giữa thế kỷ 20. Tổng sản lượng sẽ vượt qua Mỹ, Tây Âu, Nhật, Nga, đó sẽ là một
siêu cường đáng kể.
Mặc dù
vẫn là siêu cường, nước Mỹ ở trong một thế giới đa cực, Mỹ sẽ phải thay đổi
chính sách ngoại giao, quốc phòng cho phù hợp với thực tại. Trong thế giới đó
cần có bang giao, quan hệ mới giữa các siêu cường Trung Hoa, Âu châu, Nhật, Nga
và Mỹ, giữa các siêu cường và các nước khác. Chiến tranh lạnh chấm dứt không có
nghĩa là chiến tranh sẽ chấm dứt.
McNamara
cho rằng người Mỹ can thiệp vào Đông Dương từ đầu thập niên 60 và nhất là đưa
quân vào Việt Nam 1965 là sai lầm, đáng lý phải rút ra từ cuối năm 1963 hay đầu
năm 1964. Mục đích của ông muốn nói cuộc chiến là sai lầm để biện minh cho kế
hoạch quân sự thất bại tại VN của chính mình.
Bài học của Richard Nixon.
Cuối cùng tôi nói
tới ý kiến của Nixon, Tổng Thống Hoa Kỳ từ 1969-1974 (8). Năm 1985 ông viết No
More Vietnams, Không Còn Những Vietnam để kể lại quá trình của ông giải quyết
cuộc chiến VN, sự thất bại do Quốc hội đối lập và kết luận đó là một bài học,
từ nay sẽ không còn thất bại như tại VN.
Nixon nói thế chiến Thứ Ba, Third World War bắt
đầu trước khi Thế chiến Thứ hai chấm dứt, Sài Gòn thất thủ 10 năm qua đó là
thắng lợi lớn nhất của Sô viết, một trong những trận cơ bản nhất của Thế chiến Thứ
ba. Không một người lính Nga nào chiến đấu tại VN nhưng nó là một chiến thắng
cho Moscow vì Bắc Việt đồng minh của họ thắng, Nam VN và Mỹ thua. Sau khi Hoa
kỳ không ngăn chận được CS ở VN họ bị thua nhiều nơi khác. Những người theo chủ
thuyết cô lập (không can thiệp) hát “Không còn có những Việt Nam” trong khi đó
quân cờ domino rớt từng con một: Mên, Lào, Mozambique 1975, Angola 1976,
Ethiopia 1977, South Yemen 1978, Nicaragua 1979.
Reagan lên làm TT 1981, Mỹ không bị mất thêm
nước nào nhưng bóng ma VN vẫn ám ảnh những cuộc thảo luận về viện trợ El
Salvador hay những người chống Cộng tại Nicaragua. Nếu ta thất bại không ngăn
được Sô Viết giúp các lực lượng gây hấn ở bán cầu chúng ta, ta sẽ ít hy vọng
ngăn được họ khi quyền lợi ta bị đe dọa ở các nước khác. Ta phải tự gột bỏ
những ám ảnh bệnh hoạn hiện tượng Việt Nam nếu muốn tránh những thất bại khác
của Thế chiến Thứ ba. Không ai muốn có một VN khác, họ sợ rằng bất cứ sự can
thiệp nào trong các nước Thế giới Thứ ba sẽ có thể đưa tới một VN khác. Những
người theo phái “Cô lập” cho rằng Mỹ không có quyền lợi chiến lược ở Thế giới Thứ
ba nên ta không can thiệp quân sự, giới hạn viện trợ và ngoại giao. Nixon cho
đó là những nhận định sai lầm, hai phần ba dân số thế giới sống trong những
nước phát triển châu Á, châu Phi, Trung đông,châu Mỹ La tinh, họ có nhiều
nguyên liệu cần thiết cho kỹ nghệ các nước Tây phương. Năm ngoái (1984) ngoại
thương của Mỹ với các nước Thế giới Thứ ba là 175 tỷ Mỹ kim bằng ngoại thương của
cả Nhật và Tây Âu cộng lại
Nếu ta
để hàng triệu người chịu số phận của dân tộc VN và các nước Thứ Ba chịu ách độc
tài là bất nhân. Thế giới Thứ ba bị đe dọa hòa bình nhiều nhất, có 20 cuộc
chiến và 10 triệu người bị giết. Ta không có quyền lợi để cai trị Thế giới Thứ ba
nhưng ta có lợi khi ngăn chận Sô Viết. Từ 1974 họ đã chiếm được 9 nước mà không
phải đem quân qua, từ cuộc chiến Triều Tiên, Sô viết đã tiến tới biên giới
nhiều nước. CSBV với súng ống Nga, Tầu viện trợ gây chiến với nam VN. Tại Cuba,
Nicaragua và Sô Viết giúp bọn cướp chính quyền dưới chiêu bài chiến tranh giải
phóng. Tại Angola và Ethiopia Sô Viết dùng quân ủy nhiệm Cuba giúp các nhà lãnh
đạo CS cướp chinh quyền.
Nếu ta
chuẩn bị cuộc chiến hiện tại bằng cách phòng vệ hôm qua ta sẽ thất bại. Nay
những trận quan trọng không ở dọc biên giới mà sẽ sẩy ra tại những nước xa xôi.
Sô Viết nhúng tay xúi dục, yểm trợ cướp chính quyền những nước không CS. Mặc dù
có sức mạnh nguyên tử nhưng ta không tự sát mà dùng nó. Có sức mạnh về chiến
tranh qui ước nhưng không thắng được kẻ thù vì chúng không đánh qui ước; ngoại
giao không thể thành công nếu không có quân sự.
TT Nixon nói (9) năm 1969 rút kinh nghiệm ở
VN, Mỹ có thể bất đắc dĩ lắm mới đưa quân tham chiến ở một nước thứ ba mà ông ta
đã làm thành chủ thuyết Nixon. Ông chủ trương trong tương lai, trừ khi một siêu
cường can thiệp vào một cuộc chiến của Thế giới Thứ ba, Hoa kỳ sẽ không gửi
quân. Chúng ta sẽ cung cấp viện trợ quân sự, kinh tế cho nước ấy bằng với số
viện trợ Sô Viết cung cấp cho lực lượng nổi dậy nhưng nước bị tấn công phải
chịu trách nhiệm cung cấp nhân lực để tự vệ. Nếu sau khi ta đã huấn luyện và
trang bị, một quốc gia vẫn không đủ khả năng và ý chí để thắng địch, dù ta có
chiến đấu cho họ cũng chỉ thắng lợi tạm bợ, khi ta rút đi, kẻ địch chiếm ngay.
Chúng ta sẽ không bao giờ sai lầm như đã làm ở VN. Chương trình Việt Nam hóa
chiến tranh đáng lẽ phải được thực hiện khi bắt đầu cuộc chiến (1965) hơn là 4
năm sau khi Mỹ đã gửi hơn 500 ngàn quân tới trận địa.
Học thuyết này không có nghĩa là Mỹ rút khỏi Á
châu và các nước khác nhưng tạo cơ bản cho các nước bạn chống CS xâm lăng.
Trong chương trình huấn luyện chúng ta cần phải tránh một sai lầm nữa đã làm ở
VN: Thành lập quân đội cho đồng minh theo mô hình Mỹ và như thế chỉ chú trọng
khả năng trong chiến tranh qui ước mà ít chú ý tới du kích chiến. Quân đội cần
được trang bị và huấn luyện thích hợp. Chi tiền cần phải đúng chỗ có hiệu quả
hơn thí dụ như El Salvador có máy bay phản lực tối tân đánh du kích không có
máy bay.
Một sai lầm thứ ba của nhiều người Mỹ trong
những năm cuối của chiến tranh VN về việc ủng hộ các nhà lãnh đạo đồng minh.
Những người cấp tiến nói ta ủng hộ những nhà độc tài là có tội, họ nói sai,
chính quyền độc tài áp bức nhất vẫn là CS. Ở Cuba dưới chế độ Castro quá tệ so
với Batista, thời Lê Duẫn quá tồi tệ so với thời Nguyễn Văn Thiệu. Căm bốt quá
thậm tệ dưới thời Pol Pot hơn thời Lon Nol. Ta có thể áp lực một chính phủ
không CS đang cầm quyền (như VNCH) áp dụng nhân quyền nhưng nay thì vô
phương. Ta sẽ không bao giờ lật đổ một
chính quyền để có được chút tự do nhưng ngoài ra nó chẳng mang lại gì. Đây là
bài học sâu sắc của chiến tranh VN.
Tác giả nói (10) sau cùng
chúng ta không nên sai lầm giúp đồng minh chống bọn phản loạn mà không biết
nguồn gốc của nó, ta viện trợ cho El Salvador mà không áp lực Nicaragua và các
nước khác trong khối Sô viết viện trợ cho phản loạn. Giúp một nước chống lại
xâm lăng CS là điều khó, giúp lực lượng chống CS trong một nước mà CS đã nắm
quyền còn khó hơn nữa. Ta phải giới hạn hành động của ta và không sai lầm như
1956 tại Hung Gia Lợi và 1961 tại Vịnh Con Heo, tại đây ta đã khuyến khích cổ
võ những người nổi dậy chống chế độ CS và ta đã thất bại không giúp được họ khi
bị chính quyền CS đàn áp mạnh bằng lực lượng lớn.
Ta không thể để sự thất bại ở VN che dấu một
sự thật rõ ràng là nếu không có viện trợ quân sự và ý muốn xử dụng nó trong
những trận quyết liệt tại các nước Thừ Ba, ta sẽ thua cuộc Thế chiếnThứ ba. Các
nhà quân sự Mỹ sau bài học VN cho rằng nay ta chỉ đưa quân nếu vấn đề phải là
sinh tử cho lợi ích quốc gia hay của đồng minh. Khi gửi quân chỉ có mục đích
thắng, phải có đủ phương tiện và được Quốc hội, người dân ủng hộ, không phải
quyền lợi của ta chỉ giới hạn tại Tây Âu, Nhật, Trung đông.
Do Thái
chỉ có 4 triệu dân trong số 100 triệu người ở Trung đông, không phải là đồng
minh chính thức của Mỹ, khi Do Thái bị tấn công các Tổng thống Mỹ đều bảo vệ Do
thái. Quyền lợi của ta đối với sự sống còn của Do Thái là vì một nước dân chủ
nằm giữa một vùng toàn là những nước độc tài, vả lại Sô Viết viện trợ rất nhiều
cho các nước chống Do thái.
Nếu ta định
nghĩa quyền lợi ta rất nhỏ hẹp vì sợ bài học VN ta sẽ bỏ rơi nhiều triệu người
rơi vào tay độc tài, sẽ thua cuộc chiến Thứ Ba. Thất bại ở VN chỉ là tạm thời
lùi một bước sau nhiều thắng lợi. Ta cần phải học một bài học từ thất bại này,
tại VN chúng ta đã nỗ lực vì một nguyên nhân chính đáng và đã thất bại, No More
Vietnams không có nghĩa là ta sẽ không nỗ lực lần nữa. Nó có nghĩa là chúng ta
sẽ không thất bại (11)
Nhận định chung
Henri Navarre đưa ra bài học VN để áp dụng cho
Đế quốc Pháp, một đế quốc nhỏ nhưng Nixon và McNamara đem bài học VN ra áp dụng
cho Thế giới Thứ ba vì nước Mỹ là “ông Trùm”.
Navarre đưa những kinh nghiệm
thất bại tại Đông Dương để áp dụng vào châu Phi khi phong trào quốc gia được CS
ngầm cổ võ và lại được chính sách Mỹ khuyến khích. Theo ông, Bắc Phi gần Pháp
hơn Đông Dương về địa lý và nhiều phương diện khác. Mặc dù Navarre giới hạn
những bài học cho Đế quốc Pháp, những kinh nghiệm ông ta đề cập trong Đông
Dương Hấp Hối cũng có thể rút ra cho người Mỹ khi họ can thiệp vào VN. Trước
hết đây là cuộc chiến tranh không biên giới. Về địa lý ông cho biết VN nhiều
đồi núi, rừng ruộng; về chiến thuật chiến lược, lối đánh du kích của đối phương
khác hoàn toàn đối với chiến tranh qui ước của Tây Phương. Kẻ địch thống nhất ý
chí, có mục tiêu rõ ràng, có tinh thần kiên quyết và sẵn sàng hy sinh nhân mạng
cho mục tiêu.
Những kinh nghiệm kể trên có
thể giúp Hoa kỳ khi bắt đầu có nhiều ảnh hưởng miền nam VN từ năm 1955 nhưng
người Mỹ không một chút quan tâm vì họ tin tưởng vào hỏa lực, sức mạnh của mình.
Người Mỹ chủ quan nghĩ rằng quân đội của họ mạnh hơn Pháp có thể áp đảo đối
phương CSBV.
Giữa năm 1965 Hoa kỳ ồ ạt đưa quân vảo miền nam
VN vì tình hình tại đây đang bị nguy
kịch, mỗi tuần mất một tiểu đoàn và một quận, VNCH có thể mất trong vòng 6
tháng (12). Tướng Tư lệnh Westmoreland khẩn thiết xin Bộ Quốc phòng cho tăng viện
vì miền nam VN bị tổn thất nặng.
McNamara nói cuộc chiến VN khiến Mỹ chết người,
tốn của, xã hội phân hóa, một sự sai lầm trầm trọng, nguy cơ CS thời chiến
tranh lạnh là có thật. Ông nói tuy nhiên các thập niên 50, 60, 70, 80 Tây
phương nhận định sai và phóng đại nguy cơ CS, Hoa Kỳ đầu thập niên 60 gửi cố
vấn sang VN, huấn luyện và viện trợ tiếp liệu cho VNCH nhưng họ không tự vệ
chống CS được mà Mỹ phải đem quân vào chiến đấu cho họ.
Ông ta nói sai sự thật, trừ năm 1973 miền Nam
mạnh hơn miền Bắc nhờ Nixon viện trợ ồ ạt tháng 11-1972 (13) , không bao giờ quân
viện của Hoa kỳ cho VNCH ngang bằng viện trợ của Nga, Tầu cho CSBV. Những năm 1953,
1954 Quân lưu động của Việt Minh tương đương với 9 sư đoàn, trong khi Pháp chỉ
tương đương với 3 sư đoàn (14). Quân viện
của Mỹ cho Pháp (chiếm 79% chiến phí 1954) cũng thua kém xa quân viện
của Trung Cộng cho Việt Minh và họ đã thắng
trận Điện Biên Phủ.
Đương đầu với kẻ địch hùng hậu, từ năm 1955
tới đầu thập niên 60 Hoa kỳ đã không viện trợ cho miền Nam tương đương khiến năm 1965 VNCH đã bị tổn thất nặng như đã nói trên.
Chúng ta chưa hề thấy một nhà chính khách, quân sự Mỹ nào chịu nhìn nhận viện
trợ quân sự của họ không theo kịp trang bị của CS quốc tế cho BV, VNCH luôn
không đủ hỏa lực để tự vệ. Vấn đề này tôi đã đề cập trong một bài viết về quân
viện của hai miền.
McNamara
nhận định cuộc chiến VN là sai lầm, đáng lý Hoa Kỳ phải rút ra từ cuối 1963
hoặc cuối 1964, đầu 1965, thật ra chỉ là
chuyện hoàn toàn không tưởng. Tháng
8-1964 Quốc hội Mỹ biểu quyết chấp thuận
Nghị Quyết Vịnh BV ủng hộ TT Johnson tham chiến tại VNCH với tỷ lệ 99.60% (15)
và theo thăm dò số người dân ủng hộ cuộc chiến tỷ lệ rất cao 85% (16).
Tháng 12-1964, Hội đồng quân lực VNCH đã yêu
cầu Quốc trưởng Phan Khắc Sứu và Thủ tướng Trần văn Hương trục xuất Đại sứ Mỹ
Taylor mà họ cho là có thái độ hống hách (17). Trong tường trình cuối năm về
Tòa Bạch ốc, Taylor có đề nghị rút bỏ miền nam VN (18) nhưng không được chú ý
vì hồi đó đại đa số người dân, Chính phủ, Quốc hội Mỹ đều ủng hộ chính sách be bờ bảo vệ Đông nam Á. Nước Mỹ đang sợ hãi CS
vì tin mạnh vào thuyết Domino, thử hỏi Johnson-McNamara có thể rút bỏ VNCH được
không? Quốc hội và người dân có cho phép các ông rút trong khi cả nước Mỹ đang lo
ngại sự bành trướng của CS tại Đông nam Á?
Duyệt qua 11 nguyên nhân đưa tới thảm họa ở VN
của McNamara như trên ta thấy điểm thứ 1 ông cho thuyết Domino sai, thực ra nó
chỉ sai sau này khi Nga, Trung cộng đã mệt mỏi vì phải giúp BV một lượng quân
viện khổng lồ. Năm 1995 ông nói thuyết này sai vì đã yên chí lớn, Hoa kỳ đã bắt
tay được với CS quốc tế từ 1972. Điểm 2 ông cho rằng các nhà lãnh đạo VNCH
không kiên quyết chiến đấu cho tự do dân chủ, điểm 3 CS BV và VC có tinh thần
quốc gia cao chiến đấu tới cùng vì độc lập. Những điểm vừa rồi đã được Nixon
nêu ra trong No More Vietnams (trang 9,
10) và cho là hoàn toàn sai. Đó là tư tưởng của phong trào phản chiến, là người
đứng đầu Bộ quốc phòng, McNamara lại dùng quan điểm phản chiến thì thật hết ý
kiến. Điểm 5 ông đánh giá người Mỹ thiếu sót về chiến lược, vũ khí tối tân không
đánh được du kích, sơ sót này do ông không học hỏi thêm ở người Pháp, họ đã có
nhận định như vậy từ thập niên 50. Điểm 6 ông nói trước khi đem quân vào VN
phải đưa ra Quốc hội và quốc dân bản thảo, chẳng lẽ ông quên rằng năm 1964, 1965 đại đa số Quốc hội và người dân Mỹ đã tin vào
thuyết Domino và ủng hộ Mỹ đem đại binh vào VN ngăn chận CS xâm lăng?
Điểm 7 cựu Bộ trưởng nói về sự thiếu đoàn kết
vì bị dân chống đối, sai lầm vì không giải thích cho người dân tại sao ta can
thiệp. Sự thật không phải như vậy mà là kế hoạch McNamara sai lầm kéo dài chiến
tranh chết nhiều lính đã khiến phong trào phản chiến lên cao đưa tới sụp đổ.
Điểm 9 ông cho biết việc can thiệp tại VN phải được nhiều nước thực sự tham dự
chứ không phải chỉ tượng trưng. Điều này hơi khó, sự can thiệp vào VN là vì
quyền lợi của Hoa kỳ, vì thuyết môi hở răng lạnh và vì muốn giữ địa vị siêu
cường, nên Mỹ phải hy sinh khó có thể đòi hỏi ở các nước khác. Điểm 11 ông nói
về sự thay đổi đường lối khi đã thất bại, trong khoảng 1965-1968, McNamara nắm
toàn quyền kế hoạch quân sự tại VN, mặc dù nắm trong tay hơn 500 ngàn quân, được
người dân, Lập pháp ủng hộ nhưng ông đã thất bại và không hề thay đổi phương
thức.\
No More Vietnams trang 81, Nixon chỉ trích kế
hoạch chiến tranh giới hạn sai lầm của Johnson - McNamara những năm 1965, 1966,
1967 chỉ oanh tạc giới hạn miền Bắc và đánh hao mòn lực lượng địch ở miền Nam
và không cho đánh qua hậu cần địch bên kia biên giới Mên, Lào. Nixon nói đáng
lý phải đưa một lực lượng lớn đánh lên trên hoặc dưới vĩ tuyến 17 rồi tiến về
phía Tây Lào tới sông Cửu Long để ngăn chận địch. Các cuộc oanh tạc của Johnson
có mục đích chính trị nhiều hơn như nâng cao tinh thần VNCH và cho BV thấy sự
thiệt hại để ngồi vào bàn hội nghị, đó là điều ngây thơ. Nixon nhận định chiến
tranh leo thang của Johnson-Mcnamara để dụ cho địch vào bản hội nghị là sai lầm,
không thể mơn trớn CS từ bỏ cuộc chiến mà phải buộc họ từ bỏ nó.
Ông Cao Văn Viên (19) cũng
nhận định Johnson-McNamara đã không cho đánh phá các căn cứ hậu cần CS bên kia
biên giới Mên, Lào và đã thất bại
“Bộ TTM Hoa Kỳ cùng đô đốc Sharp và đại tướng Westmoreland, đều
có kế hoạch đánh ra vùng bắc khu phi quân sự, cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh,
đánh phá các căn cứ ở Lào, Cam Bốt, và oanh tạc các mục tiêu quan trọng chung
quanh Hà Nội, Hải Phòng. Các kế hoạch trên đều không được tổng trưởng quốc
phòng McNamara và tổng thống Johnson (1967) chấp thuận”.
Ngày 6/4/1969 Tướng Westmoreland, cựu Tư lênh
quân đội Mỹ tại VN và Ðô đốc Sharp cựu Tư lệnh Mỹ tại Thái bình dương công bố
bản phúc trình 347 trang về cuộc chiến Việt Nam trong 4 năm chỉ huy. Các Tướng
nhấn mạnh sự bó tay của Bộ tư lệnh Mỹ trước chính sách chiến tranh hạn chế của
TT Johnson và sự cấm đánh qua Mên và Lào.
Ngày 27/4/1969 Ðô đốc
Grant Sharp, cựu Tư lệnh Mỹ tại Thái Bình Dương, đăng báo công kích cựu bộ
trưởng Quốc Phòng McNamara vì đã ngăn cản không cho oanh tạc để phá hủy các cơ
sở và tiềm lực kinh tế Bắc Việt mà chỉ cho ngăn chận sự xâm nhập, nên các cuộc
oanh tạc hoá ra vô hiệu.
Người Mỹ cũng vấp phải
khuyết điểm khinh địch (sous-estimé l’adversaire) y như người Pháp trước đây.
Họ tưởng có thể đè bẹp đối phương bằng sức mạnh hỏa lực, vũ khí tối tân và đánh
giá quá thấp sự yểm trợ của CS quốc tế. Sự thực quân viện của Nga sô, Trung
cộng và các nước Đông Âu không đến nỗi tệ, từ đầu chí cuối cuộc chiến họ đã
giúp Hà Nội (20)
Tổng cộng 2 triệu 362
ngàn tấn hàng hậu cần và vũ khí
Về chi tiết: 3 triệu 600 ngàn khẩu súng bộ binh; 65,626
súng chống xe tăng; 27,960 khẩu súng
cối; 2, 430 khẩu pháo hỏa tiễn; 2,165 khẩu đại bác; 3,229 khẩu cao xạ; 19,836
hỏa tiễn phòng không; 2,209 xe tăng,
thiết giáp; 458 máy bay chiến đấu; 82 tầu hải quân; 148 tầu vận tải....
Đầu thập niên 70, người Mỹ
đã nhìn nhận phòng không BV mạnh nhất thế giới hồi đó.
Trong số những nguyên nhân gây thất bại, Tướng
Navarre kể thêm: Chính phủ đã để cho quân đội bị đánh sau lưng, dễ dãi với bọn
chủ bại, cho báo chí được quyền bất khả xâm phạm, báo chí biến thành một công
ty làm suy yếu tinh thần quốc gia và cung cấp tin cho địch, khuyến khích che
chở những lời vu cáo làm mất tinh thần quân đội. Đó là những kinh nghiệm xương
máu của Pháp nhưng người Mỹ đã chẳng hề quan tâm để rồi cuộc chiến tại đất nhà đã làm sụp đổ hầu
hết mọi nỗ lực .
Chiến sự ác liệt tại VN đã được các phóng viên
quay phim, chụp hình đem về Mỹ vài ngày sau đó đưa vào các chương trình TV.
Phóng viên, ký giả được tự do ra mặt trận quay phim, viết bài chống chiến tranh
không bị kiểm duyệt đã thổi phồng phong trào phản chiến lên cao. Chính phủ đã
quá dễ dãi, đó là một lỗi lầm tai hại.
Một người đã thất bại ê chề như McNamara không
thể dậy bài học cho người khác, ông chỉ có thể rút kinh nghiệm cho chính ông
hơn là cho bất cứ ai. McNamara viết In
Retrospect, The Tragedy and Lessons of Vietnam cũng như Navarre với Agonie de l’indochine mục đích để bào
chữa cho sự thất bại của mình. So với Navarre, McNamara không có lý do để bào
chữa, Navarre đã không được chính phủ Pháp yểm trợ đầy đủ, trong khi
McNamara có sự ủng hộ tích cực của Quốc hội và người dân, ông
đã nắm trong tay hơn nửa triệu quân nhưng đã hoàn toàn thất bại.
Nixon tiếp tục lãnh đạo cuộc chiến của Hoa Kỳ
tại VN, Johnson-McNamara đã để lại cho ông một gia tài đổ nát. Khi Nixon thay thế
Johnson năm 1969 thì tỷ lệ chống chiến tranh đã lên rất cao. Những năm 1969, 1970
biểu tình bạo động, đổ máu bắt đầu.
Nixon vẫn tin vào thuyết Domino
và lý luận sau khi mất VN, Hoa Kỳ mất nhiều nước khác: Mên, Lào, Mozambique
1975, Angola 1976, Ethiopia 1977, South Yemen 1978, Nicaragua 1979.
Năm 1969 khi thực hiện rút quân VN hóa chiến
tranh, Nixon chủ trương
không can thiệp, nhưng nay 1985 ông trở lại chính sách này của Hoa
Kỳ. Ông cho rằng “cô lập” không can
thiệp sẽ khiến Hoa kỳ mất quyền lợi kinh tế, chính trị, Mỹ vẫn phải tiếp tục
can thiệp đừng vì bóng ma chiến tranh VN ám ảnh mà bỏ cuộc. Nay Sô viết nhúng
tay xúi dục, yểm trợ bọn phiến loạn cướp chính quyền những nước không CS. Chiến
tranh sẽ sẩy ra tại những nước xa xôi như trong Thế giới Thứ ba, ta phải tự gột
bỏ những ám ảnh bệnh hoạn hiện tượng Việt Nam nếu muốn tránh những thất bại
khác của Thế chiến Thứ ba. Nixon nói từ 1974 Nga đã chiếm được chín nước mà
không phải đem quân sang, từ cuộc chiến Triều Tiên, Sô viết đã tiến tới biên
giới nhiều nước.
Nixon chủ trương tiếp tục can thiệp vào các
nước Thế giới Thứ ba nhưng theo đường lối Sô viết (21), chỉ gửi viện trợ vũ khí
mà không đem quân sang, bất đắc dĩ lắm mới phải dùng vũ lực. Hoa kỳ sẽ viện trợ
kinh tế quân sự cho nước bị tấn công ngang với viện trợ của Sô viết cho bọn
phản loạn.
Lời nói của Nixon không
đúng so với thực tế chiến trường, như ta thấy trong cuộc chiến tranhVN, Hoa kỳ
không viện trợ cho VNCH đủ hỏa lực có thể tự vệ được. Năm 1972 nếu không có yểm
trợ của B-52 , miền nam VN chưa chắc đã giữ được Quảng trị, Kontum, Bình Long,
chính ông Cao Văn Viên đã công nhận như thế (22). Hoa Kỳ không bao giờ muốn cho
VNCH mạnh có thể vì sợ miền Nam đánh ra Bắc, họ chỉ muốn miền Nam yếu hơn BV và
cần phải yểm trợ bằng B-52 để tạo thế cân bằng. Ngay như năm 1950 Hoa Kỳ cũng không viện trợ đầy đủ cho
Nam Hàn bằng Nga sô cho Bắc Hàn nên miền Bắc với dân số ít hơn đã tràn xuống
xâm lược miền Nam và chính Hoa Kỳ cũng đã phải đưa đại binh vào cứu nguy.
Nixon
nói Hoa Kỳ chỉ viện trợ quân sự vũ khí, nước bị tấn công phải chịu trách nhiệm
cung cấp nhân lực tự vệ. Chính phủ VNCH rất muốn họ cung cấp quân viện đầy đủ để tự chiến
đấu nhưng người Mỹ lại muốn đích thân
đưa quân vào tham chiến như tại Afghanistan năm 2001 và Iraq năm 2003. Họ không
bao giờ làm được như Sô Viết đứng ngoài giựt giây.
Cũng như McNamara và nhiều tác giả Mỹ, Nixon
nói người Việt Nam mặc dù đã được Hoa Kỳ trang bị, huấn luyện nhưng cũng không tự
vệ được mà phải nhờ vào sự chiến đấu của quân đội Mỹ, điều này sai lầm tận gốc
rễ. Người Mỹ viện trợ cho VN ít hơn nhiều so với CS quốc tế trang bị cho Hà Nội,
từ 1960 cho tới 1975 miền nam luôn yếu hơn CS . Năm 1975 trong khi VNCH bị cắt
viện trợ tới xương tủy, tháng 4 chỉ còn đủ đạn đánh hai tuần (23), Hà Nội đã
được Sô Viết cho tăng viện trợ gấp bốn lần từ cuối năm 1974 (24).
TT Nixon (25), ông Cao Văn Viên cũng đều đã
nói đáng lý phải Việt Nam hóa chiến tranh từ 1965. Thay vì đưa quân vào chiến
đấu, Hoa kỳ chỉ cần viện trợ quân sự đầy đủ cho miền nam VN, quân đội VNCH thừa
sức bẻ gẫy mọi cuộc tấn công qui mô của Hà Nội. Nếu Hoa kỳ làm được như thế thì
đã không có hơn 58,000 lính Mỹ bị thiệt mạng, không có phong trào phản chiến
đưa tới sụp đổ tan tành.
Nhưng không bao giờ người
Mỹ làm được như Sô Viết mà họ chỉ muốn đưa đại binh vào can thiệp để rồi như ta
đã thấy khi chiến sự kéo dài, chết người, tốn của thì họ lại than thở đó là cuộc
chiến sai lầm như tại Việt Nam, Afghanistan và Iraq.
Trọng Đạt
Chú thích
(1) Đông Dương Hấp Hối, Agonie
de l’Indochine, in năm 1956, chương
X, Những Bài Học của Cuộc Chiên Đông Dương, Les Lecons de la Guerre d’Indochine,
trang 316 -335
(2) Sách đã dẫn, sous-estimé l’adversaire, trang
317
(3) Hồi đó Sài Gòn là thủ đô Quốc Gia Việt Nam
(4) soit frappée dans le dos, trang 320
(5) Trang 322
(6) Hồi Tưởng, Bi Kịch và Bài Học Của Việt Nam, In Retrospect, The Tragedy and Lessons of Vietnam, in 1995, chương
11 Những Bài Học Của Việt Nam, The Lessons of Vietnam, trang 319-335
(7) Sách đã dẫn trang 320
(8) Không Còn Có Những Việt
Nam, No More Vietnams, in năm 1985, chương 6 Thế Chiến Thứ Ba, Third
World War, trang 212-237
(9) No More Vietnams, trang 217
(10) Trang 219
(11) Trang 237
(12) Ngô Quang Trưởng, Trận
Chiến Trong Mùa Lễ Phục Sinh 1972, in 2007, trang 16, 17.
(13) No More Vietnams trang 170,171
(14) Trang 42, 43 Agonie de l’Indochine
(15) In Retrospect, trang 139. No More Vietnams trang 75
(16) Stanley Karnow, Vietnam a
History trang 390;
(17) Lâm vĩnh Thế, VNCH
1963-1967, Những Năm Xáo Trộn trang 98
(18) In Retrospect, trang 164
(19) Cao Văn Viên Những Ngày Cuối của VNCH, in 2003, trang
292.
(20) BBC.Vietnamese.com ngày 10-5-2006: Viện trợ quốc tế cho miền
Bắc trong chiến tranh. Đăng Phong, Năm
Đường Mòn Hồ Chí Minh, nhà xuất bản Trí thức Hà nội 2008, trang 120, 121
(21) No More Vietnams trang
217
(22) Cao Văn Viên, NNCCVNCH
trang 19
(23) Cao Văn Viên, NNCCVNCH
trang 92
(24) Henry Kissinger,Years of
Renewal trang 481.
(25) No More Vietnams 218
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét