Nguyên tác: Henry Kissinger
Lời giới thiệu
Năm 1956 Đại Tướng Henri
Navarre, Tư lệnh quân đội Viễn chinh Pháp tại Đông Dương (5/1953--6/1954) viết
Agonie de l’Indochine, Đông Dương Hấp Hối, dầy 335 trang. Tác giả cho thấy tình
trạng không thể cứu chữa được của Đông Dương khi mà người dân và chính phủ Pháp
đã quá chán nản không muốn tiếp tục cuộc chiến. Cựu Tư lệnh bào chữa cho chính ông
và quân đội Pháp về nguyên do thất thủ Điện Biên Phủ, qui trách nhiệm cho chính
phủ Pháp đã đưa tới sự hấp hối sụp đổ cuộc chiến Đông Dương lần thứ nhất
1946-1954. Cách đây hai năm tôi đã dịch và lược dịch vài chương chính trong
Agonie de l’Indochine để trình bày với quí độc giả về tình hình bi đát của Đông
Dương những năm 1953, 1954.
Hơn hai mươi năm sau, Henry
Kissinger, Cố vấn an ninh Tổng thống cũng kể lại tình trạng hấp hối của miền
nam Việt Nam trong hồi ký của ông. Chiến tranh Việt Nam hay chiến tranh Đông
Dương cũng là một vì hơn 90% cơn khói lửa đã diễn ra tại Việt Nam. Tại đây Henry
Kissinger nói về sự khởi đầu của sụp đổ, thực trạng, nguyên do Việt Nam hấp hối
vào năm 1969 trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai.
Năm 1979 Kissinger viết hồi
ký White House Years, Những Năm Tại Tòa Bạch Ốc dầy 1,500 trang khổ giấy lớn,
tương đương cuốn sách 2,000 trang khổ giấy trung bình. Chương thứ VIII trong
cuốn này: The Agony of Vietnam, Việt Nam Hấp Hối, dài 85 trang (226 -311) tương
đương một cuốn sách trên 100 trang. Nó cùng tên gọi với cuốn hồi ký của Tướng
Navvare kể trên, cùng mục đích diễn tả lại sự chán nản của người dân cũng như
Hành pháp Mỹ.
Trên đống tro tàn quá khứ,
Henry Kissinger quay lại khúc phim bi kịch miền nam VN năm 1969, dần dần những
sự thật phũ phàng về cuộc chiến Đông Dương đã được tiết lộ. Henry đã làm sống
lại cả một giai đoạn lịch sử mà quyết định sai lầm trầm trọng của tân Tổng
thống Nixon và Nội các mới đưa tới thảm kịch mấy năm sau. Theo ông, người Mỹ đã
sai lầm lớn khi nhượng bộ Hà Nội với hy vọng khai thông bế tắc tại cuộc hòa đàm
Ba Lê. Trước hết cuối tháng 10-1968, Tổng thống Johnson đã cho ngưng oanh tạc
toàn diện Bắc Việt theo yêu cầu của Hà Nội và sau đó, năm 1969 tân Tổng thống
Nixon đã nhượng bộ Hà Nội rút quân đơn phương. Henry Kissnger cho rằng cả hai
nhượng bộ đều không được CSVN đếm xỉa tới, hòa đàm vẫn bế tằc cho tới khi địch
thảm bại trong trận mùa hè đỏ lửa 1972 họ mới chịu nhượng bộ Mỹ nhiều điều
khoản khai thông Hội nghị vào tháng 9 và
tháng 10-1972.
Riêng về trường hợp Nixon,
Henry cho rằng tân Tổng thống đã thực hiện rút quân đơn phương về nước bắt đầu
từ gần cuối 1969 nhằm hai mục đích chính:
-Thúc đẩy đàm phán tại Ba
Lê tiến nhanh hơn, nhượng bộ Hà Nội cho rút quân không điều kiện.
-Xoa dịu dư luận chống đối
trong nước
Nhưng ông nhận định cả hai
mục tiêu trên đều không đạt được, trước hết tại cuộc hòa đàm phía Hà Nội không
hề thay đổi lập trường. Yêu cầu của họ vẫn y như cũ, giống như những lời khắc
trong đá: Mỹ rút quân không điều kiện, loại bỏ Thiệu, lập chính phủ Liên hiệp,
cắt viện trợ VNCH… Sở dĩ địch cứng đầu vì họ nắm được cái tẩy của Hành pháp Mỹ
đang bị Quốc hội và người dân chống đối mạnh.
Việc Mỹ rút quân để xoa dịu
dư luận trong nước cũng hoàn toàn thất bại , tại Mỹ phong trào chống đối vẫn
lên cao, người dân không bao giờ vừa ý. Sau này chính Nixon phải công nhận trong hồi ký (No More
Vietnạms) mặc dù đã đem lại hòa bình (1-1973) lấy tù binh, đưa quân về nước
nhưng phong trào phản chiến vẫn ngoan cố tiếp tục chống đối mạnh, hết chống
chiến tranh họ chuyển sang vụ Watergate.
Nhậm chức năm 1969, Nixon
vừa phải tiến hành cuộc chiến tại Đông Dương, đương đầu với CSBV ngoan cố tại
bàn Hội nghị, nhất là phải xoa dịu Quốc
hội và phong trào phản chiến. Nixon tứ bề thọ địch, phải chống đỡ tại mặt trận
ngoại quốc cũng như đối chọi với mặt trận tại đất nhà mà mặt trận này xem ra
còn khốc liệt hơn: Quốc hội thù nghịch chống đối, đảng đối lập Dân chủ nay bắt
tay với phong trào phản chiến chống lại Hành pháp Cộng hòa ngày một rộng lớn.
Thật là khôi hài, một nền Hành pháp, một chính phủ phải năn nỉ Quốc hội, xoa
dịu người dân, đương đầu với chính tình hình trong nước, một chính phủ không có
thực quyền như thế thử hỏi còn làm được gì?
Kissinger chỉ trích chương
trình rút quân của Nixon cho là sẽ làm sụp đổ miền nam vì họ không đủ sức chống
lại cuộc xâm lăng mấy năm sau. Tác giả Walter Isaacson trong cuốn Kissinger a
Biography (trang 234-241) có đề cập nhiều về chương trình này, mà theo Walter do
Bộ trưởng quốc phòng Laird đề nghị, Nixon chấp nhận, Kissinger chống đối nhưng
không can ngăn được Nixon. Kissinger phản đối rút quân vì cho rằng nó sẽ làm mất
thế mạnh tại bàn Hội nghị, tại đây có sự bất đồng ý kiến giữa các nhà lãnh đạo
Hành Pháp. Laird đặt tên chương trình này là Việt Nam hóa chiến tranh
(Vietnamization) mà Walter Isaacson cho là nghe thì lịch sự nhưng tàn nhẫn, vô
cảm, độc ác. Kế hoạch rút khỏi Việt Nam sinh ra một học thuyết mới: Thuyết
Nixon (The Nixon doctrine) chủ trương không can thiệp vào nước khác
(Interventionism) mà đứng biệt lập (Isolationism). Các nhà học giả Mỹ về chiến
tranh VN cho rằng các danh từ hoa mỹ như Việt nam hóa chiến tranh, học thuyết
Nixon chẳng qua chỉ là rút quân bỏ chạy trá hình.
Mặc dù phản đối chương
trình này cho là sẽ nguy hại tới an ninh miền nam VN nhưng Kissinger không đưa
ra một phương án cụ thể nào khả dĩ thay thế rút quân mà ông chỉ nói cần làm
mạnh vào năm 1970, có nghĩa là oanh tạc mạnh CSBV bằng B-52 để lấy lợi thế. Các
phụ tá của Kissinger đã nghiên cứu một kế hoạch quân sự: phong tỏa Hải phòng, oanh tạc các cơ sở quân
sự BV trong 4 ngày… để buộc CS đàm phán nghiêm chỉnh nhưng chính ông không dám đề
nghị kế hoạch táo bạo này lên Nixon.
Trong phần kết luận chương
này, Kissinger bi quan không tin tưởng vào kế hoạch, bằng giọng chán chường
thất vọng, ông lấy làm tiếc đã không can ngăn được Tổng thống và Nội các khi họ
đã lựa chọn giải pháp tàn nhẫn này. Kissinger nói ông đã tiên đoán trước sự
thất bại của chương trình (rút): tại Ba Lê đối phương vẫn cứng đầu không chịu
đàm phán, tại mặt trận đất nhà bọn phản chiến ngày càng ngoan cố, leo thang
chống đối, cuối cùng miền nam VN sụp đổ vì không đủ lực lượng gánh vác toàn bộ
chiến trường. Henry nói.
“Một khi tiến hành (rút)
không quay lại, tôi biết là nó có thể là một con đường dài bi thảm và có thể
đưa tới thất bại - mà tôi đã nhiều lần trình bầy sơ lược những những nguy hiểm
của nó với Tổng thống (Nixon)”
Kissinger đã đặt cho Chương
VIII này cái tên “cường điệu” Viêt Nam
Hấp Hối để lên án sự sai lầm trầm trọng và nguy hại của kế hoạch, dù sao đây
cũng chỉ là quan điểm riêng của tác giả về chương trình này.
Quí vị có thể tham khảo
thêm trong cuốn sách nổi tiêng Kissinger a Biography (từ trang 234 tới 241) của
Walter Isaacson nói về đề tài này.
Và tôi xin lược dịch Chương
VIII, The Agony of Vietnam trong White House Years, từ trang 226 tới 311.
TĐ
Việt Nam Hấp Hối
Kissinger nói tôi không thể viết về Việt Nam mà không đau lòng. Khi
chúng tôi tới nhận nhiệm sở (vào Bạch Ốc), hơn nửa triệu quân Mỹ đang chiến đấu
cách xa nước Mỹ mười ngàn dặm. Chúng tôi chưa nghĩ tới việc rút quân, 31,000
người đã chết, năm 1969 uy tín và niềm tin vào cuộc chiến đã bị hủy hoại, cuộc
chiến tranh của chúng ta không công khai và không được Quốc Hội, người dân,
truyền thông ủng hộ. Năm 1969 người dân chống đối dữ dội, ngày càng tăng hơn,
họ gồm bốn thành phần: Những người yêu hòa bình không muốn Mỹ tham gia cuộc bắn
giết; nhóm thực tiễn không thấy kết quả tốt; nhóm biệt lập không muốn Mỹ can
thiệp; nhóm lý tưởng kết án cuộc chiến dã man.
Hành pháp Nixon vào Tòa Bạch ốc, những người (Dân chủ) đã gây ra
cuộc tham chiến tại VN, mới đầu họ trung lập sau quay ra chống đối. Họ buộc
Nixon có trách nhiệm về cuộc chiến mà ông chỉ thừa hưởng, họ tấn công ông ta
nhân danh những giải pháp mà chính họ đã không thực hiện khi còn cầm quyền.
Một siêu cường chấm dứt chiến tranh bỏ một nước nhỏ cho bọn bạo chúa
là thiếu đạo đức và còn phương hại tới bang giao quốc tế. Người Mỹ muốn chấm dứt
chiến tranh, qua thăm dò và qua bầu cử cho thấy họ coi mục đích cuộc chiến là
đáng trân trọng, họ không muốn Mỹ bị thua nhục nhã. Chính phủ phải quan tâm
kính trọng những gia đình có con chết cho đất nước (US) và họ không muốn những
hy sinh ấy là vô ích
Tôi nghĩ chiến tranh VN là một sự ngây thơ về lý tưởng, đất nước
phải mắc nợ những hy sinh của những thanh niên Mỹ.
Tôi sa vào
chỗ sa lầy
Cuộc chiến VN là do BV muốn chiếm miền nam bằng vũ
lực, Trung Cộng điều khiển cuộc chiến này. Walt Rostow, Giám đốc nghiên cứu
chính sách Bộ ngoại giao nói người Pháp có mấy trăm ngàn quân ở Đông Dương thất
bại, họ không có lực lượng lưu động như Mỹ. Việc lật đổ chính phủ Ngô Đình Diệm
làm mất niềm tin các nước Đông Nam Á, mặc dù sau đó thắng về quân sự nhưng
không bù lại những thất bại chính trị. Trước 1963 địch
chỉ đánh du kích nhưng sau khi đảo chính Ngô Đình Diệm chúng mới đánh chính qui.
Năm 1965 Kissinger nói ông nằm trong số đám đông thầm lặng ủng hộ chính phủ
Johnson đưa quân vào chống lại CS Hà Nội xâm lăng miền nam VN. Cabot Lodge mời
ông sang thăm VN tháng 10 -1965 hai tuần và tháng 7-1966 trong mười ngày, và
vài ngày tháng 10- 1966. Kissinger nhận dịnh ta không thể thắng được vì địch có
căn cứ hậu cần bên Lào, Mên. Chúng ta oanh tạc BV đưa tới chống đối trên thế
giới rất nản chí và sau này nó là yếu tố quyết định.
Thiệt hại nhân mạng lính Mỹ
tạo lên ý kiến chống đối chính trong nước, tôi nghĩ trong một cuộc nội chiến,
thắng lợi về quân sự sẽ vô nghĩa trừ khi đưa tới một thực tế chính trị còn tồn
tại sau khi ta rút đi. Thương thuyết chỉ có được nếu Hà Nội nhận thấy họ sẽ mất
ảnh hưởng chính trị nhiều đối với dân miền nam (VN) khi cuộc chiến kéo dài. BV
và VC chiến đấu trên địa diện quen thuộc, họ chỉ cần kéo dài cho tới khi Hoa Kỳ
chán nản cuộc chiến. Thử thách của chúng ta là chiến đấu đồng thời tăng sức
mạnh cho miền Nam sống được khi không có ta, nói khác đi là ta rảnh nợ. Nguyên tắc
du kích chiến là nếu họ không thua tức là thắng, (nguyên tắc) quân chính qui nếu
không thắng là thua. Chúng ta chiến đấu bằng quân sự với một kẻ thù lẩn trốn,
địch tranh thủ chính trị với một khối dân cố định, quân chính qui BV đưa lực
lượng ta vào chỗ mất ý nghĩa chính trị, còn VC phá các vùng nông thôn VNCH.
Kissinger viếng Vĩnh Long tháng 10-1965, ông tỉnh trưởng cho biết 80% yên ổn,
khi thăm VN tháng 7-1966, ông tỉnh trưởng Vĩnh Long nói an ninh tiến bộ nhiều,
nay 70%.
Giữa tháng 7 tới tháng 10-1967, chính phủ Johnson nhờ Kissinger làm
trung gian hòa giải, ông mang lời nhắn nhờ hai nhà trí thức Pháp mà ông quen. Một
người trong đó quen thân Hồ Chí Minh từ 1940, đã cho Hồ Chí Minh ở nhờ khi sang
Pháp thương thuyết, hai người (Pháp) tới Hà Nội gặp Hồ Chí Minh. Vài tháng sau
Kissinger gặp họ ở Paris, cố gắng này thất bại nhưng nó là bước đầu cho cuộc
hòa đàm một năm sau.
Cuối năm 1968 Kissinger nhận định.
- Kế hoạch quân sự không thể thắng
- Miền Nam phải đoàn kết.
- Hoa Kỳ bớt gia tăng trách nhiệm điều khiển cuộc chiến cho VNCH.
- Hà Nội cứng rắn, ta phải thực hiện những giải pháp đơn phương
Tháng 1-1969, Kissinger không đồng ý cho rút quân đơn phương về Mỹ.
Chúng ta
Chiến Đấu ra sao
Những lời công khích, kể cả của Dân chủ làm như
chính Nixon là người đã tham chiến can thiệp vào VN. Khi Nixon vào tòa Bạch Ốc,
hơn một nửa triệu quân Mỹ, thực ra con số còn tiếp tục tăng lên tới đỉnh cao là
549,500 người vào tháng 4-1969 do Chính phủ trước hoạch định như vậy (thực sự
tháng 4-1969 là 543,000 người). Chiến phí là 30 tỷ cho tài khóa 1969, thiệt hại trung bình 200
người (Mỹ) một tuần từ nửa năm sau 1968 (thời Johnson), tổng cộng có 14,592
người (Mỹ) chết tại mặt trận năm 1968. Số
lính Mỹ bị giết từ 1961 tới 20-1- 1969 tổng cộng là 31,000 người, phía VNCH
khoảng 90,000 người tử trận. Cuộc chiến bế tắc, ta thắng trận Mậu Thân (tháng
2-1968) nhưng người dân Mỹ không ủng hộ cuộc chiến khiến phải ngưng oanh tạc
(cuối tháng 10-1968) nhiều áp lực bắt ta phải rút quân. Quân đội VNCH năm 1968
là 826,000 người tăng nhiều so với năm trước (1967 là 743,000 người). Họ được
trang bị nhiều hơn nhưng trách nhiệm nặng nề: canh gác một biên giới dài hơn
600 dặm (1,000 km) và bảo đảm an ninh cho đất nước. VC bị thiệt hại nhưng nay
hầu như quân chính qui BV đảm nhiệm vai chính, không còn chiến tranh nhân dân.
Nguyễn Văn Thiệu được bầu làm Tổng thống năm 1967, tòa Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn
ước lượng 65% dân toàn quốc, 81% miền quê chịu ảnh hưởng của CS. Tình trạng
miền quê không tiến gì hơn năm 1966 khi Kissinger qua thăm VN, CSBV đánh Mỹ để
gây tổn thất, VC thì quấy phá VNCH. Giữa năm 1968, Tướng Creighton Abrams thay
Tướng Westmoreland, ông thay đổi chiến lược, thay vì tấn công CSBV, ông lo bảo
vệ người dân, quân Mỹ lo bảo vệ các thành phố lớn.
Ngày 1-11-1968, Mỹ ngưng oanh tạc miền Bắc và Hà
Nội ngầm không tấn công các thành phố lớn như Sài Gòn, Đà Nẵng. Từ nhiều năm
qua, các giới chức quân sự than phiền các nhà lãnh đạo dân sự kìm hãm họ, nhưng
khi Nixon hỏi họ về chiến lược mới thì họ nói tái oanh tạc BV (mà đã bỏ từ 31-10-1968).
Chỉ thị mới của Nixon là ông không muốn mâu thuẫn với
Chính phủ Sài Gòn và không muốn để Hà Nội phá vỡ cơ cấu chính trị của VNCH. Văn
thư nghiên cứu của Hội đồng an ninh quốc gia (HĐANQG) đòi hỏi các Bộ, phủ trả lời những câu hỏi.
Những người tương đối lạc quan như Bunker, Abram, McCain cho là CSBV yếu thế
nên phải đàm phán, ta thuận lợi nhưng Ngũ giác đài, CIA bi quan cho là phải
thảo luận rút quân về nước.
Bắc Việt tấn công và cuộc
oanh tạc bên Mên
CSBV gia tăng xâm nhập khi Nixon lên làm TT, ngày 24-11-1968, Bộ
trưởng quốc phòng nói có thể sẽ oanh tạc trở lại, khi nhiệm kỳ mới bắt đầu , chính
phủ hy vọng đất nước đoàn kết để đạt đàm phán trong danh dự. Điều không may là
khó mà oanh tạc BV trở lại. Kissinger, Laird (Bộ trưởng quốc phòng), Tướng
Wheeler (TMT liên quân) họp bàn tại Ngũ giác đài để bảo vệ miền nam VN, Wheeler
nói quân Mỹ nay đã được đưa tới VN rất nhiều, ta cần đánh khu Phi quân sự hay
oanh tạc BV trở lại. Cuộc họp đưa tới việc oanh tạc căn cứ CSBV tại Miên, đó
không phải là khiêu chiến mà là cách tránh oanh tạc BV và để ngăn chận những
cuộc tấn công địch gây thiệt hại cho Mỹ 400 người chết một tuần.
Những người xét lại cho rằng Chính phủ Nixon tấn công một nước trung
lập. Trong bốn năm qua, bốn sư đoàn BV đã hoạt động dọc theo biên giới Miên-Việt,
chúng tấn công VNCH rồi rút về bên kia biên giới, có thể oanh tạc vùng này được
vì không có dân, chỉ có CSBV tấn công giết VNCH và Mỹ rồi tháo chạy về biên
giới. Trước hết Tướng Wheeler đề nghị tái oanh tạc căn cứ BV tại biên giới
Miên, ngày 9-2 Tướng Abram ở Sài Gòn điện tín về cho Wheeler nói Bộ chỉ huy CS
toàn miền nam ở bên kia biên giới. Abrams xin oanh tạc bằng B-52, Đại sứ Bunker
ủng hộ ý kiến này trong một điện tín của ông gửi Bộ ngoại giao.
TT Nixon gửi ghi chú cho Kissinger nói chúng ta cần phá hủy hậu cần
CSBV tại biên giới Mên. Tướng Wheeler cho biết các kiện hàng hóa quân sự được
đưa vào cảng Sihanoukville. Bộ chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn cho biết từ tháng 10-1967
tới tháng 9-1968 có hàng chục nghìn tấn hàng quân sự đã qua cảng Sihanoukville,
còn CIA và Bộ ngoại giao cho là vũ khí qua đường mòn Hồ Chí Minh rất nhiều cho
CSBV tại miền nam VN. Những người chủ trương đánh sang Miên nhấn mạnh hải cảng
Sihanoukville, những người chống thì đánh giá thấp. Sau khi đánh sang Mên xong
năm 1970, hàng vũ khí do tầu thủy chở tới đây nhiều rất xa so với dự đoán.
Ngày 18-2, nhận được báo cáo từ Sài Gòn, Kissinger trình lên Tổng
thống rằng Tướng Abrams xác nhận không có dân trong vùng ta định oanh tạc. Khi
Nixon hoãn lại cuộc tấn công vào vùng căn cứ địa của địch định thương thuyết,
BV bèn tấn công lớn khiến tuần đầu Mỹ thiệt mạng 453 người, tuần thứ hai 336 người
, tuần thứ ba 351 người, phía VNCH mỗi tuần trung bình 500 người chết một tuần.
Trận đánh diễn ra một ngày trước khi Nixon đi ngoại quốc làm nhục ông tân Tổng
thống, chủ đích của BV là giết người Mỹ để gây ảnh hưởng phản chiến. Nixon nghe
báo cáo trận đánh rồi nuôi ý định đánh trả địch, từ nhiều năm trước ông luôn
chỉ trích TT Johnson tiền nhiệm trả đũa yếu quá, nhưng nếu (Nixon) trả đũa sẽ
bị chống đối tại Ân châu. Phản ứng duy nhất của Tòa Bạch Ốc là Kissinger gọi
cho Đại Sứ Nga nói nếu BV tiếp tục tấn công Mỹ sẽ trả đũa. Trong khi trên đường
đi từ Mỹ tới Bỉ ngày 23-2 bỗng nhiên Nixon ra lệnh oanh tạc căn cứ địa CS tại
Mên, Kissinger biết là Nixon quyết định một mình trên không trung nên ông đánh
điện khuyên TT hoãn lại 48 giờ.
Phụ tá Haig, Haldeman và Kissinger bay tới Bỉ rồi cùng họp nhau trên
Air Force One bàn luận về cuộc oanh tạc, sẽ oanh tạc trong phạm vi cách biên
giới năm dặm và không tuyên bố trước, nếu chính phủ Mên phản đối thì Mỹ sẽ bồi
thường thiệt hại. Haig và các chuyên viên Ngũ Giác Đài trở về Mỹ thuyết trình
cho Bộ trưởng Laird nghe, ông này đánh điện từ Hoa Thịnh Đốn cho biết không thể
giữ kín cuộc oanh tạc, báo chí sẽ đề cập, người dân sẽ chống đối.. và ông đề
nghị ta tạm hoãn tới khi địch tấn công rõ ràng. Kissinger cho rằng việc ngưng
ném bom tháng 10-1968 (thời Johnson) coi như thất bại, ông ta đồng ý với Laird về
oanh tạc trả đũa tại Mên, nếu không có phản ứng với cuộc tấn công xỏ lá của
CSBV thì coi như không thể thương thuyết tốt đẹp.
Hà Nội thấy Nixon bị dư luận chống đối không dám làm gì nên họ sẽ
cưa Nixon như đã từng cưa Johnson. Kissinger nghĩ khó mà mở cuộc tấn công khi
Tổng thống đi Âu châu vì sẽ bị chống đối và đã khuyên Nixon, hôm sau tại Bonn Tổng
thống bỏ kế hoạch này. Báo New York times ngày 9-3 trách tân Chính phủ đang
nghiên cứu kế hoạch tấn công gây hấn CSBV. Ngày 4-3 TT họp báo nói nếu chúng ta
kiên nhẫn chịu đựng tức là yếu thế. Ta sẽ không tha cho những tiếp tục vi phạm
những cái đã ngầm thỏa thuận, không tha cho những cuộc tấn công gây tổn thất cho
Mỹ trong khi chúng ta đang tìm hòa bình tại Paris.
Ngày 4-3 Kissinger trình Tổng thống văn thư của Laird, ông chống đề
nghị oanh tạc miền Bắc của Bộ TM liên quân mà ủng hộ oanh tạc biên giới Mên.
Nixon nghe theo và ra lệnh oanh tạc Mên ngày 9-3. Ngày 7-3 Rogers (Bộ trưởng
ngoại giao) phản đối vì vấn đề hòa đàm nên Nixon lại thôi, ông không muốn tấn
công BV nhưng phải tấn công một chỗ nào đó. Ngày 14-3 ông trả lời trong cuộc
phỏng vấn nay tổn thất nhân mạng Mỹ giảm từ 400 người một tuần xuống còn 300
nhưng vẫn còn cao, ta không cần cảnh cáo địch, nếu tổn thất nhiều hơn ta sẽ trả
đũa. Hôm sau chúng pháo kích Sài Gòn 5 quả, tổng cộng có 32 cuộc tấn công VNCH
trong hai tuần đầu tháng 3. Trưa hôm địch pháo kích Sài Gòn, Kissinger nhận
được điện thoại của TT, ông ra lệnh oanh tạc căn cứ địch tại biên giới Mên.
Lệnh chưa được thi hành, Kissinger đề nghị Nixon nên hỏi ý kiến các
cố vấn để tránh chống đối, trong phiên họp ở phòng Bầu dục Tòa Bạch ốc,
Kissinger cho biết có thể địch sẽ làm mạnh hơn, dân Mỹ sẽ chống đối. Tại phiên
họp ngày 16-3 tại phòng Bầu dục gồm Rogers, Laird, Wheeler, lần đầu tiên Nixon
gặp một quyết định cụ thẻ mang tính quốc tế (có liên quan Mên). Laird, Wheeler
ủng hộ mạnh, Rogers (Bộ trưởng ngoại giao) chống đối vì sợ dư luận trong nước.
Nixon có quyền đánh CSBV vì chúng vi phạm nền trung lập của Mên, Rogers sợ Quốc
hội chống đối, Laird và Wheeler đề nghị TT giữ quyết định, sau cùng Rogers đồng
ý cho oanh tạc Bộ chỉ huy CSBV (tại biên giới Mên)
Sau phiên họp, TMT Liên quân Wheeler đề nghị oanh tạc quân BV vi
phạm Khu phi quân sự nhưng lời đề nghị không được chấp thuận. Ngày 18-3, B-52
ném bom căn cứ CSBV 353 cách biên giới 5 dặm. Tháng 4-1969 Nixon lại cho oanh
tạc vì Hà Nội và Nam Vang không phản đối và vì kết quả tốt ngoài sự mong đợi,
đánh trúng các kho dầu, đạn dược gây 73 tiếng nổ phụ tại đây. Nixon hoãn lại
cuộc oanh tạc vì Rogers và Laird phản đối mạnh, ông đã chứng tỏ cho Hà Nội biết
mình không bị tê liệt.
Tháng 5-1969 Nixon cho oanh tạc dẫy căn cứ dọc biên giới, sau đó
cuộc tấn công được tiến hành đều đặn. Sau này năm 1974 Ủy ban tư pháp Hạ viện
đã kết án TT Nixon về cuộc oanh tạc này vì đã dấu nhẹm Quốc hội. Kissinger nói
những lời kết án này là sai vì chúng nằm sát biên giới, cả CSBV và chính phủ
Mên không hề tố cáo có thường dân bị giết. Cuộc oanh tạc kéo dài tới tháng 5-1970 khi Mỹ oanh
tạc để yểm trợ quân đội Mỹ và VNCH mở cuộc hành quân sang Mên tấn công các căn
cứ CSBV. Những báo cáo về cuộc oanh tạc đều đã được trình Tổng thống. Tháng
12-1969 và tháng 2-1970 Nixon hỏi về những thất bại của nó, Laird báo cáo cho
biết Tướng Abrams, Đại sứ Bunker ở Sài Gòn quả quyết cuộc oanh tạc biên giới
Mên rất hiệu quả. Abrams đánh giá nó rất tốt đã tiêu hủy hậu cần, kho hàng, ngăn
chận các cuộc tấn công đe dọa Sài Gòn, Laird cho tiếptục oanh tạc.
Hà Nội không phản đối cuộc oanh tạc, tại cuộc Hòa đàm Paris, ngày
22-3 họ đồng ý mật đàm (đi đêm) theo lời yêu cầu của Mỹ. Sihanouk không phản
đối và cho là cuộc tấn công không liên hệ tới ông vì tại những đia điểm oanh
tạc này không có dân Mên mà chỉ có quân BV. Sihanouk là ông vua thừa kế, được
người dân ủng hộ, ông đã giành độc lập, là người cần thiết của đất nước, ông
trung lập hóa Mên năm 1965 và đoạn giao với Mỹ. Hà Nội khuyến khích giúp đỡ
Khmer đỏ, Sihanouk đã tuyên án tử hình khiếm diện lãnh đạo CS Mên. Kissinger
ủng hộ mạnh ý kiến của Rogers khuyên Tổng thống tháng 2-1969 cố thân thiện với
Sihanouk và rồi Mỹ mở lại tòa Đại Sứ. Từ ngày 10-1-1968 thời chính phủ Johnson,
Sihanouk đã nói với Bowles đặc phái viên Tổng thống
“Chúng tôi không muốn bọn VN ở Mên, nếu các ông đánh Việt Cộng trong
vùng Mên chúng tôi sẽ không chống đối, các ông giải phóng chúng tôi khỏi bọn
VC, mong các ông đuổi chúng khỏi nước tôi”
Ngày 13-5-1969, khoảng hai tháng sau cuộc oanh tạc, Sihanouk họp báo
tuyên bố không phản đối vì tại đây không có thường dân, không xác định được có
ai thiệt mạng, không mất một con bò, đó chỉ là chuyện giữa Mỹ và VC. Ngày 22-8-1969,
Sihanouk cũng nói như vậy với Thượng nghị sĩ Mansfield, người Khmer không phản
đối Mỹ khi họ chỉ đánh VC và ông yêu cầu họ đừng gây thiệt hại cho người dân
Mên. Ngày 31-7, chỉ sau bốn tháng rưỡi oanh tạc căn cứ địa BV tại biên giới
Mên, Sihanouk nồng nhiệt mời TT Nixon sang thăm Khmer, liên hệ tốt đẹp cho tới
khi ông bị lật đổ.
Oanh tạc Mên chỉ là hành động tự vệ tối thiểu vì CSBV đã chiếm đóng
Mên bốn năm, chúng lập căn cứ, đánh giết Mỹ chết 400 người một tuần. Cuộc oanh
tạc được giữ kín vì có thể khiến BV trả đũa và chính phủ Mên yêu cầu ngưng oanh
tạc. BV không dám lên tiếng vì nó sẽ để lộ việc họ chiếm đóng trái phép tại
Mên, cuộc oanh tạc đã cứu nhiều lính Mỹ và VNCH. Tờ New York times ngày 26-3 và
27-4 và Washington Post ngày 27-4 tiết lộ cuộc oanh tạc của B-52 tại Mên, cuộc
oanh tạc này đã đưa chiến tranh vào xứ Chùa tháp. Năm sau Sihanouk bị lật đổ,
CSBV công khai chiếm các thành phố lớn, cô lập Nam Vang và lật đổ chính phủ
sau. Cuộc oanh tạc nảy đã được Tòa Đại Sứ Mỹ kiểm soát kỹ lưỡng nhằm tránh
thiệt hại tối đa cho người dân Mên, cuộc oanh tạc cũng không bị Mên, CSBV, Nga,
Trung Cộng phản đối.
Ngoại giao tìm hòa bình
Dư luận phản chiến buộc chính phủ đàm phán, cổ võ nhượng bộ. Thượng
nghị sĩ Robert Kennedy trong cuộc tranh cử năm 1968 đề nghị.
-Ngưng ném bom BV
-Quốc tế giám sat.
-Giảm kế hoạch tìm và diệt địch.
-Thương thuyết với Mặt trân GP (VC)
-Bảo đảm tổng tuyển cử tại miền nam VN.
Sau khi Robert Kennedy bị ám sát, ba người lãnh đạo phản chiến Dân
Chủ là McGovern, McCarthy và Edward Kennedy cùng chủ trương.
-Ngưng ném bom không điều kiện
-Đàm phán rút quân Mỹ và CSBV
-Khuyên VNCH và MTGP hòa giải
-Giảm các cuộc tấn công của Mỹ tại miền nam VN.
Những đề nghị này bị phản đối trong cuộc họp của Dân Chủ vì nhu
nhược quá.
Harriman, đại diện Mỹ tại hòa đàm Paris 1968-69 dưới thời Johnson
cho rằng giải pháp quân sự không thuận lợi vì nó sẽ khiến Trung Cộng can thiệp nên
cần phải thương thuyết, ông đề nghị Mỹ và BV phải rút khỏi miền nam VN. Khác
với mong đợi của TT Johnson, ngày 3-11-1968, tức hai ngày sau khi Johnson ngưng
oanh tạc, CSBV lại đòi thêm nhiều hơn như lật đổ chính phủ Sài Gòn. Tân TT
Nixon phải đương đầu với đường lối ngoại giao điên khùng của CSBV. Căn bản vấn
đề, CS coi cuộc chiến là sinh tử , họ không cho Hòa đàm Paris là một công cụ
hòa bình nhưng là dụng cụ của cuộc chiến tranh chính trị. Chúng là vũ khí để
gây ảnh hương làm tiêu hao người Mỹ về tâm lý, chia rẽ tách rời Mỹ và VNCH,
chia rẽ ý kiến người dân cho họ biết rằng Hành pháp Mỹ điên, không tưởng. Họ không muốn có tiến bộ hòa đàm, muốn đi đêm
vì không muốn cho người ta thấy có tiến bộ Hội nghị. Mỗi khi họ giải quyết một
vấn đề thì họ cố làm ảnh hưởng dư luận Mỹ, cuộc chiến Mỹ bị người dân, truyền
thông chỉ trích vì họ thấy BV có vẻ biết điều nhất là đối với những người chống
hay chửi chính phủ. CSBV xâm lăng VNCH, Mên, Lào, không tuyên chiến, vi phạm
hiệp định Genève trung lập Lào 1962.
Khi Hà Nội sẵn sàng ký kết (tháng 10-1972) mà trước đây họ chỉ gây
rối khéo léo. Trước búa phản chiến và đe Hà Nội, Tổng thống rất nghi ngờ, ông
không tin là đàm phán có thể tốt nếu tình hình quân sự không thay đồi nhiều.
Nixon cho rằng địch chịu tìm hòa bình vì không còn đường nào khác, nói chung
ông chọn chính sách dùng áp lực mạnh tối đa, ông chỉ muốn đàm phán khi đã thắng
về quân sự. Rogers thì muốn tránh chống đối trong nước,
Laird vừa nghi ngờ đàm phán vừa nghi ngờ cả chiến thắng quân sự. Ông
này muốn ta phải rút khỏi VN trước khi
bị chống đối, nhưng ông lại muốn làm như vậy mà không đưa tới sụp đổ miền nam
VN và cổ võ Việt Nam hóa chiến tranh. Laird quả quyết rút quân là tốt nhất, đó
là mối quan tâm hàng đầu của ông. Kissinger lại hy vọng ở đàm phán sẽ có kết
quả tốt trong vòng một năm và ông không hy vọng vào rút quân.
Tổng thống tiền nhiệm Johnson đã để mất cơ hội chiến thắng, nếu ta
tiếp tục cuộc chiến VC sẽ không thích mà chúng thích thương thuyết. Thảo luận về rút song phương (cả Mỹ và CSBV) trở
nên vô ích, BV không muốn rút mà ta muốn rút đơn phương. Thảo luận hai bên cùng
rút ta sẽ để lại bao nhiêu? Các ý kiến cho 100,000 phụ lực quân nhưng vấn đề bị
đảo lộn vì biến cố vì người dân (tức Mậu Thân). Bộ ngoại giao và phái bộ tại Ba
Lê thảo luận Mỹ ngưng oanh tạc, tấn công, pháo kích. Bộ Tư lệnh (US) tại Sài
Gòn, Bộ TM liên quân (tại Mỹ) phản đối vì nếu nhượng bộ chúng sẽ lập căn cứ
mạnh. Một vấn đề đáng nói là Hà Nội không bao giờ chịu xuống thang, họ không
muốn ngưng bắn mà chỉ muốn chiến thắng bằng quân sự.
Đương đầu với CS ngoan cố Nixon muốn đàm phán với áp lực nhưng không
bằng triển khai chiến lược quân sự. Tháng một, tháng hai phái đoàn Paris đòi
hỏi Mỹ phải họp mật, cuộc họp ngày 22-3 Hà Nội đòi Mỹ phải rút không điều kiện
và lật đổ Thiệu, Kỳ. Các Bộ đều muốn đàm phán, Rogers thảo luận với Đại sứ Nga
Dobrynin ngày 8-3, ông nói muốn đề cập cả chính trị và quân sự cùng lúc. TT
Nixon không muốn đàm phán bí mật khi Sài Gòn bị pháo kích.
Rogers muốn đi đêm ngay với Hà Nội, ông đề nghị mật đàm cả VNCH, Mặt
trận GP, ông không đòi CS ngưng tấn công các nơi đông dân cư (như Sài Gòn).
Kissinger thất vọng ở lập trường Rogers, còn Nixon thì không mưốn ra lệnh cho
người cấp dưới trừ khi những người này bất đồng ý kiến với ông. Nội các Nixon
không đồng ý với nhau, trong nhóm làm việc của ông không đoàn kết đã là nguyên
do chính của Watergate. Nixon cử Kissinger gặp Đại sứ Nga Dobrynin ngày 11-3
cho biết chỉ có mật đàm Mỹ-BV trước khi mở rộng ra cho cả VNCH và VC.
Laird chủ trương rút đơn phương, Ngũ giác đài thông báo giảm 10% phi
vụ B-52 bắt đầu từ 30-6 vì lý do ngân sách. Kissinger nói ông muốn để dành chút
tài sản (ý nói sức mạnh quân sự) để thương thuyết với BV, Kissinger chủ trương
rút song phương trái với Laird. Một ký giả nói Hà Nội coi đây là bước đầu của
rút quân còn Sài Gòn cho rằng đây là dấu hiệu giảm sự can thiệp vào miền Nam.
TT Nixon tuyên bố giảm phi vụ B-52, Kissinger nhận xét Hà Nội không bao giờ trả
tiền cho cái quà mà họ bỏ túi (tức không bao giờ đáp
ứng thiện chí Mỹ). Với Hà Nội Mỹ đã mất vị thế
khi nhượng bộ rút đơn phương, trong nước Nixon giảm chống đối nhưng cũng
làm nản lòng những người ủng hộ cho kế hoạch để chiến thắng. Kissinger nói
những người này không hiểu rằng tiềp tục chiến đấu cho sự rút lui trong danh dự
là một điều hão huyền. Kissinger cho rằng hành pháp không được sự ủng hộ của
những người họ coi chiến tranh là một bài học đạo đức cho nước Mỹ không hoàn hảo
lắm.
Sứ mệnh của Vance
Kissinger nói ta bị bất lợi về thời thế, khi được cử làm Phụ tá an
ninh QG ông đề cử Cyrus Vance làm Thứ trưởng ngoại giao, Rogers (Bộ trương
ngoại giao) trong khi Vance không có ý kiến cũng không từ chối. McNamara người
xếp cũ của ông thúc dục làm. Thế rồi ông từ chức Phụ tá trưởng phái đoàn Paris ngày
19-2-1969, TT Nixon gửi điện tín cám ơn. Trong cuộc nói chuyện với Đại Sứ Nga
Dobrynin, Kissinger nhấn mạnh về quan hệ Nga-Mỹ hợp tác giải quyết cuộc chiến
thì ông ta tránh trả lới và nói Nga ảnh hưởng tới Hà Nội ít lắm. Phía Mỹ đáp
lại Nga bằng cách trì hoãn những thảo luận mà Nga quan tâm như: Vấn đề tài giảm
binh bị, Trung Đông, giao thương nhưng không đề nghị gì vế Sô viết đối với VN.
Kisinger gặp Vance ngày 18-3 để giải thích về việc cử ông ta đi
Moscow: đàm phán tài giảm binh bị và bí mật gặp đại diện BV, Vance hỏi nhiều
chi tiết về sứ mệnh này ngày 3-4. Kissinger chính thức đề nghị sứ mệnh của
Vance lên TT Nixon sau khi chỉ ra những khó khăn tại hòa đàm Paris. Hành pháp
Mỹ cam đoan với người dân sẽ giải quyết cuộc chiến, Mỹ cần phải tiếp tục áp lực
quân sự (oanh tạc) để Hà Nội không đàm phán như tại Bàn Môn Điếm (Cao Ly 1953),
Hà Nội ngoan cố, cần có Nga tham dự. Kissinger gặp Đại sứ Nga và cảnh cáo liên
hệ Nga-Mỹ đang ở ngã tư trong khi ấy Nixon muốn quan hệ này tiến bộ về mọi mặt,
chiến tranh VN là một trở ngại lớn. Để giải quyết vấn đề này TT đã gửi một phái
đoàn cao cấp tới Moscow do Vance đẫn đầu. Nixon đồng ý ngay về vấn đề tài giảm
binh bị, Vance được trao quyền thảo luận với đại diện BV, Mỹ có thể đề nghị
ngưng bắn, rút đơn phương, hứa hẹn cho MTGP (VC) được tham gia chính trị. TT
Nixon cho 6 tuần để thương thuyết.
Kissinger nói với Nixon cần làm mạnh nêu không có kết quả, Hà Nội
chỉ muốn chiến thắng, không muốn ngưng bắn và chiếm đóng miền nam VN, họ cũng
không muốn bầu cử. Ngày 12-4-1969, Kissinger nói với Tổng thống về cuộc họp với
Đại sứ Nga ngày 14-4, ông chấp thuận. Kissinger gặp Đại sứ Nga Dobrynin, ông
này hỏi có phải Mỹ đặt điều kiện giải quyết vấn đề VN sau đó mới bàn về Trung
đông, liên quan kinh tế hai nước và tài
giảm binh bị? Kissinger trả lời nếu vấn
đề VN xong thì dễ nói chuyện các vấn đề khác nếu không sẽ tạo ra tình trạng
phức tạp. Đại Sứ Nga nói Moscow muốn thảo luận với Mỹ bất luận vấn đề VN ra
sao, ông cũng nói Trung Cộng muốn chia rẽ Nga-Mỹ. Ông ta nói thêm chiến tranh
VN leo thang chỉ lợi choTrung Cộng. Kissinger nói nếu vậy Nga phải hợp tác với
Mỹ để tránh những vấn đề phức tạp.
Phía Nga lặng thinh không trả lời gì, tháng 6 (69) Đại sứ Nga nói đề
nghị của Mỹ đã được chuyển cho Hà Nội nhưng không thấy kế quả. Ngày 22-12, Đại
sứ Nga nói Moscow cố gắng quan tâm, Hà Nội từ chối đàm phán trừ khi lập chính
phủ Liên hiệp.
Nếu cho là Hà Nội giỏi đu giây giữa Nga-Tầu, lấy Moscow là nới quyết
định đàm phán sẽ nguy hiểm.
Trở lại máy cối xay.
Ngày 8-5, phía CSBV đưa ra chương trình mười điểm gồm những điểm
chính như: Mỹ phải chấm dứt chiến tranh, Mỹ phải rút hết quân vô điều kiện,
loại bỏ VNCH, Mỹ phải bồi thường chiến tranh, Miền nam VN phải Liên hiệp…
Liên hiệp thực ra chỉ là để CS vào chính phủ Sài Gòn, chương trình Mười
điểm đòi hỏi Mỹ phải lật đổ VNCH, rút hết, Chính phủ liên hiệp chỉ là lâm thời cho
tới khi VNCH và VC thương thuyết. Khi CS chiếm miền nam (1975), chúng không hề
lập chính phủ liên hiệp mà BV nắm hết. Đề nghị của CS chỉ là một chiều và láo
xược.
Ngày 25-4 Kissinger nhắc nhở TT Nixon về lời Xuân Thủy: “tại sao ông
Nixon không đưa ra một kế hoạch tìm hòa bình. Ngày 14-5 Nixon lên TV nói ông
duyệt lại bốn tháng từ khi nhậm chức Tổng thống như: Đã làm suy yếu cuộc tấn
công của địch, cải thiện bang giao với VNCH, và phát huy lập trường đàm phán
phía Mỹ. Nixon đề nghị Chương trình Tám điểm thể hiện tiến bộ lớn trong cuộc
đàm phán so với thời Johnson, ủng hộ việc rút song phương. Mỹ đồng ý MTGP (tức
VC) tham gia chính trị tại miền nam VN bằng bầu cử có quốc tế giám sát. Nixon
đặt lịch trình rút, ngưng bắn có quốc tế giám sát.
( còn
tiếp )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét