Hồ Tuấn Hùng (5)


Tìm hiểu về cuộc đời
Hồ Chí Minh
Kỳ 5

Trung Cộng ẩn giấu chuyện hôn nhân Tăng Tuyết Minh.

Nguyễn Ái Quốc và Tăng Tuyết Minh, năm 1925 bắt đầu có quan hệ luyến ái, năm 1926 kết hôn, vậy vì sao, người cháu con bà chị là Từ Song Minh đến năm 2000 mới công bố bài viết “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh” kể về chuyện hôn nhân của bà Cô Mười? Qua sử
liệu và quá trình nghiên cứu, đối chiếu, ta có thể thấy bên trong sự kiện này có nhiều vấn đề phức tạp. Sự thật cuộc hôn nhân này dường như đã bị ban lãnh đạo Cộng sản VN bưng bít, xem như một loại tài liệu cơ mật không thể công bố. Năm 2000, William J. Duiker xuất bản cuốn “Truyện Hồ Chí Minh”, tập 1, tác giả có đề cập đến chi tiết, một đồng chí của NAQ là Lam Đức Thư (Lâm Đức Thụ?!) tố cáo với Cục Bảo an Pháp như sau: “Tăng Tuyết Minh chê Nguyễn Ái Quốc nhiều tuổi, không phù hợp với ḿnh, chấp nhận kết hôn chẳng qua là do nhu cầu kinh tế”. Đoạn này rất không phù hợp với sự thực lịch sử, bởi nó đã vu khống tình yêu chân chính (sinh tử luyến) và tấm lòng trung trinh của Tăng Tuyết Minh với Nguyễn Ái Quốc, bôi nhọ nhân cách và danh dự của bà làm cho Từ Song Minh vô cùng phẫn nộ đối với William J. Duiker. Vì thế, năm 2001, ông mới viết bài “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh” do Khổng Khả Lập phê bình, đăng tại nguyệt san “Vũ Hán văn sử tư liệu”. Bài báo cực lực phản bác Lam Đức Thư vu khống, đồng thời khẳng định tình cảm của bà cô Tăng Tuyết Minh đối với Nguyễn Ái Quốc trước sau như một không hề thay đổi. Qua bài viết, Từ Song Minh cũng đã làm sáng tỏ giai đoạn bị ẩn giấu sau 75 năm quan hệ hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Tăng Tuyết Minh, từ đó cũng chứng minh được Trung Cộng và Việt cộng luôn tìm cách che giấu sự thật lịch sử này.

Trong “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc” có đoạn viết: " Ngày 19 tháng 5 năm 1950, Tăng Tuyết Minh đọc tờ “Văn hối báo” thấy in ảnh chân dung Hồ Chí Minh  cùng điện văn chúc mừng sinh nhật lần thứ 60 của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và chủ tịch Mao Trạch Đông kèm theo bài viết về cuộc đời hoạt động và sự nghiệp văn chương của ông. Đến lúc ấy bà mới biết, hình bóng người chồng thân thương lúc nào cũng thấp thoáng hiện về trong giấc ngủ hàng đêm chính là chủ tịch Hồ Chí Minh. Tuy nhiên mọi cố gắng của Tăng Tuyết Minh liên hệ với Hồ Chí Minh đều không có kết quả. Trong “Thê thiếp, nhân tình của Hồ Chí Minh”, “Lĩnh Nam di dân” viết: “Tháng 5 năm 1950, Tăng Tuyết Minh đọc “Nhân dân nhật báo” mới biết người chồng xa cách hơn hai mươi năm là Hồ Chí Minh, chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bà đã mấy lần gửi thư đến Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh cho Hoàng Văn Hoan nhưng không bao giờ nhận được hồi âm. Sau năm 1954, Tăng Tuyết Minh lại đề nghị với nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cho sang Hà Nội gặp Hồ Chí Minh nhưng cuối cũng vẫn bị lãnh đạo Trung Cộng cự tuyệt.

Theo tinh thần của bài viết, rõ ràng cho thấy, Nguyễn Ái Quốc của năm 1926 và Hồ Chí Minh của năm 1950 là cùng một người. Trung Cộng và Việt Cộng vì muốn che dấu thân phận thật của Hồ Chí Minh nên không dám dể Tăng Tuyết Minh gặp mặt ông ta. Người chủ trì hôn lễ lúc ấy là Thái Sướng và Đặng Dĩnh Siêu biết rõ Hồ Chí Minh năm 1950 không phải là Nguyễn Ái Quốc (Lý Thụy) năm 1926, chỉ biết giả câm giả điếc, biết rõ Tăng Tuyết Minh đau khổ mà không làm gì được.

Hôn nhân Tăng Tuyết Minh, thật giả - một vụ án kép.

Trong “ Hồ Chí Minh  và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh” có đoạn: “ Năm 1958, Viện Vệ sinh y vụ Quảng Châu tiến hành chỉnh phong với phương châm “đại minh, đại phóng”. Trong đám đồng sự có người tố cáo trước đây Tăng Tuyết Minh và Hồ Chí Minh có quan hệ hôn nhân mờ ám làm kinh động cả giới lãnh đạo ngành y tế. Sau mấy lần tra vấn, truy hỏi, Tăng Tuyết Minh chỉ nói: người có sự trùng tên, vật có sự đồng dạng, chuyện hôn nhân có tính chất quốc tế này là bịa  đặt. Căn cứ vào sự phủ nhận của đương sự, hơn nữa, đây là sự việc trọng đại, lãnh đạo ngành y tế bèn làm văn bản gửi lên chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ Trung Quốc Thái Sướng. Thái Sướng liền gửi công văn cho Tỉnh ủy Quảng Đông nói rõ, Lý Thụy là một bí danh của Hồ Chí Minh thời kỳ ở Quảng Châu, đồng thời cũng xác nhận Tăng Tuyết Minh và Hồ Chí Minh  đã từng là vợ chồng. Tuy nhiên, chuyện này nếu xử lý không thận trọng sẽ ảnh hưởng đến quan hệ hữu nghị hai nước, nội vụ mới được dẹp yên”.

liệu Hồ Chí Minh có biết Tăng Tuyết Minh vẫn còn sống hay không? Vì sao ông ta không thông qua Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc nhờ tìm người vợ đã mất tin nhiều năm?

Trong “Mối tình nồng thắm giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan” có đoạn viết: “ Năm 1958, bên bờ sông, tại Hà Nội, hai ông già thong thả buông cần câu cá, đó chính là Hồ Chí Minh và Đào Chú. Hồ Chí Minh  thần sắc khác thường trịnh trọng nói với Đào Chú: “Trung Quốc có câu ‘Lúc trẻ là vợ chồng, về già là bạn’. Tôi và Lâm Y Lan quen biết nhau đã hơn 20 năm, vì sự nghiệp cách mạng đành gác lại tuổi thanh xuân, giờ muốn đón Y Lan sang Hà Nội, bí mật cử hành hôn lễ để thỏa nguyện mong ước bấy lâu”. Sau khi về nước, Đào Chú báo cáo với Chủ tịch Mao Trạch Đông đề đạt nguyện vọng của Hồ Chí Minh. Khi ấy Tổng lý Chu Ân Lai và các vị lãnh đạo cao cấp cũng có mặt, vô cùng kinh ngạc. Về phía mình, Bắc Việt vội triệu tập cuộc họp Bộ Chính trị để biểu quyết về sự kiện đặc biệt này”. 

Hai bài báo trên đều xuất hiện vào năm 1958. “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh” xuất hiện vào thời kỳ Trung Cộng “đại minh, đại phóng”, sự kiện hôn nhân của Tăng Tuyết Minh và Nguyễn Ái Quốc bị hiểu sai. Thân phận nhân vật nam chính Nguyễn Ái Quốc bị biến thành Hồ Chí Minh theo kiểu “râu ông nọ cắm cằm bà kia’ hay “hồn Trương Ba da hàng thịt” tạo nên sóng gió của một vụ án kép (song bào án). Bài “Mối tình nồng thắm của Hồ Chí Minh  và Lâm Y Lan” kể về việc Hồ Chí Minh  nhờ Đảng Cộng sản Trung Quốc nối lại mối quan hệ hôn nhân với người phụ nữ Quảng Đông Lâm Y Lan. Hai sự kiện hôn nhân và tình ái trên đã thể hiện rất rõ sự khác nhau của mỗi trường hợp. Hoàn cảnh xuất hiện con người và tình yêu cũng không giống nhau. Tình yêu của Nguyễn Ái Quốc với Tăng Tuyết Minh có Đặng Dĩnh Siêu, Thái Sướng, M. Borodin, Trung Cộng và Quốc tế cộng sản chứng kiến. Tình yêu giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan có Mao Trạch Đông, Đào Chú của Trung Cộng, Tổng Bí thư Lê Duẩn và các Ủy viên BCT Cộng đảng Việt Nam biết rõ.

Có thể khẳng định, bất cứ ai, nếu không biết rõ, sẽ không dám tự tiện đưa sự kiện này lên báo chí, càng  không thể có gan bịa đặt, hư cấu. Cho nên, hai bài báo về hai sự kiện hôn nhân mâu thuẫn nhau như đã trình bày phải được khẳng định là có cơ sở thực tế.

Tăng Tuyết Minh lúc tuổi già – Tấm ảnh chân dung.

Bài “Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh”, phần cuối kèm thêm hai tấm ảnh chân dung, một trong hai tấm có dòng chữ “Tăng Tuyết Minh lúc tuổi già”. Trên tường treo ảnh chân dung Hồ Chí Minh chụp năm 1960, nhưng nếu so với tấm ảnh Lý Thụy, tức Nguyễn Ái Quốc treo trước tủ gương thì hai khuôn mặt rất không giống nhau. Tấm ảnh Nguyễn Ái Quốc chụp năm 1930 có đeo cravate. Tác phẩm “Truyện Hồ Chí Minh”, của giáo sư William J. Duiker, trong một trang ảnh kèm theo có hai tấm chân dung Nguyễn Ái Quốc và tấm chân dung Tăng Tuyết Minh để trong hộp gương gần như giống nhau hoàn toàn. W.J. Duiker nói rõ về tấm ảnh bên cạnh: “Hồ Chí Minh nói với bạn bè lànsuốt đời ông chưa bao giờ thắt cravate”, nhưng căn cứ vào tấm ảnh chân dung, có thể chứng minh, Hồ Chí Minh bảo mình chưa bao giờ thắt cravate là chuyện hoang đường. Từ chi tiết trên, bất giác tôi nhận ra được cái lý trái ngược của sự hoang ngôn ấy. Bởi vì, từ đầu chí cuối William J. Duiker luôn cho rằng Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh chỉ là một người nên mới có chuyện nghi ngờ Hồ Chí Minh suốt đời chưa từng thắt cravate. Khẳng định Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh không phải là hai người, William J. Duker giải thích thế nào về lời thanh minh của ông ta?

Kiểm tra tỷ mỉ các tấm ảnh chân dung từ sau năm 1933 kèm theo hồ sơ, bất kể là Hồ Chí Minh chủ trì các hội nghị lớn nhỏ, phát biểu trước đồng bào toàn quốc, cũng như các chuyến xuất ngoại sang Liên Xô, Trung Quốc, Ấn Độ hay nước Pháp…đều chưa thấy ông đeo cravate. Nói chung, trang phục thường xuyên của Hồ Chí Minh chỉ là loại quần áo đồng màu như Lenin hoặc Tôn Trung Sơn. Cách ăn mặc này có phần chất phác, không mấy coi trọng hình thức, thậm chí còn có vẻ quê mùa. Đây chính là kiểu sinh hoạt rất đặc biệt của Hồ Chí Minh.

Ngược lại, cách ăn mặc của Nguyễn Ái Quốc lại tỏ ra rất hợp thời trang. Ví dụ, năm 1907, lúc Nguyễn Ái Quốc 17 tuổi, rời nhà vào Huế học hệ sơ học Trường Quốc học, bị bạn bè trêu chọc, chế giễu đã chủ động cắt tóc ngắn, trang phục như trào lưu thời thượng. Tại nước Pháp, Liên Xô hay Trung Quốc, cho dù gặp lúc kinh tế quẫn bách, nhưng tại các cuộc họp, Nguyễn Ái Quốc vẫn tạo mọi điều kiện để mặc Âu phục, thắt cravate. Những tấm ảnh cňn lại được lưu trong hồ sơ của ông đã chứng thực nhận xét trên. Trong “Thê thiếp và nhân tình của Hồ Chí Minh”, “Lĩnh Nam di dân” từng viết: "Con gái Vera Vasilieva từng nói với Sophie Quinn - Judge, Nguyễn Ái Quốc ăn mặc cực kỳ chỉnh tề và đúng mốt thời trang. Ông ta thường phối hợp màu sắc một cách hài ḥa khiến mọi người đều phải chú ý vào chiếc cravate. Hơn nữa, trên người Nguyễn lúc nào cũng phảng phất mùi nước hoa càng tăng thêm vẻ lịch lãm”. Phía sau tấm ảnh chân dung dường như còn ẩn giấu nỗi đau buồn của câu chuyện tình thời trai trẻ.

     Khói lửa chiến tranh chứng kiến tình yêu – Nữ sĩ Nguyễn Thị Minh Khai;

             Tự khúc bi ca ái tình.

Tình yêu và hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai vào năm 1930 -1931 trước sau cộng lại không đầy một năm, vì hai người từ biệt nhau đến Hương Cảng thì bị cảnh sát bắt giam, kết thúc giai đoạn hôn nhân ngắn ngủi. Cuộc hôn nhân tuy không dài nhưng lịch sử đã ghi lại rất rõ ràng, trong khói lửa chiến tranh, tình cảm của đôi lứa thật chân thành. Năm 1932, Nguyễn Ái Quốc bị bệnh qua đời là sự thực, còn Nguyễn Thị Minh Khai, đến năm 1935 cải giá, kết hôn với Lê Hồng Phong cùng là sự thật. Sự việc này vốn dĩ rất bình thường nếu như không có bàn tay Quốc tế cộng sản thao túng, bí mật đạo diễn màn kịch “Hồn Trương Ba da hàng thịt”, cùng giới chóp bu Trung cộng và Việt cộng, tạo ra chung quanh Hồ Chí Minh  vòng hào quang, biến ông thành một vị thánh, phỉ báng mối tình đẹp đẽ của Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai.

Hồ sơ hôn nhân của Nguyễn Thị Minh Khai.

1/ William J. Duiker viết về quan hệ hôn nhân, tình ái của Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai

William J. Duiker, trong “Truyện Hồ Chí Minh” viết: “ Hồ sơ về tình yêu, hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai gồm ba phần. Tư liệu của ba phần này đều dẫn từ “Trung tâm quân viễn chinh bảo hộ” thuộc “Hồ sơ Pháp quốc hải ngoại”, hòm số 367 và “ Hồ Chí Minh từ Đông Dương đến Việt Nam” của Daniel Hách Mai Lý (7) do NXB Galimard, Paris ấn hành, năm 1990.

Phần thứ nhất

Tại chương 6 “Màu đỏ Nghệ Tĩnh”, trang 85 viết: “ Tháng 10 năm 1930, tại nhà trọ “Nhất Đống”, phố Khai Di, Cửu Long, Hương Cảng, khai mạc Hội nghị Trung ương, Nguyễn Ái Quốc là đại biểu Quốc tế cộng sản được cử làm Chủ tịch ĐCSVN. Cùng dự còn có một nữ đảng viên trẻ tuổi, mắt sáng, da ngăm ngăm, được ủy nhiệm làm trợ lý cho Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn Thị Minh Khai”

Phần thứ hai

Cũng tại chương 6, trang 198-199, tác giả viết: “ Nguyễn Ái Quốc tại Hương Cảng chờ tin tức. Từ khi Nguyễn Thị Minh Khai làm trợ lý cho Nguyễn Ái Quốc, hai người đã nảy sinh tình cảm. Minh Khai tuổi trẻ, ngoại hình hấp dẫn đã làm Nguyễn Ái Quốc mê đắm. Tình yêu của Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai đến khá nhanh chóng. Vào mùa xuân năm 1932, hai người đã báo cáo với Cục Viễn Đông đề nghị được kết hôn. Đại biểu  Quốc tế cộng sản là Hilaire Noulens đã gửi thư thông báo cho Nguyễn Ái Quốc vào tháng tư. Tuy nhiên, không lâu sau, Nguyễn Thị Minh Khai, vì bị tình nghi có liên can đến hoạt động phiến loạn, bị cảnh sát Hương Cảng bắt chuyển về Quảng Châu tống giam vào nhà tù Quốc dân đảng.

Phần thứ ba

Tại chương 7 “ Đứng trước những biến động”, trang 224- 225, viết: “25 tháng bảy năm 1935, khai mạc Hội nghị Quốc tế cộng sản lần thứ VII tại Mạc Tư Khoa, Đảng Cộng sản Đông Dương cử ba đại biểu là Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai và Hoàng Văn Nọn (Nông) tham gia hội nghị. Ban tổ chức yêu cầu cả ba đại biểu đều đọc tham luận. Nguyễn Ái Quốc lúc ấy là Bí thư Cục Viễn Đông, đến Hội nghị với tư cách quan sát viên, không được phép phát biểu, như một diễn viên phụ, đóng vai trò bàng quan.

            Trước khi Hội nghi khai mạc mấy tháng, Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Đông Dương  có gửi cho Bí thư thứ nhất Đông Phương cục một bức thư, kèm theo bản báo cáo mật, nội dung đề cập đến “Nguyễn Ái Quốc phu nhân”, một đại biểu tham gia Hội nghị. Lời văn ám chỉ Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai, năm 1932, tại Hương Cảng, trước khi bị cảnh sát bắt đã từng là vợ chồng. Có lẽ như tác giả Liên Xô Kobenov trong cuốn “Quoc’s wife” (Vợ của Quốc), từng suy đoán, trên đường sang Mạc Tư khoa, Nguyễn Thị Minh Khai ái mộ phong độ anh tuấn của Lê Hồng Phong rồi nảy sinh tình yêu chăng? Có khả năng, vào mùa xuân năm 1931, sau khi chia tay với Nguyễn Ái Quốc rồi bị bắt, đến lúc ấy đã qua 4 năm, tình cảm hai người không còn đằm thắm như trước. Cho dù sự thực thế nào, thì sau khi Hội nghị VII bế mạc không lâu, Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai đã kết hôn tại Mạc Tư Khoa.

Thời gian Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai sống với nhau, có thể nói, nhân thân của Nguyễn Ái Quốc tồn tại nhiều vấn đề khó lý giải. Trở lại một số năm trước, ông chưa từng nói với các đồng chí về mối quan hệ này. Tuy nhiên các nhà lãnh đạo Hà Nội lại ra sức phủ nhận hai người đã từng có quan hệ vợ chồng. Cũng không loại trừ trường hợp, Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai chưa kịp cử hành hôn lễ chính thức mà chỉ có sự chứng kiến của một số ít đồng sự làm cơ sở pháp lý. Nguyễn Ái Quốc cùng một lúc mất cả vợ lẫn quyền lãnh đạo, phải chăng, như một nhà quan sát từng nói “hai lần tủi nhục”.

2/ Sophie Quinn - Judge viết về quan hệ hôn nhân, tình ái của Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai

Trong tác phẩm “Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh 1919 - 1941”, tài liệu mà Sophie Quinn - Judge dùng để thuật lại quan hệ hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai gồm hai phần. Phần một, dẫn từ hồ sơ số 367 của “Trung tâm quân viễn chinh bảo hộ” thuộc “Hồ sơ Pháp quốc hải ngoại”, ngày 12 tháng hai năm 1931 do Victor viết gửi về. Phần hai, dẫn từ “Lịch sử hiện đại Liên Xô” của “Trung tâm nghiên cứu và lưu trữ” 495/154/688, trang 14, từ các ngày 14,15,17 tháng 12 năm 1934 và ngày 31 tháng 3 năm 1935 của Cục Hải ngoại gửi về Mạc Tư Khoa.

Phần một, chương 5 “Cao trào cách mạng”, trang 182, viết:“ Mùa đông năm 1930, Nguyễn Ái Quốc báo cáo với Cục Viễn Đông kế hoạch kết hôn. Ngày 12 tháng 1, Cục Viễn Đông gửi văn bản trả lời, nội dung là Nguyễn Ái Quốc phải thông báo thời gian chính xác trước hai tháng. Vì thư hồi đáp không  ghi danh tính người nhận chỉ nên chỉ có thể suy đoán là chuyện hôn sự của Hồ Chí Minh. Sang tháng hai, Hồ Chí Minh  bàn với Nguyễn Thị Minh Khai, đầu năm mới, chuẩn bị đón khách từ Sài Gòn và Đông Kinh đến thăm.

Phần hai, chương 6, có tiêu đề “Chết ở Hương Cảng, mai táng ở Mạc Tư Khoa?” (trang 202- 203), viết: “Ngày 8 tháng mười hai năm 1930, ba đại biểu của Đảng Cộng sản Đông Dương đến Mạc Tư Khoa. Những người này phân biệt rõ rệt với các thành viên của Cục Hải ngoại, là Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai và Hoàng Văn Nọn. Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương Hà Huy Tập gửi thư cho Quốc tế cộng sản, nói Nguyễn Thị Minh Khai là vợ Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Thị Minh Khai sau khi đến Mạc Tư Khoa, điền vào tờ khai cá nhân, ở mục hôn nhân là đã có chồng tên là P.C.Lin, chính là một trong những bí danh của Hồ Chí Minh. Về điểm này có thể nói, thời gian quan hệ vợ chồng đằm thắm của hai người chỉ như hạt sương mai trên ngọn cỏ. Tuy nhiên Hồ Chí Minh chưa bao giờ được những người cộng sản chính thức công nhận đã từng có vợ. Nguyễn Thị Minh Khai ở Mạc Tư Khoa thường dùng bí danh Phan Lan.

3/ Tác phẩm “Chị Minh Khai” của nhà văn Nguyệt Tú, ngày kỷ niệm Quốc tế phụ nữ năm 2005, nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh ấn hành có liên quan đến chuyện tình ái và hôn nhân, viết như sau:

- Vào một tháng của năm 1930, là thời kỳ Nguyễn Ái Quốc tham gia giảng dạy tại khóa Huấn luyện chính trị. Hôm ấy là một ngày mưa bão, khắp các đường phố, cây cổ thụ bị bão đánh bật tung gốc. Nguyễn Thị Minh Khai trong nhóm học viên nhòm qua ra sổ, nói: “Hôm nay có khả nãng ðồng chí Lý Thụy không ðến ðược”. Nhưng chỉ một lúc sau đã thấy đồng chí bước vào, tay cầm ô, áo quần ướt sũng nước. Đồng chí ấy đã lên lớp đứng giờ. Minh Khai nhìn thân thể gầy yếu của Lý Thụy, trong lòng vô cùng lo lắng.

- Ngày 29 tháng 4 năm 1932, Nguyễn Thị Minh Khai bị bắt, ba năm liền giam trong ngục, không nhận được bất cứ tin tức nào. Minh Khai nhớ lại những ngày sau khi bị bắt ở Hương Cảng, từ nhà giam, chị định gửi cho các đồng chí mảnh giấy nhắn tin, nhưng rồi lại nghĩ, liệu có được chuyển đến tay người nhận hay không? Chắc là không thể được nên đã thu lại mảnh giấy mà chỉ gửi lời nhắn. Cách đấy không lâu, ngày 6 tháng sáu năm 1932, đồng chí Nguyễn Ái Quốc bị mật thám Anh bắt tại Cửu Long. Cô nghĩ đến người lãnh đạo chủ chốt của cách mạng Việt Nam phải đối diện với hiểm nguy, lòng đau như cắt.

- Nguyễn Thị Minh Khai và các đồng chí trong đoàn đại biểu tham gia Hội nghị VII Quốc tế cộng sản, từ đoàn trưởng Lê Hồng Phong đến Hoàng Văn Nọn, đều không ai có đủ quần áo ấm. Minh Khai tranh thủ thời gian, cố gắng đan cho Hoàng Văn Nọn chiếc áo len cộc tay và Lê Hồng Phong chiếc khăn quàng cổ. Hoàng Văn Nọn tham gia rất nhiệt tình vào lễ thành hôn giản dị nhưng vô cùng vui vẻ, thắm tình đồng chí của Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai. Sau này, trong hồi ký của mình, Hoàng Văn Nọn kể về hôn lễ của Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai: “Lúc trở về nhà, nhìn thấy mâm cơm chiều có nhiều món ăn hơn so với ngày thường, tôi hỏi: “Hôm nay Minh Khai làm cô dâu nên chiêu đãi anh em phải không?”. Minh Khai đỏ mặt không nói gì, chỉ lắc đầu cười. Khi mọi người đã ngồi vào bàn, Hà Huy Tập đứng lên trịnh trọng tuyên bố: "Hôm nay, Đảng vì anh chị tố chức hôn lễ, chúng tôi chúc cho cô dâu chú rể sống đến đầu bạc răng long”.

Sự thật về quan hệ hôn nhân giữa Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai.

1/  William J. Duker viết: “ Năm 1931, Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai bắt đầu yêu nhau, sau đó đề nghị Cục Viễn Đông cho phép kết hôn.

2/ Sophie Quinn - Judge viết: “Mùa đông năm 1930, Nguyễn Ái Quốc báo cáo Cục Viễn Đông kế hoạch kết hôn. Cục Viễn Đông có thư trả lời nhưng vì thư hồi đáp không  ghi danh tính người nhận chỉ nên chỉ có thể suy đoán là chuyện hôn sự của Hồ Chí Minh. Trong vòng hai tháng, Hồ Chí Minh bàn với vị hôn thê, sau năm mới sẽ đón khách từ Sài Gòn và Đông Kinh đến thăm.

3/ Nhà văn Nguyệt Tú, trong “Chị Minh Khai” viết: “Hoàng Văn Nọn kể lại: “Tham dự lễ cưới đơn giản nhưng vô cùng vui vẻ, thắm tình  đồng chí của Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai, anh Hà Huy Tập trịnh trọng tuyên bố: “Hôm nay, Đảng vì anh chị tố chức hôn lễ, chúng tôi chúc cho cô dâu chú rể sống đến đầu bạc răng long”.

Tổng hợp các ghi chép trên, có thể thấy, báo cáo của Nguyễn Ái Quốc về việc kết hôn với Nguyễn Thị Minh Khai vào mùa đông năm 1930 với Cục Viễn Đông và hôn lễ được cử hành tại Hương Cảng vào mùa xuân năm 1931 là có thực. Nguyệt Tú dẫn lại hồi ức của Hoàng Văn Nọn đã bất ngờ làm rõ việc Đảng Cộng sản Việt Nam cố tình ẩn giấu sự thực hôn nhân giữa Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai. Bản ý của Hoàng Văn Nọn cho rằng, năm 1931, hôn lễ của Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai là sự thực, còn việc Lê Hồng Phong kết hôn với Nguyễn Thị Minh Khai tại Mạc Tư Khoa chỉ là lễ cưới giả. Những người chủ trương ẩn giấu sự kiện hôn nhân Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai không ngờ đến mấy dòng ghi chú phần cuối: “Vương huynh” chỉ Lê Hồng Phong, “Duy tỉ” chỉ Nguyễn Thị Minh Khai đã vô tình làm lộ tẩy chân tướng. Khảo cứu kỹ lưỡng nhiều lần các từ “Vương huynh” và “Duy tỉ” có thể thấy, “Vương huynh” chỉ “lão Vương” hoặc “đồng chí Vương”, “Duy Tỉ” là “Chị Duy” hoặc “A Duy”, bí danh của Nguyễn Thị Minh Khai. Danh xưng “Vương huynh “ và “Duy Tỉ” được dùng vào những năm 1924 đến 1931 lúc Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai công tác tại Quảng Châu, Hương Cảng. Trong khi ấy, Lê Hồng Phong dùng biệt danh Litvinov, Tuệ An, Gia Chính, Hạ Dương v.v… nhưng chưa bao giờ dùng “Vương huynh” làm bí danh ( gần đây, khi bí mật trên bại lộ, những người viết tiểu sử Lê Hồng Phong đã thêm cho ông bí danh “Vương…” để phản bác những ý kiến đối lập, nhằm hợp lý hóa thân phận Hồ Chí Minh và Lê Hồng Phong. Xin tham khảo mục “Lê Hồng Phong” trên từ điển mở Wikipedia). Điều này làm cho người ta không khỏi nghi ngờ. Hà Huy Tập vào năm 1935, không có khả năng xuất hiện tại Mạc Tư Khoa trong hôn lễ Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai. Tháng 6 năm 1934, Hà Huy Tập  giữ chức Tổng Bí thư, sau khi chủ trì Hội nghị Áo Môn, đến năm 1938 bị bắt, năm 1942 bị xử tử và chưa bao giờ đến Mạc Tư Khoa, làm sao có thể chủ trì hôn lễ của Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai? Điều này chứng tỏ, Cộng đảng cao cấp Việt Nam cố tình che giấu sự thật hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai.

Hôn ước của Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai.

1/ William J. Duiker viết: “Ngày 25 tháng 5 năm 1935, khai mạc Hội nghị lần thứ VII Quốc tế cộng sản  tại Mạc Tư Khoa, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai và Hoàng Văn Nọn là đại biểu chính thức của Đảng Cộng sản Đông Dương. Hội nghị kết thúc, Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai ở lại Mạc Tư Khoa, không lâu sau, hai người đến Phòng đăng ký giá thú làm thủ tục kết hôn.

2/ Nhà văn Nguyệt Tú viết:

-  Sau khi Hội nghị VII Quốc tế cộng sản  kết thúc, Lê Hồng Phong từ biệt Nguyễn Thị Minh Khai trở về Việt Nam công tác tại Xứ ủy Nam Kỳ, lấy bí danh là Lý, với tư cách đại biểu Trung ương. Lê Hồng Phong và đồng chí Quang ở cùng một nơi. Hai người phụ trách phong trào vận động công nhân, cùng ở trong một gian phòng bình dân khu chợ Sắt Tây, ít lâu sau lại chuyển đến Ngã Sáu. Đồng chí Quang rất thông cảm với Minh Khai, ngẫu nhiên được gặp chồng mà chỉ bàn bạc công việc, rất khó để cùng ăn với nhau một bữa cơm. Phòng của Lê Hồng Phong chỉ đủ kê chiếc giường bạt, ban ngày gấp lại, tối đến mới mở ra  để ngủ.

            - Tết Nguyên đán năm 1940, Minh Khai ở chợ Tân Thành, gần đường McMahon ( tác giả dự đoán đây là tỉnh Tân Tri, thuộc Nam Kỳ) trong nhà hộ sinh Hồng Phúc nổi tiếng. Tại đây Nguyễn Thị Minh Khai sinh hạ bé gái. Đứa bé ra đời được 5 ngày thì Nguyễn Thị Minh Khai đặt tên cho con là Nguyễn Thị Hồng Minh, chính là tên của Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai ghép lại. Ngày 30 tháng bảy năm 1940, Nguyễn Thị Minh Khai bị cảnh sát Pháp bắt giam tại nhà tù Phú Mỹ. Nguyễn Thị Minh Khai bao giờ cũng mặc bộ đồ trắng đến phòng hỏi cung. Ngày 28 tháng tám năm 1941, Nguyễn Thị Minh Khai bị dẫn ra pháp trường Phúc Môn Bình Lăng Cương xử tử. Lê Hồng Phong nhận được tin vợ thọ nạn, một năm sau, vào một ngày tháng chín năm 1942, bị tra tấn dã man cũng chết ở nhà tù Côn Đảo.

Theo ghi chép ở trên, quan hệ hôn nhân của Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai là chính xác. Năm 1935, sau Hội nghị VII Quốc tế cộng sản, hai người đã đăng ký kết hôn, tết năm 1940, Minh Khai sinh con gái Hồng Minh, năm 1941 bị thực dân Pháp xử bắn. Lê Hồng Phong chết ở nhà tù Côn Đảo năm 1942.

Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai

Bí danh P.C.Lin của Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc.

Năm 1934, bí danh P.C.Lin (hoặc P.C.Lâm) của Hồ Chí Minh  chắc chắn không phải là Nguyễn Ái Quốc. Tại chương 2 “Màn kịch tráo rồng đổi phượng”, ở mục 3 “Ve sầu thoát xác, thật giả nhân sinh”, tôi đã dẫn những chứng cứ về việc Nguyễn Ái Quốc bị lao phổi đã chết vào mùa thu năm 1932, còn Hồ Chí Minh, từ Hạ Môn qua Thượng Hải đi Mạc Tư Khoa là một người khác. Nói rõ hơn, khoảng thời gian từ mùa xuân đến mùa hè năm 1933, người đến Mạc Tư Khoa mang bí danh Linov hoặc P.C.Lin chính là Hồ Tập Chương, không phải Nguyễn Ái Quốc. Quốc tế cộng sản  đã cử người thay thế Nguyễn Ái Quốc dùng bí danh thay cho thân phận ông ta. Trong khi ấy, Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam cố tình đề cao mối tình Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai, giấu kín và ra sức phủ nhận quan hệ hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai, dẫn đến hệ quả là, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai và bí danh P.C.Lin của Hồ Chí Minh, ba người nhưng lại có bốn thân phận trong quan hệ hôn nhân, làm cho tình hình trở nên vô cùng phức tạp. Điều này khiến cho các tác giả viết truyện ký về Hồ Chí Minh, mỗi người đều tự tìm ra những nhầm lẫn trong sử liệu để giải thích về các mối quan hệ hôn nhân đầy nghi vấn của họ.

1/  Năm 1934, sau khi đến Mạc Tư Khoa, Nguyễn Thị Minh Khai phải điền vào tờ khai nhân thân là đã có chồng tên P.C.Lin. Nếu Nguyễn Thị Minh Khai biết bí danh của Nguyễn Ái Quốc là P.C.Lin thì làm sao lại có thể công khai kết hôn với Lê Hồng Phong để làm mất mặt Nguyễn Ái Quốc? Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh cùng mang bí danh P.C.Lin, vậy vì sao, năm 1935, khi cùng đến Mạc Tư Khoa dự Hội nghị VII Quốc tế cộng sản, Nguyễn Thị Minh Khai lại coi Nguyễn Ái Quốc gần như người xa lạ? Việc này nhất định không hợp tình hợp lý. Chỉ có một cách giải thích là Quốc tế cộng sản đã chơi trò bỡn cợt “dời hoa tiếp cây” (di hoa tiếp mộc), giấu nhẹm mối tình cao đẹp, trong sáng của Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai mà đề cao cuộc hôn nhân giữa Lê Hồng Phong với Nguyễn Thị Minh Khai.

2/ Nguyễn Ái Quốc với chức danh Bí thư Cục Viễn Đông, tham dự Hội nghị 7 Quốc Tế cộng sản với tư cách quan sát viên, không được quyền phát biểu, chỉ lẳng lặng ngồi một bên nhìn thế sự. Rõ ràng là, trong thời gian Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai có quan hệ thân mật, người ta đã dự liệu sẵn một kế hoạch nào đó. Nguyễn Ái Quốc cùng một lúc bị tước quyền lãnh đạo Đảng và mất vợ. Chuyện đúng sai khoan hãy bàn, nhưng khi nghe một nhà phân tích nhận định ông  “bị hai lần tủi nhục” thì bản thân người đọc cũng thấy bất bình.

Lời bàn:

Nguyễn Ái Quốc, bí danh P.C.Lin, đến Hội nghị VII Quốc tế cộng sản với tư cách quan sát viên, không được phát biểu, từ đầu đến cuối chỉ lẳng lặng ngồi nghe các đồng chí của mình đăng đàn, trái ngược hẳn với Hội nghị lần thứ V. Khi ấy, Nguyễn Ái Quốc lấy danh nghĩa Quốc tế cộng sản, vận động các nguyên thủ quốc gia, một mình thượng đài, ra sức tranh thủ diễn đàn phát biểu chính kiến, thật là có sự khác nhau giữa hai người. Như trên đã nói, hiện tượng rất không bình thường trên chỉ có thể giải thích hợp lý nhất là, người tham dự Hội nghị VII QTCS năm 1935 không phải Nguyễn Ái Quốc mà là Hồ Tập Chương mang bí danh P.C.Lin.

3/ Nguyễn Ái Quốc lấy bí danh P.C.Lin trong thời gian làm việc tại Viện nghiên cứu “Các vấn đề dân tộc và thuộc địa”. Thời gian ấy, Nguyễn Thị Minh Khai và năm học viên đang học trong trường Đại học Phương Đông. Trong những ngày diễn ra Hội nghị VII Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tận tình giúp đỡ sửa chữa, biên tập văn bản tham luận Hội nghị (bằng tiếng Nga), góp phần làm cho Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc khiến Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai thật sự cảm động.

Sau khi tổ chức hôn lễ, công việc của Lê Hồng Phong vô cùng bận rộn, một trong số đó là lập kế hoạch trù bị cho Đại hội Thanh niên cộng sản quốc tế làn thứ VI, đồng thời đề cử Nguyễn Thị Minh Khai tham gia với tư cách đại biểu của phụ nữ của Đảng Cộng sản Đông Dương. Nguyễn Ái Quốc được mời  làm đại biểu dự thính. Ngày bế mạc, Đại hội tuyên bố, Đảng Cộng sản Đông Dương  chính thức trở thành một chi bộ của Quốc tế cộng sản. Lê Hồng Phong được bầu làm Ủy viên Ban chấp hành Quốc tế cộng sản. Trong buổi liên hoan giữa Đoàn đại biểu Đảng cộng sản Pháp và Đoàn đại biêu Đảng Cộng sản Đông Dương, Nguyễn Thị Minh Khai và Lê Hồng Phong cùng song ca một bài do Lê Hồng Phong viết nhạc, Nguyễn Thị Minh Khai đặt lời. ( Nguyệt Tú - “Chị Minh Khai”, trang 76, 82,83, 89 và 90).

Lời bàn:

Cuốn sách “Chị Minh Khai” của Nguyệt Tú luôn luôn ẩn giấu mối quan hệ hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai, đồng thời tô vẽ mối tình giữa Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai. Tuy nhiên sự thực lịch sử không giống như lời kể trên. Chuyện rắc rối ở đây là, từ Nguyễn Ái Quốc, Lê Hồng Phong (P.C.Lin) đến Nguyễn Thị Minh Khai, ba người lại có đến bốn thân phận công khai hoạt động. Nguyễn Thị Minh Khai và Lê Hồng Phong biểu hiện mối tình nồng thắm, với Nguyễn Ái Quốc (P.C.Lin), hai người kính trọng như khách, xem ra rất hợp lý. Rốt cuộc, P.C.Lin này chính là Hồ Tập Chương cùng Nguyễn Thị Minh Khai đến Mạc Tư Khoa xem như mới quen biết nhau nên tỏ thái độ kính trọng là hợp lẽ. Với Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Thị Minh Khai ngoài tình đồng chí còn là tình nghĩa vợ chồng cao đẹp, một người cộng sản như Nguyễn Thị Minh Khai không thể cầm tay Lê Hồng Phong cùng vui vẻ song ca ngay trước mặt ông chồng đáng kính, bởi hành vi ấy chính là làm nhục Nguyễn Ái Quốc…

Hồ Chí Minh và tri kỷ má hồng – Lâm Y Lan tiểu thư

Hồ sơ về mối tình Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan.

Chuyện tình của Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan chủ yếu căn cứ vào ghi chép của Lương Ích Tân qua bài viết “Mối tình nồng thắm giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan”. Lương Văn Nguyên viết “Thế giới lịch sử Cộng đảng Trung Quốc” năm 2004, đăng trên nguyệt san “Nhân dân văn trích”, kỳ 12, dài khoảng ba ngàn ba trăm chữ, là bài viết muộn nhất cung cấp cho bạn đọc tư liệu về chuyện tình ái của Hồ Chí Minh. Đây là tác phẩm thuộc thể tài tiểu thuyết, từng đoạn, từng đoạn kể về cuộc tình của Hồ Chí Minh với Lâm Y Lan. Nội dung tác phẩm được thể hiện qua nhiều chi tiết khá lý thú, làm xúc động lòng người. Chỉ tiếc, các sử liệu được vận dụng, chỗ thì lắp ghép một cách khiên cưỡng, chỗ lại tập hợp trình bày nhảy cóc, nhất là đoạn nói về mối tình với Nguyễn Thanh Linh trong những năm 1930. Việc làm này dường như tác giả có ý đồ tạo ra sự lẫn lộn Hồ Chí Minh với Nguyễn Ái Quốc, đồng nhất hai người làm một, tô vẽ ông thành một nhân vật phi thường, mặc dù, trên thực tế, Nguyễn Thanh Linh chỉ là nhân vật hư cấu. William J. Duiker, trong “Truyện Hồ Chí Minh”, chương 5 “Quyết chiến tối tiền tuyến”(….. ), trang 554- 555, có những chi tiết tương đồng với các tư liệu báo chí đã công bố. Từ đó có thể khẳng định, mối tình của Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan là có thực.

Mối tình của Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan.

Từ những năm ba mươi của thế kỷ trước, để tạo điều kiện cho Hồ Chí Minh công tác tại Quảng Đông, Hương Cảng, Trung Cộng đã bố trí một thiếu nữ là Lâm Y Lan đóng giả làm vợ để giúp đỡ việc sinh hoạt hàng ngày cho ông ta. Không lâu sau, hai người có tình ý với nhau, nhưng đó là thời kỳ năm 1938 đầy sóng gió, nên cuối cùng mói quan hệ luyến ái này không đi đến hôn nhân. Lâm Y Lan hoài niệm về mối tình xưa, nhớ thương Hồ Chí Minh, lâu ngày không biết còn sống hay đã chết, sức khỏe suy giảm rồi qua đời vào năm 1968. Hồ Chí Minh biết tin, vô cùng đau khổ, một năm sau cũng tạ thể. Lúc hấp hối ông có nhắc đến tên Lâm Y Lan.

Lời đầu

Mùa đông, Mạc Tư Khoa tuyết rơi không ngừng. Hồ Chí Minh ở một ga xe bên sườn núi ngoại thành, dầm mình trong cái lạnh khốc liệt của tiết trời băng giá, nước mặt lã chã rơi thấm ướt cả lá thư. Bức thư báo tin dữ, người bạn gái thân thiết Nguyễn Thanh Linh vừa bị giặc sát hại. Ông nghĩ đấy không phải là sự thật, mắt trừng trừng nhìn vào dòng chữ, đọc đi đọc lại nhiều lần từng chữ một. Không sai, thư viết rất rõ ràng, Nguyễn Thanh Linh đã bị ngộ hại tại Việt Nam.


Bạn gái Nguyễn Thanh Linh bị sát hại.

Hồ Chí Minh và Nguyễn Thanh Linh bắt đầu quen nhau vào mùa xuân năm 1930. Năm ấy Hồ Chí Minh đang bôn ba hải ngoại tìm chân lý cách mạng, trên đường về Việt Nam ngẫu nhiên gặp Nguyễn Thanh Linh. Nguyễn Thanh Linh chẳng để ý đến việc gia đình phản đối, kiên quyết hiến thân cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, truyền bá ngọn lửa cách mạng, trở thành người bạn thân thiết và trợ thủ đắc lực của Hồ Chí Minh. Tại Việt Nam, Nguyễn Thanh Linh vận động giới phụ nữ tham gia đấu tranh chống thực dân, đế quốc áp bức bóc lột, trở thành một cán bộ đảng rất có uy tín. Thời kỳ Hồ Chí Minh sang Liên Xô học tập kinh nghiệm cách mạng, do bị một kẻ phản bội khai báo, Nguyễn Thanh Linh  chẳng may bị địch bắt. Đối mặt với những dụ dỗ, truy bức, cô vẫn kiên trinh bất khuất, đến chết vẫn không chịu cúi đầu. Cuối năm ấy, trong cuộc họp Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội của lưu học sinh Việt Nam, Hồ Chí Minh tuyên bố trước mọi người: "Đồng chí Thanh Linh đã hy sinh anh dũng nhưng đồng chí vẫn sống mãi trong lòng chúng ta. Dòng máu đỏ của đồng chí không chảy phí hoài mà nó càng tô thắm ngọn cờ giải phóng dân tộc. Tôi tuyên bố với thể giới, một khi nước Việt Nam chưa được giải phóng thì đời này, kiếp này sẽ không xây dựng gia đình”. Hồ Chí Minh không thể ngờ, câu nói trên lại ảnh hưởng đến chuyện hôn nhân sau này. Nó giống như trái núi lớn đè nặng lên tâm lý, không thể chống đỡ làm ông đau khổ cho đến lúc qua đời.

Trốn tránh truy bắt, ẩn mình ở Quảng Châu.

Năm 1930, Tưởng Giới Thạch điều động quân đội Quốc dân đảng bao vây tiễu trừ Hồng quân khu Giang Tây Tô, đồng thời ra lệnh cho các địa phương khẩn trương truy bắt các phần tử cộng sản. Dương Thành (Quảng Châu) cũng không ngoại lệ. Hồ Chí Minh lúc này đang ở Quảng Châu. Nơi đây, trước đó do nhu cầu công tác, ông đã mấy lần về Việt Nam, tuy nhiên, lần này thì khác, Hồ Chí Minh bị đặc vụ truy đuổi ráo riết, không chốn nương thân, chỉ còn cách liên lạc với Tỉnh ủy Quảng Đông nhờ giúp đỡ. Bí thư Tỉnh ủy Quảng Đông Đào Chú đã bố trí một nữ đảng viên là Lâm Y Lan, đóng giả làm vợ Hồ Chí Minh để bảo vệ an toàn cho ông ta. Khi ấy Hồ Chí Minh trở về nhà trọ thu xếp hành lý tìm đến nơi ở mới. Vừa vào đến cửa ông sững lại bởi cô gái đứng trước mình có khuôn mặt hao hao giống Nguyễn Thanh Linh, người yêu của mình đã bị địch xử tử năm nào. Cô gái không biết làm cách nào giải thích cho đối phương mà chỉ hỏi: “Ông là HCM tiên sinh phải không? Tôi họ Lâm, thường gọi là Lâm Y Lan”. HCM biết mình nhận lầm người, vội nói: " Xin lỗi cô Lâm, tôi lầm”.
Lâm Y Lan được giao nhiệm vụ làm “vợ” Hồ Chí Minh.

Sau đó, Hồ Chí Minh từ từ kể lại mối tình mười năm với Nguyễn Thanh Linh gợi đến niềm tâm sự, nước mắt bỗng nhiên trào ra. Lâm Y Lan nghe tâm sự, bất giác cũng cảm như mình lâm vào cảnh ngộ ấy, trong lòng vô cùng cảm động. Tiếp đó, Tỉnh ủy Quảng Đông thông báo với Hồ Chí Minh hiện tại Hương Cảng rất phức tạp, đặc vụ Quốc dân đảng có mặt khắp nơi, không có việc gì chúng không dám làm, nên dặn đi dặn lại Lâm Y Lan phải bảo vệ Hồ Chí Minh an toàn. Lúc ấy, Đào Chú nửa đùa nửa thật bảo: “ Các bạn nên nhớ, đến một ngày hai “vợ chồng” trăm tuổi, Y Lan tuyệt đối không được bỏ rơi “phu quân” mà không quản lý đấy nhé”, làm Lâm Y Lan, vốn là một tiểu thư chưa chồng, hai má đỏ lựng. Lấy danh nghĩa người “vợ”, Lâm Y Lan chăm sóc Hồ Chí Minh trong sinh hoạt thường ngày vô cùng tận tình, chu đáo làm cho Hồ Chí Minh đặc biệt cảm kích, đã có lúc muốn thổ lộ tình cảm, nhưng vì thời cơ chưa chín muồi nên trong lòng vẫn trù trừ. Lâm Y Lan thấy Hồ Chí Minh nói với mình những lời chân thành, thâm tâm đã có phần ưng ý, nhưng vì là phận nữ nhi, không tiện nói ra. Lúc chia tay, Hồ Chí Minh ôm lấy Lâm Y Lan, dùng khăn tay lau nước mắt cho cô: “ Hãy cứng rắn lên, đừng để kẻ thù cười chúng ta mềm yếu”, nói rồi lấy quyển nhật ký đưa cho Lâm Y Lan: “Tâm sự của tôi đều ở trong này, sẽ cùng đi với em”.

Trong hoạn nạn thấy sự chân thành.

Ba ngày sau khi Hồ Chí Minh được cứu thoát, Lâm Y Lan nhìn đăm đăm vào khuôn mặt hốc hác của ông, hỏi: “Chí Minh, sao không đợi muội đến đón?”. HCM nói: “ Tôi nghĩ, càng về nhanh càng chóng được gặp muội”. Nói rồi  Hồ Chí Minh đưa cho Lâm Y Lan một nhành hoa lan: “Xin tặng muội, chúc mọi sự vui vẻ”. Thấy Lâm Y Lan có vẻ bối rối, Hồ Chí Minh lại nói: “ Muội đã đọc nhật ký chưa? Lòng tôi luôn tin tưởng hoa lan không bao giờ bị héo”. Lâm Y Lan nhận hoa, không nén được tình cảm, ngã vào lòng Hồ Chí Minh.

Những năm năm mươi của thế kỷ XX, Trung Quốc đại lục đã được giải phóng, lúc này Lâm Y Lan là cán bộ cao cấp của Tỉnh ủy Quảng Đông. Hồ Chí Minh trở về nước tiếp tục sự nghiệp cách mạng chưa hoàn thành. Bấy giờ, Đào Chú là Bí thư Trung ương Cục Hoa Nam kiêm Bí thư thứ nhất Tỉnh ủy Quảng Đông, thấy Lâm Y Lan vẫn sống cô đơn đã đứng ra làm mối vài đám nhưng lần nào cũng bị cô khéo léo từ chối. Lúc ấy Đào Chú không hiểu tâm trạng Lâm Y Lan, sau nhiều lần cân nhắc, cuối cùng ông hỏi thẳng cô ta: “Giấy không bọc được lửa, hơn nữa, việc này cũng chẳng có gì là bí mật. Nói thật đi, người ấy là ai?” Lâm Y Lan thong thả bảo: "Hồ Chí Minh”. Đào Chú nghe xong thất kinh, mãi một lúc sau mới hỏi lại: “ Chủ tịch Đảng Cộng sản Việt Nam Hồ Chí Minh? Ông ta yêu cô phải không?”. Lâm Y Lan gật đầu:“ Hồ Chí Minh nói là tôi hãy đợi ông ấy”. Nghe xong, Đào Chú tự trách mình:” Ôi chao! Chỉ tại ngày ấy tôi hồ đồ giao nhiệm vụ cho cô, nào ngờ dẫn đến chuyện hai người ở hai phương trời thương nhớ lẫn nhau…”

Không di lưỡng địa tương tư.

Lâm Y Lan vẻ mặt rạng rỡ hạnh phúc, cười khẽ: “Việc này không thể trách đồng chí. Tôi và Hồ Chí Minh hai người đã dốc lòng cùng nhau, hồng nhạn đưa tin, thế nào cũng có ngày tái ngộ. Huống hồ, tình cảm của hai người đã là vĩnh cửu, há đâu phải một sớm một chiều (Lưỡng tình nhược thị trường cửu thời, hựu khởi tại triêu triêu mộ mộ). Tôi tin tưởng tình yêu qua thời gian đã được thử thách”. Đào Chú chỉ biết xoa tay. Ông đã rõ chuyện, chỉ đợi xem tình huống phía Việt Nam. Mối nhân duyên này, có thể nói, sự thành công là không dám chắc. Ông hiểu rõ mình gánh trọng trách, hơi thiếu cẩn trọng, rất có thể sẽ gây nên bi kịch di hận ngàn thu.

Dịp may đã đến. Đó là chuyến thăm Trung Quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào ít năm sau đó. Đào Chú bèn thỉnh cầu Mao Trạch Đông sắp xếp cho ông và nữ cố nhân Quảng Đông gặp mặt. Mao Chủ tịch lập tức gọi điện cho Bí thư Tỉnh ủy Quảng Đông Đào Chú, Lâm Y Lan và những ủy viên Thường vụ khác về Bắc Kinh. Lâm Y Lan nhận được tin báo vui mừng đến phát cuồng. Hồ Chí Minh kết thúc chuyến thăm Trung Quốc sắp lên máy bay về nước, bỗng nhiên ông nhìn thấy Lâm Y Lan vội sải bước đến gần cô, hai tay nắm chặt không nói nên lời. Hai người nhìn nhau rất lâu, lòng rưng rưng xúc động trào nước mắt. Trước lúc phi cơ khởi trình, Lâm Y Lan lấy cuốn nhật ký ngày nào đưa trả lại Hồ Chí Minh, nhẹ nhàng bảo: “Không có anh bên cạnh, lâu rồi tôi không ghi nhật ký, xin gửi lại anh”.

Ủy thác Đào Chú làm mối.

Vào một ngày đẹp trời năm 1958, trên bờ sông ở Hà Nội, hai ông già lặng lẽ buông cần câu.  Họ chính là Hồ Chí Minh và Đào Chú (xem ảnh phía dưới). Lúc ấy Hồ Chí Minh thần sắc có vẻ khác thường, trịnh trọng nói với Đào Chú: “ Trung Quốc có câu ‘ Lúc trẻ là vợ chồng, về già là bạn’. Tôi và Lâm Y Lan biết nhau đã hơn hai mươi năm, vì sự nghiệp cách mạng đành tạm gác tình riêng. Đến nay chúng tôi cũng đã có tuổi, muốn đón Lâm Y Lan sang Hà Nội, bí mật tổ chức hôn lễ để thỏa ý nguyện từ những năm trước”. Sau khi về nước, Đào Chú bay đến Bắc Kinh báo cáo sự việc với Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Chủ tịch Mao Trạch Đông chuyển đạt ý nguyện của Hồ Chí Minh đến Tổng lý Chu Ân Lai. Tại Phủ Thủ tướng Quốc vụ viện, các vị lãnh đạo đều vô cùng kinh ngạc.

Chuyện hôn nhân của Hồ Chí Minh không nhỏ.

Mao chủ tịch trầm ngâm một lúc rồi nói: “Nói cho cùng, chính là chúng ta đề xướng ra đoạn tình duyên này, hôn nhân tự chủ, nên đáp ứng nguyện vọng của Hồ Chí Minh, nhưng đây không phải là việc nhỏ, chớ xem thường”.

Hội nghị Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam.

Hồ Chí Minh và Lê Duẩn ngồi đối diện nhau, hai bên là các Ủy viên Bộ Chính trị. Sự việc được đưa ra  nhưng mọi người đều im lặng không nói. Cuối cùng Hồ Chí Minh đập bàn, đứng lên: “Tôi chịu đựng đủ rồi. Thật tình tôi không nghĩ là sẽ được gặp lại người ta. Tôi có quyền quyết định việc riêng của mình, vì vậy, đề nghị các đồng chí không nên thuyết phục nữa”. Lê Duẩn tuy bất bình nhưng chưa dám gây căng thẳng, vẫn bình tĩnh nói: “Thưa Bác! Bác không nên quá xúc động, phải tính kế lâu dài, nên cân nhắc kỹ rồi hăy hành động. Chúng tôi can ngăn lúc này là vì lo cho Bác. Bác từng nói 'Việt Nam chưa giải phóng thì đời nay, kiếp này tôi không xây dựng gia đình'. Câu nói ấy có ảnh hưởng rất lớn. Một khi Bác làm trái lời thề thì ý nghĩa của sự nghiệp thần thánh Giải phóng miền Nam cũng như uy tín 'cha già dân tộc' của Bác sẽ bị tổn thương, không những thế uy tín của Đảng ta trước phe Xã hội chủ nghĩa cũng như cộng đồng quốc tế cũng bị giảm sút”. Thực ra tâm trạng Lê Duẩn vô cùng mâu thuẫn, ông ta không muốn ép Hồ Chí Minh, nhưng vì ở cương vị Bí thư thứ nhất nên bắt buộc phải tỏ thái độ cứng rắn.

Thiểu số phục tùng đa số.

Hồ Chí Minh thấy Lê Duẩn nhất quyết can thiệp vào hạnh phúc riêng tư của mình, không nói nữa mà bảo: “Theo nguyên tắc, thiểu số phục tùng đa số, đề nghị các đồng chí giơ tay biểu quyết”. Nói rồi ông đưa mắt nhìn sang hai bên. Ý kiến tán thành và phản đối ngang nhau, riêng Lê Duẩn vẫn ngồi im. Mọi người đều chăm chú theo dõi thái độ của Bí thư thứ nhất. Lúc ấy Lê Duẩn mới từ từ nâng tay phải, nhưng đến nửa chừng lại đột nhiên bỏ thõng xuống, thở dài nói: “Tôi không thể làm mất uy tín của Bác”. Điều làm Lê Duẩn giật mình là, Hồ Chí Minh không nổi trận lôi đình, trái lại, ông chỉ cười nhạt rồi thong thả rời cuộc họp bước ra ngoài.

Bi kịch tình yêu kết thúc.

Tại bệnh viện Quảng Châu, Lâm Y Lan trông ngóng Hồ Chí Minh nhưng chỉ nhận được bức thư vài dòng ngắn ngủi: “Y Lan thân mến! Chúng ta vô duyên không thể tái hợp. Muội đã nghe nói đến tình yêu theo kiểu Platonic chưa? Tuy không được ở bên nhau nhưng tâm hồn hai ta mãi mãi dung hòa nhất thể”. Lâm Y Lan cầm lá thư ném xuống bệ cửa sổ, nhìn theo lá thư vờn bay theo gió, hai dòng lệ lã chã tuôn rơi. Sau đó Lâm Y Lan viết thư hồi đáp Hồ Chí Minh, trong thư, bà sử dụng hai câu trong “Trường hận ca” của Bạch Cư Dị “Trên trời xin làm chim chắp cánh, dưới đất nguyện làm cây liền cành. Trời cao đất dày rồi cũng tận, tình này vĩnh viễn mãi không nguôi” (Tại thiên nguyện vi tỷ dực điểu, tại địa nguyện vi liên lý chi; thiên trường địa cửu hữu tận thời, thử tình miên miên vô tuyệt kỳ). Bà chuyển chữ “hận” cải thành chữ “tình” để chứng tỏ tấm lòng thủy chung như nhất của mình đối với Hồ Chí Minh. Bức thư bất đắc dĩ của Hồ Chí Minh là một đòn nặng nề đánh vào tinh thần Lâm Y Lan khiến bà bị suy sụp rồi mắc trọng bệnh, năm 1968 thì qua đời. Hồ Chí Minh nghe tin người yêu mất thì vô cùng ân hận và thương cảm. Sau đấy một năm, vào ngày 2 tháng 9 năm 1969, lúc hừng đông, Hồ Chí Minh bỗng nhiên thở dài, lúc hấp hối ông đã gọi tên Lâm Y Lan.

Trở lên là câu chuyện tình của Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan. Chuyện ly này là do Lương Ích Tân viết trong tác phẩm “Mối tình nồng cháy của Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan”.

Sự thật về mối tình của Lâm Y Lan.

Trong “Truyện Hồ Chí Minh”, trang 554-555, William J.Duiker viết “Tháng 8 năm 1965, Đào Chú thăm Hà Nội, Hồ Chí Minh có nhờ ông làm mối cho một phụ nữ trẻ, người Quảng Đông trước đây từng quen biết nhau. Khi trở lại Trung Quốc, Đào Chú báo cáo với Chu Ân Lai lời thỉnh cầu trên. Chu Ân Lai bèn cùng với lãnh đạo Bắc Việt thương thảo việc này nhưng cuối cùng không có kết quả. William J. Duiker viết đoạn này, nếu đem đối chiếu với các bài “Mối tình nồng cháy của Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan”, “Ủy thác Đào Chú Làm mối”, “Hội nghị Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam” v.v…thì các chương mục gần như có nội dung thống nhất. Chi tiết Hồ Chí Minh yêu cầu Đào Chú tác thành với một người phụ nữ Quảng Đông để làm bạn là xác thực với những sự việc báo chí dã đưa tin. William  J.Duiker viết tại chương này (Chú thích 54 trang 668) chỉ rõ nguồn gốc là "Câu đố về Chu Đào" của tác giả Quách Trinh, đăng tải trên tạp chí “Văn học quân sự Tây Nam”, kỳ 72, Thành Đô, 1995). Trong phần chú giải phụ thêm, William J. Duiker có một đoạn như sau: “Từ Cách mạng văn hóa cho đến lúc trước khi bị thanh toán là lãnh đạo Tỉnh ủy Quảng Đông, bà và HCM trước đây từng rất thân thiết nhau. Tôi căn cứ vào văn bản suy đoán, sự kiện này xảy ra vào mùa xuân hoặc mùa hạ năm 1966”.

Trong bài viết “Mối tình nồng cháy giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan”, ở phần “Trốn tránh truy bắt, ẩn mình ở Quảng Châu”, có đoạn: “ Năm 1930, Tưởng Giới Thạch điều động quân đội Quốc dân đảng bao vây tiễu trừ Hồng quân khu Giang Tây Tô, đồng thời ra lệnh cho các địa phương khẩn trương truy bắt các phần tử cộng sản. Dương Thành (Quảng Châu) cũng không ngoại lệ. Hồ Chí Minh lúc này đang ở Quảng Châu. Nơi đây, trước đó do nhu cầu công tác, ông đã mấy lần về Việt Nam, tuy nhiên, lần này thì khác, Hồ Chí Minh bị đặc vụ truy đuổi ráo riết, không chốn nương thân, chỉ còn cách liên lạc với Tỉnh ủy Quảng Đông nhờ giúp đỡ. Bí thư Tỉnh ủy Quảng Đông Đào Chú đã bố trí một nữ đảng viên là Lâm Y Lan, đóng giả làm vợ Hồ Chí Minh để bảo vệ an toàn cho ông ta”. Ở mục: “Lâm Y Lan được giao nhiệm vụ làm “vợ” Hồ Chí Minh” và “ Trong hoạn nạn thấy sự chân thành” đều có viết: “ Không lâu sau, do một kẻ phản bội khai báo, Hồ Chí Minh bị bắt nhưng ba ngày sau lại được cứu thoát”.

Những phần ghi chép trên nói rõ là, vào đầu năm 1930, Hồ Chí Minh đúng là bị bắt ở Quảng Châu. Đối chiếu với “Hồi ức Trịnh Siêu Lân” về sự kiện Hồ Chí Minh bị bắt ở Quảng Châu vào năm 1931, đồng thời so sánh với bài viết “Hồ Tập Chương, đến từ Miêu Lật Đài Loan bị bắt ở Quảng Châu, giam tại nhà ngục Nam Thạch Đầu trên “Đài Loan nhật nhật tân báo” thì thấy rất rõ ràng, nhân vật nam chính trong bài “ Mối tình nồng cháy giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan” chính là Hồ Tập Chương đến từ Miêu Lật Đài Loan (Xem lại Thiên II “Hồ Chí Minh bị bắt tại Quảng Châu”, và Thiên IV “Những năm tháng phiêu bạt” (Phiêu bạt lưu lãng đích tuế nguyệt) đăng tải trên “Đài Loan nhật nhật tân báo”.

Theo nhận định của William J. Duiker, các bài viết “Nhờ Đào Chú làm mối” và “Chuyện hôn sự của Hồ Chí Minh không nhỏ” của tác giả Lương Văn là xác thực. Nhìn lại cuộc đời hoạt động chính trị thăng trầm của Đào Chú cũng có thể gián tiếp khẳng định, Chu Đào và Lâm Y Lan là một người. Đào Chú lãnh đạo Tỉnh ủy Quảng Đông từ mùa xuân năm 1951 đến năm 1966, từng là “phong cương đại lại” rồi nhảy nhanh lên Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Quốc vụ viện, Bộ trưởng Tuyên truyền, Cố vấn Tiểu tổ Cách mạng Văn hóa, thứ bậc chỉ xếp sau Mao, Lâm, Chu, ngồi ghế thứ tư trong Thường vụ Bộ Chính trị, có thể nói vận số vô cùng hanh thông. Thế nhưng, tai vạ bỗng đâu ập đến, trong Đại Cách mạng Văn hóa, Đào Chú bị “Lũ bốn tên” vu cáo thuộc phe “Bảo hoàng”. Chúng xúi giục Hồng vệ binh đấu tố, hạ nhục ông cho đến lúc thân tàn ma dại rồi chết một cách tức tưởi vào ngày 30 tháng 11 năm 1969. Cùng thời kỳ sóng gió ấy, Chu Đào bị hạ phóng ra biên giới Tây Nam.

Theo nội dung các bài “ Hội nghị Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam” và “Chuyện hôn nhân của Hồ Chí Minh không nhỏ”, có thể thấy một sự thực là, Cộng đảng Việt Nam đã sử dụng câu nói “ Một ngày đất nước chưa độc lập, tôi quyết không kết hôn” làm cái cớ gây áp lực mạnh lên ý nguyện xây dựng gia đình của Hồ Chí Minh.

Chuyện tình giữa Hồ Chí Minh và Đỗ Thị Lạc.

 Căn cứ vào “Thê thiếp và nhân tình của Hồ Chí Minh” của “Lĩnh Nam di dân”, thì Hồ Chí Minh có bốn người phụ nữ trong các thời kỳ khác nhau. Người vợ đầu là Tăng Tuyết Minh, tiếp theo là Nguyễn Thị Minh Khai, Đỗ Thị Lạc và cuối cùng là Nông Thị Xuân. Mối tình với Đỗ Thị Lạc tác giả viết: “ Sau khi  ra tù, Hồ Chí Minh được tướng Trương Phát Khuê và tướng Tiêu Văn tín nhiệm, được bổ sung làm Ủy viên dự khuyết Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội, hoạt động rất có uy tín. Không lâu sau, được sự đồng ý của các tướng lĩnh Quốc dân Đảng, Hồ Chí Minh mang theo mười tám người trở về Bắc Việt Nam sau khi kết thúc khóa huấn luyện cán bộ. Một trong mười tám người theo Hồ Chí Minh trở về là Đỗ Thị Lạc, người phụ nữ duy nhất trong Đoàn thường được mọi người goi là “chị Thuận”. Nhân thân Đỗ Thị Lạc không rõ, người ta chỉ biết cô này từ năm 1942 tại Liễu Châu, Quảng Tây, với tư cách học viên Ban Huấn luyện quân sự. Trở về Cao Bằng, Việt Bắc, Đỗ Thị Lạc và Hồ Chí Minh sống chung với nhau một thời gian tại vùng Khuê Nam (?!), phụ trách công tác dân vận và thiếu nhi. Sử gia Trần Trọng Kim, trong hồi ký “Một cơn gió bụi”, viết: “Đỗ Thị Lạc có với Hồ Chí Minh một người con gái. Tuy nhiên, sau một thời gian sống chung với nhau ở Khuê Nam, Hồ Chí Minh dấn thân vào cao trào cách mạng, không bao giờ còn trở lại với Đỗ Thị Lạc nữa”.

Căn cứ vào các tư liệu đã tra cứu được, vào thời kỳ Hồ Chí Minh đem theo mười tám cán bộ về Việt Bắc thì người phụ nữ có tên Đỗ Thị Lạc là có thật. Giáo sư Tưởng Vĩnh Kính, trong cuốn “Hồ Chí Minh ở Trung Quốc”, trang 194 đến 206 viết: “Ngày 10 tháng 9 năm 1943, Hồ Chí Minh  được phóng thích tại Liễu Châu, rất được Tư lệnh Đệ tứ chiến khu Trương Phát Khuê tín nhiệm, giao nhiệm vụ cải tổ Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội. Hồ Chí Minh đề nghị với Trương Phát Khuê ý định về Việt Nam hoạt động, đồng thời chuyển giao cho ông bản đề cương kế hoạch “Nhập Việt công tác” được khởi thảo với bốn mục tiêu lớn. Căn cứ vào kế hoạch đại cương, Hồ Chí Minh tự tuyển chọn mười tám thanh niên cốt cán trở về Việt Nam làm công việc huấn luyện nhiệm vụ cách mạng. Danh tính của mười tám người như sau: Dương Văn Lộc, Lê Nguyên, Vi Văn Tôn, Hoàng Nhân, Hoàng Quảng Triều, Nông Kim Thành, Hoàng Kim Vận, Hoàng Thanh Thủy, Phạm Văn Minh, Hà Hiến Minh, Hoàng Sỹ Vinh, Lê Văn Tiền, Nông Văn Mưu, Dương Văn Lễ, Hoàng Gia Tiên, Đỗ Trọng Viện, Trương Hữu Chí ( đều thuộc Tổng đội công tác chiến địa) và Đỗ Thị Lạc ( thuộc Đội công tác chính trị biên giới). Lại căn cứ vào “Hồ Chí Minh tại Liễu Châu” do Quảng Tây nhân dân xuất bản xã phát hành năm 2005, trang 103, có đoạn viết: “Từ 1943 đến 1944, dưới chân núi Cao Lượng, Liễu Châu, nơi Ban huấn luyện cán bộ mở lớp học, HCM thường đến giảng bài. Trong số học viên có một phụ nữ là Đỗ Thị Loan, quê tại thị trấn Bắc Môn, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, bị bệnh, chữa không khỏi, chết tại Liễu Châu, mai táng dưới chân núi Cao Lượng, bia mộ ghi ngày sinh, ngày mất và quê quán bằng Trung văn”. Có thể phỏng đoán, Đỗ Thị Lạc, Đỗ Lạc, Đỗ Thị Loan, danh tính ba lần chuyển dịch không giống nhau nhưng có lẽ vẫn cùng là một người.

Trần Trọng Kim viết: “Nghe tin Đỗ Thị Lạc đã có một người con gái với Hồ Chí Minh nên có thể xem chuyện này là có thật”. Căn cứ vào “Hồ Chí Minh và Trung Quốc” trang 164 của giáo sư Hoàng Tranh có đoạn ghi chép về “Hồ Chí Minh và Đỗ Lệ Hoa”, tôi phỏng đoán, Đỗ Lệ Hoa chính là Đỗ Thị Lạc. Chuyện như sau: “Tháng 8 năm 1962, Hồ Chí Minh đến Trung Quốc, ở lại một thời gian, đã từng đến thăm phong cảnh nổi tiếng ‘Thạch Lâm” ở Vân Nam. Đoàn Văn công Vân Nam có nữ ca sĩ hát giọng nữ cao Đỗ Lệ Hoa tháp tùng chủ tịch Hồ Chí Minh tham quan. Bên cạnh Hồ Chí Minh, Đỗ tiểu thư đã có những giây phút vô cùng hạnh phúc. Trước đó một năm, Hồ Chí Minh đã từng quen biết Đỗ Lệ Hoa. Đó là năm 1961, Hồ Chí Minh cùng Đoàn đại biểu Đảng Lao động Việt Nam sang thăm Trung Quốc. Một ngày, tại Hoài Nhân Đường Bắc Kinh, Đoàn nghệ thuật chuẩn bị thăm Miến Điện, biểu diễn một buổi dành riêng cho các vị khách Việt Nam. Sau buổi biểu diễn, Hồ Chí Minh đặc biệt đề nghị Đỗ Lệ Hoa cùng ông và chủ tịch Mao Trạch Đông chụp chung một kiểu ảnh. Hồ Chí Minh cười hiền từ nhìn Đỗ Lệ Hoa  rất lâu như muốn lưu giữ mãi hình ảnh của cô. Lần này, khi đến nhà khách, Đỗ Lệ Hoa  được thông báo, Hồ Chí Minh mời vợ chồng cô đến Thạch Lâm tham quan thắng cảnh. Đỗ Lệ Hoa vô cùng phấn chấn, lòng thầm nghĩ, đã một năm qua rồi, không biết Hồ Chí Minh giờ đây thế nào, cô hận là không thể lập tức chạy ngay đến bên Hồ Chủ tịch. Khi Đỗ Lệ Hoa vừa đến nhà khách Thạch Lâm, Hồ Chí Minh đã chờ sẵn ở cửa trước, vừa nhìn thấy cô văn công, ông vội bước ra, thân mật gọi: “Tiểu thư Lệ Hoa, hoan nghênh cô đến, có nhớ năm trước chúng ta gặp nhau ở Bắc Kinh không?”. Đỗ Lệ Hoa  phấn khởi nói: “Nhớ, Nhớ ạ”, rồi trân trọng trao tấm ảnh kỷ niệm đã được phóng to cho Hồ Chí Minh”.

Từ việc ĐTL chết, độ tuổi của ĐLH, ĐLH đứng giữa MTĐ và HCM chụp ảnh kỷ niệm, đến cuộc gặp gỡ và tình cảm đặc biệt giữa ĐLH và HCM ở khu nghỉ mát Thạc Lâm, làm cho người ta khó nói ĐLH không phải là người tình của HCM.

Mối tình của Hồ Chí Minh và Nông Thị Xuân.

Trần Quốc Hoàn vì vì có công trong việc trấn áp các phần tử phản cách mạng mà thành danh, năm 1953 được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Công an. Năm 1955, một thiếu nữ là Nông Thị Xuân từ vùng biên giới tỉnh Cao Bằng được đưa về Hà Nội. Cô này khá xinh đẹp được chủ tịch Hồ Chí Minh để ý nên Ban Bảo vệ sức khỏe Trung ương đã bố trí làm y tá bên cạnh ông Hồ. Một năm sau, Nông Thị Xuân  sinh với Hồ Chí Minh một bé trai. Đứa bé được bí mật gửi nuôi vài nơi, nhưng cuối cùng, thư ký riêng của Hồ Chí Minh là Vũ Kỳ đưa về nhà nhận làm con. Vào một ngày năm 1957, người ta phát hiện Nông Thị Xuân  bị tai nạn ô tô chết bên đường chân Dốc Chèm. Không lâu sau, hai người em họ của cô Xuân cũng bị đột tử. Khi mới xảy ra sự kiện này rất ít người biết chuyện, nhưng nhiều năm sau, người chồng chưa cưới của một trong hai thiếu nữ, đã viết thư gửi lên Quốc hội, tố cáo Trần Quốc Hoàn cưỡng dâm Nông Thị Xuân  rồi sát hại cô bằng một vụ tai nạn được công an dàn dựng. Anh ta nói rõ, Trần Quốc Hoàn sợ hai người em họ của Nông Thị Xuân  tố cáo tội ác nên hắn đã cho mật vụ thủ tiêu cả hai chị em. Tất nhiên, sự kiện này  bị ỉm đi và cũng không có bất cứ phiên tòa nào đủ bản lĩnh đứng ra thụ lý vụ án trên. Trần Quốc Hoàn xem như vô can, tại Đại hội III, y còn được bầu làm Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, những tin tức về vụ giết người bịt miệng dã man này đã được các cán bộ cao cấp của Đảng Cộng sản Việt Nam biết rõ, có điều tất cả đều ngậm miệng, bởi họ không lạ gì Cảnh Con (tên tục của Trần Quốc Hoàn ) vốn xuất thân từ dân đao búa, đã từng làm đủ nghề, từ cầm cờ đám ma, lưu manh trộm cắp đến lừa thầy phản bạn. Hồ Chí Minh có biết hay không sự kiện động trời này, mọi người đều không dám khẳng định, cho dù, ông mới là “chính danh thủ phạm” của vụ án thảm khốc cướp đi mạng sống của ba thiếu nữ xinh đẹp, vô tội.

Mối tình của Hồ Chí Minh và Nông Thị Xuân  được William J. Duiker ghi chép tại chương 9 “ Giữa hai lần chiến dịch”, trang 505-506 trong tác phẩm “Truyện Hồ Chí Minh”. Phần chú thích từ trang 63 đến 660, nội dung dẫn từ “Đêm giữa ban ngày” của nhà văn Vũ Thư Hiên (con trai cụ Vũ Đình Huỳnh, từng là thư ký riêng cho Hồ Chí Minh thời kỳ 1946-1955). Nguyên văn bản tố cáo tội ác Trần Quốc Hoàn của vị hôn phu cô Nguyễn Thị Vàng  đăng tải trong “Việt Nam lục”, mùa thu, tháng tám, năm 1997, trang 8-11.

Trong “Thê thiếp và nhân tình của Hồ Chí Minh” của “ Lĩnh Nam di dân” cũng ghi chép về mối quan hệ luyến ái giữa Hồ Chí Minh và Nông Thị Xuân: “Ngày 20 tháng bảy năm 1954, sau Hiệp định Genève, Hồ Chí Minh trở về Hà Nội đảm nhiệm chức Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Năm 1955, Ban Bảo vệ sức khỏe Trung ương tuyển một thiếu nữ thuộc thành phần gia đình cách mạng miền núi đưa về Hà Nội, phục vụ sinh hoạt cho Hồ Chí Minh. Cô gái là Nông Thị Xuân, dân tộc Nùng ( một chi nhánh của người Tráng Quảng Tây Trung Quốc, Việt Nam gọi là Nùng), nhà ở thôn Hà Ma, xã Hồng Việt, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng. Lúc ấy Hồ Chí Minh đã 65, Nông Thị Xuân  mới gần 22. Ít lâu sau, hai cô khác, một tên Vàng, một tên Nguyệt là con người cậu Nông Thị Xuân cũng được chọn đưa về Hà Nội. Ba cô cùng ở trên gác hai ngôi nhà số 66 phố Hàng Bông Nhuộm. Vì để mối quan hệ giữa Hồ Chí Minh và Nông Thị Xuân không bị tiết lộ, mỗi lần cô Xuân đến Phủ Chủ tịch đều được Bộ trưởng Công an Trần Quốc Hoàn cho xe đến đón”.

Những câu chuyện “Hồ Chí Minh và Đỗ Thị Lạc”, “ Hồ Chí Minh và Nông Thị Xuân”,  cùng “Chuyện tình ái và những người con sinh ra trong bóng tối”, (cho đến nay, dân gian vẫn lưu truyền, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh là con rơi của Hồ Chí Minh) cũng như thân phận thật Hồ Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc, vẫn còn là những bí mật, chưa có câu trả lời thỏa đáng. Đỗ Thị Lạc, Nông Thị Xuân, thời gian ghi chép, địa điểm, nội dung, nguồn gốc tin tức…sự thật chỉ có một mà sự tô vẽ, phóng đại thì rất nhiều bởi người đời làm cho sự việc ngày càng trở nên phức tạp, khó xác định chân tướng.

Tổng kết về hôn nhân và tình ái trong cuộc đời Hồ Chí Minh.

Khảo cứu về hôn nhân, tình ái của Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh trong vô vàn sự kiện cũng như mối quan hệ phức tạp, phải nói rất khó khăn và tốn nhiều công sức. Tuy nhiên, cần phải tin chắc một điều, Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh không phải là một người, cho nên chuyện hôn nhân và tình ái của họ cũng khác nhau. Trong khi tra cứu hồ sơ, tìm hiểu manh mối qua các nguồn tư liệu, ( người viết) cần có thái độ khách quan, tôn trọng chứng cứ mới těm ra được sự thật trong mớ tài liệu hỗn độn do lịch sử để lại, về quan hệ hôn nhân, tình ái của nhân vật đặc biệt này.

Trước hết, cần phân biệt chuyện hôn nhân tình ái của Nguyễn Ái Quốc với Tăng Tuyết Minh, Nguyễn Ái Quốc với Nguyễn Thị Minh Khai  khác với hôn nhân tình ái giữa Hồ Chí Minh với Đỗ Thị Lạc, Hồ Chí Minh với Nông Thị Xuân, Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan. Từ đó có thể rút ra kết luận, quan hệ tình ái giữa Nguyễn Ái Quốc và Tăng Tuyết Minh, Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai đều hình thành trong đấu tranh cách mạng một cách chân tình, nồng nhiệt. Những cuộc tình bắt nguồn từ khói lửa chiến loạn này rất đáng được ca ngợi, không cần phải giấu diếm, càng không nhất thiết có thái độ bôi nhọ.

Tình ái giữa Hồ Chí Minh và Đỗ Thị Lạc, Hồ Chí Minh và Nông Thị Xuân, Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan, trong đó hàm chứa những nỗi đau triền miên làm người đọc cảm động, tỏ thái độ đồng tình, đồng thời phản đối chiến tranh, phản đối bạo lực. Hy vọng rằng những tình cảm nam nữ chân thành này sớm được làm sáng tỏ để nhân gian có cái nhìn đúng đắn về nhân vật huyền thoại Hồ Chí Minh.

Mùa hè năm 1959, Đảng Cộng sản Trung Quốc họp Hội Bộ Chính trị mở rộng tại Lư Sơn, cũng là lúc Hồ Chí Minh đến thăm Trung Quốc với tư cách cá nhân. Chiều ngày 8 tháng mười, Lưu Thiếu Kỳ cùng Vương Quang Mỹ, Chu Đức cùng Khang Khắc Thanh, Chu Ân Lai cùng Đặng Dĩnh Siêu, Lý Phú Xuân cùng Thái Sướng đến biệt thự 394. Hồ Chí Minh thấy nhiều bạn bè cũ đến thăm, chợt cao hứng hỏi Đặng Dĩnh Siêu: “Tiểu Siêu, nhiều khách quý thế này, hôm nay tôi phải lấy gì chiêu đãi?”. Một tiếng “Tiểu Siêu” làm Chu Ân Lai và Đặng Dĩnh Siêu nhớ lại một thời đã qua. Dịp ấy vào năm 1925, Nguyễn Ái Quốc vừa từ Liên Xô về Quảng Châu, biết tin Chu Ân lai vừa được bổ nhiệm là Hiệu trưởng Trường Quân sự Hoàng Phố, ông ta đã đến tận phòng ở của hai người chúc mừng. Lúc ấy, Chu Ân Lại gọi vào trong nhà: “Tiểu Siêu, mang đường ra đây”. Đã hơn ba mươi năm, Hồ Chí Minh đã trở thành ông già “cổ lai hy”, từ một chí sĩ vong quốc đến người đứng đầu nhà nướcViệt Nam, tất cả dường như chỉ mới hôm qua. Đặng Dĩnh Siêu đón tiếp Hồ Chí Minh, ánh mắt tươi rói, cười bảo: “Pha cà phê”.

Chiều ngày 12 tháng tám, vào lúc 5 giờ, Dương Thượng Côn cùng Vương Giá Tường đến biệt thự 394 thăm Hồ Chí Minh. Một lúc sau có tiếng phụ nữ ồn ào từ ngoài vọng vào. Hồ Chí Minh quay đầu nhìn ra, chính là đội ngũ “nương tử quân” “giá đáo” gồm Thái Sướng, Đặng Dĩnh Siêu, Khang Khắc Thanh, Vương Quang Mỹ, ngoài ra còn một vài người chưa quen biết. Mọi người mời Hồ Chí Minh ở lại Lư Sơn thêm ít ngày.

- Được thôi, sau này Việt Nam thống nhất tôi sẽ sang Lư Sơn ở hẳn một năm hoặc nửa năm.

- Chúng tôi không mời riêng một mình Chủ tịch ở lại đâu nhé! – Thái Sướng nói giọng đầy ẩn ý.

- Đương nhiên, tôi biết, vì thế, tôi sẽ mời một số đồng bào…

- Không đâu, chỉ đề nghị Chủ tịch cùng phu nhân đến thôi.

Hồ Chí Minh cười, chậm rãi nói:

- Được thôi, nhờ Tiểu Siêu đề đạt ý kiến với Hội Phụ nữ, không được thì phải đền đấy.

- Đúng vậy, Chủ tịch nên chọn một người vợ cách mạng, chẳng nên bắt đền chị Đặng.

Các bà khách chẳng giữ ý tứ gì, nói năng thoải mái, cười khanh khách vang khắp nhà. Hồ Chí Minh luôn sống độc thân. Nhiều năm qua, Việt Nam và Trung Quốc quan tâm đến tình trạng hôn nhân của ông không ít, nhưng có lẽ, ngay từ thờ trai trẻ, ông đã chủ tâm lập chí, đất nước chưa độc lập, thì chưa thành gia thất chăng?

Các “nữ đồng bào” vẫn vui vẻ cười đùa:

- Lần sau Chủ tịch đến đây chị em chúng tôi mong được ăn kẹo cưới.

Hồ Chí Minh đứng lên, vẫy tay gọi vào trong:

- Mời mang kẹo ra đây chiêu đãi khách quý

- Loại kẹo này chúng tôi không ăn.

- Vậy xin mời các phu nhân dùng cà phê.

- Cà phê cũng không uống.

Hồ Chí Minh cười:

- Vậy tôi đọc một bài thơ được không?

- Không yêu cầu Chủ tịch làm thơ. – Các vị khách đều biết Hồ Chí Minh sành làm thơ nên mới nói đùa vậy.

Hồ Chí Minh là một người có tính cách đặc biệt, ông nhẹ nhàng nói, thời kỳ năm 1940, cơ cấu ban lãnh đạo cách mạng Việt Nam được thành lập tại Côn Minh, để cổ vũ quần chúng, tôi có làm một số “du thi”, xin đọc một bài bài để các nữ đồng chí nghe:

Tam tứ niên lai vọng đoạn trường

Niệm lang lưu lạc tại tha hương

Đồng tâm kết phát thùy thiếp kiên

Cửu biệt lệ lưu thấp lang diện

Quốc hận gia sầu lang vật vong

Gia thường tỏa sự thiếp toàn đương

Đãi lang diệt địch quy lai nhật

Huề thủ đoàn viên lạc điền trang.

 
Tạm dịch nghĩa:

Ba bốn năm nay trông ngóng đến đứt ruột

Nhớ chàng lưu lạc nơi quê người

Dải tóc kết đồng tâm rủ xuống vai thiếp

Dòng lệ khi từ biệt thấm ướt mặt chàng

Nợ nước thù nhà chàng không quên

Công  việc ở nhà thiếp gánh vác

Đợi ngày chàng diệt địch trở về

Dắt tay nhau vui vẻ sống cảnh điền viên.

Các phu nhân chăm chú nghe Hồ Chí Minh đọc từng câu thơ với tâm trạng vô cùng xúc động. Ông biểu thị tình cảm sau sắc qua từng ngữ điệu, khiến các vị khách, sau khi rời biệt thự 394 lòng đầy cảm thán: “Nếu như Việt Nam sớm độc lập, thống nhất, Hồ Chí Minh nhất định sẽ là người chồng mẫu mực, hết lòng thương yêu vợ”. Trước lúc chia tay, các phu nhân còn tranh nhau đứng gần Hồ Chí Minh chụp ảnh kỷ niệm làm Dương Thượng Côn và Vương Giá Tường phải bật cười”.

Bài viết trên là căn cứ vào “Hồ sơ Lư Sơn” của Mã Xã Hương, chương 4 “ Hồ Chí Minh bí mật đến Lư Sơn”, do Nhân dân xuất bản xã ấn hành tháng năm năm 2006. Căn cứ văn bản trên, tôi đặc biệt nghi ngờ Thái Sướng và Đặng Dĩnh Siêu. Có một tấm ảnh Hồ Chí Minh cầm tay Đặng dĩnh Siêu và Thái Sướng cười giữa một đoạn đường núi được Han Suyin chụp, Trương Liên Khang dịch trong cuốn “ Chu Ân Lai và Trung Quốc hiện đại”, trang 314. “Hồ sơ Lư Sơn, Hồ Chí Minh bí mật đến Lư Sơn”, kèm theo tấm ảnh, Hồ Chí Minh đứng giữa, bên phải cầm tay Đặng Dĩnh Siêu, bên trái cầm tay Thái Sướng, ba người tỏ ra rất thân mật (xem ảnh dưới). Tôi không tin việc Hồ Chí Minh, với tư cách Chủ tịch, lấy quốc gia làm trọng, vậy mà lại gọi phu nhân của Chu Ân Lai bằng cái tên “Tiểu Siêu”, Đặng Dĩnh Siêu chẳng những không phật ý mà còn vui vẻ mỉm cười. Lại nữa, Hồ Chí Minh trả lời các mệnh phụ phu nhân “Việt Nam thống nhất tôi sẽ sang Lư Sơn ở hẳn một năm hoặc nửa năm”. Thái Sướng nói giọng đầy ẩn ý: “Chúng tôi không mời riêng một mình Chủ tịch ở lại đâu nhé!”. Những lời đối đáp có tính cợt nhả ấy đều vượt qua nghi lễ ngoại giao, thậm chí vượt qua cả tình cảm đồng chí, nhất là, khi ấy Đặng Dĩnh Siêu và Thái Sướng  lại là cán bộ cao cấp lãnh đạo Hội Phụ nữ Trung Quốc. Chuyện các vị nữ khách đề nghị Hồ Chí Minh đọc thơ tình cũng rất khó xảy ra. Người viết không tin là giữa Hồ Chí Minh và các phu nhân có bất kỳ mối quan hệ tình cảm mờ ám nào. Tôi đồ rằng, trong số các mệnh phụ phu nhân đến biệt thự 394 hôm ấy, có người ngấm ngầm muốn công khai bí mật thân phận thật của Hồ Chí Minh trước bàn dân thiên hạ. Chính vì vậy, qua những lời nói khá tình cảm của Hồ Chí Minh và Đặng Dĩnh Siêu, làm tác giả Bùi Tín hiểu lầm  là hai người đã từng yêu nhau.

Trở lại năm 1926, Hồ Chí Minh và Tăng Tuyết Minh chính thức cử hành hôn lễ tại Quảng Châu, Đặng Dĩnh Siêu, Thái Sướng từng là người làm mối và chủ trì. Năm 1958, xảy ra vụ “Tăng Tuyết Minh hôn nhân xung đột song bào án kiện” (Vụ án kép những mâu thuẫn hôn nhân của Tăng Tuyết Minh”, Thái Sướng phải đứng ra giải quyết mới dẹp được sóng gió. Cũng năm 1958, Hồ Chí Minh vì muốn hoàn thành tâm nguyện kết hôn cùng Lâm Y Lan nên đã nhờ Đào Chú, Chu Ân Lai giúp đỡ. Theo những bằng chứng đáng tin cậy, có thể thấy, Đặng Dĩnh Siêu, Thái Sướng  biết rất rõ Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh không phải là một người, biết rõ Nguyễn Ái Quốc đã bị bệnh chết, càng rõ hơn, Hồ Chí Minh là kẻ bội bạc hôn nhân. Tuy nhiên, với Lâm Y Lan, Hồ Chí Minh lại đặc biệt dành tình cảm cho bà, khiến tôi vô cùng kính trọng và biểu đồng tình.

Đọc tiếp: Kỳ 6 -

Không có nhận xét nào: