Trận Đánh Cuối Cùng Sài Gòn Thất Thủ. (Trọng Đạt)


    Sơ lược tình hình
    Năm 1964, 65 lợi dụng tình hình chính trị miền nam bất ổn, Hà Nội đưa nhiều trung đoàn chính qui vào nam tấn công mạnh, VNCH có nguy cơ sụp đổ.
    Giữa năm 1965 TT Johnson bắt đầu đưa quân vào VN mà người Mỹ gọi là can thiệp, số quân được tăng dần cho tới 1968 lên tới hơn nửa triệu trong khi Cộng sản Bắc Việt cũng gia tăng xâm nhập. Mặc dù Mỹ có thắng lợi nhiều về quân sự, gây tổn thất rất nặng cho địch khoảng trên mấy trăm ngàn người nhưng đầu năm 1968, trận Mậu Thân đã làm tiêu tan hy vọng chiến thắng. Người dân Mỹ không còn kiên nhẫn và chống đối rất mạnh, đòi chính phủ phải rút khỏi VN, gió đã đổi chiều.

ẤN TƯỢNG PHẠM NGỌC THÁI VÀ THƠ (Nguyễn Khôi)

     Qua tác phảm rồi gặp con người cụ thể - Nguyễn Khôi có cảm tưởng về tính cách như thấy ở Thái một Vladimir Maiakovsky Việt Nam: hiên ngang, luôn đứng trên tầm thời đại, dám tự khẳng định mình bằng những bài thơ, dòng thơ trữ tình (ở Maia là “phản trữ tình”) đều vì tình yêu lớn lao. Ước vọng sâu sắc nhất của anh.

Chế Lan Viên với ba bài thơ phê phán sâu sắc (PHẠM NGỌC THÁI)



           Trong lời giới thiệu tập sách " Chế Lan Viên - Thơ chọn lọc", Nxb Văn học 2014 - Dương Phong, người tuyển chọn... khi nói về ba bài thơ này đã viết:
 -    Ba thi phẩm nổi tiếng công bố muộn mằn của Chế Lan Viên - in trong Di cảo Chế Lan Viên - chính là:  "Ai ? Tôi!"  -  "Bánh vẽ"  -  "Trừ đi"... là những sự trở trăn, lật trái lại mặt sau của cuộc đời.
     Thực ra, nếu nói  "Đó là... những sự trở trăn, lật trái lại mặt sau của cuộc đời", là Dương Phong đã lựa lời nói cho nhỏ nhẹ đi, tránh khâu kiểm duyệt, sợ không cho xuất bản. Theo tôi, xác đáng hơn thì phải nói: Ba thi phẩm đó đã... lật trái lại mặt sau của xã hội và chính trị - Người đã tự phê phán. Thậm chí tự lên án mình! Cả ba bài thơ đều nằm trong Di cảo. Khi còn sống Người đã không cho xuất bản, không dám công bố. Tôi xin phân tích từng bài một.

Việt Nam Hấp Hối -1 (Trọng Đạt lược dịch)


Nguyên tác: Henry Kissinger
Lời giới thiệu
Năm 1956 Đại Tướng Henri Navarre, Tư lệnh quân đội Viễn chinh Pháp tại Đông Dương (5/1953--6/1954) viết Agonie de l’Indochine, Đông Dương Hấp Hối, dầy 335 trang. Tác giả cho thấy tình trạng không thể cứu chữa được của Đông Dương khi mà người dân và chính phủ Pháp đã quá chán nản không muốn tiếp tục cuộc chiến. Cựu Tư lệnh bào chữa cho chính ông và quân đội Pháp về nguyên do thất thủ Điện Biên Phủ, qui trách nhiệm cho chính phủ Pháp đã đưa tới sự hấp hối sụp đổ cuộc chiến Đông Dương lần thứ nhất 1946-1954. Cách đây hai năm tôi đã dịch và lược dịch vài chương chính trong Agonie de l’Indochine để trình bày với quí độc giả về tình hình bi đát của Đông Dương những năm 1953, 1954.

Việt Nam Hấp Hối -2 (Trọng Đạt lược dịch)

Nguyên tác: Henry Kissinger
Khởi đâu của rút quân
Sau diễn văn ngày 14-5 (Nixon) nói sơ lược đàm phán, chúng ta quay ra chương trình rút quân. TT Johnson củng cố quân đội Mỹ tại miền nam VN nhưng không có kế hoạch rút. Cựu Bộ trưởng Quốc phòng (thời Johnson) ngày 29-9-1968 cho biết Mỹ chỉ tăng chứ không giảm quân. Kissinger cho rằng Hành pháp Nixon ngây thơ tin tưởng rút quân sẽ được người dân củng hộ ta vững mạnh, và số quân còn lại cộng với vị thế vững chắc của ta sẽ làm Hà Nội phải nghiêm chỉnh đàm phán. Đồng thời nếu ta củng cố quân đội VNCH vững mạnh, sự rút quân của ta chấm dứt sự can thiệp mà chẳng cần ký Hiệp định với Hà Nội.