Sơ
lược diễn tiến trận Điện Biên Phủ
Người Pháp cho đóng quân tại Điện Biên Phủ
(ĐBP) để ngăn chận Việt Minh (VM) đánh Lào. ĐBP nằm trên biên giới Lào-Việt,vì
phải bảo vệ Thượng Lào nên Pháp cho đóng đồn tại đây. Ngoài ra mở trận ĐBP tại
đây có mục đích lôi kéo địch vào trận đánh để họ khỏi tấn cống châu thổ Bắc
Việt (1). ĐBP là một khu lòng chảo có nhiều đồi núi bao quanh, một cánh đồng
chiều dài 16km, rộng 9 km
Trận ĐBP có tầm vóc lớn, toàn bô chiến trường
Đông Dương, Việt Minh đưa gần hết các sư đoàn chính qui của họ vào trận đánh
tổng cộng 63,000 người (2), Pháp có 12 tiểu đoàn sau cho nhẩy dù thêm 5 tiểu
đoàn, trận đánh bắt đầu ngày 13-3-1954 cho tới 7-5-1954, gồm (3)
Giai đoạn 1. Nửa đêm 13-3-1954, VM tấn công tiêu diệt những căn cứ
kháng cự đơn độc tại bắc, đông bắc, pháo
kích dữ dội, tấn công chiếm căn cứ Beatrice phía đông bắc sau vài giờ, hỏa lực
địch rất mạnh, đêm sau 14, 15 Gabrielle phía đông bắc bị tấn công, thất thủ.
Hai bên bị thiệt hại nặng phải bổ sung đạn dược, tiếp liệu cũng như quân số.
Giai đoạn 2 từ 16-3 tới 30-3. Hai bên tăng cường, bổ sung lực lượng,
Pháp cho nhẩy dù xuống ĐBP thêm 3 tiểu đoàn, rút bỏ căn cứ Anne Mairie phía
đông bắc. Di tản thương binh khó khăn, phi cơ cuối cùng chở 18 thương binh ngày
26-3, VM xiết chặt bao vây.
Giai đoạn 3 Từ 30-3 tới 5-4. Địch tấn công biển người chiếm bớt mặt đông
khu trung ương , chiếm một vị trí phòng thủ quan trọng phía tây bắc, tới 31-3
VM tấn công dữ dội, những trận ác liệt diễn ra từ 31-3 tới 4-4, địch đông gấp
năm, gấp bẩy lần Pháp
Giai đoạn 4 từ 5-4 tới 1-5. Mặt tây bắc bị đè nặng, đồn lũy chết lịm dần
vì phòng không địch. Phía VM tổn thất nặng, họ ngưng tấn công để bổ sung đạn
dược, họ đào nhiều giao thông hào. Tiếp tế khó khăn, Pháp co cụm dần, máy bay
lên xuống bị cao xạ VM bắn rơi thiệt hại nhiều, tiểu đoàn thứ 4 được nhẩy xuống
ngày 11, 12- 4, cứu thương y tế ngày càng trầm trọng, cuối tháng 4 hầm lầy lội
vì mưa.
Giai đoạn 5 VM tổng tấn công trên khắp mặt trận và đồn thất thủ, từ 1-5 tới 7-5 VM bổ sung lực lượng và đạn
dược. Ngày 1- 5 Bộ chỉ huy VM cho mở cuộc tấn công, Pháp cho nhẩy dù thêm một
tiểu đoàn thứ năm nhưng chỉ có một nửa được nhẩy xuống. Từ ngày 3 tới 6 lắng
dịu, ngày 6, 7 tấn công dữ dội, pháo binh ở căn cứ Isabelle (phía nam) bị phá
hủy, khu trung ương sụp đổ lúc 17-19 giờ
Pháp thiệt hại 16,000 người, 1,500 chết, 4000 bị thương, VM 20,000 bị
loại, bị giết từ 10,000 cho tới 12,000 người
Như đã nói trên, Pháp bị thất bại ngay trận đầu giữa tháng 3, Việt Minh
thắng thế, hỏa lực và nhân lực của họ rất mạnh áp đảo đối phương. Giai đoạn 2
và 3 cho thấy Pháp lâm nguy, không ngờ địch mạnh như thế. Chính phủ Mỹ đã nghĩ tới kế hoạch xử dụng
không quân oanh tạc ồ ạt cứu nguy sự sụp đổ ĐBP từ đầu tháng 4.
Dưới đây là quan điểm của Pháp và Mỹ về vấn đề này
Người Pháp nói về chiến dịch cứu nguy Điện
Biên Phủ
Tại đây tôi sơ lược sự diễn tả và những ý kiến nhận
định của một số tác giả người Pháp về kế hoạch cứu nguy Điện Biện Phủ bằng trận
oanh tạc ồ ạt lấy mật danh là chim Kên Kên tức Vulture. Ba tác giả được dề cập
dưới đây là người Pháp, trong đó một ông là Tướng lãnh, hai người là các nhà
nghiên cứu, sử gia
Henri Navarre
Tư lệnh quân đội
Viễn chinh Pháp tại Đông Dương từ đầu tháng 5-1953 cho tới đầu tháng 6-1954.
Ông được triệu hồi về Pháp sau khi Điện Biên Phủ thất thủ 7-5-1954. Năm 1956
ông viết Agonie de l’Indochine, Đông Dương Hấp Hối, dầy 335 trang mục đích để
bào chữa cho ông và quân đội Pháp về nguyên do bại trận tại Điện Biên Phủ và sự
sụp đổ cuộc chiến Đông Dương 1946-1954.
Dưới đây là đoạn sơ lược trong phần nói về kế hoạch cứu nguy từ trang
242-245.
Muốn giải vây để cứu nguy ĐBP người ta có thể dự liệu dùng oanh tạc ồ ạt
hay bộ binh, cứu ĐBP bằng không quân cần một lực lượng lớn lao, Pháp không đủ
khả năng mả chỉ có Mỹ làm được
Một lực lượng không quân lớn có thể thực hiện được hiệu quả bằng tấn
công các trục giao thông, hoặc pháo binh hay phòng không địch.
Vì thế Hoa Kỳ đã dự trù một cuộc tấn công ồ ạt của không quân trong
khoảng thời gian ngắn. Báo chí Mỹ và Pháp đã nhiều lần ám chỉ đến nó tại Mỹ,
Pháp.
Những ngày đầu tháng tư, Navarre biết lời đề nghị của Hoa Thịnh Đốn mà
tướng Ely đi công tác tại đó, do một sĩ quan gửi trực tiếp cho ông ngay rằng Ngũ giác đài nhận định vì
Trung cộng can thiệp trực tiếp nên Mỹ cũng có quyền làm thế. Ngoại trưởng Mỹ
Foster Dulles tán thành sự can thiệp ngày 5-4 đã tuyên bố trong một cuộc điều
trần nổi tiếng trước Ủy ban ngoại vụ Hạ viện Mỹ. Ông nói viện trợ Trung cộng có
tính trực tiếp nhất là sự hiện diện của một số pháo thủ phòng không người Tầu
trong những dàn pháo quanh ĐBP. Sự thật
có cả một Tướng và khoảng 20 cố vấn kỹ thuật quân sự Tầu, các nhân viên điện
thoại, phòng không, tài xế vận tải là
người Hoa, tất cả cho thấy họ đã can thiệp rõ ràng.
Đại tướng Ely đã yêu cầu Navarre cho ông biết quan điểm gấp, ông này nêu ý
kiến cần một cuộc tấn công ồ ạt của không quân Mỹ, cần thực hiện gấp để cứu
ĐBP. Tổng cao ủy (tức Toàn quyền) và Navarre không hề nghĩ sự can thiệp của Mỹ trên đất
VN có thể đưa tới nguy cơ mở rộng cuộc chiến. Tại Triều tiên cũng như khi Bá
linh bị phong tỏa, phía CS đã không gây thế chiến mà lúc này họ không muốn.
Chính phủ Pháp cho biết họ chia xẻ ý kiến này và xin can thiệp. Nhưng
hình như họ chỉ nói cho có lệ chứ không tha thiết.
Kế hoạch yễm trợ không quân được thảo luận tại Hà Nội, Sài Gòn với các
Tướng lãnh không quân Mỹ thuộc hạm đội Thái bình Dương, trong khi đó, họ được
lệnh tiếp xúc với Navarre . Mỹ dự trù huy động khoảng 300 chiến đấu oanh tạc cơ
từ hàng không mẫu hạm và 60 oanh tạc cơ hạng nặng từ Phi Luật Tân. Vì lý do hệ
thống radar hạ tầng cơ sở của Pháp thiếu thốn, không thể nói đến yểm trợ sát
ngay trên đồn lũy (ĐBP), trên các khẩu pháo hay cao xạ địch nhưng tấn công các
đường giao thông nhất là căn cứ Tuần Giao là có thể được, các Tướng lãnh Mỹ cho
là có thể hữu hiệu.
Lệnh thi hành không hề được ban ra.
Vấn đề được giải quyết công khai theo như thông lệ của Tây phương. Các
vị dân cử tại Hoa Thịnh Đốn và Paris đã tác động lên các chính phủ. Báo chí phổ biến rộng
rãi, Sau thời gian dài do dự chính phủ Mỹ không muốn đi vào con đường mà các cố
vấn quân sự cổ võ.
Bây giờ họ tính sự rút lui, họ nói sự can thiệp của họ cần phải có những
nước khác chấp nhận cùng tham gia. Thật ra họ tìm một cớ ở phía người Anh
và đòi hỏi sự đồng ý của họ dù là tham
gia tượng trưng – nhưng Anh khước từ, và họ lấy cớ đó để từ chối mà họ đã biết
chắc từ trước.
Người Pháp chiến đấu đơn độc. Nước Mỹ chỉ muốn nhận những nguy hiểm giới
hạn nhỏ và chỉ giúp tài chính. Phó tổng thống Nixon trong một bài diễn văn ngày
20-4 -1954 tại Cincinnati nói “mục đích được định ra là Chính phủ chủ trương
một chính sách không gửi quân Mỹ sang chiến đấu ở Đông dương hay nơi nào khác”.
Về nước Anh, họ không muốn tí nguy hiểm nào cả, họ muốn Pháp chiến đấu
không công bảo vệ quyền lợi cho họ tại Đông Nam Á.
Bernard Fall
Người Pháp gốc Do Thái, sinh năm 1926, năm 1948 học Đại học Sorbonne,
năm 1950 học tại Munich (Áo). Du học tại Mỹ 1951, năm 1955 đậu Tiến sĩ, năm
1956 làm Giáo sư đại học tại Hoa Thịnh Đốn.
Bernard B. Fall tác giả cuốn sách nổi tiếng viết về trận đánh lịch sử
này Địa Ngục Tại Mảnh Đất Hẹp, Bao Vây Điện Biên Phủ, Hell in a Very Small Place , The Siege of Dien Bien Phu, xuất bản năm
1966
Dưới đây là phần sơ lược chiến dịch Kên Kên (Vulture) cứu nguy ĐBP bằng
không quân trong Chương IX Vulture, Condor and Albatross, ngoài ra tại Chương
XII, Kết Luận ông cũng nói quan điểm về kế hoạch này (5). Trước hết xin nói về
1- Chương IX: Kên Kên
ĐBP hấp hối gây bất đồng ý kiến chia rẽ giữa Pháp-Mỹ-Anh và âm vang của
nó còn ám ảnh họ cho tới cả một thập niên sau đó. Đối với phia CS trận đánh là một thắng lợi quân sự ảnh
hưởng chính trị, đối với Tây phương người Pháp cho Mỹ do dự quá đáng, Anh thì
hoàn toàn vô tình. Bóng ma ĐBP vẫn ám ảnh các chính trị gia, nhà quân sự Mỹ khi
họ dấn thân vào cuộc chiến bảo vệ miền nam VN năm 1966. Ám ảnh vẫn còn đè nặng
cho tới những ngày đó từ việc họ đã không cứu được Pháp thất trận tại ĐBP. Trận
oanh tạc Bắc Việt ngày 8-2-1965 cho thấy rõ họ đã rút kinh nghiệm từ quá khứ.
Khi chiến tranh Triều tiên (Cao Ly) chấm dứt 27-7-1953, Trung Cộng (TC) viện
trợ nhiều vũ khí cho Việt Minh, theo Tổng thống Eisenhower TC tăng cường viện
trợ cho VM và chia sẻ kinh nghiệm có được ở cuộc chiến Cao Ly. Arthur Dean,
nhân vật chính đàm phán tại Triều Tiên xác nhận trước Ủy ban ngoại giao Thượng
viện tháng 1-1957 “Trước hết dình chiến
tại Triều Tiên để Trung Cộng rút quân đánh Pháp”. Thượng nghị sĩ Hubert Humphrey
hỏi Dean có phải TC ngưng chiên tranh Triều Tiên để sang Đông Dương, Dean nói
đúng và tháng 6-1953, Tổng thống cử Tướng O’Daniel, Tư lệnh quân đội Mỹ tại
Thái Bình Dương sang Đông Dương nghiên
cứu tình hình, ông về nói Pháp có thể thắng với viện trợ gia tăng của Mỹ.
Khi ấy Tổng thống Mỹ không muốn một cuộc chiến khác tiếp theo tại Đông
Dương để rồi ký hòa ước, không chiến thắng. Mùa thu 1953 Mỹ viện trợ thêm cho
Pháp 385 triệu đô la để yểm trợ cho kế hoạch Navarre để đi tới thương thuyết
tại Đông Dương. Pháp chỉ thương thuyết với VM và TC nếu được sự đồng ý trước
của Mỹ. Eisenhower nói trong hồi ký: tháng 1-1954 nếu không quân Mỹ yểm trợ cho
Pháp trong rừng thì khó hiệu quả, sẽ tạo ra nhiều nguy hại, làm hỏng, đưa tới
can thiệp và thất bại. Trong mọi trường hợp, sự yểm trợ của Mỹ trong giai đoạn
này chỉ là giả thuyết.
Tuy nhiên có một vấn đề mà người Pháp rât lo ngại là nếu TC đưa không lực vào trận chiến. Từ hai năm
trước, tình bào Pháp đã báo cáo TC đã xây vài phi trường gần ngay biên giới Bắc
Việt, tại đó đã thấy có máy bay Mig-15 tối tân
đối với thời đó, vài cái mang cờ VM, người Pháp có thể có cuộc chiến
giống như Triều tiên tại BV. Bộ trưởng quốc phòng Pháp René Pleven sau 3 tuần
đi quan sát Đông Dương cử Đại tướng Paul Ély sang Mỹ, Ely tới Hoa Thịnh Đốn ngày 20-3-1954 khi đã
mất căn cứ Beatrice và Gabrielle, Anne Marie 1 và 2 bị bỏ ba ngày sau, phi
trường ĐBP bị pháo nặng, tải thương rất khó khăn. Tướng Ély hội kiến với Foster
Dulles, Bộ trưởng ngoại giao, Allen Dulles giám đốc CIA (em Bộ trưởng) , phó
Tổng thống Nixon, Tướng tham mưu trưởng liên quân Ridway, Ély cũng được gặp
Tổng thống Eisenhower để tham gia phiên họp của Bộ tham mưu liên quân . Ngày
thứ ba 23-3-1954 khi Foster Dulles gặp lại Tướng Ély, ông cẩn thận không nói gì
về sự giúp đỡ của Mỹ. Dulles nói Mỹ sẽ không
can thiệp, tham chiến vì sẽ thất
bại và mang tiếng trên thế giới. Ély nói Mỹ có thể can thiệp trong trường hợp
sẩy ra như thí dụ Trung cộng can thiệp bằng không quân.
Khi Tướng Paul Ély ở Mỹ, pháo binh và các dàn phòng của VM không hoạt
động mạnh, cao xạ của họ cũng gây thảm họa cho ĐBP như máy bay Mig vậy (mặc dù
không đưa Mig qua). Radford , TM trưởng liên quân Mỹ nói với Ély : Mỹ có thể
giúp Pháp nếu chính phủ Pháp chính thức đề nghị vì Trung Cộng đã giúp VM nhiều
cao xạ, đại bác và Trung cộng đã leo thang.
Ély về tới Paris 27-3, ngày 29-3 Foster Dulles tuyên bố TC đã can thiệp vào Đông Dương sẽ đưa tới tình
hình nguy hiểm, xâm chiếm Đông nam Á, ông nhắc lời Tổng thống Eisenhower: Đông
namÁ vô cùng quan trọng của Thế giới tự
do, bài tuyên bố được Paris tán thưởng, phấn khởi. Thủ tướng Pháp Laniel mở “Ủy
ban chiến tranh đặc biệt” có giới hạn để giải quyết chính sách Đông dương gồm
các Tham mưu trưởng và các viên chức
quan trọng của nội các họp với Ély ngày 29-3 bàn về sự giúp đỡ của Mỹ. Tuy
nhiên vấn đề không đơn giản, nếu Mỹ tấn công mà phá được vòng vây VM khiến Trung Cộng can thiệp như tại Cao Ly, mở
đầu bằng đoàn phi cơ M-15 đưa tới phá hủy mọi hy vọng đàm phán về cuộc chiến
Đông Dương tại Genève 26-4-1954. Thủ tướng Laniel và Ủy ban quyết định gửi Đại
tá Brohon, phụ tá của Tướng Ély tới Sài Gòn cho biết sẽ có mọi nỗ lực cứu nguy
ĐBP.
Brohon gặp Navarre ở Hà Nội ngày 2-4-1954, trận đánh đầu tại Năm Ngọn
đồi khu Trung ương khiến tình hình tồi
tệ , chỉ có oanh tạc phá hủy các dàn phòng không địch mới hy vọng cứu vãn tình
thế.
Ély gửi điện tín cho Navarre nói chiến dịch can thiệp lấy mật danh “Kên
Kên”, (Vulture) Bộ trưởng Foster Dulles và Đô đốc Radford chuẩn bị làm việc với
Quốc hội để thực hiện “Kên kên”.
Ngày thứ bẩy 3-4-1954, tám vị dân cử Trưởng khối tại Quốc hội được mời
tới Bộ ngoại giao để hội thảo bí mật với
Dulles, Radford, một số cố vấn. Foster Dulles nói Tổng thống Eisenhower yêu cầu
mời họp và Tổng thống muốn được Quốc hội thông qua một quyết định dùng không
quân, hải quân tại Đông Dương, nghĩa là cho ông được rộng quyền (hơn là TT
Johnson sau này với nghị quyết tháng 8-1964). Đô đốc Radford nói về tình trạng
nguy khốn của ĐBP, còn Dulles cảnh giác nếu Đông Dương mất sẽ mất Đông nam Á và
rồi Mỹ sẽ phải rút về Hawaii nếu Mỹ
không giúp Pháp và chính phủ địa phương (QGVN)và sẽ khiến Pháp từ bỏ cuộc chiến.
Đô đốc Radford nói về “Kên kên” : Gồm hai Hàng không mẫu hạm Essex và Boxer, có tăng cường bởi không lực tại phi trường
Clark Phi luật tân. Theo tin tức Pháp tổng cộng có 60 oanh tạc cơ hạng nặng B-29,
mỗi cái mang 9 tấn bom, khoảng 450 máy bay chiến đấu hộ tống bảo vệ. Theo nguồn
tin Mỹ tổng cộng 98 pháo đài bay B-29, mỗi cái mang 14 tấn bom gồm hai cánh ở
Okinawa và một tại Clark field, đảm nhận nhiệm vụ bảo vệ có khoảng 450 máy bay
chiến đấu để phòng ngừa Mig. Tổng TMT nói nếu đợt tấn công đầu không hiệu quả
sẽ có đợt sau. Ông giới hạn câu trả lời về việc có thể gửi quân bộ binh tham
chiến và nói toàn kế hoạch không được tất cả các Tham mưu trưởng đồng ý hoàn
toàn.
Cuộc tranh luận sôi nổi, ông
Trưởng khối thiểu số Thượng viện Lyndon B. Johnson nói Mỹ đã và chiến đấu 90%
trong cuộc chiến Triều Tiên và hỏi Dulles ông đã tham khảo các nước khác xem có
tham chiến tại VN không. Cả tám vị dân cử cho Hành pháp biết Quốc hội ủng hộ kế
hoạch “Kên Kên” dưới ba điều kiện.
1-Mỹ can thiệp phải có các nước tự do ở Đông nam Á, Phi LuậtTân và Liên
Hiệp Anh.
2- Pháp phải nhanh trả độc lập cho các nước
Đông Dương để sự giúp đỡ của Mỹ không phải là giúp chế độ thực dân.
3-Pháp phải tiếp tục cuộc chiến
Những lý do thực tiễn đó đã hủy hoại mọi cơ hội cứu ĐBP vì không còn đủ
thời giờ đi tìm đồng minh thành lập “Mặt trận thống nhất” để được chấp thuận
“Kên Kên”
Đại tá Brohon trở về Paris trong tuần, ngày 4-4-1954 ông nói với Tướng
Paul Ély về việc Navarre (tại Đông dương) đề cập tới “Kên Kên”, điện tín tối
mật của Navarre tới tay Ély, ông này đi gặp Bộ trưởng quốc phòng Pleven và được
dẫn tới Thủ tướng Laniel. Thủ tướng cho họp “Ủy ban chiến tranh”, mọi người
đồng ý để Pháp chính thức yêu cầu Mỹ can thiệp bằng không lực. Nửa đêm Laniel
cho mời Đại sứ Mỹ Douglas Dillon ngay, lúc một giờ đêm 5-4, Thủ tướng trình bầy
sự nguy kịch tại ĐBP với Đại sứ Mỹ, ông cho biết chỉ có không lực Mỹ nới hủy
diệt được pháo binh VM đặt trong núi đồi quanh ĐBP, chỉ có kế hoạch này mới cứu
được ĐBP.
Ông Đại sứ điện về Washington, Ély điện cho Tướng Vally, người kế nhiệm
ông hiện ở Ngũ Giác Đài, Vally điện cho ông nói vấn đề đang được giới quân sự
Mỹ tiến hành. Đại sứ Pháp ở Mỹ cho biết Trung Cộng can thiệp mạnh ở VN, chuẩn
bị cho Mỹ tuyên bố can thiệptại ĐBP.
Cùng ngày Tổng thống Eisenhower viết thư dài cho Churchill nói ý niệm về
một mặt trận thống nhất: Vấn đề quan trọng là liên minh phải mạnh, chúng tôi
không đòi hỏi các ông gửi quân, bài học quá khứ ta đã không hợp tác ngăn chận
đúng lúc Nhật, Đức, Ý trước đây, ta phải học bài học này.
Người Anh kinh ngạc khi nhận thư Eisenhower, họ chống lại bất cứ hành
động nào có thể phương hại Hội nghị Genève sắp nhóm họp. Ba ngày sau Churchill
trả lời thư, ông nói sẽ bàn với Dulles tại London ngày 12-4.
Ngày 7-4 Ély đánh điện hỏi Navarre có chịu nhận 15 oanh tạc cơ hạng nặng B-29
hiện ở phi trường Clark Phi luật Tân với phi hành đoàn Pháp từ Đông Dương sang
nhận. Navarre từ chối với 3 lý do:
Trước hết Pháp thiếu trầm trọng phi công tại chiến trường Đông Dương,
máy bay xử dụng nhiều hơn số phi công điều khiển, ít nhất mất một thàng để thay
số phi công gửi sang Phi Luật Tân.
Thứ hai Mỹ cho biết huấn luyện các phi công Pháp được gửi qua mất 4
tháng để lái thành thạo loại máy bay này thì đã quá trễ, ĐBP đã sụp đổ.
Thứ ba sự xuất hiện một lực lượng nhỏ B-29 (15 chiếc) mang cờ Pháp không
có chiến đấu cơ hộ tống sẽ bị Trung Cộng đưa Mig sang bắn rớt.
Người Pháp coi kế hoạch Kên Kên coi như bỏ, họ lên kế hoạch cứu quân đội
Pháp còn trong trại
Mười ngày trước Navarre có thể vui mừng nhận
từ 15 tới 20 chiếc B-29 để oanh tạc các trục giao thông tiếp tế của VM (nếu ông
muốn), nay Anh chần chừ, dự án này không thành Ély điện cho Navarre nói “Radford đã loại bỏ hoàn toàn giải pháp
này”
Khi Dulles đang bàn với Pháp về kế hoạch Kên Kên tại Paris, Tướng
Partridge, Tư lệnh không quân Mỹ tại Viễn đông tới SàiGòn , ông tiếp xúc với Cao ủy Maurice Dejean và Tướng Navarre
khiến họ vẫn hy vọng vào sự can thiệp của Mỹ. Ngày 20-4 tại Hoa Thịnh Đốn, Bộ trưởng Dulles tưởng nhầm là đã được Anh
đồng ý, mở phiên họp với Đại sứ các nước
Úc, Anh, Mên, Pháp, Lào, Phi Luật Tân, Thái Lan, Việt Nam mục đích thành lập
“Liên minh”. Thủ tướng Churchill và bộ trưởng ngoại giao Eden lệnh cho Đại sứ Anh tại Hoa Thịnh Đốn
không được tham dự phiên họp.
Chính phủ Pháp bị Bộ Tư lệnh Đông dương kêu cứu, Mỹ thì hứa rồi lại
thôi.
Dulles ở Paris ngày 23-4, Hội nghị Genève bắt đầu ngày 26-4, Pháp chỉ hy vọng vào
ngưng bắn, họ năn nỉ Dulles thực hiện “Kên Kên”. Tổng thống Eisenhower cho Dulles
biết sẽ không có oanh tạc quanh ĐBP nếu không thỏa mãn yêu cầu các vị Chủ tịch
ủy ban Quốc hội ngày 3-4, không quân Mỹ chỉ hành động trong khuôn khổ lực lượng
đồng minh sau khi họ bàn luận và biểu quyết .
“Có lẽ nếu Lyndon B. Johnson không đòi hỏi như thế ngày 3-4-1954, ông (tức
Johnson) đã lần đầu tiên thực hiện quyết định tàn khốc nhất tại VN” (6)
Chiều ngày 23-4 đã xóa sổ vấn đề ĐBP mà người Pháp không biết. ngày 24-4 Eden tới Paris họp về NATO, đô đốc Radford thuyết phục ông chỉ cần ủng hộ tượng trưng.
Eden vẫn cứng rắn và nói tại cuộc chiến Triều tiên, mới đầu Mỹ oanh tạc sau Mỹ
cũng đổ bộ quân vào, rồi Mỹ lại thúc dục các nước đồng minh gửi quân vào. Ngày
chủ nhật 25-4, Eden về Luân Đôn dự phiên họp nội các giải quyết một lần cho xong.
Tất cả nỗ lực để cứu ĐBP bằng không quân oanh tạc sụp đổ cuối tuần này,
ngày 24-4 Dulles tại tòa Đại sứ Mỹ tại Paris gửi công hàm cho Bidault, Bộ
trưởng ngoại giao Pháp nói (năm 1966 mới được tiết lộ) “Một quyết định chiến
tranh phải có phép của Quốc hội mới thực hiện được”, cuối thư nói ĐBP không
phải là quá quan trọng, không cần cứu bằng không quân, ta đã gây thiệt hại nặng
cho địch. Bidault gửi thư trả lời cùng ngày nói lực lượng địch tập trung đông
đảo tại ĐBP sẽ khiến cuộc oanh tạc không những cứu được ĐBP mà còn thay đổi toàn
bộ cán cân cuộc chiến.
Còn một nỗ lực cuối cùng, Pháp cử người gặp thủ tướng Chrchill để thuyết
phục ông tại Luân Đôn ngày 27-4,
Chrchill tiếp Đại sứ Pháp René Massigli, ông vẫn cứng rắn từ chối và nói
“Tôi đã chịu mất Singapore , Hong Kong , Tobruk (Thế chiến thứ hai), người Pháp sẽ phải chịu
thua tại ĐBP”
Kên Kên chết lịm dần, Thiếu tướng Caldera, Tư lệnh không đoàn B-29 tại
phi trường Clark Phi luật Tân đi thăm Đông dương một lần nữa ngày 26-4, vẫn
chuẩn bị oanh tạc ĐBP một khi có lệnh, tất cả gồm 80 oanh tạc cơ tấn công liên
tiếp quanh ĐBP và kho hậu cần tại Tuần
Giao với phi hành đoàn hỗn hợp Pháp-Mỹ. Một sĩ quan cao cấp không quân Pháp đã
từ Sài Gòn qua Clark Field chuẩn bị chiến dịch, có lẽ tình thế chưa tuyệt vọng.
Màn
bi kịch cuối cùng là cuộc họp của Tổng
Thống Eisenhower, Đô đốc Radford, các thủ trưởng và vài viên chức cao cấp khác
ngày 29-4 tại Hoa Thịnh Đốn, họ duyệt lại toàn bộ tình hình một lần nữa. Trong
số các nhà quân sự chỉ có Đô đốc Radford vẫn ủng hộ hoàn toàn dù là can thiệp
đơn phương của Mỹ (không cần Quốc hội) để cứu ĐBP khỏi sụp đổ. Tư lệnh Hải
quân, Đô đốc Carney và Tướng Twining, TMT không quân không nhiệt tâm với kế
hoạch này. Tướng Ridway, TMT quân đội Mỹ chống đối hoàn toàn kế hoạch, qua kinh
nghiệm khi làm Tư lệnh Mỹ tại Cao Ly ông thấy oanh tạc xong không có kết quả,
sẽ cho lục quân tham chiến, một cuộc chiến đắt giá, ông nhận xét cũng như Eden,
cuối cùng TT Eisenhower quyết định không giúp Pháp.
Dù Anh có đồng ý tham gia, ủng hộ hay không, Eisenhower vẫn có toàn
quyền quyết định, mười hai năm sau ông cho biết không muốn cho Hoa Kỳ sa vào
cuộc chiến tốn kém, nếu chiến đấu một mình sẽ làm cho Mỹ cạn kiệt tài nguyên,
đánh con rắn Trung Cộng phải đánh dập đầu chứ không đánh cái đuôi nó.
Vậy
quyết định không cứu pháp ở ĐBP chính là của Mỹ, của cấp thượng đỉnh: Các vị
Trưởng khối dân cử, Bộ TTM và Tổng thống, vì thế khi quyết định đã xong không
thể đổ lỗi cho Anh (7)
Ngày 12-6-1954, khi ĐBP đã thất thủ, Bộ trưởng Dulles cho biết trên
truyền hình việc cứu nguy ĐBP qua hành động phối hợp đã bị các đồng minh phản
đối
Việc Hoa Kỳ không thực hiện được kế hoạch Kên Kên đã ám ảnh theo đuổi
chính phủ Eisenhower một cách kỳ lạ ngay cả sau khi ngoại trưởng Dulles qua đời
năm 1959 (8) Người Mỹ hối tiếc đã không thực hiện Kên Kên để cho Việt Minh,
phía CS thắng lớn thay đổi cả một khúc quành lịch sử
Rút kinh nghiệm biến cố do chính mình gây ra tháng tư 1954, Lyndon B.
Johnson năm 1964, khi làm Tổng thống đã vận động được Quốc hội ủng hộ Hành pháp ra Nghị quyết tháng 8-1964 dành cho
Tổng thống quyền hạn rộng rãi can thiệp vào miền nam VN.
Xin đề cập
2-
Chương XII Kết Luận
Trong phần kết luận tác phẩm, Bernard Fall nói
những yếu tố lớn nhỏ về thất thủ ĐBP như phản công yếu đuối, pháo đài
thiếu kiên cố, khinh thường phòng không VM, lựa chọn trận đánh sai lầm.. nhưng
một dữ kiện đứng trên tất cả là một trận yểm trợ của không quân, oanh tạc ồ ạt
dù không cứu được tình hình Đông dương nhưng cũng cứu được ĐBP. Các nhà quan
sát viên Pháp về trận ĐBP đều đồng ý như vậy.
Nếu Hoa Kỳ xử dụng không lực tại ĐBP sẽ có kết quả tốt vì năm 1965-1966
không quân Mỹ đã cứu quân Mỹ và VNCH khi bị địch tấn công mạnh và đông hơn,
oanh tạc ĐBP sẽ giúp cho tiếp liệu được đưa tới cũng như giải vây, có thể phá
hậu cần tại Tuần Giao hay pháo binh VM tại tây Claudine, bộ binh VM tại
Dominique tại Dominique, Eliane. Sau này Bidault nói Dulles tính kỹ quá chỉ sợ
nguy hiểm và nay Mỹ một mình phải chịu nhiều rủi ro nguy hiểm hơn do từ ĐBP mà
ra.
Trong trường hợp này, lần đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ bỏ rơi đồng minh
mà họ đã khuyến khích nước ấy chiến đấu đi xa hơn mục tiêu chính trị của nước
này và nhất là vượt quá khả năng quân sự của họ vì thế ĐBP không phải chỉ là
thất trận của Pháp mà cả của Mỹ. Chính ĐBP đã khiến các nhà quân sự chính trị
Pháp nhận định khi Tướng De Gaulle lưu ý: khi có khủng hoảng không trực tiếp
liên quan đến Mỹ, chớ nên tin tưởng hoàn toàn vào Mỹ.
ĐBP đóng vai trò chiến lược quan trọng đối với Mỹ Quân đội Cộng sản Việt
nam thành một lực lượng CS tại Đông nam Á, ĐBP là thời điểm khi Quân đội nhân
dân VN thành hình, nó sau này đã khiến Mỹ phải lựa chọn tham chiến can thiệp
(1964,1965) mà năm 1954 Mỹ đã tránh.
Người Mỹ tránh can thiệp vào ĐBP năm 1954 để khỏi bị liên hệ nhưng rồi phải đối
mặt với cuộc chiến tại miền nam VN năm 1967. Nếu ĐBP không bị thất thủ năm 1954
có lẽ lịch sử VN sẽ ít phức tạp hơn. Miền Bắc VN bớt dựa vào sức mạnh quân sự
của họ, miền nam ít sợ bị bại trận. Họ có thể cùng nhau làm việc cho số phận
của đất nước cũng như đã không đưa thế giới tới bờ vực chiến tranh.
Và nước Pháp có thể sẽ không cảm thấy bị hai đồng minh gần gũi bỏ rơi
trong giờ phút cần giúp đỡ nhất, họ có thể trở thành một yếu tố đứng vững chắc
tại Đông dương (9)
Philippe Devillers
Ông là Giám đốc nghiên cứu về Đông nam Á tại Trung tâm nghiên cứu Bang
giao quốc tế Ba Lê, là tác giả cuốn Histoire Du Viet Nam 1940-1952.
Devillers viết chung với Jean Lacouture trong cuốn “Kết Thúc Một Cuộc
Chiến, Đông Dương Năm 1954”, La Fin d’une Guerre, Indochine 1954 mà bản dịch
tiếng Anh là End of a War, Indochina 1954, in năm 1969.
Bài dưới đây là sơ lược phần thứ 5 Kế hoạch
Kên Kên và phần 6 Trên Bờ Cuộc chiến trong cuốn sách.(10)
Trước hết là
1- Kên Kên
Việt Minh tấn công Điện Biên Phủ bằng hỏa lực và lực lượng rất mạnh
khiên Sài gòn Hà Nội kinh ngạc lo sợ. Bộ Tổng tham mưu của Navarre nhận thấy chỉ có yểm trợ của không quân có
thể cứu vãn được tình thế.
Vấn đề nay không phải là thả dù quân lính mà tăng tiếp liệu, chiến cụ,
đạn dược, thực phẩm.. ĐBP là cái bẫy, tăng viện quân coi như mất thêm nhiều
người. Cuối tháng 3-1954 Tướng Navarre nói số phận ĐBP phụ thuộc vào thả dù
tiếp liệu vả tản thương, chiến thuật chiến lược yểm trợ cũng gồm tấn công hậu
cần Việt Minh, phá đường giao thông, kho hàng, đường tiếp tế, vô hiệu hóa pháo
binh địch và dùng bom Napalm. Đó là giải pháp độc nhất để đàm phán hòa bình khi
có dấu hiệu thua.
Cao ủy Đông Dương Dejean xin tòa Đại sứ Mỹ và đoàn công tác của
họ tại Sài Gòn giúp Pháp các loại máy
bay oanh tạc cơ B-26, máy bay chiến đấu, F8F fighter, vận tải C-47, mượn C-119
để ném bom Napalm, khẩn cấp xin Paris tăng viện không quân, cả Navarre cũng
vậy.
Đại tướng Tổng tham mưu trưởng (TTMT) Ély tới Washington ngày 20-3 để xin viện trợ và cho biết ĐBP
có thể giữ được nếu tiếp viện gửi tới nhanh để diệt địch. Không khí thuận lợi
cho viện trợ, Ély thấy người Mỹ lạc quan về
ĐBP. Sáng ngày 22-3 ông được Tổng thống Eisenhower tiếp, có mặt cả Đô
đốc Radford, Tổng tham mưu trưởng Mỹ. Eisenhower bảo Radford thỏa mãn yêu cầu
của Ély ngay nhất là về B-26, vài tuần sau sẽ được đưa tới từ Phi luật Tân, Đài
Loan, Nhật. Bộ trưởng ngoại giao Dulles nói không thể bỏ kế hoạch Navarre, cho
là sẽ mang thắng lợi năm sau nhưng Ély lại khiến các nhà chính khách Mỹ tiêu
tan hy vọng lạc quan của họ và khiến họ nghi ngờ. Họ thấy mối nguy là Pháp muốn
thương thuyết dù trong tình trạng tồi tệ nhất trừ khi được trợ giúp ồ ạt. Các
nhà lãnh đạo Mỹ nhận thấy Hoa Kỳ sẽ phải đưa đất nước dấn thân sâu xa hơn trong
cuộc chiến.
Chính sách Mỹ thay dổi nhanh. Trong phiên họp ngày 6-3, Hội đồng an ninh
Quốc gia đã nhận định Hoa Kỳ cương quyết ngăn chận CS tại Đông nam Á, nay hơn
600 triệu người Á châu đã vào quĩ đạo của Sô Viết, phải ngăn chận thực trạng
này. ĐNÁ cung cấp cho Thế giới tự do nhiều nguồn hàng kinh tế cần thiết. ĐNA
phải được giữ với bất cứ giá nào. Đông dương làm thìa khóa cho cả khu vực.
Ngày 24-3 Radford hội đàm với Ély về huấn luyện trang bị cho Quân đội
QGVN để ngăn chận CS. Cơ bản nhiệm vụ Ély là xin viện trợ Mỹ khi Trung cộng gia
tăng viện trợ cho VM. Sắp tới phiên họp của hội nghị Genève, Trung cộng hối hả
viện trợ cho VM để có thế mạnh, Mỹ cần cảnh báo họ coi chừng nhưng Hội đồng an
ninh Quốc gia (HDANQG) đề nghị ngăn chận CS tại Đông nam Á (ĐNA) không phải chỉ
có một mình Mỹ.
Ély có thể mang tin vui về Pháp, yêu cầu xin máy bay đã được thỏa mãn,
Mỹ sẽ giúp thành lập QĐQGVN, sẽ cảnh cáo Trung Cộng. Ély định về Pháp nhưng
hoãn lại 24 giờ để hội thảo với Radford
mở ra một viễn tượng mới. Radford theo chỉ thị Tổng thống để giúp Pháp
nhưng ông muốn đi xa hơn một chút, không gây hấn với TC mà chỉ giúp căn cứ ĐBP, nó sẽ không đưa Mỹ vào
cuộc chiến.
Lời đề nghị của Đô đốc Radford (TMT liên quân Mỹ) gồm cho 60 máy bay
oanh tạc cơ hạng nặng B-29 tấn công ban đêm tại ĐBP xuất phát từ phi trường
Clark gần Ma Ní, thả 450 tấn bom mỗi cuộc tấn công, sẽ có 150 chiến đấu cơ hộ
tống từ Hạm đội Số Bẩy. Nó có thể phá vỡ vòng vây VM, hủy diệt các dàn súng lớn
của họ. Đô đốc cho biết sự yểm trợ tối đa này cần được hai chính phủ thảo luận
và cần thực hiện sớm, kế hoạch phải được chính phủ Pháp chấp thuận và chính thức yêu cầu Mỹ.
Ély về Paris ngày 27-3 báo cho Bộ trưởng quốc phòng Pleven kết quả chuyến đi. Ủy ban Chiến tranh được
triệu tập hôm 29-3 thảo luận về chính trị, ngoại giao chiến lược kế hoạch được
gọi là Kên Kên (Vulture). Mọi người trong phiên họp đều cho đó sẽ là hành động
đầu tiên của Mỹ can thiệp vào Đông Dương có thể khiến Trung cộng phản ứng mạnh.
Ély bèn cử Đại tá Brohon sang Đông Dương hỏi ý kiến Tư lệnh Navarre và Cao ủy Dejean, ngày 2-4 Tại Hà nội. Navarre đồng ý cho rằng kế hoạch này sẽ vô hiệu
hóa pháo binh và cao xạ địch để cứu nguy ĐBP.
Tình hình nguy khốn, VM pháo phi trường, máy bay cứu thương cuối cùng
rời ĐBP ngày 26-3, nay chỉ còn tiếp tế bằng thả dù, Brohon về Paris ngay hôm ấy. Ngày 4-4 Ủy ban chiến tranh
nhóm họp, mọi người hy vọng vào kế hoạch mạnh mẽ và nhanh chóng. Tối ấy Thủ
tướng Laniel và bộ trưởng ngoại giao Bidault họp với Đại sứ Mỹ Douglas Dillon
và xin Mỹ can thiệp oanh tạc. Đại Sứ Dillon trình lên chính phủ Mỹ, hôm sau
Dulles trả lời ông đã nói với Ély, có mặt cả Radford rằng Mỹ chỉ có thể can
thiệp tại Đông Dương nếu được sự đồng
thuận của các nước và Quốc hội chấp thuận. sau khi tham khảo ý kiến các chính
khách lớn Dulles nói Hành pháp hành động trong khuôn khổ của Quốc hội, hiện nay
chưa thể làm gì được vì không thành lập được sự hợp tác của các nước trong Liên
Hiệp Anh, và Mỹ bác bỏ yêu cầu của Pháp.
Tại Washington , Đô đốc Radford không thuyết phục được
chính phủ Mỹ như Ély đã làm được tại Paris . Bradford và Dulles đã nghĩ đến cách cứu ĐBP nhưng không biết
rằng Mỹ không muốn can thiệp vào Đông Dương. Quốc hội và dư luận người Mỹ không
muốn can thiệp vào Đông Dương nên Hành pháp phải chuẩn bị dư luận quần chúng và
Quốc hội trước khi hành động trong năm bầu cử này. Radford muốn làm nhanh vì lý do quân sự còn
Dulles chú trọng sự yểm trợ chính trị. Ngày 29-3 Dulles tuyên bố tại Câu lạc bộ
báo chí Hải ngoại (Overseas Press Club New York) tố cáo khối CS yểm trợ cho VM,
súng Tiệp Khắc, 2000 chuyên viên Tầu ngành vận tải, pháo binh, kỹ thuật … và
cảnh cáo Trung Cộng. Ông cho biết Nga Sô
và Trung Cộng áp đặt xuống Đông nám Á đe dọa
Thế giới tự do, Mỹ phải hành động phối hợp, ông cũng nói bài diễn văn đã
được các Trưởng khối hai đảng duyệt. Chính Phủ Mỹ đang nghiên cứu kế hoạch can
thiệp mạnh vào Đông dương, Dulles muốn cho dân Mỹ biết can thiệp cần nhanh là
cách duy nhất để tránh cho Đông Dương khỏi rơi vào tay CS. Các nhà lãnh đạo Mỹ
xử dụng Không quân, Hải quân nhưng không có bộ binh, hy vọng sẽ thắng cuộc
chiến, sẽ không phải gửi quân qua, sẽ khiến Trung Cộng từ bỏ mộng bành trướng.
Tuy nhiên ngày 31-3 Eisenhower họp báo tuyên bố ông nghĩ sẽ không làm gì
bất lợi cho Mỹ bằng gửi quân hay một lực lượng nào khác tại một xứ sở xa xôi,
ông làm giảm bớt ý nghĩa trong lời tuyên bố của Dulles.
Ngảy 3-4 Dulles cùng với Radford mở phiên họp với 8 vị trưởng khối Quốc
hội (ba Cộng hòa, năm Dân chủ) tại Bộ ngoại giao. Radford trình bầy tình trạng
rất nguy kịch của Đông dương và VM sẽ thăng nếu Pháp không được Mỹ trợ giúp.
Ông cho biết sự viện trợ ồ ạt của Trung Cộng cho VM đã thay đổi tình hình. Mỹ
cần sớm hành động thích đáng ngay nếu muốn tránh khỏi phải can thiệp rất đắt
giá một khi trễ nải.
Dules và Radford hỏi các vị dân cử khi nào ủng hộ Tổng thống dùng không
lực và bị họ từ chối. Quốc hội không muốn Hoa Kỳ đi vào một cuộc chiến khác như
Cao Ly. Các Trưởng khối hỏi Radford rằng các vị TMT khác cũng đồng ýhay không
thì Radford trả lời đó là ý của ông và các TMT khác không đồng ý với ông. Cả
Radford và Dulles đều nói không phải họ nói cho Tổng thống hay vận động Quốc
hội quyết định.
Cuối cùng các vị trưởng khối Quốc hội đòi hỏi
trước hết phải thành lập liên minh những nước cùng phối hợp hành động, Hoa Kỳ
không thể hành động một mình, đặc biệt phải có Anh. Kế hoạch của Radford bị
ngưng lại, vấn đề không còn là quân sự mà chuyển sang chính trị.
Khi được hỏi các lực lượng, cả bộ binh có thể tham gia hay không,
Radford nói không hoàn toàn loại bỏ (có thể có) khiến các vị trưởng khối hoảng
quá. Khi rời cuộc họp, Thượng nghị sĩ Knowland, trưởng khối đa số nói Đông Dương
sẽ bị CS chiềm hay không sẽ được quyết định trong vài tháng tới. Nói chung ông
cho biết Thế giới Tự Do có cách không phải gửi quân thí dụ ném bom Trung cộng ,
bao vây Trung cộng bằng Hải quân, Đài Loan và các nước tự do Á châu sẽ tiến
hành chiến dịch.
Kế hoạch Kên Kên đã bị bóp chết từ đầu vì Quốc hội cẩn thận, họ đưa nước
Anh làm vật tế thần. Sau phiên họp đề nghị can thiệp bị từ chối dứt khoát,
Dulles nói chuyện một giờ với Đại sứ Pháp Henri Bonnet và giải thích về hành
động phối hợp.
Hội nghị Genève sẽ thất lợi cho Pháp, muốn thay đổi tình hình cần thành
lập một Liên minh hành động phối hợp để ngăn chận CS tại ĐNÁ. Theo Dulles Anh,
Úc, Tân Tây Lan, Thái Lan, Phi luật Tân có thể tham gia với Pháp thành lập một
liên minh trước khi có Hội nghị Genève từ đó Trung cộng sẽ từ bỏ kế hoạch của
họ. Sự đồng thuận các nước cần Quốc hội đồng ý, nó sẽ cho Tổng thống quyền hành
động, Dulles đề nghị Bonnet trình chính phủ Pháp.
Trưa 4-4 Tổng thống Eisenhower họp với Dulles, Radford và quyết định chỉ
can thiệp Đông dương nếu thỏa mãn ba điều kiện của Quốc hội: Thành lập liên
minh các nước; Pháp phải trả độc lập cho các nước Đông dương; Quân đội viễn
chinh phải ở lại Đông dương. Trong thư gửi Churchill cùng ngày Eisenhower có
nói về hành động phối hợp nhưng thực ra quyết định ngày 4-4 coi như chấm dứt
Kên Kên trước hết, sau đó lập Liên minh (Phối hợp hành động) là mục tiêu mới
của ngoại giao Mỹ.
Rõ ràng là khi khi đặt vấn đề liên minh, Dulles muốn bảo đảm quyền Quốc
hội như là một hình thức trực tiếp để Mỹ can thiệp vào Đông dương nhưng mục
đích trước mắt là thành lập cái khung chính trị chiến lược như Nato. Pháp Anh
không thể có sáng kiến ngoại giao mà không dược Mỹ đồng ý thí dụ như thương
thuyết về hòa bình Đông Dương. Sự đoàn kết của Thế giới tự do có thể vượt qua
tất cả quyền lợi quốc gia.
Dulles nói Thế giới tự do phải đoàn kết để chống CS ở Đông dương, Đông
nam Á, ông tuyên bố tại ĐBP Trung cộng đã trực tiếp can thiệp, một tướng Tầu và
các chuyên viên điện thoại, vận tải, pháo thủ phòng không có mặt tại ĐBP. Ông
nói Hoa kỳ chống sự can thiệp của Trung cộng không phải chỉ giới hạn tại Đông
dương. Dulles chủ trương “hòa bình qua sức mạnh”, giọng dọa dẫm của ông cho
thấy Mỹ có cớ mà họ tìm được để dùng sức mạnh can thiệp. Ý tưởng này khiến Anh,
Pháp nghi ngờ cả báo chí và chính phủ.
Dulles đề nghị thành lập các nước Liên hiệp để bảo vệ Đông nam Á đã được
Hội đồng bộ trưởng Pháp nghiên cứu kỹ tại Paris ngày 6-4, chính phủ Pháp bác bỏ. Trong thư
trả lời, chính phủ Pháp cho biết người dân muốn đàm phán hòa bình hơn là can
thiệp toàn diện, một cuộc Liên kết toàn diện trước phiên họp Hội nghị Genève có
thể sẽ tạo không khí bất lợi. Ý kiến Pháp cho là kế hoạch Mỹ sẽ làm mất cơ hội
hòa đàm Genève.
Chính phủ Pháp nhận thấy việc thành lập Liên Hiệp hoãn lại tới khi Hội
nghị Genève không đạt được thỏa thuận. Đồng thời Pháp còn nghiên cứu thêm một
số vấn đề: Mỹ dùng lực lượng gì để bảo vệ ĐNÁ, các nước hội viên có bổn phận
gì? Ngày 8-4 (1954) Pháp trả lời Dulles , Dulles thất vọng , chán nản, ông nói
nếu Mỹ không có sự ủng hộ của các nước hội viên để đối phó với sự đe dọa tại
ĐNÁ thì Mỹ phải lựa cho mình một chính sách và kế hoạch tốt nhất để tự bảo vệ
quyền lợi, an ninh của mình.
Người Anh trả lời sau khi họp nội các ngày 7-4 một cách lạnh lùng, rõ
ràng cũng như Pháp, tuy nhiên Churchill muốn thảo luận riêng với Dulles tại
Luân đôn ngày 12-4. Thủ tướng Pháp Laniel tuyên bố trong phiên họp Quốc hội
ngày 9-4, chính phủ muốn dự hội nghị Genève hoàn toàn tự do hành động, quyết
không bỏ cơ hội để tìm hòa bình. Quan điểm khác nhau của đồng minh rõ ràng.
Pháp, Anh cùng đồng ý Dulles cần phải tới Âu châu giải nghĩa kế hoạch phối hợp
hành động mặc dù Anh Pháp đã từ chối tham gia can thiệp.
Dulles tới Luân đôn ngày 11-4, ông thảo luận với chính phủ Anh cho tới
sáng 13-4. Ông nói vì không đưa được Liên hiệp quốc vào cuộc chiến nên phải tự
tạo Liên minh riêng để có thể hành động ngay bằng tuyên bố chung, cũng cần thảo
luận chung dài lâu và phê chuẩn, có thể mất nhiều tháng trong khi tình hình
chính trị quân sự tồi tệ.
Churchill và ngoại trưởng Eden cho biết Anh không tham gia Liên hiệp, cơ
hội thành công của Genève mong manh nhưng cần kiên nhẫn, dư luận Anh và các
nước Liên hiệp Anh tại Á châu sẽ không chấp thuận. Người Anh cho rằng nếu cảnh
cáo Trung cộng là điều nguy hiểm vì họ không thể bỏ Việt Minh mà không sợ mất
mặt, cần thương thuyết đàm phán hòa
bình, vả lại Anh cho là cần giúp Pháp, cần tìm ra một Hiệp ước bảo vệ ĐNÁ khi có kết quả Hội nghị Genève.
Bản thông cáo chung Dulles và Churchill Eden thảo ra , Dulles rời Luân
đôn tin rằng đã thuyết phục được Anh về việc lập Liên kết các nước, các viên
chức cho là Churchill đã hứa yểm trợ Dulles một khi can thiệp vào Đông dương
vậy không cần bàn tới việc cảnh cáo Trung cộng
Cuộc nói chuyện Pháp-Mỹ kéo dài tới ngày 14-4, thực ra là những vấn đề
đã được Dulles và Bonnet họp bàn mấy tuần trước Dulles nhấn mạnh ở Paris, mục
đích của ông để bổ sung cho cơ hội cho một giải pháp vấn đề Đông dương, ông đã
thấy giải pháp không thể thực hiện được cho tới khi CS thấy mục đích của họ vô
ích
Dulles cho rằng Nga sẽ ép Trung cộng ký hòa ước vì sợ chiến tranh lớn có
thể sẩy ra như thế chứng tỏ trước Hội nghị Genève các nước trong Thế giới tự do
cương quyết cùng chống CS bành trướng để có giải pháp tốt. Dulles giải thích, do
ở cuộc họp với các trưởng khối Quốc hội rằng Mỹ tăng phần tham gia (đóng góp
nhiều) trong cuộc tranh đấu nếu những nước khác nhận thấy biến cố Đông dương đe
dọa họ, nếu không Quốc hội và người dân sẽ không đồng ý.
Bộ trưởng ngoại giao Pháp Bidault chấp nhận phân tích tình hình của
Dulles nhưng dè dặt về thời gian của việc tiến hành, ông nói dư luận trong nước
Pháp thúc chính phủ tìm thương thuyết cho vấn đề Đông dương. Họ muốn hòa bình
trong danh dự, hòa bình nhưng không phải là chiến thắng của CS. Người Pháp thực
sự tìm hòa bình tại Đông dương không muốn làm hỏng Hội nghị Genève , không muốn
tiếp tục cuộc chiến. Chính phủ không muốn Hội nghị thất bại, chỉ muốn ký hiệp
định hòa bình, một số dấu hiệu dù mỏng manh cho thấy hội nghị có thể có kết quả
hiển nhiên. Chính phủ Pháp không muốn bị kết án là họ bị trói tay trước và chỉ
quan tâm vấn đề quốc tế hóa cuộc chiến một khi Hội nghị tan vỡ.
Cuộc họp ngày 14-4-1954 không có kết quả nào, Dulles về Mỹ mời Anh, Pháp
và các nước Tây phương liên hệ bàn sơ khởi tại Washington ngày 20-4. Ông tưởng là mặc dù từ chối
không ký thông cáo chung nhưng Anh, Pháp sẽ họp bàn nhưng hôm18-4 Đại sứ Anh
Roger Makins cho biết chính phủ Anh không cho phép ông dự, họ không muốn họp
bàn khi chưa có kết quả Hội nghị Genève. Dulles tức giận lên án Anh phá buổi
họp.
Chương trình liên minh để yểm trợ cho Kên Kên về chính trị coi như thất
bại từ 20-4, 5 ngày trước Hội nghị Genève, ngày 20-4 ông nói với các Trưởng
khôi Quốc hội việc can thiệp Đông Dương không được xét tới.
2- Trên bờ cuộc chiến
Việt Minh vào gần căn cứ Trung tâm tại ĐBP ngày 23-4-1954, tức một tháng
10 ngày sau trận tấn công đầu tiên, cao xạ địch có radar hướng dẫn bắn chính
xác khiến hàng thả dù thấp khó thực hiện. Ngày 21-4 hai ông Cao Ủy và Tư lệnh (Navarre)
cho rằng chỉ có cuộc oanh tạc lớn mới cứu được ĐBP, cả hai hy vọng vào kế hoạch
Kên Kên, thực ra vẫn chưa bị dẹp hẳn. Bộ TM liên quân Mỹ đưa hai hàng không mẫu
hạm Boxer và Philippine
Sea vào vịnh Hạ
long chở máy bay chiến đấu để bảo vệ các oanh tạc cơ. Giới quân sự hai bên
Mỹ-Pháp vẫn chuẩn bị cuộc oanh tạc nhưng không để dấu vết Mỹ, Pháp đề nghị Mỹ
giao cho họ một số B-29 nhưng họ không có phi hành đoàn biết lái. Ngày 14-4
Navarre đề nghị Mỹ không oanh tạc trên ĐBP mà trên các tuyến đường tiếp tế về
ban đêm với từ 15 tới 20 oanh tạc cơ B-29 với cờ Mỹ để máy bay Pháp dễ tiếp tế
ĐBP nhưng người Mỹ không chấp thuận.
Ngày 14-4 Tướng Partridge, Tư lệnh không quân Mỹ tại Viễn đông đã tiếp
xúc với Navarre để nghiên cứu về mặt kỹ thuật, ngày 17-4 ông nói với Cao Ủy
Đông dương sẽ tiến hành nghiên cứu kế hoạch.Về phương diện quân sự Kên Kên vẫn
còn có thể (dự trù 75 tới 80 B-29 từ Phi luật Tân, mỗi cái mang 8 tấn bom, tấn
công ban đêm). Radford cũng được phó Tổng thống Nixon ủng hộ, ông cho Đại sứ Pháp
biết ông ủng hộ oanh tạc cứu nguy ĐBP, Nixon vẫn hy vọng đảo ngược ý định 5-4,
ngày 16-4 ông nói với ký giả nếu cần Mỹ sẽ gửi quân
Ngày 21-4, 22-4 ĐBP tuyệt vọng, 23-4 Bidault
nói với Dulles tại ba Lê nếu không có oanh tạc ĐBP sẽ thất thủ, sau đó VM sẽ
đưa quân đánh Hà Nội trước mùa mưa. Pháp cần tìm đình chiến ngay và yêu cầu Mỹ
oanh tạc. Sáng hôm sau Dulles trả lời bác bỏ yêu cầu nêu lý do phải được Quốc
hội chấp thuận, quá trễ để cứu ĐBP. Dulles thấy ĐBP sụp đổ sẽ đe dọa toàn khu
vực Á đông, hai ngày nữa, 26-4 sẽ là phiên họp đầu tiên của Hội nghị Genève.
Thủ tướng Laniel cố gắng lần chót, ông lệnh cho Bidault gửi thư cho Dulles ngày
24-4 nói.
1-Các chuyên gia quân sự Pháp nghiên cứu cho biết nếu oanh tạc ồ ạt vẫn
cứu được ĐBP
2-Bộ chỉ huy tối cao Pháp tin là VM tập trung lực lượng to lớn quanh
đồn, nếu mở cuộc oanh tạc địch sẽ bị diệt gọn
Thư cũng gửi cho Đại sứ Pháp tại Mỹ Bonnet, ông này trao cho thứ trưởng
ngoại giao Mỹ Smith, Smith trình Tổng thống
và trả lời Bonnet rằng Dulles đang thương thuyết tại Luân Đôn, tất cả
phụ thuộc vào người Anh. Bidault cố gắng thuyết phục Eden , Mỹ cũng gửi thư cho Churchill.
Bộ ngoại giao Mỹ và Đại sứ các nước Liên hệ họp ngày 26-4 để yêu cầu
Quốc hội yểm trợ, nếu được sẽ thực hiện ngày 28-4 cho Tổng thống quyền oanh tạc
, Smith hy vọng tiến hành tốt để các hàng không mẫu hạm Mỹ tấn công VM trước
khi họ tràn ngập ĐBP.
Thứ bẩy 24-4 Mỹ tuyên bố sẵn sàng can thiệp ĐBP giữa tuần sau nếu Anh
đồng ý, cùng ngày này Eden qua Ba Lê trên đường đi Genève, ông nhận thư của
chính phủ Pháp, chỉ cần tham gia tượng trưng Liên Hiệp, Mỹ Pháp. Eden vội về Luân đôn dự một phiên họp nội các
Anh và Tổng TMT ngày 25-4. Đồng thời Đại sứ Pháp tai Anh Massigli gặp Eden nói về kế hoạch này, Eden nói rất tiếc ông muốn gíup nhưng chính phủ
Anh không thể tham gia.
Người Anh cho là cuộc oanh tạc sẽ không có kết quả, nó sẽ làm hỏng Hội
nghị Genève, chiến tranh sẽ mở rộng, thực tế nhất là tìn đình chiến. Cùng ngày
25-4 Radford tới Luân đôn mang thư của Eisenhower gửi Churchill, gặp Thủ tướng
xong ông về Mỹ. Eden qua Pháp ngày 25-4 để đi Genève, Bidault gặp ông ở phi
trường Orly, Eden nói chính phủ Anh không thể can thiệp một tí nào cho tới sau
khi họp Genève, Anh chỉ có thể giúp Pháp về ngoại giao thôi.
Tuy thế kế hoạch Kên Kên chưa chết hẳn, chưa đem chôn, Thủ tướng Laniel
vẫn cố gắng tới cùng để cứu ĐBP, ông lệnh cho Đại sứ Massigli đề xin thảo luận
với Churchill, nay Hoa kỳ chỉ chờ người Anh. Churchill tiếp Đại sứ pháp ngày
27-4, ông cho biết không muốn nghe về vấn đề giải quyết bằng quân sự. Thủ tướng
Anh ca ngợi quân Pháp anh dũng và nói rất tiếc không cứu được họ, ông không tin
kế hoạch Kên Kên thành công vả lại cuộc oanh tạc sẽ phá hỏng Hội nghị. Nước Anh
không thể đổi quyết định, và để tránh ngộ nhận Churchill tuyên bố trước Quốc hội Anh, chính phủ sẽ không can thiệp
vào Đông dương trước khi có Hội nghị Genève
Kên Kên gây nhiều tranh cãi thảo luận hơn các kế hoạch khác, Mỹ chịu
không làm gì được đứng nhìn Pháp bại trận ĐBP, dư luận không thuyết phục được
Quốc hội, chính Mỹ không muốn liều tham chiến, dư luận cho thấy người dân không
muốn nước Mỹ tham chiến.
Ngày 29-4, Tổng thống Mỹ họp HĐANQG nghe Radford tường trình chuyến đi
Âu châu, Eishenhower kết thúc giây phú nguy hiểm của lịch sử, chính phủ Mỹ phải
đợi kết quả Genève, Quốc hội không thể đồng ý để Kên Kên đưa nước Mỹ tới bờ của
cuộc chiến lớn
Nhận xét chung
Qua ba tác giả Pháp kể trên, Philippe Devillers chỉ mô
tả sự kiện không đưa ý kiến riêng nhưng Tướng Tư lệnh Navarre và Bernard Fall
có đưa ra nhiều nhận xét ngả về phía người Pháp.
Tác giả Bernard Fall không tán thành quyết định của Mỹ, cho là hành động
bỏ rơi đồng minh. Ông ta cho rằng nguyên nhân lớn nhất khiến ĐBP sụp đổ là do
Mỹ đã từ chối Pháp không thực hiện kế hoạch Kên Kên cứu nguy ĐBP
Tác giả này nói một trận yểm trợ bằng không
lực ồ ạt dù không cứu được Đông Dương nhưng ít nhất cũng cứu được ĐBP, các nhà
quan sát viên Pháp về ĐBP đều đồng ý như vậy. Chủ tịch Ủy ban điều tra ĐBP
thuộc chính phủ Pháp, Đại tướng Catroux sau này cho biết
“Cơ hội cứu nguy ĐBP bằng mấy trăm máy bay Mỹ có thể quét sạch đối phương,
chắc sẽ đảo ngược tình hình”
De Castrie khi được thả ra họp báo nói một sự can thiệp ồ ạt của không
quân Mỹ sẽ khiến ông tiếp tục chỉ huy. (11)
Berrnard Fall nói trong cuộc chiến tranh Đông
dương lần thứ hai 1965, 1966… không quân Mỹ đã cứu bộ binh Mỹ và VNCH khi bị
địch tấn công mạnh với lực lượng đông đảo. Cuộc oanh tạc nếu được thực hiện sẽ
giúp Pháp tiếp tế ĐBP dễ dàng hơn có thể thay đổi tình hình. Trước hết nó có
thể phá hủy được kho hàng tiếp liệu của VM tại Tuần Giao hoặc phá hủy các dàn
pháo binh, cao xạ của địch cũng như tiêu diệt các lực lượng bộ binh VM tại các
căn cứ kháng cự thuộc khu Trung ương ĐBP. Tác giả nhận xét người Mỹ tính kỹ
quá, họ chỉ sợ cuộc chiến sẽ nổ lớn như Cao Ly, chỉ muốn tiếp viện cầm chừng
cho Pháp và để Pháp chiến đấu đơn độc
Cuối cùng lệnh thi hành kế hoạch Kên Kên không bao giờ có, Bernard Fall
nhận định đây là lần đầu tiên trong lịch sử Hoa kỳ, họ bỏ rơi đồng minh mà
chính họ đã đã khuyến khích đồng minh ấy tiếp tục tham gia cuộc chiến. Nước
Pháp đã đi xa hơn mục tiêu chính trị cũng như khả năng quân sự của họ khi dấn
thân vào một cuộc chiến chống CS bảo vệ ĐNÁ mà thực ra đó là trách nhiệm của
người Mỹ, cuộc chiến đó vì quyền lợi của người Mỹ. Tác nói ĐBP không chỉ là
thất bại của Pháp mà cũng là của Mỹ, ông dẫn lời De Gaulle để nói người Mỹ
không đáng tin cậy khi vấn đề không trực tiếp liên quan đến họ
Theo Bernard Fall ĐBP đóng vai trò chiến lược quan trọng đối với Hoa Kỳ,
nó cũng là thời điểm Quân đội CSVN thành
hình để trở thành lực lượng CS tại ĐNÁ. Nó sau này đã khiên Mỹ phải can thiệp
vào miền nam VN những năm 1965, 66, 67…mà 1954 họ đã tránh. Tác giả cho thấy
hậu quả mà Mỹ đã phải gánh chịu vì tránh can thiệp ĐBP, Quân đội CSVN mà người
Mỹ đã tránh đụng độ năm 1954 để rồi sau đó hơn mười năm phải đối đầu, họ tránh
can thiệp năm 1954 để khỏi bị nguy hiểm vì cuộc chiến lan rộng nhưng rồi phải
đối mặt với cuộc chiến tại miền nam VN giữa thập niên 60.
Bernard Fall tin tưởng nếu người Mỹ đã oanh
tạc cứu nguy ĐBP năm 1954 có thể lịch sử VN sẽ bớt phức tạp hơn, có thể cuộc
chiến sẽ không tàn khốc như thế và đã không đưa thế giới tới bờ vực của Thế
chiên. Tác giả chỉ trìch Hoa Kỳ đã bỏ rơi đồng minh trong giai đoạn nguy kịch.
Nhận định của Bernard Fall không phải là thiếu cơ sở, thật vậy người Mỹ
quá thận trọng và tính toán lợi ích riêng tư để bỏ rơi đồng minh, hành động này
đã đưa tới hậu quả mà Mỹ phải trả giá.
Như trên các Trưởng khối Quốc hội Myỹ đã yêu cầu Hành pháp thỏa mãn ba
điều kiện để được Quốc hội chấp thuận can thiệp bằng oanh tạc:
-Thành lập một Liên minh các nước
-Pháp trả độc lập các nước Đông dương
-Pháp tiếp tục cuộc chiến tại Đông dương.
Về hai điều kiện sau rất khó cho Pháp, họ trở lại Việt Nam năm 1945 để
lấy lại những quyền lợi như nhà máy, xí nghiệp, đồn điền, hầm mỏ.. nhưng sau đó
cuộc chiến ngày càng sa lầy, tốn kém xương máu và tiền của nhất là từ khi Trung
Cộng chiếm được nước Tầu viện trợ và huấn luyện cho Việt Minh từ 1949, 1950.
Cuộc chiến dần dần trở lên đẫm máu hơn khi địch đánh lên tới cấp sư đoàn. Vì
Trung Cộng can thiệp nên Mỹ cũng ra mặt viện trợ cho Pháp với mục đích ngăn
chận CS tại ĐNÁ, nếu Mỹ không khuyến khích thì Pháp có thể đã bỏ cuộc. Họ tiếp
tục chiến đấu chống VM và hy vọng nếu thắng cuộc có thể giữ Đông Dương trong
Liên hiệp Pháp, mà nay Mỹ yêu cầu Pháp trả độc lập cho các nước Đông dương thì
họ chẳng còn mục tiêu, quyền lợi gì để tiếp tục cuộc chiến.
Sự kiện người Mỹ yêu cầu Pháp trả độc lập cho Việt, Mên, Lào chỉ là để
tự đánh bóng cho họ một tinh thần công bình bác ái giả hiệu, nó mang tính đạo
đức giả nhiều hơn vì thực tế cho thấy họ đã từng nhiều lần bỏ rơi đồng minh
không thương tiếc. Trên thực tế từ 1949, 1950 khi cựu hoàng Bảo đại trở về làm
Quốc trưởng, chính phủ QGVN được thành lập, người Pháp đã trả độc lập dần dần
cho VN. Người dân từ hậu phương Việt Minh ùn ùn trở về thành và vùng Quốc gia
và Pháp, giải Pháp Bảo Đại có hết quả tốt đẹp.
Đến năm 1954 trên thực tế Pháp đã trả độc lập cho VN gần hết như giáo
dục, nội trị, giao thông, thương mại…họ chỉ còn giữ quốc phòng ngoại giao. Vả
lại trong giai đoạn này, đòi độc lập chưa phải là vấn đề cấp bách vì VN cần
Pháp chiến đấu chống CS, bảo vệ sự sống còn cho cả Đông Dương. Nếu người Pháp trả
độc lập cho VN rồi ra đi, toàn quốc sẽ bị Việt Minh nuốt chửng trong vài tháng
vì ngay Pháp còn chống CS không nổi chứ đừng nói QĐQGVN
Người Mỹ không nắm vững tình hình cho lắm, họ tưởng Pháp vẫn cai trị
Đông dương bằng chính sách thực dân cổ điển như thời xa xưa mà thực ra họ là
đồng minh của QGVN chống lại sự xâm lăng của CS quốc tế. Các vị đại diện Quốc
hội Mỹ đòi Pháp phải tiếp tục ở lại chiến đấu họ mới chấp thuận cho oanh tạc
cứu nguy ĐBP. Điều kiện của Mỹ đặt ra rất độc đoán thiếu tinh thần công bằng và
tình chiến hữu, trong khi người bạn đồng minh đang chết dở, Hoa Kỳ có bổn phận
phải cứu nguy họ thì lại đặt điều kiện bắt ép đồng minh. Một khi phải trả độc
lập cho Việt, Mên, Lào, Pháp phải ở lại
tiếp tục cuộc chiến mà thực ra chỉ là để bảo vệ Đông nam Á, bảo vệ an ninh cho
nước Mỹ, Tướng Navarre đã có nhận xét
như vậy.
Ngoài ra Tướng Navarre cũng nói mục đích cuộc chiến người Pháp nay đã
không còn và chuyển sang phục vụ quyền lợi Mỹ. Mục đích của Mỹ là chính sách be
bờ bảo vệ ĐNÁ chống CS. Mỹ và Pháp có hợp tác với nhau và Việt, Mên Lào để
chống Việt Minh, CS. Dần dần Pháp theo chính trị của Mỹ, chống CS tại ĐNÁ và
bảo vệ an ninh cho Mỹ cũng như các đồn điền Anh tại Mã lai, Úc, Tân tây Lan (12)
. Ông cũng nói ta không thể đảm nhận vai trò chính tại ĐNÁ và nhường lại cho
Mỹ, Pháp phải lựa giữ hai chính sách tham gia cuộc chiến chống CS do Mỹ lãnh đạo
hoặc tự biến mình trước Mỹ (13)
Hôm
21-4, Navarre đánh điện tín về Ba Lê nói “ Từ nay, chúng
ta chiến đấu cho Hoa Kỳ hơn là cho chúng ta””
(15)
Hạ tuần tháng 4-1954, Dulles khi biết ý Pháp
muốn tìm hòa bình tại Hội nghị Genève và sẽ rút ra khỏi Đông Dương khiến ông lo
sợ, vì Mỹ sẽ phải chiến đấu một mình như thế chứng tỏ Mỹ thiếu tình đồng chí mà
chỉ tính toán lợi ích riêng tư quá
nhiều. Bộ ngoại giao Pháp đã để lộ cho thấy họ tìm hòa bình bằng mọi giá, cuộc
chiến Đông dương đã bị dư luận báo chí, người dân chống đối quá nhiều. Lý do
của Pháp chính đáng vì họ không còn quyền lợi tại Đông dương, vấn đề an ninh
của ĐNÁ không ảnh hưởng gì tới họ. Kế hoạch Kên Kên cuối cùng chết lịm mặc dù
đã được Eisenhower và Bộ tham mưu nghiên cứu bàn luận gần một tháng trời,
Dulles đã đi hết nước này sang nước khác để vận động thành lập Liên minh quân
sự, cuối cùng Kên Kên chỉ là cái bánh vẽ để đánh lừa người bạn đồng minh của
họ.
Trong khi phía CS quốc tế, dù bất đồng họ cũng không bỏ đồng minh, vẫn
tiếp viện cho chiến hữu anh em tới cùng với mục đích chung làm suy yếu Đế quốc.
Mỹ, Anh, Pháp không dung hòa quyền lợi với nhau được, tính toán quyền lợi riêng
thật kỹ nên hậu quả đã mang lại thua thiệt rõ ràng.
Chú thích
(1) Henri Navarre, Agonie de
l’Indochine trang 202
(2) Quân sử 4, Quân Lực Việt Nam
Cộng Hòa trong giai đọan hình thành 1946-1955, Bộ Tổng Tham Mưu VNCH trang 160
(3) Agonie de l’Indochine trang
221-226
(4) Agonie de l’Indochine, Le
dégagement trang 242-250
(5) Bernard Fall, Hell In A Very Small
Place, The Siege of Dien Bien Phu;
chương X Vulture, trang 293-313, chương XII Epilogue trang 450-463.
(6) Hell In A Very Small Place trang 308: “Perhaps without realizing it, Lydon B.
Johnson, on April 3, 1954, had made his first crucial decision on Viet-nam”
(7) Hell In A Very Small Place trang 312
(8) Hell In A Very Small Place trang 313
(9) Hell In A Very Small Place các trang
455,459, 461, 462
(10) Philippe Devillers: End of a War, Indochina , 1954 trang 71-89, trang 90-99.
(11) Hell In A Very Small Place trang
455,456
(12) Agonie de l’Indochine trang
66, 67
(13) Sách đã dẫn trang 68, 96
(14) Sách đã dẫn trang 97
(15) Fredrik Logevall, Embers Of War, The
Fall Of An Empire And The Making of America’s Vietnam, nguyên văn “From now on, it is as much for the United
states that we are fighting as for ourselves”; trang 496
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét