Trận Điện Biên
Phủ
Nguyên tác của Henri Navarre
Trọng Đạt dịch
Sư thật người dân Pháp, chính phủ đã quá
chán ngán cuộc chiến này, tốn kém về tài chính, nhân mạng mà không biết bao giờ
chấm dứt, họ muốn bỏ Đông Dương vì không còn quyền lợi. Năm 1945 Pháp vào Việt
Nam để chiếm lại thuộc địa nhưng nay mục đích ban đầu không còn, chế độ thuộc
địa cáo chung, các nước Anh, Hòa Lan.. đã trao trả độc lập cho các thuộc địa của họ. Theo Navarre kể lại trong
các chương trước từ giữa năm 1952 trở
đi, nhất là từ 1953 trong khi Trung Cộng ngày càng gia tăng quân viện cũng như
giúp Việt Minh thành lập thêm nhiều đơn vị chính qui thì chính phủ Pháp không
tăng cường thêm cho chiến trường Đông dương.
Mặc dù năm 1953, 1954 viện trợ Mỹ cho Pháp
gia tăng nhiều, riêng 1954 Mỹ đã gánh 78% chiến phí (The Pentagon Papers Volum
1, Chapter 2) nhưng quân Pháp tại Đông Dương ngày càng suy yếu so với Việt Minh
cả về chủ lực quân lẫn hỏa lực. Trang 42 tác giả cho biết Việt Minh có một lực
lượng chính qui tương đương 9 sư đoàn (6 sư đoàn có danh hiệu, một không tên và
nhiều trung đoàn độc lập), trong khi Pháp chỉ tương đương 3 sư đoàn (7 nhóm lưu
động, 8 tiểu đoàn nhẩy dù, trang 43).. Tóm lại trận Điên Biên Phủ là hậu quả
khó tránh của tình trạng ngày càng suy yếu của Pháp so với Việt Minh, cái mà
ông goị là tình trạng hấp hối của Đông Dương
Việt Minh thắng Điện Biên Phủ nhờ quyết tâm
hy sinh nhiều nhân mạng và nhận được viện trợ quân sự tăng vọt của Trung Cộng khi
bắt đầu trận đánh. Trong suốt trận đánh trên 50 ngày, Việt Minh đã pháo xuống
khu lòng chảo vào khoảng 200 ngàn quả đạn đại bác và súng cối lớn. Giữa thập
niên 80 tôi có được đọc một cuốn sách dài khoảng 100 trang do một đại học Mỹ
xuất bản năm 1974 nói về mười trận đánh lớn nhất thế giới, (lâu quá không nhớ
rõ tên, The great military battles?). Sách gồm mười bài, mỗi bài do một Giáo sư
hoặc một nhà nghiên cứu viết, Điện Biên Phủ cũng được xếp trong số mười trận đó
và xếp hàng thứ mười, họ xếp theo thứ tự thời gian, trước đó là trận Bá Linh và
Stalinggrad.
Trong phần mở đầu, nhà xuất bản cho biết:
những trận đánh lớn nhất thế giới ở đây không hẳn là lớn về số lượng quân sự,
nhân sự mà vì nó thay đổi một khúc quành lịch sử. Thí dụ trận Stalingrard 1942, là khởi điểm cho sự
bại trận của Đức Quốc Xã, trận thủy chiến Midway 1942, Nhật thảm bại thua luôn
cuộc chiến Thái Bình Dương. Trận Điện Biên Phủ 1954 đã kết thúc chế độ thực dân
Pháp tại Đông Dương và lôi kéo Hoa Kỳ vào cuộc chiến tranh dài như vô tận.
Mặc
dù Điện Biên Phủ chỉ là một trận nhỏ về quân sự, tổng số quân hai gần 70 ngàn
người, tương đương với 6 hoặc 7 sư đoàn, so với Stalingrard tổng số cả hai phía
gần một triệu rưỡi người, ước lượng từ 130 tới 150 sư đoàn nhưng Điện Biện Phủ
cũng được coi như ngang hàng với Stalingrard vì ý nghĩa lịch sử của nó. Về điểm
này tác giả Bernard B. Fall trong cuốn sách nổi tiếng Hell In A Very Small
Place, The Siege of Dien Bien Phu cũng nói vậy (Preface, trang VII).
Tôi đã đọc phần nói về Điện Biên Phủ trong
Agonie de l’Indochine vào năm 1972, tình cờ nay lại có được cuốn sách này do
một người bạn du lịch châu Âu về gửi tặng, nó là môt tài liệu quí và hiếm, xin
dịch lại để phổ biến cùng quí vị.
Tôi
xin dịch nguyên văn Chapitre VII, La Bataille De Dien Bien Phu từ trang 188 cho
tới trang 258 trong Agonie de l’Indochine của Henri Navarre, in năm 1956, nhà
xuất bản Librairie Plon, Paris. Vì bài dài 70 trang bằng gần 1/5 cuốn sách nên
tôi bỏ bớt một số chú thích rườm rà. Hành văn của Tướng Navarre nhiều chỗ cô đọng khó hiểu
nên đôi khi tôi có chú thích thêm cho sáng sủa.
TĐ
Chương VII
Trận
Điện Biên Phủ
Tại Sao Có Điện Biên Phủ?
Một câu hỏi
đã được chúng tôi đặt ra nhiều lần: ta sẽ làm gì tại cái nơi hẻo lánh miền
Thượng du Bắc Việt này.
Để hiểu lý
do tại sao tôi cho chiếm Điện Biên Phủ (ĐBP) và chấp nhận trận đánh, ta cần trở
lại tình hình cuối tháng 10-1953 khi Việt Minh bỏ kế hoạch tấn công vùng châu
thổ Bắc Việt (Delta) hướng về Thượng du (Bắc
Việt) và Thượng Lào. Những ngày cuối tháng 10, chúng tôi được biết lính địa
phương Thái bị hai tiểu đoàn chính qui tấn công và Sư đoàn 316 bỏ vùng châu thổ
tiến về Lai Châu.
Những ngày
đầu tháng 11 có nhiều dấu hiệu cho thấy những đơn vị quan trọng không được xác
định rõ của các Sư đoàn 304, 308, 312 có lẽ tiến về Thượng Du theo sau Sư đoàn
316. Dần dần do những nguồn tin chính xác chúng tôi biết kế hoạch của Việt Minh
(VM). Tại Tây Bắc Đông Dương họ nhắm tiêu diệt quân địa phương Thái , thanh
toán đồn lũy Pháp tại Lai Châu và mở rộng ảnh hưởng VM tại Thượng Lào (Phong
Saly - Nam Bac – Luang Prabang) để dễ kiểm soát toàn vùng biên giới Hoa – Lào
và để tiếp cận với Thái Lan. Căn cứ dự định cho chiến dịch của họ là ĐBP.
Trước tình
thế ấy, rõ ràng là vào cuối tuần đầu tháng 11, ta cần phải quyết định ngay nếu
không địch sẽ ra tay trước. Cần phải bảo vệ Lào hay không? Nếu cần phải làm
sao?
*
*
*
Việc bảo vệ Lào luôn luôn là trách nhiệm thường
trực của Tư lệnh Đông Dương, nhưng trong chiến dịch 1952-1953 hầu như toàn bộ
quân trừ bị của chúng tôi đã được xử dụng để bảo đảm kết quả và đã gây nên
những khó khăn vô cùng cho hiện tình quân đội Pháp. Tôi đã đệ trình lên Ủy ban
Quốc phòng xin bớt trách nhiệm cho Tư lệnh từ tháng 7-1953 nhưng không thấy
quyết định gì cả, nhiệm vụ không đổi mới, vẫn y như cũ.
Nó vẫn
y như thế và còn có tính bó buộc, vả lại ngày 28-10 một hiệp ước mới được ký
kết tại Paris
với chính phủ Lào, do văn kiện này nước Lào vào Liên hiệp Pháp, Pháp có bổn
phận phải bảo vệ Lào. Hiệp ước này về mặt ngoại giao được coi như khuôn mẫu cho
Việt Nam và Miên sau này, nếu không tôn trọng mười lăm ngày sau khi ký sẽ làm
hủy hoại tới chính sách cùa chúng ta.
Tôi hỏi ý kiến ông Tổng ủy viên (1) đầu tháng
11 (1953), ông nói việc bảo vệ Lào là tất nhiên. Ông Marc Jacquet, Bộ trưởng
Các nước liên kết (2) tới Đông Dương vào giữa tháng 11cũng nói thế, ông còn cho
biết nếu để VM chiếm Luang Prabang và
tiến tới sông Cửu Long sẽ gây chấn động dư luận Pháp và cuộc chiến Đông dương sẽ
không tiếp tục được.
Chúng
ta đã hiểu nguyên nhân nhưng làm cách nào để bảo vệ? Phải che chở trực tiếp nó
hay hoặc bảo vệ gián tiếp bằng những lực lượng từ châu thổ (Bắc việt) mục đích
buộc Quân đoàn VM (3) hoặc một phần lực lượng của họ phải đương đầu?
Câu hỏi này phụ thuộc vào chiến lược chung của
chiến trường lớn Đông Dương mà tôi đã nghiên cứu ở trên kia (Chương VI). Vì
thiếu phương tiện (4), dù muôn hay không tôi phải quyết định bảo vệ trực tiếp
Lào.
Bảo vệ ở đâu
cho chắc?
Từ xứ Thái, sẽ là nơi Việt Minh tập trung,
đường vào Lào gồm hai chùm: cả hai đều tới Cửu Long thượng. Đường từ đông qua
Sầm Nứa và cao nguyên Traninh tới Paksane, Luang Prabang và Vạn Tượng. Nó được cai
quản bởi một đồn lũy tại Cánh đồng Chum do Tướng Salan lập lên từ năm trước. Đi
từ hướng Tây là tốt nhất, bắt đầu từ Tuần giao, ở chỗ này qua Điện Biên Phủ và
và thung lũng có đường sông Nam Ou dẫn tới Luang Prabang rồi tới Vạn Tượng.
Chúng tôi có tin chắc chắn lực lượng lớn của
Việt Minh sẽ mượn đường này. Nếu tính toán ra thì sẽ biết có lẽ Quân đoàn VM ờ
ĐBP đầu tháng 12 (1953) và tới Luang Prabang ngày 1-1-1954. Những tuần lễ đầu
năm sẽ thấy họ tới Vạn tượng ít nhất cũng bằng những đơn vị khinh binh và họ đi
dọc theo sông Cứu Long biên giới Thái Lan.
Việc
bảo vệ Lào không thể dùng vận động chiến (5). Tôi đã nói tới trong một chương
trước vì những lý do: địa thế, quân Pháp không thích hợp. Vì thế ta phải cần
một phương pháp khác. Cái mà truyền thống ta gọi là “chiến tranh vị trí” (6),
cũng gọi bằng một từ tối tân đó là hệ thống những “con nhím” hay những “đồn
lũy” (7), một giải pháp xoàng nhưng qua thử thách cho thấy chỉ có nó là xài
được. Nó không ngăn được các đơn vị khinh binh của địch di chuyển nhanh, nhưng
nó bảo đảm cho ta những điểm cơ bản bằng ngăn chận xâm chiếm của địch. Chính
phương pháp này Tướng Salan đã cần tới năm trước.
Ở đâu chúng
ta có thể lập những “vị trí” những “con nhím”, những “đồn lũy”- người muốn gọi
nó theo cách nào cũng được?
Chỉ bảo
vệ Lào ở ở Luang Prabang hay ở Vạn Tượng
là những giải pháp không đủ chống lại
những thử thách sơ đẳng. Về phương diện chính trị cũng như bảo vệ Pháp tại Paris và tại Orléans. Thực
vậy Luang Prabang có tầm chính trị quan trọng, Vạn Tượng chỉ là một thủ đô hành
chánh không có gì. Chiến đấu cho Luang Prabang có lợi rất lớn. Chiến đấu cho
Vạn Tượng chẳng có lợi gì. Tốt hơn hết là cho di tản toàn bộ Thượng Lào.
Về mặt quân
sự cả hai thủ đô này đều khó phòng thủ cả về lục quân cũng như không quân.
Luang Prabang là một nơi hẻo lánh bị bao bọc tứ bề. Máy bay tới đây gặp trở
ngại quanh năm. Vạn Tượng có thể bảo vệ bằng bộ binh dễ hơn nhưng với điều kiện
phải khai quang rừng. Lại nữa những phi trường của hai thủ đô cách xa thành phố
cần phải mất nhiều quân bảo vệ . Sau cùng nó cách quá xa phi trường châu thổ Bắc Việt
không thể xử dụng được.
Cho dù ngay cả chúng ta xử dụng những phương
tiện lớn (8) để bảo vệ Luang Prabang và Vạn Tượng để địch từ bỏ ý định đánh
chiếm, họ sẽ không đánh thẳng mục tiêu mà đồn lính của ta tại đó sẽ bị bao vây
ngay. Chúng ta sẽ không ngăn được VM chiếm những vùng xung quanh và chứng tỏ sự
hiện diện của họ tại biên giới Thái Lan, đó là mục tiêu chính trị của họ.
Đối với
mục tiêu này, địch nếu không bị buộc phải đánh vẫn có thể tiến tới mà không cần
phải huy động cả Quân đoàn tác chiến. Họ còn một phần của lực lượng đáng kể ở
tình trạng sẵn sàng, hoặc để tác chiến tại châu thổ Bắc Việt, hoặc để tăng
cường cho miền trung Đông dương. Mặt trận 1954 cho thấy chắc chắn sẽ mất Thượng
Lào hoặc một trận lớn tại châu thổ BV với ưu thế lực lượng rất mạnh về phía
địch sẽ khiến Pháp thiệt hại nặng (9), hoặc VM sẽ tiến mạnh về phía Nam qua
Trung Lào.
Để ngăn chận
địch vừa có thể tới sông Cửu Long và vừa có những lực lượng gây nguy hại cho
chúng, tôi chỉ có một giải pháp: cản đường hành trình họ sẽ đi qua bằng một đồn
lũy, được thiết lập sao cho VM bị bó buộc hoặc phải đi vòng để che dấu những
lực lượng rất lớn hoặc phải tấn công đồn trước khi tiếp tục đi qua.
Lập đồn lũy ở đâu?
Lai châu, thủ phủ chính trị của xứ Thái và là
nơi duy nhất Pháp có phi trường tại miền
Thượng Du rất xa đường đi của địch không ngăn chận được họ. Vả lại đứng trước áp
lực mạnh, vị trí sẽ khó bảo vệ. Phi trường có đồn lũy bao quanh nắm trong một
thung lũng hẹp và sâu. Ngay cả khi thời tiết tốt, máy bay đến đó cũng phải nhào
lộn. Tại đây thường thì thời tiết xấu.
Chỉ có
một địa điểm có thể lập phi trường được nằm phía nam Lai Châu 90km, đó là Điện
Biên Phủ. Giá trị chiến lược của vị trí tại ĐBP đã được biết từ lâu lắm rồi.
Ngày xưa Quân phương Bắc xâm lăng từ đây đổ xuống Thượng sông Hồng. Chúng tôi
luôn luôn có một đồn tại đây, mà năm ngoái phải rút vì bị VM tấn công.
Trước khi ra đi (10), tướng Salan đã cổ võ cho
việc chiếm lại ĐBP, ngày 25-5-1953, ông viết trong một bài nghiên cứu về việc bảo
vệ Thượng Lào “Nay cần hoàn tất chủ lực quân tái lập căn cứ phòng thủ ĐBP. Từ
đầu tháng giêng 1953 tôi đã khuyến cáo việc tái chiếm nơi đây, tôi thấy việc
chiếm đóng địa phương này rất cần thiết cho an ninh Luang Prabang. Những biến
cố trong khoảng tháng 4 tháng 5 (1953) vừa qua cho thấy sự cấp bách của chiến
dịch này mà chỉ vì thiếu phương tiện vận chuyển hàng không đã ngăn cản sự thực hiện trước các cuộc tấn công của
VM mới đây.
Các nhà cầm
quyền Ai Lao biết rõ đất nước họ, cho là khi ĐBP không được chiếm lại, đường đi
Luang Prabang bỏ ngỏ vì giữa ĐBP và thủ đô không có vị trí phòng thủ nào. Sau
cùng chúng tôi biết VM cũng đánh giá cao vị trí của ĐBP (11). Sự quan trọng của
ĐBP không thể chối cãi được cũng như khi cuộc chiến của chúng tôi mở rộng. Nó
là nơi hội tụ của các chặng đường nối những vùng biên giới Lào, Thái Lan, Miến
điện, Tầu. Vị trí này rất khó đến bằng đường mòn trên đồi núi. Cánh đồng ĐBP
đông dân, trù phú nhất miền Thượng du. Sản lượng lúa gạo tại đây rất thừa thãi
có khả năng nuôi sống từ 20,000 tới 25,000 người. Phi trường có thể mở rộng rất
nhiều, có khả năng gấp hai gấp ba lần.
Tuy nhiên
ĐBP, trong những trường hợp mà chúng tôi thấy, có một trở ngại lớn về hàng
không, nó cách xa phi trường tại châu thổ BV, nhưng phải chấp nhận khó khăn này
không có cách nào khác.
Trong bất cứ
trường hợp nào, bảo vệ ĐBP bằng không quân sẽ hơn là đánh địch tại Luang
Prabang và Vạn Tượng. Vả lại đường xa gây trở ngại cho ta về không quân nó cũng
gây trở ngại cho VM về tiếp liệu. ĐBP cách Châu thổ 200 km, cách biên giới Tầu
300 km, không có đường từ biên giới tới đó, hoặc nếu có cũng bị phá hỏng. Vì
thế nếu đánh ĐBP, Việt Minh phải dùng dân công tiêp tế, khả năng giới hạn thôi.
Trong môt bài nghiên cứu tháng 5-1953 về các chiến dịch miền Thượng du, Tướng
Salan nêu ý kiến VM không thể dùng nhiều vũ khí nặng vì khó khăn về vận
chuyển.Thực ra viện trợ tăng cường ồ ạt của Trung Cộng cho thấy những dự đoán
trên sai.
Về phương
diện chiến thuật sự phòng thủ ĐBP cũng tương tự như tất cả những đồn lũy trong
vùng đồi núi bao quanh một phi trường.Vị trí sẽ là chỗ trũng, không thể làm
khác hơn vì người ta không thể lập phi trường trên đỉnh
Núi.
Tuy nhiên ĐBP
là một vùng rộng nhất của Thượng Du, một cánh đồng dài 12 km rộng 9 km, bằng
phẳng rất thuận lợi cho việc xử dụng thiết giáp. Những đỉnh núi cao cách phi
trường từ 10 tới 12 km, sẽ thiết lập đồn lũy quanh đó. Khoảng cách này ngoài
tầm pháo của địch . Những khẩu pháo này chỉ có thể đặt trên sườn đồi núi hướng
về phía trong lòng chảo. Phòng không địch cũng muốn chế ngự không gian phía trên
phi trường,. Theo ý kiến pháo thủ ta địch sẽ không làm được, các khẩu pháo sẽ
bị các đài quan sát trong lòng chảo phát hiện khi họ đặt súng hay khi bắn.
Chúng sẽ bị “bịt mõm” do phản pháo của ta và do không quân oanh tạc. Những điều kiện mà VM đã xử dụng được pháo
binh đã bác bỏ những luận cứ rất lý thuyết như trên, tôi sẽ bàn sau.
Nói chung vị
trí của ĐBP so với tất cả những bất tiện các đồn lũy miền Thượng du, nói một
cách dè dặt nó thỏa mãn yêu cầu. Nó tốt hơn cả so với Nasan, Lai châu, Luang
Prabang, nó giá trị ngang với Cánh đồng Chum.
Đó là những lý do ta phải chiếm ĐBP và chấp
nhận giao tranh, giải pháp tầm thường nhưng chấp nhận được để chống lại địch,
nó hợp lý để nghĩ tới cái ta sắp làm. Nhưng kế đó ta không đoán trước địch tăng
sức mạnh nhanh chóng. Nói chung ta không biết gì hơn thế
*
* *
Quyết định
đánh ĐBP đã tạo lên, sau khi đồn lũy sụp đổ, nhiều phê phán, đa số không đúng
sự thật. Có người nói việc chiếm ĐBP do Chính phủ bắt buộc tôi. Không đúng thế.
Chính phủ đã sai lầm khi quên- không xác định rõ nhiệm vụ của tôi và không cung
cấp cho tôi những phương tiện để chiên thắng – nhưng trách nhiệm của họ chỉ có
thế. Họ không can thiệp vào tác chiến. Sau ngày đồn lũy sụp dổ, trả lời phòng
vấn một ký giả trong cuộc họp báo, tôi nhận trách nhiệm hoàn toàn về kế hoạch,
quyết định tác chiến trong trận ĐBP.
Có sự xác nhận trái với điều khẳng định trên
cho rằng quyết định đánh ĐBP trái với ý kiến của của một số vị cấp bộ trưởng
trong Chính phủ, và nhất là các vị chỉ huy quân sự, trong đó có một số thuộc
cấp của tôi. Tất cả những chuyện này cũng đều sai.
Trước khi
tình hình mặt trận bắt đầu xấu, Chính phủ đã không bầy tỏ ý kiến dè dặt nào. Vả
lại, tôi sẽ nói sau, họ còn trách tôi bi quan khi tôi tỏ ý lo sợ. Không hề có
một cấp chỉ huy quân sự nào có lập trường, dưới bất cứ hình thức nào chống lại
kế hoạch quân sự tại ĐBP. Bản kế hoạch này cũng đã được sự chấp thuận của Tướng
Ely, Tổng tham mưu trưởng Bộ quốc phòng và Chủ tịch ủy ban các TTM. Không hề có
thuộc cấp nào của tôi trong Lục quân, Không quân- ít ra những người trực tiếp liên
quan- phản đối.
Nhưng khi tình hình mặt trận xấu, nhất là khi
đồn lũy thất thủ thì nghe thấy trong hàng giới chức cao cấp quân sự và nhất là
giới chính trị một số câu như “Tôi đã nói trước rồi mà”
Các thuộc cấp của tôi, trái lại tỏ ra hoàn
toàn trung thành với tôi và tránh làm mất đoàn kết với tôi. Chỉ có Tướng Cogny
tạo môt huyền thoại, sáng tác nhiều thứ, cho rằng ông ta bất đồng ý kiến với
tôi về chiến lược đã đưa tới trận ĐBP. Ông soạn ra một tường trình, về lúc cuối
trận mà những luận cứ sai dựa vào những rò rỉ cơ hội đã được phổ biến rộng rãi trên
báo chí và diễn đàn nghị viện. Tôi đã nói và sẽ nói sau về vai trò của ông ta
trong thiết lập và thi hành kế hoạch ĐBP đủ để chứng minh một chủ đề mà chỉ có
mục đích giải thoát khỏi cái mà ông cho là trách nhiệm của mình.
Khi làm thế,
Tướng Cogny đã vi phạm một cách vô ích vào truyền thống danh dự của quân đội
bởi vì, nói về vấn đề quyết định ở cấp bậc của tôi, trách nhiệm của ông ta đã
được định rõ chỉ cần một việc là tôi đã giữ quyền quyết định, cho dù ông gợi ý
cho tôi nhiều.
Sau cùng ông nói là ĐBP được làm ra để “giết
Việt Minh”. Như tôi đã nói ở trên về những lý do đưa tới quyết định của tôi và
tôi được miễn phải bác bỏ lối giải thích đơn giản này, nhưng mà – nếu nó có
thật – tôi chẳng có gì phải xấu hổ đáng tiếc gì cả về phương diện nhân bản,
“giết kẻ địch” là chủ trương chính đáng của tất cả các tư lệnh chiến trường. Đó
cũng là nhiệm vụ chính mà Tướng Giáp giao cho quân đội của ông.
Để bảo vệ Lào, tôi có cách nào khác hơn là mở
trận chiến ĐBP?
Chiến lược không phải là một khoa học chính
xác, những vấn đề nó bao hàm có nhiều giải pháp mà cấp chỉ huy phải lựa chọn.
Tuy nhiên nhiều lúc – nhất là trong những trường hợp khó – mà một giải pháp dù
là xoàng, nó áp đặt tuyệt đối vì chỉ có nó cho phép, với những phương tiện mà
người ta cho để hoàn thành nhiệm vụ.
Đó là trường hợp của tôi. Chiếm ĐBP và và chấp
nhận trận đánh mà tôi coi như giải pháp duy nhất cho tôi cơ hội cứu Ai Lao với
những lực lượng tôi có. Như đã nói, trước
khi có trận đánh tôi không hề thấy ai đề nghị với tôi giải pháp nào khác. Trái
lại họ họ đều nói “cần phải làm như vậy”. Không có ý kiến nào khác dưới hình
thức một giải pháp cụ thể, thích hợp với nhiệm vụ và phương tiện của tôi. Điều
ghi nhận này đã củng cố niềm tin của tôi rằng không có cách nào khách hơn cái
tôi đã làm.
Chú thích.
(1) Commissaire general, đứng đầu về hành chính, Tư lệnh
(Navarre )
đứng đầu về quân sự (chú thích của người dịch)
(2) États associes, tức Việt, Miên, Lào. (chú thích của
người dịch)
(3) Corps de bataille Vietminh, ám chỉ các sư đoàn chính
qui VM như 304, 308, 312, 316…(chú thích của người dịch)
(4) Les moyens, gồm lực lượng, hỏa lực, đạn dược, tiếp liệu… (chú
thích của người dịch)
(5) Guerre de movement: Chiến lược quân sự dùng di chuyển
nhanh để thắng địch. (chú thích của người dịch)
(6) Guerre de places: chiến tranh vị trí, nơi chốn, đó là
chính sách đóng đồn mà ta thường thấy trong hai cuộc chiến Đông Dương. (chú thích của người dịch)
(7) Camp retranché: đồn lính có nhiều công sự phòng
thủ, hào, hầm… kiên cố như Điện Biên Phủ, trong bài này Navarre dùng chữ “đồn lũy” để chỉ ĐBP (chú thích của người
dịch)
(8) Phương tiện rất nhiều so với nhu cầu để bảo vệ
Điện Biên Phủ sau này. (chú thích của tác giả)
(9)Trận Châu thổ rất nặng (chap.VI), Tướng Cogny đã
rất lo lắng về vấn đề này, thậm chí đã dự tính bỏ Hà Nội. Trận đánh ở Trung Lào
không kém phần gay go. Nếu một trong hai mặt trận diễn ra với tỷ lệ lực lượng
bất lợi (VM hơn Pháp từ 15 tới 20 tiểu đoàn) chắc chắn ta sẽ thua. VM đã thắng
ngoạn mục tại ĐBP, Hội nghị Genève đã khiến họ cần phải thắng (chú thích của
tác giả)
(10) Raoul Salan, Tư lệnh Đông Dương từ 6-1-1952 tới
8-5-1953 (chú thích của người dịch)
(11) Khi trận đánh đang diễn ra, Tướng Giáp trả lời
phỏng vấn một ký giả CS Ý: ông ta nói địch chiếm ĐBP không những để thiết lập
căn cứ tấn công Tây Bắc VN mà còn có mục đích xa hơn, nó đặc biệt của Bộ Tham
mưu Hoa Kỳ, đó là thiết lập một căn cứ không quân quan trọng nhất Đông nam Á.
Ông ta còn cho biết ĐBP là trung tâm một vòng tròn tiếp giáp phía nam nước Tầu,
Miến điện, Thái Lan. Về sau trả lời phỏng vấn một tờ tuần báo của CS Pháp, ông
ta nói : ĐBP là một địa điểm chiến lược rất quan trọng. Quân đoàn Viễn chinh
tới đó trước hết để bảo vệ Lào và chiếm lại Tây Bắc VN. Thực hiện được kế hoạch
này, địch xây dựng một căn cứ không quân và bộ binh đe dọa hậu cứ của chúng tôi
(VM) và buộc lực lượng của chúng tôi giữa ĐBP và châu thổ BV phải phân tán (chú
thích của tác giả)
Chiếm Điện Biên Phủ
Thượng tuần
tháng mười, tôi cho chiếm ĐBP và lập một căn cứ không quân tại đây để bảo vệ
Lào.
Chiến dịch không
thực hiện vội vã vì kế hoạch đã được soạn từ mấy tháng trước. Tôi nhớ ra vào
mùa hè, tướng Cogny đã nhiều lần đề nghị
với tôi, cùng với việc rút bỏ Nasan mà ông cho là sai chiến lược và về chiến
thuật mất nhiều quân, để chiếm ĐBP nơi mà ông cho là có nhiều lợi về mọi phương
diện.
Hồi ấy chưa thành lập đủ quân trừ bị, tôi phải
hoãn thi hành chiến dịch. Nó được dự trù tháng 12 (1953) hay tháng 1 (1954)
dưới hình thức hành quân phối hợp một từ Lào, một từ Lai châu trong khi lính
nhẩy dù đổ xuống mục tiêu.
Cần phải tiến hành nhanh trước khi Quân đoàn
của VM tới. Quân từ Lào còn xa, ở Lai châu không đủ nên phải xử dụng không vận.
Ngày 20-11 (1953) được chọn là hạn chót để đóng quân khi những đơn vị đầu tiên
của Quân đoàn VM sẽ đến. Một tập hợp nhẩy dù gồm 6 tiểu đoàn và một đội pháo (75
ly không giật) sẽ chiếm ĐBP trong khi quân tại Lai Châu xác định tối đa những
đơn vị địch tại vùng Tuân giao. Khi thiết lập phi trường xong, ba trong số
những tiểu đoàn nhẩy dù sẽ được đưa tới bằng không vận từ châu thổ BV. Sau đó
quân từ Lai châu sẽ được đưa tới ĐBP khi bị địch đe dọa tấn công.
Ngày 20-11, như đã tiên liệu, ba tiểu đoàn
nhẩy dù được đưa tới chiếm ĐBP bị một tiểu đoàn địa phương quân VM tấn công,
địch bị bất ngờ. Tiếp theo đó ngày 22, 23 ba tiểu đoàn nữa tới cùng với đội
pháo binh. Ngày 22 đã liên lạc với Lai châu. Ngày 24 phi trưởng đã mở, Tướng
Gilles đã thực hiện chiến dịch hoan hảo.
Tổ Chức Bộ Chỉ Huy
Trận đánh
sắp diễn ra tại Điện Biên Phủ ở cấp bậc toàn bộ chiến trường lớn Đông Dương vì
nó có mục đích bảo vệ Lào nhưng đồng thời cũng là cách “abcès de fixation” (tạo
mủ tránh nhiễm trùng) (1) để tránh nguy hiểm cho Châu thổ BV và Trung Đông dương. Về lý thuyết
nó được giao cho một bộ chỉ huy trực thuộc Tư lệnh.
Nhưng bị tất cả chống đối . Điện Biên Phủ
thuộc Bắc Việt, giao thông của địch từ đầu chí cuối nằm tại đây. Về phương diện
hàng không và tiếp liệu, trận đánh phụ thuộc vào Châu thổ tại đây có những căn
cứ yểm trợ. Riêng chỉ có bộ tham mưu lục quân và không quân tại Hà Nội là có
khả năng điều khiển trận đánh vì chỉ có họ đủ phương tiện vật chất, hiểu biết về
địa thế và quân địch.
Bởi thế sự kết hợp giữa tướng Cogny, vị chỉ
huy trưởng các lực lượng bộ binh BV và tướng
Dechaux, vị chỉ huy trưởng nhóm không quân chiến thuật BV, hai vị đã được giao phó từ đầu chí cuối trách nhiệm
trận đánh. Cơ cấu này phù hợp nguyên tắc tổ chức, nó nằm ở dưới cấp “chiến
trường lớn” (2), các lực lượng lục và không quân hành động liên kết, không bên
nào phụ thuộc bên nào.
Thực ra, trong sự kết hợp Cogny-Dechaux, vế thứ
nhất (tức lục quân) vẫn nắm ưu thế. Nó chịu trách nhiệm hoàn toàn trận địa và
có khuynh hướng yêu cầu không quân thi hành nhiệm vụ trực tiếp và gián tiếp
phục vụ các lực lượng bộ binh. Thế mà những nhiệm vụ này hầu như là toàn bộ hoạt
động của không quân.
Tuy nhiên vì lý do quan trọng của trận đánh có
tầm vóc chiến trường rộng lớn và để tránh những quan điểm bất đồng có hại giữa
các vị chỉ huy bộ binh và không quân, tôi đã biệt phái thường trực tướng không
quân Bodet, có quyền quyết định dưới danh nghĩa tôi những vấn đề ở cấp bậc của
tôi. Sau cùng tôi đã ở Hà nội nhiều ngày (3) trước và trong trận đánh và nhất
là có mặt trong những giờ phút nguy kịch.
Những quyết
định liên hệ mặt trận thường do tướng Cogny quyết định, hoặc một mình ông hay –
khi nó liên quan đến không quân và bộ binh- kết hợp với Dechaux. Khi nó ở cấp
bậc Tư lệnh do tướng Bodet –hay do chính tôi khi tôi có mặt-theo đề nghị của
tướng Cogny và tướng Dechaux.
Không
hề có sự thiếu liên lạc hay thiếu kết hợp hài hòa hành động giữa các bộ tham
mưu Sài gòn và Hà nội như báo chí đã loan tin. Trái với những tin đã được xác
nhận nhiều lần, không hề có bất đồng quan điểm về những vấn đề do trận đánh đặt
ra giữa tướng Cogny và tôi - chỉ trừ một điểm mà tôi sẽ nói sau.
Chú thích
(1) Abcès de fixation là cách (chữa bệnh xưa) tạo sưng
mủ để khỏi làm độc chỗ khác, nghĩa bóng là tạo một biến cố xấu để tránh một
biến cố tai hại hơn, (au sens propre, abcès créé pour fixer une infection; au
sens figuré, événement malheureux mais évitant que des événements plus graves ne
surviennent). Cụ thể ở đây có nghĩa tạo ra trận ĐBP để tránh cho Châu thổ BV, miền
Trung Đông dương khỏi bị tấn công. (chú thích của người dịch)
(2) théâtre d’opération, mặt trận lớn được định nghĩa
là chiến trường bao gồm cả hoạt động hành chánh (như giao thông, tiếp liệu…) và
quân sự (incluant les activités administratives concomittantes aux opérations
militaires) (Chú thích của người dịch)
(3) Hồi đó Phủ Tổng Ủy, bộ Tư lệnh quân đội Pháp và Chính phủ Quốc gia VN đều
đóng ở Sài gòn, Sài gòn giống như Thủ đô của VN.
(chú thích của người dịch)
Sơ Khởi Về Trận Đánh
Những ngày
đầu tháng 12(1953) tiền quân của Sư đoàn 316 xuất hiện gần Lai Châu. Tướng
Cogny, mới đầu có ý định, được sự đồng ý của tôi, giữ Lai châu và chơi nước đôi
Lai châu-ĐBP càng lâu nếu có thể, nhưng nay quyết định cho di tản Lai châu
ngay. Thật vậy hiện ông chỉ muốn tập trung phòng thủ một ĐBP độc nhất. Chủ lực
quân tại Lai châu được không vận tới ĐBP ngày 8-12. Những đơn vị phụ lực khác
tới sau bằng đường bộ. Còn lại đi đường rừng.
Từ ĐBP, tướng Cogny nay hy vọng có thể mở
“những cuộc tấn công mạnh” mục đích làm chậm lại việc đóng quân của địch. Sư
thật những hoạt động này chỉ chỉ giới hạn ở việc tuần tiễu và trinh sát lanh
quanh thôi. Đúng vậy nhưng hoạt động
quan trọng nhất, sâu xa nhất chẳng bao lâu chỉ là không phù hợp đối với ông, vì
những chủ lực quân cần có, với những công việc cần thực hiện ngay để làm cho
căn cứ có thể đương đầu với cuộc tấn công của địch có thể sẩy ra rất nhanh. Vả lại
trong những cuộc chạm địch của những đội thám sát, khả năng tác chiến trong rừng
của quân ta yếu kém rõ rệt.
Vào ngày 8-12 (1953), đại tá de Castries thay thế tướng
Gilles trong chức vụ chỉ huy đồn lũy. Tôi nghĩ ở đây cần phải nói những lý do
thực sự về việc thay đổi cấp chỉ huy này mà nó đã có nhiều phê phán sai lạc hay
có chủ đích riêng.
Tướng Gilles
thường chỉ huy toàn thể binh chủng nhẩy dù tại Đông dương. Ông chịu trách nhiệm
về huấn luyện và thành lập những đơn vị mới mà kế hoạch đã dự trù, ông không thể
xa bộ chỉ huy của mình lâu dài mà không gây trở ngại. Do đề nghị của tướng
Cogny, tôi chỉ định đại tá de Castries
thay thế ông. Việc lựa chọn này đã là đề tài của nhiều chỉ trích
Người ta nói tại sao lại chọn một kỵ sỹ trong
khi một đồn lũy thường là cần một người bộ binh? Bởi vì cả tướng Cogny và tôi
không có tinh thần phân biệt binh chủng, và vì đại tá de Castries đối với cả hai chúng tôi có lẽ là
người có khả năng nhất để bảo vệ ĐBP mà chúng tôi mong đợi. Chúng tôi không chỉ
định “vì là kỵ sĩ” cũng không phải “dù là kỵ sĩ”.
Người ta cũng hỏi là tại sao lại cho một đại
tá làm chỉ huy trưởng mà thường phải là một ông tướng? Bởi vì tại Đông dương
thiếu sĩ quan cấp tướng trầm trọng, một đại tá lãnh nhiệm vụ chỉ huy của cấp
tướng là bình thường- và cũng vì tướng Cogny và tôi không có tinh thần phân
biệt binh chủng, không sung bái những ngôi sao (1)
Dù sao, tôi
quả quyết rằng không thể cử ai – dù là một ông tướng hay một người bộ binh – có
thể làm hơn được đại tá de Castries .
Để phụ giúp
mình, người chỉ huy đồn lũy lập một bộ
tham mưu theo kiểu mẫu của sư đoàn. Một phân đội liên lạc với không quân cũng
được lập dành cho ông.
Nhiều tin tức dần dần cho biết những lực
lượng quan trọng của Việt Minh tiến về miền Thượng du với tiếp liệu lớn chưa
từng thấy của họ.
Ba sư đoàn
rưỡi (316-308-312 và một phần của 304) đang trên đường tới Tây Bắc. Những dấu
hiệu cho thấy có thể có Sư đoàn nặng 351 (2)
Viện trợ của
Trung cộng cho VM gia tăng rất mạnh, có nhiều dấu hiệu cho thấy vũ khí đạn dược
được chở tới biên giới BV. Khoảng 75,000 dân công có thể được tập trung tại
Thượng du nhờ Tầu cung cấp gạo và phương tiện chuyên chở (3). Tái tạo khoảng
200 km đường giao thông cho xe ô tô vận tải và làm thêm hàng trăm km đường nữa
(4)
Rõ ràng là VM đã tạo được một đường giao thông
từ đâu chí cuối bằng ô tô. Con đường này dài khoảng 350 km, bắt nguồn từ biên
giới Tầu tại Lạng sơn, Cao bằng, đi vòng châu thổ (Delta, BV) qua Thái Nguyên, Tuyên
quang, Yên bái (tại đây qui tụ một đường tiếp tế khác xử dụng được bằng sông
Hồng từ Lào Kay), rồi qua một đường giao thông mà đa phần kiến tạo bằng nhiều
đoạn, nối tiếp R.P.41 (Hòa bình-Lai châu) gần Na San và đạt tới Tuần Giao, tại
đây họ lập một căn cứ hậu cần quan trọng để tiêp tế cho Quân đoàn bao vây ĐBP (5).
Hai đường giao thông nữa cũng tới điểm này,
một cũng từ bên Tầu qua Ban Nam Coun và Lai Châu nhưng bằng những đường mòn xấu
hoặc những đường thủy loại thường, lưu thông kém (6). Mục đích lấy thêm gạo ăn.
Đường kia từ Thanh Hóa qua thung lũng sông Mã. Năng xuất của nó cũng rất thấp.
Không quân Pháp tận dụng để ngăn chặn những
đường giao thông, vận chuyển và tấn công các đoàn xe vận tải qua lại. Đó chỉ là
vô ích. Những đoạn đường bị cắt được sửa chữa rất nhanh. Những xe cam nhông, xe
đạp thồ và đoàn dân công khiêng vác chỉ đi ban đêm và khi thời tiết xấu ngăn
không cho phi cơ bay lên hoặc họ ngụy trang rất khéo khiến trinh sát của ta
không thấy được. Không quân của ta hiển nhiên là không đủ để đạt kết quả mong muốn. Trước tình trạng này, cuối tháng
12 (1953) tôi cảm thấy lo âu và lưu ý Chính phủ (Pháp) về sự đe dọa đè nặng
xuống ĐBP và tôi nhấn mạnh đặc tính mới của mặt trận là viện trợ Trung cộng cho
VM ồ ạt.
Trong một
bức thư ngày 1-1-1954, tôi nói “trong trường hợp có cuộc tấn công, ta có hy
vọng thắng không? chỉ còn hai tuần nữa, tôi ước lượng một trăm phần trăm. Đó là
trận đánh do ta lựa chọn chiến địa và trong điều kiện thuận lợi chống kẻ địch
sở hữu những phương tiện mà ta biết tới ngày 15-12 (1953). Nhưng trước những
phương tiện mới mà tin tình báo nghiêm chỉnh cho biết, tôi không thể bảm đảm
chắc chắn thắng lợi nữa. Trước hết là trận chiến không quân” và nói xa hơn “Nếu
thua trận chiến không quân, nghĩa là địch
xử dụng những vũ khí nặng (7), tôi không thể bảo đảm chiến thắng. Mà không quân
ta rất yếu lại phải đảm nhận một trọng trách to lớn”
Bởi thế tôi
xin tăng cường không quân ngay và kết luận “Tôi coi như chủ lực quân tập trung
tại ĐBP, là điều cần và đủ để bảo vệ Thượng Lào và giữ sự hiện diện của ta tại Thượng du. Sự đóng
quân này sẽ đạt nhiều lợi ích lớn nếu ta
thắng trận ĐBP. Nếu ta thua trận ĐBP sẽ là một thiệt hại lớn lao. Trong mọi
trường hợp đóng vai trò “tạo mủ để tránh nhiễm trùng” và có thể tránh trận đánh
lớn vào Châu thổ.
Bức thư ấy
không được phúc đáp, ông M.Marc Jaquet, Bộ trưởng các Nước liên kết (Việt,
Miên, Lào) trong một chuyến sang Đông dương sau đó không những chỉ nói cho tôi
biết nguyên văn Chính phủ coi đó là “rất bi quan”, họ vẫn còn sảng khoái lạc
quan từ chiến dịch mùa hè, mà một thành viên quan trọng của Chính phủ đánh giá
đó chỉ là “tiểu thuyết trinh thám”
Tướng Bodet,
phụ tá của tôi mà tôi đã phái về Paris để tường trình hiện tình lên Chính phủ
và Thượng cấp, được một thỏa thuận trên nguyên tắc về một số bổ sung không
quân, nhưng việc gửi đến gặp rắc rối khi thảo luận với Mỹ là chỗ cung cấp máy
bay, quá chậm trễ nên khi trận đánh diễn ra mới gửi tới - quá trễ để đóng vai
trò hữu dụng
*
* *
Trong thời
gian hai tháng khi VM đã sắp đặt vị trí, chuẩn bị tác chiến, ta đã thực hiện
được tại ĐBP một pháo đài thật mạnh.
Ngày 25-12
chúng tôi đã phối hợp tại Sop Nao những lực lượng di động của đồn lũy và những
lực lượng tại Thượng Lào, trong khi ấy có đi qua Thượng Nam Ou. Trong dịp liên kết
này những lực lượng Lào đóng giữa đồn lũy và Sop Nao gồm địa phương và tình
báo.
Phía VM họ bắt đầu chiếm hết vùng xung quanh
ĐBP và và bắt đầu thực hiện vòng vây gần như liên tục, tuy nhiên họ không tiến
gần đụng chạm với vị trí cùa Pháp.
Vào ngày 20-1 (1954) cho thấy sắp có cuộc tấn
công nhất là đêm 25, 26, hay đêm sau. Việc di chuyển đặt súng pháo, đạn dược và
các đơn vị bộ binh được thực hiện trong ngày 25, 26. Họ bị pháo của ta và không
quân bắn
chống lại công tác đặt pháo.
Không thấy
có tấn công. Lý do chính sự hủy bỏ lệnh tấn công này có lẽ do chưa đủ phương
tiện-nhất là tiếp tế đạn dược- mà địch chưa tập trung được. Mặc dù viện trợ của
Trung cộng rất nhiều cho tới hôm đó chưa đủ lượng lớn để VM mạnh khả dĩ chiếm
được đồn lũy kiên cố như tại ĐBP.
Cuối tháng 1 (1954) tin tình báo khả tín cho
hay địch đã hoãn cuộc tấn công, có thể từ bỏ không muốn đánh hoặc sẽ đánh
Thượng Lào. Nguồn tin này được khiểm tra lại ngay. Sư đoàn 308 rời Quân đoàn bao
vây ĐBP, được tăng cường Trung đoàn độc lập 148 tiến về Luang Prabang . Được
báo tin kịp thời, các lực lượng của ta tại Thượng Nam Ou tránh né, một phần
xuống Luang Prabang, một phần về Muong Sai, chỉ có hậu quân bị đánh quấy phá
Sư đoàn 308 dấn bước tiến tới Nam Bac, tới chỗ
nửa đường giữa ĐBP và Luang Prabang phần vì sợ không quân ta, và nhất là thiếu
tiếp tế nên phải dừng lại. Trong khi đó đại tá de Castries cho đạo quân tiền sát mạnh thăm dò quanh
ĐBP. Họ đụng trận khắp nơi với những đơn vị mạnh, phòng thủ vững của địch và chúng tôi bị thiệt hại nặng. Hiển
nhiên là vòng vây quanh đồn lũy còn hai sư đoàn nữa và sư đoàn nặng, không có
một kẽ hở nào(8)
Chính vào
lúc này đã sẩy ra biến cố, mà tôi đã đề cập ở chương trước có ảnh hưởng quyết
định tới kết cuộc của trận đánh và nó đã cho ĐBP một khía cạnh hoàn toàn mới:
Thông báo về Hội nghị Genève (18-2)
Từ ngày 23-2
chúng ta được biết Sư đoàn 308 từ xa quay trở lại ĐBP để gia nhập Quân đoàn bao
vây. Những dấu hiện về cuộc tấn công đồn lũy sắp diễn ra ngày một nhiều hơn,
địch bắt đầu bắn quấy phá vị trí ta bằng những khẩu pháo riêng lẻ và bắn từ
nhiều chỗ khác nhau. Họ xiết chặt dần vòng vây gần hơn, đóng quân dầy đặc những
sườn đồi phía Bắc và Đông Bắc lòng chảo. Địch đặt tại đó những đài quan sát pháo
binh và phòng không.
Chúng tôi
được tin những đợt chuyên chở đạn dược ngày một quan trọng từ bên Tầu vào BV cũng
như những vũ khí mới, nhất là trọn một tiểu đoàn phòng không (được đưa qua biên
giới cuối tháng 2). Chúng tôi được biết địch thành lập những đơn vị tăng cường
trích ra từ quân trừ bị và từ những đơn vị địa phương quân tại Châu thổ BV rồi
hối hả tiến về ĐBP.
Trên các
tuyến đường giao thông, xe vận tải chạy
ngày đêm mặc dù bị thiệt hại do máy bay oanh kích nhưng không quân Pháp thiếu
thốn nhiều.
Những ngày
đầu tháng 3 (1954), cuộc tấn công đồn lũy chắc chắn sẽ vào ngày 15, đồng thời
ta cũng biết VM sẽ tấn công trên khắp các mặt trận cùng ngày mục đích cầm chân
bộ binh và không quân ta. Lãnh đạo việc phòng thủ ĐBP trong những điều kiện đã
được xác định bởi chỉ thị ngày 25-1. Chỉ thị này tiên liệu riêng tại Hà Nội sẽ thành
lập năm tiểu đoàn nhầy dù trừ bị - trong đó hai tiểu đoàn lấy từ Cao nguyên -
để can thiệp cho đồn lũy khi cần.
Chú thích
(1) des étoiles, ý nói cấp tướng (chú thích của người
dịch)
(2) Sư đoàn vũ khí nặng: pháo binh và phòng không (chú
thích của người dịch)
(3) Người ta ước lượng, cho tới khi đó, tại Thượng du
VM chỉ có thể huy động tối đa 20,000 dân
công vì thiếu gạo và phương tiện vận chuyển. (chú thích của tác giả)
(4) Tháng 4-5
năm 1956, tướng Giáp trả lời phỏng vấn báo Paris-Match và Paris-press, ông ca
ngợi thành quả đạt được do nhân dân dành cho quân đội, người ta nhìn nhận nỗ
lực lớn lao này và cảm phục sự lãnh đạo của Chính phủ (VM) đã đạt được. Nếu
không có viện trợ khổng lồ của Trung cộng thì mọi nỗ lực chỉ là vô ích. (chú thích của tác giả)
(5) Mặc dù ĐBP rất gần biên giới Tầu (80km) nhưng
đường tiếp tế chính thực ra rất xa, bắt đầu
từ Lạng Sơn, Cao Bằng, nó băng
ngang BV tới ĐBP dài 350 km, gấp mấy lần khoảng cách từ ĐBP tới biên giới Tầu theo đường chim bay (chú thích của người
dịch)
(6) Người ta nhận xét sai ở điểm vì ĐBP gần biên giới
Tầu (80 km) có lợi cho VM. Sự thực không phải vì nước Tầu gần ĐBP mà viện trợ
lớn đã mang lại (chú thích của tác giả)
(7) Trung Cộng
mới cung cấp cho VM nhiều súng cao xạ tối tân có khả năng bắn hạ nhiều phi cơ
Pháp (chú thích của người dịch)
(8) Trái với
một số nhận định quả quyết, không thể di tản khỏi ĐBP được vào thời điểm này. (chú thích của tác giả)
(dịch nguyên văn từ trang 188 tới 212 trong Agonie de l’Indochine
gồm các đoạn: Pourquoi Dien Bien Phu?;
l’Occupation de Dien Bien Phu; l’Organisation du commandement; Les
Préliminaires de la bataille)
Trọng Đạt
(còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét