Hồ Tuấn Hùng (8)


Tìm hiểu về cuộc đời
Hồ Chí Minh
Kỳ 8

          3 – Thơ cổ và điển điển tích

Hồ Chí Minh là người rất thuộc thơ chữ Hán và các diển cố Hán học nên thường tùy miệng xuất ngôn dẫn dụng tặng bạn bè Trung Quốc hoặc khuyến khích, động viên nhân dân trong nước mỗi khi ông viếng thăm một vùng nào đó. Hai ví dụ dưới đây có thể chứng minh, nếu không dày công học tập, tu dưỡng nền văn hóa Hán thì khó có thể tùy miệng dọc ngay được những bài thơ, bài từ như thế:


* Lỗ Tấn và bài thơ “Tự trào”

                   自嘲(魯迅)

    
      橫眉冷對千夫指,府首甘為孺子牛

躲進小樓成一統,管他冬夏與春秋

 

Tự trào (Lỗ Tấn)

Hoành my lãnh đối thiên phu chỉ,

Phủ thủ cam vi nhụ tử ngưu.

Đoá tiến tiểu lâu thành nhất thống,

Quản tha đông hạ dữ xuân thu.

Tự giễu mình (Lỗ Tấn)

Mắt trừng đối mặt phường hung bạo

Cổ cúi làm trâu đám tí nhau

Nấp chốn lầu con thành nhất thống

Kể gì Đông, Hạ với Xuân, Thu.

                    Hoàng Trung Thông dịch

Tháng 10 năm 1945, Hà Nội, Việt Nam vừa xây dựng xong chính quyền cách mạng, Hồ Chí Minh dẫn hai câu đầu trong bài thơ “Tự trào” của văn hào Lỗ Tấn: “Hoành mi lãnh đối thiên phu chỉ, Phủ thủ cam vi nhụ tử ngưu” đê khuyến khích quân đội, xác định thái độ, nguyện vì nhân dân phục vụ.

* Vương Xương Linh và bài thơ “Lầu Phù Dung tiễn Tân Tiệm”

芙蓉樓送辛漸(王昌齡)


寒雨連江夜入吳,平明送客楚山孤

洛陽親友如相問,一片冰心在玉壺

 
Phù Dung lâu tống Tân Tiệm (Vương Xương Linh)


Hàn vũ liên giang dạ nhập Ngô,

Bình minh tống khách Sở sơn cô,

Lạc Dương thân hữu như tương vấn,

Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ.

Dịch nghĩa:

Lầu Phù Dung tiễn Tân Tiệm (Vương Xương Linh)


Mưa lạnh rơi khắp mặt sông trong đêm vào đất Ngô.

Khi trời sáng tiễn khách chỉ có ngọn núi đất Sở trơ trọi.

Nếu như bạn bè thân thích ở Lạc Dương có hỏi thăm,

(Thì xin đáp rằng lòng tôi đã thành) một mảnh lòng băng giá trong bầu ngọc rồi.

Ngày 10 tháng 10 năm 1962, HCM đặt tiệc tại Hà Nội tiễn Bành Chân, trưởng Đoàn đại biểu Trung Quốc sang thăm Việt Nam. Trong tiệc, HCM tùy miệng đọc diễn cảm hai câu thơ:

            北京親友如相問,一片冰心在玉壺 (Bắc Kinh thân hữu như tương vấn, Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ), đồng thời, nhờ Bành Chân chuyển lời thăm hỏi đến các đồng chí Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai và Chu Đức.

4 – Múa bút viết thư pháp Đại khải và Tiểu khải.

Mùa thu năm 1938, thời kỳ Hồ Chí Minh làm việc ở Quế Lâm đã để lại không ít bức thư pháp. Lúc ấy, ông còn kiêm luôn cả công việc biên tập tờ “Sinh hoạt tiểu báo” (có lẽ là báo tường – ND). Bản thảo đều dùng bút lông tự viết trên giấy báo, sau đó đóng thành sách, trang bìa viết chữ Đại khải.

Năm 1959, Hồ Chí Minh đến Lư Sơn, Giang Tây, nhà khách đặc biệt mời ghi lưu niệm, vì bút lông quá nhỏ, ông bèn láy ngón ta nhúng mực viết lên giấy Tuyên ba chữ lớn: “盧山好” (Lư Sơn hảo), sau đó dùng bút tiểu khải viết dòng lạc khoản “ Hồ Chí Minh, tháng tám năm 1959”

Trung tuần tháng 5 năm 1961, Hồ Chí Minh đến Ly Giang, (Quế Lâm, Quảng Tây). Theo đề nghị của khách sạn Dung Hồ, ông ngẫu hứng cầm bút viết bài phú tả cảnh Ly giang vào tờ giấy Tuyên khổ rộng trải trên chiếc sạp lớn:

桂林風景甲天下,如詩中畫,畫中詩

山中樵夫唱, 江上客船歸。

!


Phong cảnh Quế Lâm đẹp nhất thiên hạ,

Như thơ trong họa, như họa trong thơ.

Trong núi tiều phu hát,

Trên sồng thuyền khách về.

Lạ kỳ!

            Tại nhà khách Dương Sóc, Hồ Chí Minh dùng bút đại tự viết 5 chữ lớn: “陽朔風景好” (Dương Sóc phong cảnh hảo) thành bức tranh chữ rồi rồi đề lạc khoản phia dưới góc trái bằng bút tiểu khải “ Hồ Chí Minh, 15 tháng 5 năm 1961”. Tác phẩm này đến nay vẫn còn lưu giữ trong nhà khách Dương Sóc.

Ngôn ngữ thơ Hồ Chí Minh đều biểu đạt tình cảm chân thành, thường tương ứng với hoàn cảnh mà mình đã trải qua bằng ngôn ngữ mẹ đẻ một cách thuần thục, sinh động. Như vậy, trong số không ít các bài thơ, nhất là “Nhật ký trong tù” và thơ ngẫu hứng, rồi đến các bức thư họa mà Hồ Chí Minh sáng tác trong quá trình hoạt động cách mạng, xét về logic, không thể là tác phẩm của một người nước ngoài, chỉ được tiếp cận với nền văn hóa Hán vài năm tiểu học. Lại nữa, từ trước năm 1933, hầu như Nguyễn Ái Quốc  không để lại bất kỳ bài viết bằng Trung văn nào, vậy mà sau năm 1933, Hồ Chí Minh lại có một khối lượng lớn các tác phẩm Trung văn, bao gồm cả chuyên luận, tạp văn, thông tấn, thơ, từ và thư pháp. Từ đó suy ra, Nguyễn Ái Quốc  và Hồ Chí Minh chắc chắn phải là hai người khác nhau.

     Di chúc của Hồ Chí Minh lúc lâm chung.

Căn cứ vào lời kể củ Vũ Kỳ, thư ký riêng của Hồ Chí Minh, qua bài “Hồ Chủ tịch 5 năm viết Di chúc” như sau:

“ Đến đúng 9h sáng ngày 10 tháng năm 1965, Người đặt bút viết dòng đầu tiên, đó là câu: “Tài liệu tuyệt đối bí mật”.

Hồ Chủ tịch làm việc trong 10 ngày liền, mỗi ngày đúng 1 tiếng vào thời gian con người minh mẫn, sảng khoái nhất, đó là từ 9h đến 10h sáng. Khi viết, Người không tiếp bất cứ ai. Cứ viết đến 10h thì Người lại bỏ tài liệu vào một bì thư đưa ông Kỳ cất giữ hôm sau lấy ra. Sau 4 ngày, Người bắt đầu đánh máy và đến 16h thì hoàn thành. Bản di chúc dài ba trang ở cuối đề ngày 15 tháng năm 1965. Hồ Chủ tịch ký và bên cạnh có chữ ký của ông Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng hồi bấy giờ. Đọc, sửa đến ngày 20 tháng năm, Người lại bỏ vào bì thư cất đi.

Đúng một năm sau, Hồ Chủ tịch lại lấy “tài liệu tuyệt đối bí mật” ra và viết tiếp, mỗi ngày một tiếng từ 9h đến 10h. Nhưng năm ấy Người hầu như chỉ đọc và ngẫm nghĩ. Mấy ngày sau, Người viết thêm câu: “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau” trong đoạn nói về Đảng.

Năm 1967, Hồ Chủ tịch không sửa gì nhiều bản di chúc, nhưng đến năm 1968 thì Người sửa rất nhiều. Phần mở đầu Người viết năm 1965 là: “Năm nay tôi đã 75 tuổi, tinh thần vẫn sáng suốt, thân thể vẫn khỏe mạnh”, nhưng sau Người lại sửa: “Năm nay tôi vừa 78 tuổi, vào lớp những người trung thọ, tinh thần vẫn sáng suốt tuy sức khỏe có kém so với vài năm trước đây”. Và viết tiếp: “Người ta đến khi tuổi tác càng cao thì sức khỏe càng thấp. Đó là một điều bình thường”.

Sau đó Hồ Chủ tịch viết thêm đoạn “Về việc riêng” có ý mới là sau khi hỏa táng sẽ lấy tro xương của Người để vào ba hộp sành cho mỗi miền Bắc, Trung, Nam. Người viết thêm về những công việc cần làm sau khi giải phóng miền Nam. Đó là chỉnh đốn Đảng, chăm sóc đời sống các tầng lớp nhân dân, miễn thuế nông nghiệp một năm... Những đoạn về chỉnh đốn Đảng, chăm sóc thương binh, Hồ Chủ tịch viết rồi lại gạch chéo. Rất nhiều đoạn vòng xuống vòng lên, mực xanh lẫn mực đỏ.

Năm 1969, Hồ Chủ tịch viết di chúc lần cuối cùng vào Ngày 10 tháng năm, Người viết lại đoạn mở đầu, gồm một trang viết tay vào mặt sau của tờ “Tin tham khảo đặc biệt”. Đó cũng là lần duy nhất Người viết quá 10 giờ sáng”.

Hồ Chí Minh phải mất 5 năm mới viết xong “Di chúc”, không thể nói là không thận trọng. Đúng như Vũ Kỳ kể: Tại bản viết năm 1965 ông có nói đến “ Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”

Chỉ trong đoạn ngắn này mà Hồ Chí Minh đã đặc biệt nhấn mạnh vào các cụm từ “đạo đức cách mạng”, “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”, “phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch”, “là người đầy tớ trung thành của nhân dân” đều mang hàm ý “chân chính”, hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên.

Như chúng ta đã biết, Hồ Chí Minh viết văn hoặc nói chuyện đều hết sức tránh dùng  từ ngữ rườm rà, nhưng ở đây lại có khá nhiều từ mang nội dung “đạo đức cách mạng”, và sự “chân chính” của cán bộ đảng viên, hẳn là có ý nghĩa đặc biệt sâu sắc. Vũ Kỳ từng viết: “ Ngày 15 tháng hai năm 1965, Hồ Chủ tịch về thăm Côn Sơn, buổi trưa, nghỉ lại Côn Sơn, thăm đền thờ Nguyễn Trãi và đọc tấm bia cổ. Ở vào thời kỳ chuyển tiếp của lịch sử, Hồ Chí Minh về thăm Cô Sơn viếng Nguyễn Trãi, liệu có phải là sự ngẫu nhiên? Cả hai người đều là nhà chính trị, nhà quân sự kiệt xuất, là bậc vĩ nhân, là nhà thơ lớn, đồng thời cùng có niềm tin tuyệt đối vào sức mạnh to lớn của nhân dân, cùng có khát vọng đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân. Tuy cách nhau 5 thế kỷ (1380 – 1890), vậy mà, dường như có sự tương hợp kỳ diệu, như là từ lâu đã có ước định hội ngộ lịch sử”. Vũ Kỳ mượn Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh mục đích là để nhấn mạnh phẩm chất “cần chính”, “ái dân” của hai bậc vĩ nhân, nhằm ngầm khuyến cáo Đảng phải “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”. Từ đó có thể suy ra, lời Vũ Kỳ chính là lời Hồ Chí Minh trong “Di chúc” mà ông đã dành hẳn 5 năm cuối đời để viết. Có thể nói, từng câu từng chữ đều vô cùng cẩn trọng ( “句句推敲,字字琢蘑(cú cú thôi xao, tự tự trác ma).

Nội dung “Di chúc” của Hồ Chí Minh.

“Di chúc Hồ Chí Minh”, qua 5 năm soạn thảo, sửa chữa và bổ sung, đến ngày 10 tháng 5 năm 1969 mới hoàn chỉnh. Bản “Di chúc” này được xem là bản chính thức, công bố lần đầu tiên. Nội dung có thể quy nạp vào mấy điểm sau đây:

1 – Chú trọng đến Chủ nghĩa Quốc gia và Chủ nghĩa xã hội.

2 – Nhấn mạnh chỉnh đốn Đảng, tăng cường đoàn kết nội bộ và tu dưỡng đạo đức cách mạng.

3- Chú trọng nâng cao đời sống nhân dân cùng với việc tạo địa vị bình đẳng xã hội cho phụ nữ.

Dưới đây là toàn văn “Di chúc Hồ Chí Minh” được sao lục từ bản Hán văn, nhà xuất bản Ngoại văn Hà Nội, năm 1971, trong cuốn “Vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội”, trang 320 – 323 (đã được người dịch chuyển trở lại bằng tiếng Việt):

Di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh
( Công bố nǎm 1969 )

VIỆT NAM DÂN CHỦ CÔNG HOÀ
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn.

Đó là một điều chắc chắn.

Tôi có ý định đến ngày đó, tôi sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc, để chúc mừng đồng bào, cán bộ và chiến sĩ anh hùng, thǎm hỏi các cụ phụ lão, các cháu thanh niên và nhi đồng yêu quý của chúng ta.

Kế theo đó, tôi sẽ thay mặt nhân dân ta đi thǎm và cảm ơn các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa, và các nước bầu bạn khắp nǎm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta.

*

*          *

Ông Đỗ Phủ là người làm thơ rất nổi tiếng ở Trung Quốc đời nhà Đường, có câu rằng "Nhân sinh thất thập cổ lai hy", nghĩa là "Người thọ 70, xưa nay hiếm".

Nǎm nay, tôi vừa 79 tuổi, đã là lớp người "xưa nay hiếm" nhưng tinh thần, đầu óc vẫn rất sáng suốt, tuy sức khoẻ có kém so với vài nǎm trước đây. Khi người ta đã ngoài 70 xuân, thì tuổi tác càng cao, sức khoẻ càng thấp. Điều đó cũng không có gì lạ.

Nhưng ai mà đoán biết tôi còn phục vụ cách mạng, phục vụ tổ quốc, phục vụ nhân dân được bao lâu nữa?

Vì vậy, tôi để sẵn mấy lời này, phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp nơi đều khỏi cảm thấy đột ngột.

TRƯỚC HẾT NÓI VỀ ĐẢNG - Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hǎng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

ĐOÀN KẾT là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.

Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau.

Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.


ĐOÀN VIÊN THANH NIÊN ta nói chung là tốt, mọi việc đều hằng hái xung phong, không ngại khó khǎn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chǎm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên".

Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết.


NHÂN DÂN LAO ĐỘNG ta ở miền xuôi cũng như ở miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều nǎm chiến tranh.

Tuy vậy, nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hǎng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng.

Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và vǎn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.

CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ có thể còn kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao, chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn.

Còn non, còn nước, còn người,

Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay!

Dù khó khǎn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà. Nước ta sẽ có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to - là Pháp và Mỹ; và đã góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc.


VỀ PHONG TRÀO CỘNG SẢN THẾ GIỚI - là một người suốt đời phục vụ cách mạng, tôi càng tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hoà hiện nay giữa các đảng anh em!

Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình.

Tôi tin chắc rằng các đảng anh em và các nước anh em nhất định sẽ phải đoàn kết lại.

*

*          *

VỀ VIỆC RIÊNG - Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa.

Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân.

*

*          *

Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng.

Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế.

Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.

Hà nội, ngày 10 tháng 5 nǎm 1969
Hồ Chí Minh

“Di chúc Hồ Chí Minh” có nhiều bản, trừ bản đầu tiên Vũ Kỳ giới thiệu trong bài “Hồ Chủ tịch 5 năm viết di chúc” ra, nhà xuất bản Thanh niên, nhà xuất bản Chính trị Quốc gia cũng lần lượt cho ra đời các “Bản cảo” gốc “Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Tại nhà kỷ niệm Hồ Chí Minh ở Liễu Châu, Quảng Tây, Trung Quốc, trong tủ kính trưng bày hiện vật cũng có bản “Di chúc” ngày 5 tháng mười năm 1969 được dịch sang tiếng Trung do nhà xuất bản Ngoại văn Hà Nội ấn hành.

Những nghi vấn về “Di chúc Hồ Chí Minh”.

Về “Di chúc Hồ Chí Minh”, giáo sư William J. Duiker có nghi ngờ mấy điểm sau đây:

1 – Cắt bỏ nội dung “Di chúc” có liên quan đến việc xử lý thi thể sau khi chết.

Bản “Di chúc” công bố năm 1969, cát bớt phần Hồ Chí Minh đề nghị miễn một năm thuế nông nghiệp cho nông dân.

3 – Dự đoán với đồng bào về cuộc kháng chiến chống Mỹ kéo dài thêm mấy năm. Về việc xử lý di thể đã bị cắt bỏ so nội dung với bản gốc, căn cứ vào lời vị Đại sứ tiền nhiệm của Trung Quốc tại Việt Nam Lý Gia Trung trong bài: “Nói chuyện về việc sinh hoạt thường ngày của Hồ Chí Minh” như sau:

 “Sau khi tôi qua đời chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân.

 Tôi yêu cầu, thi hài tôi được đốt đi, nói chữ là “hỏa táng”. Tôi mong rằng, cách “hỏa táng” dần dần sẽ được phổ biến. Vì như thế đối với người sống là tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất ruộng. Khi ta có nhiều điện thì “điện táng” càng tốt hơn.

Tro thì chia thành ba phần, cho vào ba cái hộp sành, một cho miền Bắc, một hộp cho miền Trung, một hộp cho miền Nam.

Đồng bào mỗi miền, nên chọn một quả đồi mà chôn hộp tro đó. Trên mả, không nên có bia đá, tượng đồng, mà nên xây một ngôi nhà  giản đơn, rộng rãi, chắc chắn, mát mẻ, để những người đến thăm viếng có chỗ nghỉ ngơi.

Nên có kế hoạch trồng cây trên và chung quanh đồi. Ai đến thăm thì trồng một vài cây làm kỷ niệm. Lâu ngày cây nhiều thành rừng sẽ tốt cho phong cảnh và lợi cho nông nghiệp. Việc chăm sóc nên giao phó cho các cụ phụ lão”.

Cái điều mà tôi nghi ngờ, không phải ở chỗ “Di chúc” bị cắt bỏ mà là ở chố có vẻ như nội dung của nó đã bị thay đổi. Mở đầu “Di chúc” viết: “Ông Đỗ Phủ là người làm thơ rất nổi tiếng Trung Quốc thời nhà Đường, có câu rằng: “Nhân sinh thất thập cổ lai hy”, nghĩa là, “Người thọ 70 xưa nay hiếm”.

 Năm nay tôi vừa 79 tuổi, đã là lớp người “xưa nay hiếm” nhưng tinh thần, đầu óc vẫn rất sáng suốt, tuy sức khỏe có kém so với vài năm trước đây. Khi người ta đã ngoài 70 xuân, thì tuổi tác càng cao, sức khỏe càng thấp. Điều đó cũng không có gì lạ”.

(“Nhân sinh thất thập cổ lai hy”, nghĩa là”Người thọ 70 xưa nay hiếm”. Năm nay tôi vừa 79 tuổi, đã là lớp người “xưa nay hiếm”). Cứ theo logic ngữ nghĩa của đoạn văn này mà xét, tôi phát hiện thấy dấu vết còn lại khá rõ của câu “Năm nay tôi vừa 69 tuổi” bị sửa thành “Năm nay tôi vừa 79 tuổi”. Như vậy, có khả năng nguyên văn bản gốc đoạn “Di chúc” này như sau: “Nhân sinh thất thập cổ lai hy”, nghĩa là, “Người thọ 70 xưa nay hiếm”.  Năm nay tôi vừa 69 tuổi, đã là lớp người “xưa nay hiếm”, như thế, đọc vừa thuận miệng, vừa thuận lý mà lại tránh được sự tối nghĩa. Cứ tìm trong các bản thảo Hán văn của HCM thì thấy rất rõ, ông không bao giờ viết câu văn lủng củng, mâu thuẫn, đại loại như: “Nhân sinh thất thập cổ lai hy. Năm nay tôi vừa 79 tuổi”. Huống chi, nội dung “Di chúc” đã phải qua 5 năm chỉnh lý, bổ sung, sửa chữa, không thể có chuyện câu trước câu sau mâu thuẫn với nhau. Từ đó, chúng tôi dự đoán, “Di chúc Hồ Chí Minh, trước tiên được khởi thảo bằng Hán văn, sau đó căn cứ vào bản Hán văn, ông mới dần dần dịch sang tiếng Việt, nên mới được liệt vào loại “văn kiện tuyệt mật” giao cho thư ký riêng Vũ Kỳ bảo quản.

Hồ Chí Minh (Nguyễn Aí Quốc) sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890, mà  Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương) sinh ngày 11 tháng 10 năm 1901, chênh nhau 11 tuổi. Hồ Chí Minh tạ thế ngày 2 tháng 9 năm 1969, tính ra thì Nguyễn Ái Quốc tròn 79 tuổi, còn Hồ Tập Chương tính cả tuổi mụ mới đủ 69. Đối chiếu với “Di chúc” (“Nhân sinh thất thập cổ lai hy”, nghĩa là, “Người thọ 70 xưa nay hiếm”.Năm nay tôi vừa 79 tuổi, đã là lớp người “xưa nay hiếm”), lại nói: “ Khi người ta đã ngoài 70 xuân, thì tuổi tác càng cao, sức khỏe càng thấp. Điều đó cũng không có gì lạ”.

Nội dung đoạn “Di chúc” này, tuổi 79 căn bản không phù hợp với việc dẫn dụng thơ Đỗ Phủ: “Nhân sinh thất thập cổ lai hy”. Dấu tích của câu “Năm nay tôi vừa 69 tuổi” bị sửa thành “Năm nay tôi vừa 79 tuổi” còn rất rõ.

Những bí mật về việc bảo tồn di thể Hồ Chí Minh.

Cựu Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam Lý Gia Trung có bài viết: “ Bí mật về việc giữ gìn di thể Hồ Chí Minh”, trong đó, ông thuật lại phương thức bảo tồn di thể liệu có phù hợp với tình trạng người đã từng mắc bệnh ho lao? Tuy không hiểu biết nhiều về y học, bệnh lý, nhưng chúng tôi cũng rất lấy làm nghi ngờ.

Lý Gia Trung kể, thời trẻ ông từng làm phiên dịch tiếng Việt trong Ðại sứ quán Trung uốc tại Hà Nội nhý sau:

“Về cuối đời, sức khỏe Hồ Chí Minh không được tốt. Các vị lãnh đạo Trung Quốc rất quan tâm đến sức khỏe Hồ Chí Minh, nên năm 1968 đã cử một đoàn chuyên gia y tế cao cấp sang Việt Nam. Lúc ấy, tôi cũng được đi theo đồng chí Tham tán đến sân bay đón tổ chuyên gia này. Các bác sĩ luôn luôn túc trực bên cạnh Hồ Chí Minh theo dõi sức khỏe của Người.

Hạ tuần tháng tám năm 1969, Hồ Chí Minh lúc ấy 79 tuổi, bị bệnh nặng. Cho dù tổ chuyên gia y tế đã hết lòng cứu chữa, nhưng Thủ tướng Chu Ân Lai vẫn không yên tâm, nên ngày 24 và 26 tháng tám lại cử tiếp tổ thứ hai và thứ ba sang Hà Nội. Ngày 31 tháng tám, Chu Tổng lý cử Viện trưởng Viện Y học nổi tiếng là giáo sư y khoa Ngô Giai Bình đi chuyên cơ mang biệt dược sang Hà Nội và chẩn đoán bệnh tình cho Hồ Chí Minh. Ngày 1 tháng chín, Chu Ân Lai đích thân nghe giáo sư Ngô báo cáo, đồng thời triệu tập ngay các giáo sư y khoa đầu ngành thảo luận trong 5 giờ liền, cuối cùng đi đến quyết định, để ông Ngô Giai Bình dẫn đầu tổ chuyên gia thứ tư cùng với các thiết bị y tế và thuốc men, sáng sớm ngày 2 tháng 9 lên máy bay sang Hà Nội cấp cứu. Thật đáng tiếc, tổ chuyên gia thứ tư mới bay đến vùng trời Quảng Tây thì nhận được tin Hồ Chí Minh đã ngừng thở vào lúc 9 giờ 47 phút. Kết quả, chiếc chuyên cơ đành quay trở về Bắc Kinh”. Tác giả kể tiếp: “ Ngày 2 tháng chín là Quốc khánh Việt Nam. Cân nhắc kỹ, thấy đây là thời điểm có liên quan đến sự nghiệp chống Mỹ cứu nước, Chính phủ VN đề phòng trong nước có biến động, nên đã quyết định chuyển ngày mất của Hồ Chí Minh sang mồng 3 tháng 9, đồng thời ấn định ngày mồng 9 tháng 9 sẽ cử hành Quốc tang”.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam  ra thông cáo đặc biệt: "Chủ tịch Hồ Chí Minh mắc bệnh tim nghiêm trọng đã từ trần vào lúc 9 giờ 47 phút ngày mồng 3 tháng 9 năm 1969, hưởng thọ 79 tuổi".

Sau khi Hồ Chí Minh mất hai tháng, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam  họp vào ngày 29 tháng mười một năm 1969, ra công bố quyết định giữ gìn di thể của người. Thực ra, trước đó một năm, xét thấy sức khỏe HCM mỗi ngày một suy giảm, Ban lãnh đạo Việt Nam đã bàn đến vấn đề làm thế nào để bảo quản được di thể trong tương lai. Tuy nhiên VN lúc ấy tình trạng kinh tế vô cùng khó khăn, khoa học kỹ thuật lạc hậu, lại đang bận kháng chiến chống Mỹ, không thể có khả năng giải quyết được vấn đề kỹ thuật ướp xác cao như thế. Vì vậy, ngày 14 tháng chín năm 1967, bí mật cử một nhóm cán bộ kỹ thuật đặc biệt sang Liên Xô. Tại Viện nghiên cứu Lăng Lenin ở Mạc Tư Khoa, dưới sự giúp đỡ nhiệt tình của các chuyên gia, nhóm kỹ thuật viên Việt Nam, sau 7 tháng  bồi dưỡng nghiệp vụ, đã nắm vững được kỹ thuật bảo quản di thể sau khi con người tắt thở từ 15 đến 20 giờ, còn trình tự các bước tiến hành như thế nào, đến lúc ấy, các chuyên gia Liên Xô sẽ bay sang Hà Nội tiếp tục xử lý.

Sau khi  rời Liên Xô về nước, căn cứ vào đặc điểm khí hậu, thời tiết, tổ kỹ thuật Việt Nam đem những kiến thức chuyên môn đã học được vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể trong nước. Tháng sáu năm 1968, VN chính thức bí mật thành lập nhóm kỹ thuật đặc biệt. Nhiệm vụ của nhóm là thâm nhập, nghiên cứu như thế nào để bảo quản được di thể trong điều kiện khí hậu nhiệt đới. Thời gian ấy, các nhà lãnh đạo VN chỉ thị, nếu như Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời mà lăng mộ còn chưa được xây dựng thì nhiệm vụ của nhóm kỹ thuật đặc biệt này là bảo quản di thể của ông tại một địa phương. Trong thời gian này, họ phải tuyệt đôi tuân thủ những tiêu chuẩn kỹ thuật như sau: Nhất định phải giữ di thể ở nhiệt độ 16o C, chênh lệch không quá 0,2oC, độ ẩm ổn định 75%. Lúc ấy, các nhà lãnh đạo Liên Xô nêu ý kiến là, sẽ có trách nhiệm bảo quản lâu dài di thể Hồ Chí Minh, chỉ mong phía Việt Nam tuyệt đối tin tưởng phối hợp với các chuyên gia Liên Xô, khắc phục những đặc điểm hoàn cảnh, nhất định sẽ nắm vững kỹ thuật do các chuyên gia truyền thụ, để tự mình sẽ bảo quản di thể lãnh tụ Hồ Chí Minh một cách tôt nhất.

Thời gian Hồ Chí Minh lâm trọng bệnh, Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đã cử Do Tiệp Bột Phu(8) (由捷勃夫),cầm đầu nhóm chuyên gia y tế kịp thời đến Hà Nội. Sau khi Hồ Chí Minh qua đời, phía Việt Nam lập tức chuyển giao thi thể của ông cho các chuyên gia. Xét thấy VN đang trong hoàn cảnh chiến tranh, các chuyên gia Liên Xô kiến nghị, đưa di thể Hồ Chí Minh sang Mạc Tư Khoa tiến hành xử lý để tránh bị phân hủy, nhưng các nhà lãnh đạo Việt Nam không đồng ý phương án này. Vì thế, Liên Xô phải đem máy móc, thiết bị bằng  đường hàng không sang Việt Nam. Lại vì để tránh máy bay Mỹ oanh tạc, Việt Nam lúc đầu chọn một nơi cách Hà Nội 30 km, thuộc vùng rừng nhiệt đới rậm rạp, tạm thời xây một hầm mộ rồi đưa quan tài thủy tinh của Hồ Chí Minh xuống đó. Không lâu sau lại phát hiện cách nơi ấy chừng 2 km có biệt kích Mỹ nhảy dù tìm phi hành đoàn do bị không quân Việt Nam bắn hạ nên đành phải chuyển quan tài vào một hang động. Vì vậy phải gấp rút làm một nhánh đường núi. Để đảm bảo an toàn tuyệt đối, mỗi khi mở xong một đoạn, xe bọc thép chở quan tài thủy tinh vừa đi qua, lập tức có bộ phận phá hủy rồi ngụy trang. Cứ như vậy, di thể Hồ Chí Minh được bảo quản bí mật trong hang động cho đến ngày chiến tranh VN kết thúc. Ngày 29 tháng 8 năm 1975, lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh hoàn thành. Quan tài thủy tinh chính thức được đưa vào.

Đầu những năm 1990 của thế kỷ XX, Liên bang Xô viết giải thể, do tình hình đất nước hỗn loạn, không còn khả năng cử chuyên gia sang Hà Nội chỉ đạo việc duy trì bảo tồn di thể Hồ Chí Minh. Đối mặt với tình huống này, các cán bộ, kỹ sư Việt Nam khắc phục bằng cách trực tiếp sang nước Nga liên hệ với chuyên gia, nhờ họ hướng dẫn ngiệp vụ.

Đến nay, VN đã đào tạo được một đội ngũ chuyên gia giỏi, chẳng những nắm chắc kỹ thuật chuyên ngành ướp xác mà còn đạt đến trình độ cao. Có thể nói, đã có đầy đủ kinh nghiệm, bản lĩnh để đảm nhiệm một cách xuất sắc việc giữ gìn lâu dài di thể lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Vì muốn giữ gìn di hài Hồ Chí Minh thật tốt, các chuyên gia Việt Nam đã dồn hết sức lực và tâm huyết trong công đoạn cũng không kém phần quan trọng, đó là chỉnh trang dung mạo di hài. Mỗi sợ tóc, mỗi sợi râu đều được chú ý giữ gìn.  Khi tiêm dưới da, mỗi mũi kim luôn được tính toán chính xác để đạt hiệu quả tốt nhất.

Hiện tại, lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh trang nghiêm tọa lạc tại góc tây bắc Quảng trường Ba Đình, Hà Nội. Lăng cao 21,6 m, toàn bộ được xây bằng đá hoa cương (cẩm thạch đen). Trước cửa chính, suốt ngày đêm luôn có hai cảnh vệ đứng gác. Thời kỳ tôi còn công tác tại Việt Nam, đã nhiều lần được vào lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đi đến cửa chính, bạn sẽ nhìn thấy trên tường hành lang khảm câu danh ngôn bằng vàng “Không có gì quý hơn độc lập tự do” của Hồ Chí Minh. Từ từ bước lên 33 bậc thềm, tiến vào đại sảnh, sẽ thấy di thể Hồ Chí Minh nằm trong quan tài thủy tinh mặc bộ quần áo ka ki kiểu Tôn Trung Sơn màu vàng nhạt, hai tay dặt trước bụng. Một đôi dép cao su – dép kháng chiến, đặt bên chân. Chung quanh quan tài thủy tinh thường xuyên có 4 chiến sĩ đứng nghiêm túc trực. Dưới ánh đèn êm dịu, gương mặt HCM hồng hào, phong thái an nhiên với chòm râu bạc, có thể thấy như Người đang ngủ.

Hồ Chí Minh sau 60 năm trường hoạt động cách mạng, một lòng một dạ vì Tổ quốc và nhân dân, chết mà như còn sống mãi. Trong tâm trí và tình cảm của nhân dân Việt Nam, Hồ Chí Minh là một nhà lãnh đạo kiệt xuất, là niềm kiêu hãnh của dân tộc. Hồ Chí Minh ra đi đã 30 năm. Mối ngày có hàng ngàn vạn lượt người đến viếng. Khoảng 10 năm gần đây, các thành viên của bộ phận kỹ thuật đặc biệt chăm sóc di hài Chủ tịch Hồ Chí Minh, vẫn âm thầm làm việc cần cù, nguyện làm người anh hùng sau hậu trường. Họ đã đem hết tài trí và tâm huyết giữ gìn di thể lãnh tụ Hồ Chí Minh một cách xuất sắc”.

 
THIÊN VI
Hạ màn và đôi lời cảm nghĩ

         Lặng lẽ suy tư khi màn hạ.
   Lịch sử là tài sản văn hóa chung của nhân loại, bất cứ một cá nhân hoặc quốc gia nào cũng không được tự coi là lợi ích của riêng mình, cho dù người ấy, tập đoàn ấy nắm quyền lực thống trị tối cao mà làm biến dạng hoặc hủy diệt lịch sử. Đương thời, các chuyên gia nghiên cứu về Hồ Chí Minh như giáo sư William J. Duiker, Sophie Quinn Judge v.v... đã đem hết tâm huyết để dựng lại sự thật về con người Hồ Chí Minh. Họ đã sưu tầm được những tấm ảnh cùng vô số những vấn đề còn nghi hoặc trong quá trình hoạt động của nhân vật huyền thoại này. Bản thân tôi đang nắm giữ những bí mật liên quan đến thân phận Hồ Chí Minh, tuy nhiên, sẽ là không công bằng với lịch sử nếu chỉ giữ làm của riêng, cho dù trong người tôi cũng có dòng máu Hồ Chí Minh. Thế nhưng, do còn chưa tìm dược đầy đủ chứng cứ có tính thuyết phục, sợ người đời chỉ trích nên chưa dám công khai, cho du từ lâu, trong gia tộc đã lưu hành lời khẩu truyền về một "bí mật dòng họ".

            Bản thân tôi từng tốt nghiệp Khoa Lịch sử, gánh trên vai sự ủy thác của gia tộc, xét thấy, cần phải vô tư đem những tư liệu lịch sử về Hồ Chí Minh công khai với thế nhân, để các chuyên gia, học giả làm cơ sở nghiên cứu, nhằm đưa đến cho người đọc một Hồ Chí Minh đúng với sự thật lịch sử.

            Hiện tại, tác giả chính thức viết bài công bố: Người mang tên Hồ Chí Minh, "Cha già dân tộc Việt Nam", xuất hiện vào thời kỳ sau năm 1933, chính là Hồ Tập Chương đến từ Miêu Lật, Đài Loan, hoàn toàn không phải tự bản thân bịa đặt bởi ham hố hư danh. Thực ra, cẩn thận nhìn lại toàn bộ cuộc đời Hồ Chí Minh, đứng trên lập trường gia tộc mà xét, nghĩ lại thật vô cùng đau xót khi người con trai duy nhất của Hồ Tập Chương là Hồ Thự Quang nói chuyện với tôi: "Thấy cha đẻ Hồ Chí Minh của mình là Chủ tịch nước Việt Nam mà không biết làm thế nào, chỉ nhìn rồi thương cảm". Vào lúc chú Thự Quang lâm chung, lòng vẫn không nguôi ngoai nhớ đến phụ thân.

            Từ lâu, tôi đã nhận sự ủy thác của gia tộc, trường kỳ tìm hiểu những chứng cứ có liên quan đến cuộc đời Hồ Chí Minh. Hơn nữa, vào lúc hấp hối, cha tôi còn dặn lại: "Một số tấm ảnh chụp cuối đời Hồ Chí Minh, nhìn kỹ càng giống ông nội con. Thời cơ đã đến, chớ ngại đem sự thật dòng họ viết thành sách để người đời hiểu rõ". May thay, sau khi hỏi chuyện những bậc cao niên trong họ, cùng nhiều năm sưu tầm tư liệu, đối chiếu với các tác giả viết truyên ký về Hồ Chí Minh, kể cả những điểm còn mù mờ trong cuộc đời hoạt động của ông, tôi đã sọan được cuốn "Hồ Chí Minh sinh bình khảo" (Tìm hiểu cuộc đời Hồ Chí Minh), sau đó thì ngừng viết nhiều năm, trong lòng luôn thắc thỏm bất an, nhưng cuối cùng cũng hoàn thành được công việc gia tộc giao phó. Tác giả tự thấy phải có trách nhiệm công bố trước độc giả: "Hồ Chí Minh sau năm 1943 tuyệt đối không phải là Nguyễn Ái Quốc". Về điểm này, tôi hoàn toàn có đầy đủ chứng cứ đích xác. "Còn Hồ Chí Minh sau năm 1933 chính là Hồ Tập Chương đến từ Miêu Lật, Đồng La, Đài Loan".

            Lịch sử giống  như một tấm gương luôn nhắc nhở chúng ta, phàm là các dấu vết sửa chữa, ngụy tạo, làm lại như nguyên mẫu, cho dù trải qua năm tháng, nhưng cuối cùng vẫn bộc lộ hình tích.

Ngày tháng thoi đưa, tác giả nhẫn nại chờ đợi thời cơ. Vào năm 2000, giáo sư William J. Duiker, xuất bản cuốn "Truyện Hồ Chí Minh" tại Mỹ (Ho Chi Minh, by William J. Duiker, Hyperion, New York, 2000).

Năm 2001, tại Anh Quốc, Paul Draken công bố "Nhật ký Paul Draken - Nguyễn Ái Quốc", năm 2003, cũng tại Anh Quốc,  Sophie Quinn Judge xuất bản cuốn "Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh, 1911-1941" (Ho Chi Minh: the missing Years 1919- 1941, by. Sophie Quinn Judge, Hurst, Company. London, 2003). Sau đó ít lâu, vào năm 2004, tại Đại lục Trung Quốc, cac báo và tạp chí lần lượt cho đăng tải nhiều bài viết về tình yêu và hôn  nhân của Hồ Chí Minh. Các chứng cứ từ những tác phẩm nghiên cư có uy tín dần đần xuất hiện. Thời cơ từng bước chín muồi, lúc ấy tôi mới bắt tay viết "Tìm hiểu cuộc đời Hồ Chí Minh".

Từ năm 1971, khi được đọc tác phẩm "Hồ Chí Minh ở Trung Quốc" của nhà sử học Đài Loan Tưởng Vĩnh Kính, trong đó có đoạn nói về việc "Nguyễn Ái Quốc mất tích vì bị bệnh chết", tôi nhận thấy, đây có khả năng là sự thật. Năm 1993, tôi lại đọc cuốn "Chú giải Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh" của giáo sư Hoàng Tranh, trong đầu càng nảy sinh nghi ngờ, Nguyễn Ái Quốc khó có thể là tác giả tập thơ này. Tuy vậy, tôi vẫn còn e ngại, chưa dám động bút, sợ chưa đủ chứng cứ, bị dư luận phản ứng, thành trò cười, liên lụy đến cả gia tộc.

Tôi đã biết rất rõ ràng, thời gian từ 1929 đến 1933, Hồ Tập Chương hoạt động ở Đại lục Trung Quốc, hẳn là còn lưu trữ trong hồ sơ của Đảng bộ Thượng Hải, cũng như thời kỳ từ năm 1933 đến 1938, Hồ Tập Chương hoạt động ở  Mạc Tư Khoa cũng còn lưu tại hồ sơ Trung tâm Quốc tế cộng sản. Tại hai nơi này, ta có thể tìm được những chứng cứ quan trọng bậc nhất về lai lịch Hồ Tập Chương, cho dù từ lâu nay, tầng lớp lãnh đạo chóp bu của Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn ra sức che giấu.

            Xét thấy, bản thân kiến thức và khả năng ngoại ngữ còn hạn chế, sự hiểu biết về lịch sử nông cạn, và nhất là chưa có được sự can đảm, thế nhưng, may mắn thay, như kẻ "mò kim đáy bể", tôi đã tiến một bước trong việc tìm được cứ liệu lịch sử quan trọng bậc nhất. Từ những  tư liệu của giáo sư William J. Duiker, và Sophie Quinn Judge, tôi kiểm tra, so sánh, đối chiếu, cuối cùng đã tìm ra được sự thật lịch sử trong cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh, trả lại thân phận chân chính cho Nguyễn Ái Quốc và Hồ Tập Chương. Tôi từng đặt tay lên ngực tự hỏi: "Hồ Chí Minh là người Việt Nam hay người Đài Loan?", rồi tự thấy đã rõ ràng liền trả lời: "Đương nhiên là người Việt Nam, bởi Hồ Chí Minh chẳng qua chỉ sinh ra tại Đài Loan mà thôi". Sứ mệnh của Hồ Chí Minh là phụng sự nền độc lập Việt Nam, hy sinh gia đình, bỏ vợ con ở Đài Loan, cống hiến trọn đời cho dân tộc Việt, thậm chí không oán thán, không hối hận, cam chịu hóa thân thành Nguyễn Ái Quốc.

            Từ năm 1934, bắt đầu thời kỳ đỉnh cao hoạt động của Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh trong lòng đã tự nhận mình là người Việt Nam, chỉ là vì thời cơ bên ngoài chưa chín, nên không dám công khai thừa nhận mình là Nguyễn Ái Quốc, dù cho, tháng chín năm 1945, tại quảng trường Ba Đình, ông đã đọc "Tuyên ngôn độc lập" với danh xưng "Hồ Chí Minh" truyền đi khắp thế giới. Việc này cũng chẳng phải là dụng ý tư tâm của Hồ Chí Minh vì muốn nổi tiếng mà không lấy danh nghĩa Nguyễn Ái Quốc để phát ngôn. Bởi lẽ, lúc ấy trong Chính phủ lâm thời có phe đối lập. Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Trương Trung Phụng thuộc phái Troskism như cú nhòm nhà bệnh, bởi họ đều biết rất rõ, Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc. Nếu Hồ Chí Minh công nhiên lấy tên Nguyễn Ái Quốc điều hành chính phủ, sẽ là điều kiện thuận lợi để họ vạch trần ông đã lừa dối nhân dân Việt Nam cầm quyền, kích động quần chúng đứng lên phản đối Việt Minh, hủy hoại hình ảnh yêu nước, thương dân của "Cha già dân tộc".

            Năm 1946, Hồ Chí Minh đích thân tham dự Tổng tuyển cử toàn quốc, bầu chọn dược 323 đại biểu Quốc hội, nhất trí đề cử Hồ Chí Minh là Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đồng thời suy tôn ông là "công dân số một". Thời kỳ này, nhóm Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh đều đã theo quân đội Quốc dân đảng về Trung Quốc. Năm 1951, Việt cộng thành lập Đảng Lao động, độc quyền lãnh đạo đất nước, đến lúc ấy, Hồ Chí Minh mới công khai thừa nhận mình là Nguyễn Ái Quốc. Mãi đến năm 1969, trước khi Hồ Chí Minh qua đời, trong bản "Di chúc", ông vẫn canh cánh trong ḷng, không quên nền độc lập dân tộc, không quên sự đoàn kết phấn đấu của Đảng, không quên các liệt sĩ, không quên sự bình đẳng giới đối với phụ nữ, không quên sự giáo dục thiếu niên nhi đồng, không quên cuộc sống cần phải có hạnh phúc, tự do của nhân dân. Hồ Chí Minh đã dành hết sức lực, tinh thần và tình cảm cho đất nước và nhân dân Việt Nam, vậy thì ai dám bảo ông là người Đài Loan? Bởi lẽ ông chỉ miễn cưỡng sinh ra ở đất Đài Loan mà thôi.

            Có người bạn biết tôi đang viết cuốn "Tìm hiểu cuộc đời Hồ Chí Minh", đã tỏ thái đọ khiếp sợ mà nói: "Ông viết Hồ Chí Minh là người Đài Loan không sợ bị phản ứng sao? Việc ông làm có thể sẽ xúc phạm đến dân tộc Việt Nam ". Nghe xong, tôi bình tĩnh trả lời: "Hồ Chí Minh qua đời đã 40 năm, chiến tranh Việt Nam kết thúc đã 35 năm. Năm 2001, Việt Nam và Hoa Kỳ ký Hiệp định Mậu dịch song phương và gia nhập tổ chức WTO. Năm 2006, kim ngạch mậu dịch đạt 970 triệu dollar, tăng trưởng kinh tế mỗi năm ước tính 20%. Hai nước đã sớm bắt tay nhau đối thoại hòa bình, tích cực phát triển quan hệ song phương. Việt Nam và Đài Loan cũng đã thiêt lập quan hệ ngoại giao 15 năm. Căn cứ vào con số thống kê của Bộ Kinh tế, năm 2007, kim ngạch đầu tư của Đài Loan vào Việt Nam khoảng 10 tỷ dollar, là nhà đầu tư đứng thứ hai ở nước này.

            Năm 1946, Hồ Chí Minh có dịp trả lời phỏng vấn nhà báo nước ngoài. Bài phỏng vấn này, sau đó được đăng tải trên báo "Cứu quốc" ngày 21 tháng giêng năm 1946. Tiếp đó, Hồ Chí Minh trả lời một người bạn:

            "Một là, tôi, Hồ Chí Minh không có mảy may tham vọng công danh phú quý, hiện tại ở cương vị chủ tịch nước là do sự ủy nhiệm của đồng bào toàn quốc, tôi sẽ đem hết sức mình mà làm, giống nhý một ngýời lính, nhận mệnh lệnh ðất nýớc, xông ra chiến trýờng. Tôi chỉ có một nguyện vọng khắc sâu trong lòng là, làm thế nào để đất nước hoàn toàn độc lập, dân tộc dược hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Ngày khác, nếu đồng bào yêu cầu từ chức, tôi sẽ rất vui sướng trút bỏ trách nhiệm, sau đó làm một gian nhà nhỏ bên núi xanh, suối biếc, có thể trồng hoa, câu cá, suốt ngày làm một lão tiều phu thả trâu, cùng lũ mục đồng kết thành bè bạn, không còn bất cứ mối liên hệ nào đến chuyện danh lợi.

            Hai là, trong một nhà nước dân chủ, mọi người đều tự do tín ngưỡng, tự do thành lập đoàn thể, bởi hoàn cảnh và trách nhiệm, tôi chỉ đứng ngoài các đảng phái, tìm kiếm nền độc lập dân tộc. Nếu như nhà nước chỉ có nhu cầu thành lập một đảng, thì đó sẽ là "Đảng Việt Nam Quốc gia Dân tộc". Nhiệm vụ duy nhất của đảng này, tựu trung là làm thế nào để quốc gia, dân tộc hoàn toàn tộc lập. Đảng viên của đảng này, mọi công dân Việt Nam đều có thể tham gia, nhưng những kẻ bán nước và những kẻ tham ô thì cấm cửa. Hy vọng các nhân sĩ nước ngoài và đồng bào trong nước hiểu rõ cho điều này".

            Ngày nay, khi luận về thân thế Hồ Chí Minh và công lao của ông, chúng ta nên để cho lịch sử phán xét. lấy việc Hồ Chí Minh nhận lời phỏng vấn ký giả ngoại quốc làm cơ sở kiểm nghiệm, có phải ông đã thành tâm thể hiện lòng trung thành với nhân dân Việt Nam qua những lời hứa hẹn? Có phải những nhà lãnh đạo Việt Nam chân chính trên con đường gian nan tìm kiếm nền độc lập dân tộc không suy nghĩ đến lợi ích riêng tư? Tự mình không làm mất thanh danh, phá hoại công khí quốc gia? Sinh thời, Hồ Chí Minh đã vận động thực hiện "cần kiệm liêm chính", tự mình làm gương cho mọi người noi theo. Hồ Chí Minh còn vận động phong trào xóa nạn mù chữ, vận động phong trào thể dục thể thao để nâng cao sứckhỏe, vì thế, việc nhân dân Việt Nam gọi ông là "Bác Hồ" liệu có phải xuất phát từ lòng kính trọng? Bỏ đi những phán xét của ông chúng về ảnh hưởng của Hồ Chí Minh với nhân dân Việt Nam mới chính là cố chấp, làm tổn hại đến danh dự dân tộc và sự tôn nghiêm của ông.

            Tôi đã từng hỏi chuyện một số bạn bè Việt Nam tại Đài Loan: "Có tin tức loan truyền Hồ Chí Minh là người Trung Quốc, thậm chí là người Đài Loan, bạn nghĩ như thế nào?". Một người có trình độ đại học trả lời: "Hồ Chí Minh mất cách đây đã khá lâu, ông đã có cống hiến nhiều cho Việt Nam. Mục đích của chúng tôi sang đây là kiếm tiền cải thiện điều kiện sinh hoạt gia đình. Chúng tôi luôn cố gắng phấn đấu học tập kỹ thuật, trau dồi học vấn để tăng khả năng cạnh tranh của đất nước trên trường quốc tế, làm cho dân giầu nước mạnh. Còn chuyện Hồ Chí Minh là người Trung Quốc hay Đài Loan hãy để cho lịch sử phán xét. Đối với tuổi trẻ chúng tôi việc này không phải là quan trọng. Mong muốn của chúng tôi là đất nước phát triển, tiền đồ tươi sáng trong tương lai". Một phụ nữ Việt Nam lấy chồng Đài Loan thì nói: "Trước đây hình như tôi đã nghe nói đến Hồ Chí Minh là Hoa kiều. Việc này nên để lịch sử thẩm định. Chúng tôi không có ý kiến gì nếu quả thật Hồ Chí Minh là người Đài Loan". Rồi chị cười nói vui: "Hai nhà thành một nhà thân thiết, chẳng là rất tốt sao?".

            Nghe các bạn trả lời, tôi có cảm giác như mình từng đến Việt Nam nhìn thấy cảnh hoang tàn, đổ nát sau cuộc chiến, đang từng bước hồi sinh phát triển.

              Ghi nhớ lời dặn, nhìn về tương lai.

            Hồ Chí Minh có phải là người ủng hộ đường lối của Quốc tế cộng sản hay là người theo Chủ nghĩa Quốc gia Dân tộc? Từ lâu nay, người Mỹ luôn tranh luận về vấn đề này. Những năm gần đây, các học giả Mỹ đã đi đến thống nhất nhận định, thời kỳ đầu đúng là Hồ Chí Minh theo đường lối Dân tộc chủ nghĩa, sau đó mới là Cộng sản chủ.nghĩa

            Lúc ấy, chính sách chống cộng của Harry Truman rất cứng rắn khiến cho nước Mỹ hiểu lầm về Hồ Chí Minh và tình hình chính trị Việt Nam. Sai lầm này khiến cho quân đội Pháp tái chiếm Hà Nội, làm mất đi thời cơ hòa bình và phát triển đất nước mà lịch sử dành cho, thậm chí còn ảnh hưởng đến mãi sau này, khi mà Mỹ đem nửa triệu quân vào Việt Nam tiến hành cuộc chiến chống cộng nhưng đã thất bại.

Nước Mỹ nhận đinh sai lầm về Hồ Chí Minh chỉ vì Mỹ đem sự kiện năm 1920, Nguyễn Ái Quốc gia nhập đảng Cộng sản Pháp, năm 1924 đã có chỗ đứng trong ban lãnh đạo Quốc tế cộng sản, nhưng năm 1945, ông lại tích cực tìm kiếm mối quan hệ hữu hảo với Mỹ, thậm chí còn giải tán Đảng Cộng sản Đông Dương. Do hoàn cảnh bắt buộc, thực chất chỉ là đóng vai diễn chứ không phải Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh là một người.

Năm 1944, nhân việc giải cứu một phi công do máy bay bị bắn rơi tai sơn khu Việt Bắc là Rudolph Shaw, vì thế, lần đầu tiên Hồ Chí Minh tiếp xúc với người Mỹ và quen biết với một số nhân viên cơ quan tình báo chiến lược Hoa Kỳ (Office of Strategic Services) là Allison Thomas, Charles Fenn và Archimedes Patti. Những nhân viên tình báo này, chẳng những đã có một thời kỳ dài cùng sống với Hồ Chí Minh ở sơn khu Việt Bắc mà còn đi với ông về Hà Nội, cùng Việt Minh tham gia vào cuộc Khởi nghĩa tháng Tám. Họ tuy biết Hồ Chí Minh là đặc vụ của Quốc tế cộng sản, nhưng họ cũng nhận thấy ông là người theo chủ nghĩa thực dụng, cho nên đã giúp đỡ Việt Nam giành độc lập.

Hồ Chí Minh đã nhiều lần nói với Patti rằng, ông không phải là con rối của Mạc Tư Khoa, ông là một đặc vụ tự do. Nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa theo Mỹ sẽ được chi viện nhiều hơn so với Nga Xô. Việt Nam sẽ là đồng minh của nước Mỹ. Ông cũng nhờ Patti chuyển lời đến nước Mỹ: "Cảm ơn người Mỹ hỗ trợ, Việt Nam sẽ coi nước Mỹ là bạn bè".

Tiếc thay, câc quan chức ngoại giao Hoa Kỳ không nhận ra sự thành tâm tìm sự hợp tác, trước sau họ vẫn cho rằng Hồ Chí Minh tức là Nguyễn Ái Quốc. Đây chính là chiêu bài của những kẻ ủng hộ ý kiến coi ông là người theo đường lối Quốc tế cộng sản. Tổng thống F. Roosevelt đã truyền đạt: "Việt Nam tìm kiếm ở Hoa Kỳ tinh thần độc lập, Hoa Kỳ sẽ mãi mãi là mẫu mực của Việt Nam", thậm chí, ông còn khẩn thiết yêu cầu nước Mỹ lấy mô hình Philippines để đối xử công bằng với Việt Nam. Việt Nam sẽ mở cửa eo biển Kim Lan cho Hoa Kỳ sử dụng làm căn cứ hải quân Viễn Đông, đồng thời còn dành cho quy chế tối huệ quốc về lợi ích kinh tế.

Từ tháng mười đến tháng mười một năm 1945, Hồ Chí Minh liên tiếp gửi ba bức thư đến Bộ Ngoại giao Hòa Kỳ, thỉnh cầu nước Mỹ giúp đỡ Việt Nam giành độc lập. Tuy nhiên, vào lúc ấy, tổng thống F.Roosevelt vừa qua đời, người kế nhiệm là Harry Truman, một nhà lãnh đạo chống cộng cực đoan. Bao nhiêu nỗ lực của Hồ Chí Minh trong việc tìm kiếm sự hợp tác giúp đỡ của Mỹ đều thất bại. Ngày 6 tháng ba năm 1946, quân đội Pháp được Mỹ viện trợ, quay lại chiếm đòng Hà Nội.

Vào dịp Đảng Cộng sản Việt Nam kỷ niệm 60 năm lập nước, cựu thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt viết bài "Đại đoàn kết dân tộc là nguyên nhân thành công của chúng ta" đăng trên các báo quốc nội, kêu gọi nhân dân thực hiện chủ trương dại đoàn kết. Trong bài viết của mình, Võ Văn Kiệt đã dẫn lời của Hồ Chí Minh, đồng thời đề cập đến một số sự kiện xảy ra trong mấy chục năm qua. Ông cũng nhắc đến việc năm 1945, Hồ Chí Minh lãnh đạo chính phủ, chủ trương xóa bỏ chế độ cũ, vốn là nguyên nhân gây thù hận và phân hóa xã hội, hướng đến việc xây dựng đất nước trong tương lai, tiếp nhận những người tài năng, trọng dụng những người có nguyện vọng xây dựng đất nước mà không cần biết những việc làm của họ trong quá khứ.

Phần kết luận, Võ Văn Kiệt viết: "Sử dụng đối kháng và bạo lực để giải quyết vấn đề chỉ là từ trong hận thù phát sinh hận thù mới. Lấy phương thức cảm hóa giải quết tranh chấp, hận thù có thể loại bỏ. mà lại có cơ hội tăng cường sức mạnh. Nếu như lấy ý thức giai cấp phân biệt nhân dân, vì thua mà hận thù, vì thắng mà kiêu ngạo, với chính mình, với quốc gia, thì hình ảnh ấy trước thế giới chẳng có chút ý nghĩa gì". Võ Văn Kiệt tin tưởng: "Đất nước, núi sông, văn hóa không phải là của riêng bất cứ ai, của giai cấp nào hoặc đảng phái nào. Nó là của mỗi người Việt Nam, là tài sản chung của nhân dân Việt Nam. Dân tộc mà phân hóa, đối địch, cho dù tài nguyên đất nước phong phú, nguồn nhân lực dồi dào cũng không thể có động lực sáng tạo mà địa vị quốc tế cũng không bền vững. Nhìn ra thế giới, các kinh nghiệm lịch sử đã chứng minh, nhân tài là nguyên khí quốc gia. Nhân lực tập hợp vùng lên, mọi sức mạnh được huy động, lòng người không còn nghi ngại. Có được sức mạnh tổng hợp, sẽ đến một ngày đất nước cất cánh.

Tôi xin lấy "Ghi nhớ lời dặn, nhìn về tương lai" làm lời kết cho cuốn sách. Cái gọi là "Ghi nhớ lời giáo huấn" chỉ là chớ quên những bài học và kinh nghiệm lịch sử. Nhận lầm Hồ Chí Minh không phải không có thể là đồng minh chống cộng, vì thế, đã tạo nên cuộc chiến thảm khốc mười năm ở Việt Nam. Cái gọi là "nhìn đến tương lai là chỉ trong sự dối lập và thù hận, nếu nắm được thời cơ xoay chuyển tình thế thì sẽ có kết cụ tốt đẹp.

Chú thích:

            (1) Chưa đối chiếu được tên bằng tiếng Pháp.

(2) Chưa đối chiếu được tên tác giả bằng tiếng Nga.

            (3)Chưa tìm được tên phố bằng tiếng Nga.

            (4) Chưa tìm được nguyên danh bằng tiếng Nhật

            (5) Nguyên văn là "Quốc phụ"(Chỉ Tôn Trung Sơn)

            (6) Phát xít Pháp

            (7) Chưa đối chiếu được họ của tác giả bằng tiếng Pháp

            (8)Chưa đối được với nguyên danh bằng tiếng tiếng Nga

 

Tài liệu tham khảo

I - 中文書目

1."胡志明在中國"蔣永敬著, 傳記文學出版社, 1971,台北。

2."胡志明與中國" 黃錚編著, 解放軍出版社, 1987, 北京。

3. "胡志明獄中詩注釋" 黃錚注釋, 廣西教育出版社,1992, 廣西。

4. "胡志明與越南獨立" 楊碧川著, 一橋出版社, 1998, 台北。

5. "龍保羅日記  -  阮愛國"  保羅德芮肯YAOX集團發行電子檔, 2000, 台北。

6."抗日戰爭在中國的外國家元首國" 曹晉杰著, 人民出版社, 2002, 黑龍江。

7. "越南國父 - 胡志明" 李家忠編譯, 世界知識出版社, 2003,  北京。

8. "胡志明漢文詩抄, 注釋, 書法",  黃錚編著, 廣西師範大學出版社, 2004, 桂林

9."越南胡志明在柳州"  州巿文化局編, 廣西人民出版社2005,柳州。

10."胡志明廣西", 廣西社會科學院編著, 廣西人民出版社, 2006, 廣西。

11. "戰鬥中的新越南" 麥浪著, 越南出版社, 1948, 河內

12. "越南人民反帝鬥爭史" 呂毅著, 東方書社出版, 1951, 上海

13. "越南人的解放鬥爭" 陳懷南著, 世界知識社, 1954, 北京。

14. "八月革命史" (1945) 越南外文社出版編, 文外出社, 1972, 河內

15. "滄海一粟" 黃文歡革命回記錄, 解放軍出版社, 1987, 北京。

16. "日据時代臺灣共產黨史(1928 - 1932)" 盧修一著, 前衛出版社, 1989, 台北。

17. "越南歷史" 吳鈞著, 自猶僑聲雜誌社, 1992, 西貢 (Sài Gòn)

18. "陶鑄傳" 鄭笑楓,舒玲著, 中國青年出版社, 1992, 北京。

19. "康生與 '內人黨' 冤案" 祝東力著, 中共中央黨校出版社, 1995, 北京。

20. "亞細亞的孤兒" 吳濁流著, 草根出版社, 1995,  台北。

21. "李富春傳" 房維中,金沖及著, 中央文獻出版社,, 2002, 北京。

22. "中外領袖之間, 13-14 胡志明" 南哲, 紅旗出版社, 2003, 北京。

23. "李克農傳" 徐林祥,朱玉編著 安徽人民出版社, 2003, 合肥。

24. "葉劍英的非常之路" 氾碩著, 安徽人民出版社, 2003, 北京。

25. "李立三紅色傳奇上. " 李思慎著, 中國工人出版社, 2004, 北京。

26. "張發奎傳" 王心鋼著, 珠海出版社, 2005, 珠海市。

27. "生死歲月 - 胡志明小到紀行" 趙銳著, 軍事誼文出版社, 2005, 北京。

28. "廬山檔案" 馬社香著, 安徽人民出版社, 2006, 北京。

29. "陳賡傳" 陳賡傳編寫組, 當代中國出版社, 2007, 北京。

30. "蘇聯史論" 吳恩遠著,人民出版社, 2007, 北京。

31. "日据時期台灣人反抗史", 楊碧川著, 稻香出版社, 1988,  台北。

 

II -  外文中譯的書目

1. "胡志明第一 四篇日文版" 吳濁流著, 國華書局出版, 1946, 台北。

2. "胡志明第一五篇日文版"  吳濁流著,學友書局出版, 1948, 台北。

3. "越南" Andrew Roth , 移模譯, 時代書報出版社, 1948,  上海

4. "自猶越紀行" Leo Figueres , 陳占元譯, 世界知識社, 1954, 北京。

5. "十七度線以北" . 具卻敵著, 曾浩譯, 世界知識社, 1956, 北京。

6. "亞細亞的孤兒" 傳恩榮譯,  南華出版社, 1962, 台北

7. "北越內幕" P. J. Honey , 陳銘感譯, 篝火出版社, 1966,香港。

            8. "為了獨立自由為了社會主義" 胡志明, 外文出版社, 1971, 越南河內

9. "河內分道揚鑣" 張如磉著, 強名,華實譯, 世界知識社, 1989, 北京。

10. "宋慶齡傳上. " Istael Epstein , 沈蘇儒譯, 日臻出版社, 1994,                        北京。

11. "周恩來與現代中國" Han Suyin, 張連康, 絲路出版社, 1995,                         台北。

12. "胡志明" D.O. Lloyd, 尤淑雅, 鹿橋文化事業出版, 1966, 台北。

            13. "胡志明主席傳略和事業" 阮芳草編輯, 文化通訊出版社, 2007,                          越南河內

            14. "胡伯伯日常生活的故事" 歐越興編輯, 世界知識社, 2007, 越南河內

            15. "台灣抗日運動史研究" 若林正文著, 台灣日文史料典籍研讀會譯,                                播種者出版社, 2007, 台北。

 

            III. 英文書目

            1. From Colonialism toCommunism a case  History of  North Vietnam, by Hoang Van Chi an introduction by P.J. Honey, Frederick A. Praeger, New York. London, 1965.

            2. Ho Chi Minh a Biographical Introduction, by Chrales Fenn. Charles Scr1bnwr's Sons, New York, 1973.

            3. Who's who in political revolutions: seventy- three men and women who changed the world, Jack A. Goldstone, Congressional Quarterly, Washington, D.C. 1999.

4. Ho Chi Minh, by William J. Duiker, Hyperion, New York, 2000.

            5. Ho Chi Minh: the missing Years 1919- 1941, by. Sophie Quinn Judge, Hurst, Company. London, 2003.

            6. Down With Colonialism Ho Chi Minh, by Walden Bello. Verso, New York. London, 2007.

            7. Ho Chi Minh a Biographi, by Pierre Brocheux, Translated by Claire Duiker, Cambridge University Press, New York, 2007.

 

            IV. 越文書目

1. "Hồ Chí Minh toàn tập", tập 1 (1919 -1924), Nhà xuất bản Chính trị Quốc                  gia, 2002, Hà Nội.

2. "Hồ Chí Minh toàn tập", tập 2 (1924 -1930), Nhà xuất bản Chính trị Quốc                  gia, 2002, Hà Nội.

3. "Hồ Chí Minh toàn tập", tập 3 (1930 -1945), Nhà xuất bản Chính trị Quốc                  gia, 2002, Hà Nội.

4. "Hồ Chí Minh toàn tập", tập 4 (1945 -1946), Nhà xuất bản Chính trị Quốc                  gia, 2002, Hà Nội.

5. "Hồ Chí Minh toàn tập", tập 5 (1947 -1949), Nhà xuất bản Chính trị Quốc                  gia, 2002, Hà Nội.

6. "Hồ Chí Minh toàn tập", tập 6 (1950 -1952), Nhà xuất bản Chính trị Quốc                  gia, 2002, Hà Nội.

7. "Hồ Chí Minh toàn tập", tập 7 (1953 -1955), Nhà xuất bản Chính trị Quốc                  gia, 2002, Hà Nội.

8. "Hồ Chí Minh toàn tập", tập 8 (1955 -1957), Nhà xuất bản Chính trị Quốc                  gia, 2002, Hà Nội.

9. "Hồ Chí Minh toàn tập", tập 9 (1958 -1959), Nhà xuất bản Chính trị Quốc                  gia, 2002, Hà Nội.

10. "Hồ Chí Minh toàn tập", tập 10 (1960 -1962), Nhà xuất bản Chính trị                         Quốc gia, 2002, Hà Nội.

11. "Hồ Chí Minh toàn tập", tập 11 (1963 -1965), Nhà xuất bản Chính trị                         Quốc gia, 2002, Hà Nội.

12. "Hồ Chí Minh toàn tập", tập 3 (1966 -1969), Nhà xuất bản Chính trị Quốc                 gia, 2002, Hà Nội.

13. "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch", Trần Dân Tiên,          Nhà xuất bản Thanh niên, 1958, Hà Nội.

14. "Nghệ thuật thư pháp với thơ 'Nhật ký trong tù' của Chủ tịch Hồ Chí                            Minh", Nguyễn Việt biên soạn, Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2003,        TP. Hồ Chí Minh.

15. "Chị Minh Khai", Nguyệt Tú, Nhà xuất bản Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.

16. "Bác Hồ viết di chúc", Vũ Kỳ, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2005, TP.                  Hồ Chí Minh.

17. "Toàn văn Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh", Vũ Kỳ, Nhà xuất bản                   Chính trị Quốc gia, 2005, TP. Hồ Chí Minh.

18. "Kỷ niệm về Bác", Bảo tàng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Tông tin, 2007,         TP. Hồ Chí Minh.

19. "Hồ Chí Minh, nhà dự báo thiên tài", Trần Đương, Nhà xuất bản Thanh            niên, 2008, Hà Nội.

20. "Chuyện kể về thời thiếu niên của Bác Hồ", Đỗ Hoàn Linh -Nguyễn Văn           Dương biên soạn, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, 2008, Hà Nội.

21. " Hồ Chí Minh, nhà báo cách mạng", Cao Ngọc Thắng, Nhà xuất bản                           Thanh niên, 2008, Hà Nội.

22. "Những năm tháng bên Bác Hồ kính yêu", Nhà xuất bản Thanh niên, 2008,                   Hà Nội.

23. "Hỏi đáp về thời thanh niên của Bác Hồ", Nguyễn hương Mai biên soạn,           Nhà xuất bản Thanh niên, 2008, Hà Nội.

24. "Bác Hồ trên đất nước Lê nin", Nhà xuất bản Thanh niên, 2008, Hà Nội.

25.. "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch", Trần Dân Tiên,          Nhà xuất bản Trẻ, 2008, TP. Hồ Chí Minh

 

V. 論文,期刊,報紙,網欄專文     

1. "台灣日新報" 國家圖書館視聽室微膠捲, 1938 1112, 18, 21, 12, 7日。

2. "胡志明在香港 1931- 1932" DennisDuncanson "中國季刊 1- 3" 1974            年。

3."胡志明和他的中國夫人曾雪明" 徐雙明 "武漢文史月刊" 2001                          年第一期。

4. "李克農在桂林"(八辦)的傳奇鬥爭" 庾晉 "文史春秋" 2003年第十二期。

5. "一九三十一年香港案件" 阮越鴻 "越南國父胡志明附錄" 2003年。

6. "胡志明遺體保存祕聞" 李家忠, "世界新聞報" 20041210日。

7. "胡志明與林依蘭的生死戀" 梁益新 "人民文摘" 2004年第十二期。

8. "越南戰爭實錄" 解力夫 "網路電子書" 2004    

9. "胡志明私人生活離不開中國" 李家忠 "世界新聞報" 20057 11日。

10. "見證中越友誼追憶胡志明" 熊紅明 "越南早報" 2006 814日。

11. "胡志明的妻妾情人們" 嶺南遺民 "百家爭鳴網悠悠南山下" 2006                   10月。

12. "胡志明在龍州的革命祕事" 李偉東 "廣西日報" 2006 1227日。

13. "胡志明之政治道路" 阮世英 "百家爭鳴網悠悠南山下" 2007年。

14. "吳濁流 '胡志明' 研究" 河原功 "台灣文學學報" 10 2007年。

15."中國共產黨早期為收回臺灣主權所作的努力3"田鶴年 "台海歷史縱橫"           2007年。

Tìm hiểu về cuộc đời Hồ Chí Minh
Tác giả Hồ Tuấn Hùng

 

HẾT

Không có nhận xét nào: