Bà Sophie Quinn-Judge (1)


HỒ CHÍ MINH
NHỮNG NĂM THÁNG CHƯA ĐƯỢC BIẾT ĐẾN (19191941)
HO CHI MINH: THE MISSING YEARS
Kỳ 1

Lời dịch giả Diên Vỹ 
Thưa các bác, vậy là cuốn sách Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến, sau 2 năm vật lộn đã hầu như hoàn tất. Chỉ còn phần chú thích nữa mà tôi sẽ cố gắng hoàn tất nay mai. Trước hết xin chân thành cảm ơn bác Hoài An, người đã có công giới thiệu và chuyển ngữ phần đầu của cuốn

sách. Không có bác thì tôi cũng chả biết mà đi tìm đọc. Kế đến xin cảm ơn bác Hồ Gươm, một người với kiến thức dồi dào về lịch sử đảng đã giúp hiệu đính rất nhiều tên tuổi và địa danh được đề cập trong cuốn sách. Và cuối cùng xin cám ơn sự kiên nhẫn và nhiệt tình của các thành viên khác đã khích lệ và cổ vũ công việc chuyển ngữ này.

Như bác Hoài An đã nhấn mạnh ngay từ lúc đầu. Chúng  tôi bỏ công ra dịch cuốn sách này không ngoài mục đích nào khác là đem sự thật (gần nhất) về cuộc đời của Hồ Chí Minh ra ánh sáng khách quan. Quyền nhận định xin nhường cho người đọc. Tác giả của cuốn sách, bà Sophie QuinnJudge, đã sử dụng hàng ngàn tài liệu từ Sở Liêm Phóng Pháp và từ tàng thư của Quốc tế Cộng Sản vừa được bạch hoá. Với cách viết theo thể biên niên ký, tác giả đã rất cẩn trọng, tỉ mỉ và nghiêm túc vạch lại rất chi tiết con đường chính trị của Hồ Chí Minh từ Hội Nghị Hoà Bình Paris năm 1919 cho đến ngày ông về lại biên giới Việt Nam năm 1943. Qua cuốn sách, ta thấy rằng Hồ Chí Minh, không như những sách vở tài liệu của cả hai bên (ủng hộ và chống đối) từ trước đến nay vẫn thường miêu tả, đã không phải là người duy nhất có công/tội truyền bá chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam. Từ một thanh niên với lòng yêu nước nồng nàn nhưng giản đơn cho đến khi trở thành người lãnh đạo phong trào cộng sản Việt Nam, ông không hẳn là người có ảnh hưởng  nhất  trong  nội bộ Đảng  CS cũng  như phong  trào giải phóng  thuộc  địa tại Đông Dương. Những hệ quả lịch sử của Việt Nam cho đến giai đoạn ấy và có lẽ về sau này, luôn bị ảnh hưởng bởi những nhân tố và tác động chủ quan và khách quan khác ngoài nhân vật Hồ Chí Minh. Sự khác biệt về ý thức hệ trong cuộc chiến QuốcCộng mà vô tình lẫn cố ý, những người của cả hai bên chiến tuyến cùng lúc đã biến ông trở thành một vị thánh sống và một tên đồ tể. Hy vọng cuốn sách sẽ hé mở nhiều chi tiết có giá trị lịch sử cho người đọc để họ hiểu rõ hơn về cuộc đời của Hồ Chí Minh cũng như những tranh chấp quyền lực và hệ tư tưởng trong thành phần lãnh đạo phong trào cộng sản Việt Nam từ khi nó vừa ra đời. Từ đó có được cái nhìn khách quan hơn về nhân vật nổi tiếng này cũng như hiện tình lịch sử của đất nước trong giai đoạn ấy:

Tôi hoàn thành bản dịch cuốn sách này với tâm trạng vui buồn lẫn lộn. Vui vì đã đọc được một công trình nghiên cứu đầy tính chuyên nghiệp và khách quan của một học giả tận tâm. Buồn là vì đã gần 40 năm sau ngày Hồ Chí Minh qua đời, các học giả, sử gia người Việt trong và ngoài nước vẫn chưa vượt qua được những ràng buộc chính trị, cảm tính cá nhân hoặc ý thức hệ để có thể cho ra đời một nghiên cứu như thế này mà phải nhờ đến bàn tay và trí óc của người ngoại quốc. Với khả năng ngôn ngữ có hạn, đặc biệt là những địa danh, nhân danh và những từ ngữ chuyên môn, bản dịch chắn chắn còn nhiều khiếm khuyết. Mong những thành viên tiếp tục đóng góp để nó thêm hoàn chỉnh.

Một lần nữa xin cảm ơn mọi người. Hẹn gặp lại các bác trong những dự án khác

Đài BBC Việt Ngữ phỏng vấn tác giả  cuốn “Hồ Chí MinhNhững năm chưa biết đến”

Cuốn ʺHồ Chí Minh: Những  năm chưa biết đếnʺ (Hochiminh:  The missing  years) của tác giả Sophie QuinnJudge,  đại học LSE, London, chủ yếu dựa trên tư liệu về Quốc tế cộng sản được giải mật năm 1992 của Trung tâm lưu trữ quốc gia Nga – và tư liệu từ kho lưu trữ quốc gia Pháp.

Tập trung vào những năm hoạt động của ông Hồ Chí Minh thời kì trước 1945, quyển sách cố gắng dựng lại chân dung cũng như vị trí thật sự của ông Hồ trong thời kì này. Tiến sĩ Sophie QuinnJudge, người Mỹ hiện sống tại Anh đã trả lời phỏng vấn của đài Ban Tiếng Việt BBC.

BBC: Cuốn sách của bà mở đầu bằng hội nghị hòa bình tại Paris năm 1919 khi lần đầu tiên ông Hồ Chí Minh – mà lúc này có tên Nguyễn Ái Quốc – được nhiều người biết tới. Vậy trước giai đoạn này chúng ta có biết gì nhiều về hoạt động của ông, đặc biệt là việc người cha của ông có ảnh hưởng thế nào đến ông không?

Sophie QuinnJudge:  Cha của ông Hồ là một nhân vật rất đáng chú ý và tôi hi vọng sẽ có thêm tài liệu nghiên  cứu tiếng Việt để hiểu rõ hơn thân thế của người này. Nhưng  rõ ràng là việc người cha bị thất sủng, không còn là quan cấp tỉnh trong chế độ Pháp đã có tác động đến cuộc sống ông Hồ.

Bởi sau khi ông Nguyễn Sinh Huy bị miễn nhiệm tại tỉnh Bình Định, con ông Nguyễn Tất Thành buộc phải thôi học ở trường Quốc học Huế và trở thành thầy giáo tại Phan Thiết. Rồi ông vào Nam và như mọi người đều biết, ông đi Pháp năm 1911.

Nếu cha ông vẫn còn tại chức, thì có lẽ người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã tiếp tục đi học ở Huế và sự nghiệp chống thực dân của ông có thể đã ngả sang một hướng khác. Chúng ta không biết chắc, nhưng những hoàn cảnh bên ngoài đã buộc ông phải ra nước ngoài.

Tìm đương cưu nươc

BBC: Bà ngụ ý là ban đầu ông Hồ ra nươc ngoài không phải vơi mục đích tìm đương cưu nươc?

Không, ý tôi không phải là như thế. Dựa trên tài liệu của Pháp nói về các anh chị trong gia đình ông Hồ và nhưng lần họ giúp đơ cho Phan Bội Châu, tôi nghĩ gia đình họ tham gia vào các hoạt động yêu nươc chống thực dân tư sơm.

Tôi tin là ông Hồ Chí Minh cũng sẽ tham gia vào các hoạt động chống thực dân theo cách này hay cách khác. Nhưng bởi vì ông không thể ở lại trương Quốc học, nên ông ra nươc ngoài để tìm biện pháp hoặc học thêm để nghĩ cách chống ngươi Pháp.

BBC: Khi ông Hồ tơi hội nghị hòa bình Versailles 1919, ngươi ta nhìn ông Hồ như thế nào?

Đây là một điều mà chúng ta rất khó biết chắc bởi vì có một khoảng trống lơn trong tiểu sử của ông Hồ. Chúng ta không biết trươc năm 1919, ông Hồ hoạt động ở mưc độ nào, chuyện chính trị có phải là vấn đề bận tâm duy nhất của ông hay không.

Nên khi ông xuất hiện tại hội nghị Paris tháng Sáu năm 1919, phân phát bản kiến nghị cho các đại biểu tham  dự, mọi ngươi  thấy khó chấp nhận  ông ấy như một nhân  vật ngang  hàng  vơi nhưng ngươi nổi tiếng như Phan Chu Trinh hay Phan Văn Trương.

BBC: Sau hội nghị ở Paris, ông Hồ đến Nga năm 1923 rồi sau đó đi Quảng Đông. Trong khoảng thơi gian này, vị trí của ông Hồ trong Quốc tế cộng sản như thế nào, bởi vì một số tác giả cho rằng lúc này ông Hồ đã được Quốc tế cộng sản chú ý nhiều?

Đầu tiên, ông Hồ lúc đó không phải là thành viên của một đảng cộng sản châu Á nào. Ông ấy đang là thành viên của đảng cộng sản Pháp. Vì thế, ông chưa có vị trí vưng chắc trong nội bộ Quốc tế cộng sản. Ví dụ, ông không có chân trong ban chấp hành. Có nhiều nhân vật khác quan trọng hơn như Mahendra Roy tư Ấn Độ hay Sen Katayama của Nhật.

Nhưng Nguyễn Ái Quốc có một thông điệp rất rõ về việc phong trào cộng sản có thể tham gia thế nào trong phong trào quốc gia tại các thuộc địa. Tôi nghĩ bởi vì thông điệp này nên ông ấy được khuyến khích lên phát biểu tại đại hội lần thư năm của Quốc tế cộng sản năm 1924. Nhưng lúc ấy, theo tôi, ông Hồ chưa phải là ngươi phát ngôn hàng đầu về các vấn đề thuộc địa trong Quốc tế cộng sản.

Việc ông Hồ là thành viên đảng Cộng sản Pháp cũng có thể đã khiến vị trí của ông trở nên phưc tạp. Trotsky – đối thủ chính trị của Stalin thơi bấy giơ có một ảnh hưởng đáng kể đối vơi nhưng ngươi cộng sản Pháp. Trong một bãi mìn chính trị như vậy, ông Hồ dương như bắt đầu học cách hợp tác vơi bất kì ai đang nắm quyền lực và học cách theo đuổi nhưng quan tâm của riêng mình.

BBC: Một số tác giả như Jean Lacouture nói rằng ông Hồ được gửi tơi Quảng Đông để làm trợ lý hay thư ký cho Michail Borodin.

Tôi nghĩ điều này không chính xác, bởi vì ông Hồ lúc đó tư Nga đi Quảng Đông mà không mang theo một hương dẫn rõ ràng về nhưng gì ông sẽ làm tại đó. Ban đầu ông ấy không được cho một vai trò chính thưc. Có vẻ như ngươi ta đã tìm cho ông công việc làm ngươi dịch thuật tại hãng tin của Nga tại đó để có tiền thực hiện các hoạt động chính trị của ông.

Chư còn lúc mơi đến Quảng Đông, ông Hồ rất vất vả trong việc có đủ tiền giúp cho việc giúp đưa các thanh niên Việt Nam sang Quảng Đông tham gia các khóa đào luyện. Như vậy, không có một kế hoạch, chỉ thị rõ ràng dành cho ông Hồ và ông phải tự bươn chải, đối phó vơi các vấn đề khi chúng diễn ra.

BBC: Chúng ta có biết tâm trạng của ông Hồ lúc này không?

Tôi nghĩ ông ấy cảm thấy bưc bối vì thiếu sự giúp đơ cụ thể của Quốc tế cộng sản, hay ngươi Nga hay ngươi cộng sản Pháp lúc đó. Trong năm 1924, ông Hồ liên tục gửi thư yêu cầu các lãnh đạo Quốc tế cộng sản chú ý nhiều hơn đến nhu cầu của phong trào tại Việt Nam.

Cuối cùng thì vào đầu năm 1927, thông qua một đại biểu Quốc tế Cộng sản tư Pháp sang Quảng Đông, ông Hồ nhận được một khoản ngân sách. Nhưng không may là trươc khi kế hoạch được thực hiện, xảy ra cuộc đảo chính của Tưởng Giơi Thạch và ông Hồ phải rơi khỏi Quảng Đông trươc khi các khóa đào tạo mà ông muốn tiến hành có thể khởi động một cách toàn diện.

Tăng Tuyết Minh

BBC: Trong khoảng thời gian ông Hồ ở tại Quảng Đông, có xuất hiện cái tên của bà Tăng Tuyết Minh với những lời đồn đoán khác nhau. Theo nguồn tài liệu mà bà có, thì Tăng Tuyết Minh là ai?

Gần đây đã có một chuyên gia Trung Quốc đề cập đến người này. Còn theo tài liệu mà tôi tìm thấy tại Pháp, Tăng Tuyết Minh khi đó là một phụ nữ trẻ ở Quảng Đông. Và có lẽ bà ấy và ông Hồ đã kết hôn vào tháng Mười năm 1926. Họ ở với nhau cho đến khi ông Hồ phải rời Quảng Đông tháng Năm 1927. Như vậy thời gian kéo dài khoảng sáu tháng.

BBC: Từ mà bà dùng – “có lẽ” – ở đây nghĩa là thế nào?

Không chắc vào thời kì đó, một cuộc hôn nhân được định nghĩa như thế nào. Ta bắt gặp những ví dụ khác nhau trong các văn bản về phong trào cộng sản. Đôi khi một cuộc hôn nhân diễn ra đơn thuần vì lý do chính trị. Hai người sống chung với nhau như một cách ngụy trang để duy trì các hoạt động chính trị của họ. Thí dụ, nếu họ điều hành một tòa soạn báo, sẽ an toàn hơn khi giả làm hai vợ chồng. Và tôi không biết trong các phong trào cách mạng, đâu là các yếu tố tạo nên một cuộc hôn nhân có ràng buộc. Những điều này có vẻ không chặt chẽ, chẳng hạn nếu ta nhìn sự nghiệp của Mao Trạch Đông, một người mà đã nhiều lần thay đổi người nâng khăn sửa túi cho mình.

BBC: Sau khi rời khỏi Quảng Đông, ông Hồ Chí Minh đã bôn ba nhiều nơi trước khi quay trở lại châu Á. Và rồi chúng ta có sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, mà sau đó có tên Đảng Cộng sản Đông dương.

Theo quyển sách của bà, thì Đảng Cộng sản thành lập tháng Hai năm 1930 và đến tháng Mười năm đó, ông Hồ Chí Minh đã đánh mất ảnh hưởng của mình trong đảng?

Cần nhắc là ông Hồ đã trải qua thời gian ở Thái Lan, rồi sang Hồng Kông vào mùa đông 1929. Hồng Kông là nơi mà tháng Hai năm 1930, một đảng cộng sản thống nhất của người Việt Nam ra đời. Cùng lúc này thì có nhiều sự không rõ ràng xung quanh việc ai là người ban đầu được chính thức giao trách nhiệm thành lập nên đảng. Bởi vì trước đó Quốc tế Cộng sản gửi về hai người là Trần Phú và Ngô Đức Trì. Hai người này đã học tại Moscow trong khoảng ba năm và trở về mang theo chỉ thị của Quốc tế cộng sản về cách thức thành lập đảng.

Vậy là sau khi Nguyễn Ái Quốc thành lập đảng cộng sản vào tháng hai, hai người này quay về Việt Nam hoạt động. Cuối cùng đến tháng Mười, diễn ra hội nghị trung ương lần thứ nhất tổ chức tại Hồng Kông. Đến lúc này hai người, mà đặc biệt là Trần Phú theo tôi – đã cố gắng ấn định các chỉ thị mà họ mang theo từ Moscow. Chỉ thị này bao gồm đảng phải là tổ chức của riêng giai cấp lao động, một chủ trương mà sẽ dẫn đến một nỗ lực thanh trừng các thành phần yêu nước gốc trung lưu trong nội bộ đảng.

Nguyễn Thị Minh Khai

BBC: Cũng khoảng thời gian này, có một lá thư đề ngày 1211931 của Văn phòng Viễn Đông của Quốc tế Cộng sản nhắc ông Nguyễn Ái Quốc rằng ông cần thông báo cho họ về cuộc hôn nhân của mình hai tháng trước khi cuộc hôn nhân diễn ra. Đây là lúc muốn được hỏi bà, theo bà, thì có cuộc hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị Minh Khai và ông Hồ Chí Minh hay không?

Tôi không chắc đó có phải một cuộc hôn nhân thật sự hay không. Chúng ta biết là khoảng giữa năm 1930, bà Nguyễn Thị Minh Khai được giao đến làm việc tại văn phòng của ông Hồ ở Hồng Kông, rồi sau đó được giao công việc liên lạc với đảng cộng sản Trung Quốc.

Vào tháng Hai năm 1931, ông Hồ có nhắc việc vợ của ông đang bận chuẩn bị cho ngày Tết và chuẩn bị đón khách từ Việt Nam. Ông Hồ cũng viết thư cho Quốc tế Cộng sản, có vẻ như trong đó ông đề cập tới một đám cưới sắp diễn ra. BởI vì sau đó Quốc tế Cộng sản viết thư trả lời, nói ông cần đình hoãn đám cướI cho đến khi có chỉ thị mới. Tôi sẽ ngần ngừ khi nóI liệu ông Hồ có phảI đang nóI về việc làm đám cưới thật sự hay không bởI vì trong các thư từ, họ thường sử dụng nhiều loạI mật mã.

Nhưng trong trường hợp này, có vẻ như lá thư nói những chuyện thật sự đang diễn ra bởi vì trong cùng một lá thư ông Hồ cũng thảo luận nhiều  vấn đề khác một cách công khai. Và từ những gì ngườI ta biết vào năm 1934, Nguyễn Ái Quốc có một người vợ được cử tới đại hội của Quốc tế cộng sản ở Moscow. Khi Minh Khai tới Moscow, bà ấy có viết trong lý lịch nói mình kết hôn với “Lin” – bí danh của ông Hồ thời bấy giờ. Vì vậy, người ta có thể ngờ rằng giữa hai người có một mối quan hệ vào năm 1931. 

BBC: Bà nói mình không chắc có thể dùng chữ “hôn nhân” ở đây. Vậy nếu người ta hỏi liệu đã một mối quan hệ tình cảm giữa ông Hồ Chí Minh và bà Nguyễn Thị Minh Khai, vậy bà sẽ trả lời thế nào?

Tôi nghĩ câu trả lời là Có, đặc biệt nếu chúng ta dựa vào một số chứng liệu khác. Ví dụ vào năm 1945, trong cuộc nói chuyện với một phóng viên Mỹ, ông Hồ Chí Minh có nhắc ông từng có một người vợ, nhưng bà đã qua đời. Hoặc có những đề cập nói rằng vào cuối thập niên 1930, khi Nguyễn Thị Minh Khai quay về Việt Nam, bà đã chia cắt với người chồng là một nhà cách mạng lớn tuổi đang ở nước ngoài. Điều này nghe giống như một sự miêu tả ông Hồ Chí Minh.

BBC: Nhưng nếu dựa trên những nguồn tài liệu của Pháp, ta có khuynh hướng tin là bà Nguyễn Thị Minh Khai có nhiều mối quan hệ với các đồng chí khác nhau trong khoảng thời gian từ 1930 đến 1940. Vậy thì đâu là thực, đâu là hư?

Đây chính là điểm làm câu chuyện phức tạp. Thông tin tình báo của Pháp lúc bấy giờ thường đề cập bà Minh Khai có mối quan hệ với nhiều người khác nhau. Ví dụ, năm 1932, mật thám Pháp tin rằng bà là người tình của Trần Ngọc Danh, em trai ông Trần Phú.

Chúng ta không biết chắc liệu đây có thuộc về dạng hôn nhân cách mạng hay không, khi mà hai người cùng chí hướng đã giả trang làm người yêu để dễ đánh lạc hướng chính quyền đương thời. Hay còn điều gì hơn thế! Thật khó để biết rõ cách thức hoạt động của những người hoạt động cách mạng bởi vì họ có thể xem mình thuộc về một thế giới khác, vượt khỏi các khuôn khổ đạo đức bình thường.

Mâu thuẩn trong đảng

BBC: Trong quyển sách, bà viết là đến khi hội nghị trung ương đảng cộng sản Đông Dương họp tại Sài Gòn ngày 1231931, mối quan hệ giữa Ban chấp hành trung ương với ông Hồ Chí Minh đã xuống dốc rất nhiều. Vì sao lại như vậy?

Thật sự thì Ban chấp hành gồm rất ít người, người lãnh đạo chính là ông Trần Phú. Tôi nghĩ có một sự khó chịu về nhau từ cả hai phía – ông Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông và các ông Trần Phú, Ngô Đức Trì và các lãnh đạo khác ở Sài Gòn. Than phiền chính của họ là những khó khăn trong việc liên lạc với Quốc tế cộng sản, mà đại diện là văn phòng phương Đông tại Thượng Hải. Có nhiều lý do vì sao việc liên lạc lại khó khăn. Một trong số đó là chi nhánh đảng cộng sản Trung Quốc tại Hồng Kông đã bị người Anh phát hiện vào khoảng đầu năm 1931. Nên không còn một cơ sở hạ tầng cho việc liên lạc như trước đây.

Và dĩ nhiên lúc đó đảng cộng sản tại Việt Nam cũng bị tổn hao vì những đợt bắt bớ của người Pháp. Trong hoàn cảnh khó khăn như vậy, dễ hiểu là vì sao các bên đổ lỗi cho nhau. Ông Hồ không nhận được thông tin từ trong nước, nên ông yêu cầu ban chấp hành ở miền Trung và Hà Nội. Điều này làm các lãnh đạo ở Sài Gòn khó chịu. Vì thế ông Hồ cảm thấy mình không được sử dụng đúng và sau đó đề nghị đảng cho thôi chức vụ của ông tại Hồng Kông.

BBC: Nhưng bên cạnh đó, một lý do khác dường như là xung đột trong hệ tư tưởng giữa các bên, phải không?

Vâng, theo tôi, ông Hồ lúc đó bị chỉ trích vì người ta bắt đầu xem ông là một nhà cải cách theo xu hướng quốc gia. Ông ấy coi đảng phải sử dụng những tình cảm yêu nước để thu hút nhiều đối tượng. Trong khi đó, tại Sài Gòn, chi bộ đảng đã bắt đầu đi theo chính sách mới của Quốc tế Cộng sản, tức là đấu tranh giai cấp và đảng chỉ là đảng của người vô sản mà thôi, sinh viên hay tầng lớp trung lưu chỉ đóng vai trò hỗ trợ.

BBC: Cái vấn đề là người quốc gia hay cộng sản đã được bàn đến nhiều xung quanh ông Hồ Chí Minh. Có người nói là ngay cả khi xem ông Hồ là người theo chủ nghĩa dân tộc, thì thật ra đó không phải lý thuyết của chính ông? Bà nghĩ sao?

Thật khó để biết đâu là xu hướng riêng trong chính sách của ông Hồ lúc đó, đâu là ông đi theo chính sách của Quốc tế cộng sản thời kì thập niên 1920. Nhưng có thể nói xu hướng của ông Hồ lúc đó phù hợp với chính sách của Quốc tế cộng sản lúc 1920. Theo đó, những người cộng sản nên tập trung vào các cuộc cách mạng dân tộc ở các nước thuộc địa bởi vì giai cấp vô sản hay đảng cộng sản còn rất nhỏ, tự mình hành động thì không có lợi. Ông Hồ theo xu hướng này. Còn ông có những ý tưởng nào vượt ra khỏi điều này không, thì tôi không rõ.

BBC: Chúng ta hãy chuyển sang giai đoạn giữa thập niên 1930 khi ông Hồ quay về Nga. Có vẻ như vị trí của ông trong Quốc tế cộng sản lúc này bị lung lay?

Stalin lúc này đã củng cố ảnh hưởng của mình. Nói chung những ai đã từng làm việc ở nước ngoài sẽ bị nghi ngờ mang tư tưởng tư sản. Những ai trở về Nga phải tự thú. Có cảm giác kẻ thù ở mọi nơi. Đặc biệt những người như ông Hồ Chí Minh đã từng làm việc với mặt trận thống nhất tại miền nam Trung Hoa. Thêm vào điều đó, lại còn những vụ bắt giữ người cộng sản tại Hồng  Kông,  Thượng  Hải năm 1931.  Cơ sở của quốc tế cộng  sản tại Thượng  Hải sụp đổ. Và những người lãnh đạo đảng cộng sản tại Việt Nam cũng bị bắt. Nên dĩ nhiên diễn ra các vụ điều tra xem ai có tội, và ông Hồ chắc chắn trải qua những ngày vất vả khi đó.

BBC: Sau những vụ thanh trừng tại Nga 1937 – 1938, thì nhiều người tự hỏi vì sao ông Hồ Chí Minh có thể tồn tại sau những ngày như thế?

Đó là câu hỏi mà các chuyên gia nước ngoài đã tập trung nghiên cứu từ lâu. Quan điểm trước đây của họ cho rằng lý do chính là vì ông Hồ, vào cuối thập niên 30, đã trở thành lãnh tụ của đảng cộng sản nên vì thế được Stalin bảo vệ hay ít nhất cũng là một trong những người được tin dùng. Theo tôi, đó là một sự tổng quát hóa không có cơ sở. Stalin có thể diệt trừ những người thân cận nhất của mình, không có ai là an toàn. Những nhân vật thân cận như Kalinin, Molotov cũng là nạn nhân của Stalin (vợ của họ bị bắt và đây có thể xem là một cách để khống chế những người này). Nên phải nói ngay từ đầu cái ý nghĩ bạn có thể an toàn khi ở cạnh Stalin là điều không có thật. Và ngoài ra, ông Hồ Chí Minh đã bị cảnh gần như bị giáng chức vào năm 1935 vì cáo buộc ông chịu trách nhiệm cho những vụ bắt giữ năm 1931. Nên không thể nói ông ấy lúc đó là nhân vật hàng đầu trong Quốc tế cộng sản.

Kết luận lại, tôi nghĩ lý do chính là vì ông đã sống kín đáo, lặng lẽ. Mà thực sự Việt Nam cũng không phải nằm trong danh sách những nước là Stalin lo âu. Ông ta quan tâm hơn đến việc thanh trừng đảng cộng sản ở các nước láng giềng.

Thời thế đưa đẩy

BBC: Theo tường thuật của bà trong sách, đường cách mạng của ông Hồ Chí Minh vẫn còn rất gian nan trong thập niên 30. Vậy ông Hồ đã làm thế nào để có được quyền lực trong đảng cộng sản để rồi sau này dẫn tới cách mạng năm 1945?

Quá trình dẫn đến việc nắm quyền lực năm 1945 của ông Hồ không phải là một tiến trình có sẵn từ đầu. Một trong những điểm tôi cố gắng làm rõ trong quyển sách là quá trình dẫn đến việc nắm quyền lực năm 1945 của ông Hồ không phải là một tiến trình có sẵn từ đầu.

Năm 1938, khi ông Hồ quay lại Trung Quốc, Lê Hồng Phong,  Hà Huy Tập là thuộc trong số những lãnh đạo đảng tại Sài Gòn. Sau đó thì lần lượt từng lãnh đạo tại Sài Gòn bị Pháp bắt sau khi mặt trận bình dân tại Pháp sụp đổ và người Pháp một lần nữa ra chính sách trừ diệt đảng cộng sản. Sau đó, tôi nghĩ có một cuộc khủng hoảng lãnh đạo trong đảng. Lúc này, ông Hồ đang ở Trung Quốc xây dựng một nhóm những người yêu nước Việt Nam theo đuổi chính sách thống nhất – một chính sách mà vào lúc này quốc tế cộng sản quay lại sử dụng. Tôi nghĩ đến đầu thập niên 40, ông Hồ Chí Minh là người Việt Nam cần lúc đó, có mặt và sẵn sàng hành động.

BBC: Như bà viết trong sách, nhiều tác giả – cả cộng sản và không cộng sản – đã phần nào phóng đại vai trò của ông Hồ Chí Minh. Vì sao?

Tôi nghĩ đó là điều mà trong giới sử học gọi là phát triển bằng cách viết ngược (back formation). Bởi vì ông Hồ trở thành chủ tịch nước năm 1945, người ta đặt ra những tiền đề không có căn cứ về sự nghiệp của ông. Và thật dễ dàng để cho rằng ông đã luôn là một trong những nhân vật hàng đầu trong quốc tế cộng sản. Dĩ nhiên đảng cộng sản Việt Nam sẵn sàng chấp nhận suy nghĩ này vì nó cho họ một uy tín trong phong trào cộng sản quốc tế.

BBC: Nhưng vì sao ngay cả những người không cộng sản cũng có thiên hướng chấp nhận điều này?

Theo tôi, đó là vì một chân dung như thế cũng hợp với những nghị trình của họ. Họ muốn tin rằng ông Hồ đã luôn là một người cộng sản ẩn đằng sau cái vỏ dân tộc chủ nghĩa. Tôi nghĩ những nhà chỉ trích ông Hồ Chí Minh thuộc cả hai phía cộng sản và không cộng sản duy trì chân dung về ông như một nhà cộng sản đầy quyền lực bởi vì ông ấy là biểu tượng nổi tiếng nhất của phong trào cộng sản Việt Nam.

BBC: Khi đọc về những bước đường đầu tiên trong sự nghiệp của ông Hồ Chí Minh, nó có giúp gì cho người ta hiểu về phần đời sau này của ông hay không?

Vâng, tôi nghĩ phần nào đó, những gì diễn ra trong thập niên 30 cũng tái lặp trong cuối thập niên 40, đầu 50. Mâu thuẫn trong phong trào cộng sản tại Việt Nam và quốc tế không bao giờ vụt tắt.

Một bên muốn đi tới thật nhanh, xây dựng điều mà họ gọi là chủ nghĩa xã hội bằng cách loại trừ tầng lớp trung lưu. Một bên lại cho rằng chủ nghĩa cộng sản phải được xây dựng từ từ, trải qua giai đoạn của chủ nghĩa tư bản. Tôi nghĩ người ta cần hiểu hai quan điểm này cứ thay nhau được chấp nhận, rồi gạt bỏ. Cứ như vậy.

Đó là một trong những lý do – tôi nghĩ – vì sao ông Hồ Chí Minh không phải bao giờ cũng duy trì được vị trí là một nhà lãnh đạo có thực quyền.

(Nguồn BBC Việt Ngữ)

Lời cảm tạ của bà Sophie Quinn-Judge

Tôi xin chân thành cảm ơn John D. và Catherine  T. tại quỹ McAthur  vì đã tài trợ cho những nghiên cứu của mình và năm 1994 tại MoscowAixenProvence.  Quỹ nghiên cứu của đại học trung tâm London đã là nơi tài trợ cho nghiên cứu của tôi ở AixenProvence  vào năm 1998. Tôi rất biết ơn những người quản thư tại trung bảo tồn và lưu trữ tàng thư về lịch sử cận đại của Nga, những người đã hết lòng giúp đỡ trong những điều kiện khó khăn.

Chính bạn bè của tôi tại Việt Nam, Nga, Mỹ, Anh, Pháp đã ủng hộ và khuyến khích tôi thực hiện việc nghiên cứu về Nguyễn Ái Quốc/Hồ Chí Minh, một dự án nghiên cứu tưởng như viển vông mà ban đầu tôi đã không lường hết được. Trong những năm tháng học tại khoa châu phi học của trường đại học tổng hợp London, tôi đã có được nhiều trao đổi về mặt học thuật với bạn bè qua các seminar về lịch sử Việt nam. Tôi cũng muốn cảm ơn chồng và hai con gái của mình vì đã hỗ trợ hết mình cho công việc nghiên cứu này.

Quyển sách này giành để tặng cho những người quá cố là Huỳnh Kim Khánh, người đầu tiên khơi gợi sự tò mò của tôi về mối quan hệ giữa Nguyến  Ái Quốc và Quốc Tế III; và Ralph B. Smith, một người bạn với nhiều lời khuyên chân thành, một tấm gương về sự lao động quên mình của một học giả.

Nội dung sách

Chương 1:  Paris: Sự xuất hiện của Nguyễn Ái Quốc (191923)

Chương 2:  Ra nhập Quốc Tế III (Comintern) (19234) Chương 3:  Thời kỳ ở Quảng Châu và sau đó (19248) Chương 4:  Từ con đường cũ đến con đường mới (19279) Chương 5:   Sóng triều cách mạng (19301)

Chương 6:   Chết ở Hồng Kông, chôn tại Moscow?

Chương 7:   Sự trở lại của Hồ Chí Minh và con đường đến Hội nghị Tám (193741).

Qui ước viết tắt trong sách

ACP     Annam Communist Party (An Nam Cộng sản Đảng) AOM  Archives d’OutreMer

BNTS              Hồ Chí Minh: Biên Niên Tiểu Sử

CC                  Central Committee (Trung ương)

CCP                Chinese Communist Party (Đảng CS Trung Quốc)

CYL               Communist Youth League (Liên đoàn Thanh niên Cộng sản) DDSCD          Đông Dương Cộng sản Đảng

ECCI               Executive  Committee  of  the  Communist  International  (Ban  chấp  hành

Quốc tế Cộng Sản).

FCP                French Communist Party (Đảng cộng sản Pháp) FEB Far East Bureau (Viễn Đông Cục)

GMD               Guomindang (Quốc dân Đảng)

ICP               Indochinese Communist Party (Đông dương Cộng sản Đảng) MAE                Ministère des Affaires Etrangères

NCLS             Nghiên cứu Lịch sử (tạp chí) NXB Nhà xuất bản

OMS               Bộ phận liên lạc quốc tế

RS                   Trung bảo tồn và lưu trữ tàng thư về lịch sử cận đại Nga

SHAT              Service Historique de l’Armée de Terre

SLOTFOM      Service  de  Liaisons  avec  les  Originaires   des  Territoires   de  la  France d’OutreMer.

SMP                Hồ sơ cảnh sát thành phố Thượng hải.

SPCE              Service de Protection du Corps ExpéditionairE

VNQDD          Việt Nam Quốc Dân Đảng

VNTNCMDCH          Việt nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội

 

CHƯƠNG 0: GIỚI THIỆU

Huyền thoại kép

Nhân viên trong bóng tối của Quốc Tế III được thế giới bắt đầu biết đến từ năm 1945 dưới cái tên là Hồ Chí Minh đã trở thành biểu tượng của chủ nghĩa cộng sản tại Việt nam nhiều năm sau ngày ông lên nắm quyền với tư cách là chủ tịch đầu tiên của đất nước mình. Trong cuộc chiến giữa Mỹ và Việt nam, ông nổi lên như một hình tượng của chủ nghĩa cộng sản “hai mặt” điển hình Á châu (nghĩa là mặt cộng sản và mặt dân tộc – ND), và đối với tổng thống Mỹ Lyndon Johnson ông là một kẻ thù. Hình tượng này phần nào được dựng lên do các chiến dịch tuyên truyền thời chiến tranh lạnh, mà ở đó ông được mô tả như một kẻ cuồng tín, đam mê quyền lực, một người từng theo chủ nghĩa dân tộc nhưng cuối cùng đã phản bội lại chính những người theo chủ nghĩa dân tộc phi cộng sản [1]. Hồ phải chịu trách nhiệm cho những khổ đau mà đất nước ông phải hứng chịu do chiến tranh và chủ nghĩa cộng sản đem lại.

 

Photo 002

 

Hình  ảnh trên  của Hồ Chí Minh  được  đưa ra bởi phe  chống  cộng ngược hẳn lại với hình ảnh được xây dựng kỹ lưỡng về ông của những người cộng sản Việt nam trong đó ông được mô tả như một người chủ tịch, một người cha của nước Việt nam độc lập, một người sống mẫu mực, khổ hạnh như thầy tu, một người đã cống hiến trọn đời mình cho dân tộc. Từ sau năm 1945, những người cộng sản Việt nam đã sử dụng ông như một phương tiện để tạo ra một lịch sử của một Đảng cộng sản thống nhất, đoàn kết và luôn luôn sáng suốt. Ở một mức độ nào  đó,  bản  thân  ông  Hồ  cũng  khuyến  khích  việc  xây  dựng  hình tượng mình như một người yêu nước giản dị theo chủ nghĩa dân tộc. Việc sử dụng hình ảnh Hồ Chí Minh theo kiểu này càng trở nên rõhơn sau năm 1947, khi quân đội Pháp đã tái chiếm thuộc địa và chính phủ Mỹ tỏ ra nghi ngờ tính dân tộc của Việt Minh. Trong lời giới thiệu đầu quyển sách tiểu sử đầu tiên về Hồ Chí Minh xuất hiện ở Paris 1949, đã mô tả ông như “biểu tượng của khát vọng dân tộc”; trái tim ông được cho là “cùng đập một nhịp với những người dân Việt nam”; những lời dậy của ông tràn đầy “sự nhân ái cao cả” nhưng lại “cực kỳ gần gũi giản đơn” [2]. Một bài trên báo Nhân Dân số ra ngày 25 tháng 3 năm 1951 lại mô tả một vai trò khác của ông Hồ. Bài báo đó xem Hồ chủ tịch như “linh hồn của cách mạng Việt nam và cuộc kháng chiến” , trong khi đó lại xác nhận vai trò của Trường Chinh, lúc đó là tổng bí thư Đảng Cộng sản, như là “người kiến thiết và lãnh đạo cách mạng” [3].

Cho đến năm 1964, khi những người cộn sản Việt nam đang bị kéo ngày càng sâu hơn vào cuộc đối đầu với Mỹ, thì một hình ảnh thống nhất về chủ tịch Hồ Chí Minh trong lịch sử Đảng càng trở nên hết sức quan trọng. Như chúng ta đã biết, thời điểm năm 1963 là thời kỳ căng thẳng trong Đảng với cuộc đấu tranh nội bộ xem nên theo đường lối quốc tế nào (giữa theo Liên Xô và Trung Quốc – ND). Vì vậy bài báo xuất hiện trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số ra tháng 2 năm 1964 trong đó mô tả vai trò của Hồ Chí Minh trong việc hợp nhất các Đảng Cộng sản Việt năm năm

1930 mang một thông điệp quan trọng. Đó là thông điệp về một hình ảnh thống nhất về phẩm chất chính trị được xác nhận và hình tượng hoá bởi chính Hồ Chí Minh [4]. Đồng thời Đảng cũng tự mô tả mình như một Đảng có sức mạnh vô địch nhờ sự lãnh đạo sáng suốt tài tình của Hồ Chí Minh. Mỉa mai là ở chỗ, vào thời điểm năm 1964, quyền lực cá nhân thực sự của Hồ Chủ Tịch trong Đảng lại đã bị giảm đi đáng kể [5]. Trong lần xuất bản thứ 5 cuốn tiểu sử “chủ tịch Hồ Chí Minh” do Trường Chinh viết năm 1973, lần đầu tiên xuất hiện một đoạn dài nói về những “chiến lược cách mạng” của Hồ Chí Minh và một đoạn khác nói về “Đạo đức và phẩm hạnh” của ông [6]. Tuy vậy cho đến năm 1989 khi khối XHCN ở Đông Âu sụp đổ, những người Cộng sản Việt nam mới bắt đầu hệ thống hoá lại “tư tưởng Hồ Chí Minh” và dùng nó như một kim chỉ nam tư tưởng hệ.

Theo quan điểm của tôi, cả hai quan điểm dập khuôn về Hồ Chí Minh như là một người cộng sản theo Machiavelli (theo thuyết “mục đích biện minh cho hành động – ND), hay là một vị thánh có tinh thần dân tộc đều gây cản trở cho việc nghiên cứu nghiêm túc một hình tượng lịch sử. Lấy ví dụ chúng có thể gây ra những cuộc tranh cãi rất vô bổ như liệu Hồ Chí Minh có phải là một kẻ mạo danh? Hay một kẻ đóng kịch [7]? (Rõ ràng là Hồ Chí Minh có thể là một người đối thoại rất trung thực và thẳng thắn, đồng thời lại có thể là một người rất xảo quyệt luôn biết tự cảnh giác). Hình ảnh quá thực tế cuộc sống của Hồ đã làm nhiều học giả nghiên cứu về chủ nghĩa cộng sản ở Việt nam phóng đại quá mức về tầm quan trọng của ông trong việc tạo dựng tình hữu nghị cộng sản quốc tế. Lấy ví dụ cuốn tiểu sử viết bởi Jean Lacouture,  một người ái mộ ông Hồ, đã mô tả rằng ông là một người  bạn mật thiết của những  trí thức cánh tả nổi tiếng của Pháp như Boris Souvarine [8]. Mặc dù vậy những tài liệu từ Nga và Pháp mà chúng tôi đã nghiên cứu lại cho thấy thực ra ông Hồ là người cầu cạnh các mối quan hệ với họ chứ không phải bạn thân. Souvarine, có lẽ hầu như không có mấy quan hệ với ông Hồ cho đến tận năm 1923, vì ông ở Pháp rất ngắn sau khi bị bỏ tù vào các năm 1920, 1921, và cho đến khi ông ta bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản Pháp năm 1924 [9]. William Duiker thì mô tả ông Hồ như “một diễn giả chính của phương Đông và giúp làm tăng sự chú ý đến các vấn đề của nông dân” tại phiên bế mạc của hội nghị lần thứ năm của Quốc Tế III năm 1924 [10]. Tuy nhiên trong thực tế, ông Hồ chỉ là một diễn giả phụ nói về vấn đề thuộc địa và thậm chí không phải là đại diện của một Đảng Cộng sản Á châu nào. Charles McLane cho rằng, sau khi trở lại Moscow từ Trung Quốc năm 1927, ông Hồ đã bàn định lại chính sách đối với các nước Đông Nam Á với các nhà lãnh đạo Quốc Tế III, “Thậm chí có lẽ là với chính Stalin” [11]. Mặc dù vậy, hiện chưa có một bằng chứng nào cho thấy điều đó ngoài việc ông Hồ nộp một bản báo cáo cho Krestintern (Quốc Tế Nông Dân) và bàn bạc với cấp trên của mình ở ban chấp hành Quốc tế Cộng Sản trong khoảng thời gian ông ở Moscow năm 1927. Charles Fenn cho rằng ông Hồ là một trong hai đại diện tham dự hội nghị lần thứ 7 của Quốc Tế III tham gia ủng hộ mặt trận bình dân [12]. Thực ra ông Hồ không có quyền bỏ phiếu, các các chiến lược chính sách đã được Dimitrov chuẩn bị kỹ lưỡng trước dưới sự hỗ trợ của Stalin. Vai trò của một nhà tuyên truyền cách mạng của ông Hồ nhiều khi cũng bị thổi phồng một cách quá đáng. Ví dụ như trong bài báo viết về tiểu sử của ông đăng trên báo Nhân Dân số ra ngày 17 tháng 5 năm 1970, năm sau khi ông mất, đã mô tả tờ báo chống đế quốc Le Paria, mà ông Hồ làm chủ biên ở Paris, là “đã tạo nên một cơn gió cách mạng thổi bùng trên toàn Đông dương và các nước khác”. Theo quan điểm cá nhân của chúng tôi, đó là sự nói quá về vai trò của Le Paria trong những năm đầu thập niên 20.

Những học giả chống cộng thường có xu hướng chấp nhận một phiên bản của cách nhìn trên về tầm ảnh hưởng của Hồ Chí Minh. Tôn Thất Thiện trong bài luận có tựa đề “Sự thật và giả dối: Chuyến đi bí mật của Hồ Chí Minh đến Nga năm 1923 và sự thất sủng của ông trong Quốc tế Cộng Sản 3”, đã đặt vấn đề nghi ngờ về tầm ảnh hưởng của Hồ Chí Minh trong phong trào cộng sản quốc tế. Ông cho rằng bài phát biểu của ông Hồ tại đại hội 2 Đảng Cộng sản Pháp đã gây ấn tượng mạnh đối với đặc phái viên của Quốc tế Cộng Sản 3 Dmitry Manuilsky, và ngay tại đó Hồ đã được mời tham dự Đại hội 5 Quốc tế Cộng Sản 3 tại Moscow [13]. Trong thực tế, các tài liệu tại các tàng thư của Nga và Pháp lại cho thấy vấn đề phức tạp hơn một chút. Trong chương 2, chúng tôi sẽ chỉ ra rằng thực tế ban đầu ông Hồ chỉ dự định ở lại Moscow có 3 tháng và không có ý định tham dự hội nghị 5. Theo Lacouture, ông Hồ đã tham dự một hội nghị phản đế quan trọng vào đầu năm 1928 nơi ông gặp gỡ Nehru và các nhà dân tộc chủ nghĩa khác [14]. Nhưng thực ra hội nghị này diễn ra tháng 2 năm 1927, trong khi ông Hồ vẫn còn đang ở Quảng Châu. Trong quá trình nghiên cứu của mình, chúng tôi phát hiện ra nhiều chuyện thú vị về việc rất nhiều việc được gán cho ông Hồ nhưng thực tế ông không làm do hoặc là ông không có mặt tại địa điểm diễn ra hành động, hoặc ông không có đủ tầm ảnh hưởng để làm.

Một trong những ví dụ kiểu này là việc cho rằng ông là tác giả bài báo: ”The Party’s Military Work among the Peasants”  in trong tập tái bản của cuốn sổ tay Quốc tế Cộng Sản 3, “Armed Insurrection”.  Bài báo gốc được in vào năm 1929 dưới bút danh A. Neuberg, mặc dù đã có một bài viết với tiêu đề tương tự của Alfred Langer, xuất hiện ở Đức năm 1928. Những học giả như William Duiker và Huynh Kim Khanh đã dung bài luận này để lý giải về quan điểm của ông Hồ về nông dân và cuộc nổi dậy của Xôviết Nghệ Tĩnh năm 19301 [15]. Trong phần giới thiệu của bản in năm 1970, Erich Wollenberg, người tự nhận là một trong các tác giả gốc, đã chỉ rõ Hồ Chí Minh là tác giả của chương  cuối, về khởi nghĩa của nông dân [16]. Wollenberg  cũng cho rằng chính Hồng quân đã cử Hồ Chí Minh đến Trung Quốc năm 1924. Việc thừa nhận ông Hồ như một chuyên gia về quân sự như nhiều tài liệu báo chí phương tây sau này, hiện chưa được minh chứng trong các tài liệu và chứng cứ chúng tôi đã nghiên cứu. Trong Quốc tế Cộng Sản 3, ông Hồ chỉ hoạt động như một phiên dịch, một chuyên gia tuyên truyền và vận động cách mạng. Khi trở về Moscow từ Trung Quốc vào tháng 6 năm 1927, ông có báo cáo về phong trào nông dân ở tỉnh Quảng Đông, nhưng bài báo cáo ở dạng mô tả cụ thể chứ không có dáng điệu phân tích sâu sắc như bài báo trên. Ở Berlin năm 1928, ông đã viết bài mô tả về phong trào nông dân Pen Pai. Nhưng tại thời điểm của cuộc nổi dậy Nanchang, Sô Viết HaiLungfeng, hay khởi nghĩa ở Quảng Châu, ông không có mặt tại đó mà những sự kiện này lại được phân tích rất kỹ lưỡng trong bài luận năm 1929 kia. Theo tài liệu của Quốc Tế III, Hội đồng quân sự của ban thư ký Đông phương của Quốc Tế III đã giao nhiệm vụ cho A. Gailis, một người Litva (biệt danh là Tom khi làm việc tại Trung Quốc], và Y. Zhingur  một người làm việc làm việc trong lực lượng tình báo quân đội ở Nam Trung Quốc từ năm 1926 đến 1927 nghiên cứu các chiến thuật cho một cuộc khởi nghĩa vũ trang. Quyết định này được đưa ra trong cuộc họp ngày 22 tháng 3 năm 1928, trong khi ông Hồ vẫn còn đang ở Berlin [17]. Cuốn sách của Gailis về chủ đề này đã được in ở Moscow vào ngày 20 tháng 6 năm 1929 [18]. Do đó có lẽ sự xác nhận ông Hồ là tác giả bài luận cuối của lần tái bản năm 1970 có lẽ chủ ý muốn đề cao vai trò của ông Hồ như là một lý thuyết gia Cộng sản. (Sự thực thì quan điểm của bài báo cũng chính là quan điểm chính thống của Quốc Tế III năm 1928 , và cho dù ông Hồ có đồng quan điểm với nó thì cũng khó có khả năng ông Hồ lại có thể sử dụng giọng kẻ cả như vậy đối với sự thất bại của Đảng Cộng sản Trung Quốc).

Những tiểu sử đầu tiên của phương Tây về Hồ Chí Minh (như của Lacouture, Fenn) là những tiểu sử mang đậm dấu ấn của trường phái ấn tượng (ý muốn nói có nhiều điều không thật –ND), do thiếu tư liệu lịch sử. Bản thân ông Hồ cũng rất khéo léo trong việc che dấu quá khứ của mình. Trong  nhiều  năm  thông  tin về tiểu sử của mình  mà ông cung  cấp phần  nhiều  là những  mẩu chuyện hư cấu với những ngày tháng lộn xộn không rõ ràng chứ không phải những sự kiện thật trong cuộc đời của ông. Cuốn tiểu sử lần đầu in tại Paris năm 1949, trước đó đã xuất hiện năm 1948 bằng tiếng Trung Quốc, sau này được in lại nhiều lần bằng tiếng Việt với tiêu đề: “Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch”. Mặc dù tên tác giả là Trần Dân Tiên, nhưng hiện mọi người đều đã công nhận đó là tự do ông Hồ viết [19]. Cuốn sách là tập hợp những khắc hoạ mờ ảo trong trí nhớ về ông của các đồng chí của ông với ngày tháng lộn xộn. Mặc dù nó có dựa trên những sự thật những sự thiếu hụt thông tin, sự trang hoàng và tiền đề thuyết phục người đọc về những phẩm chất vô sản của ông Hồ chỉ làm quyển sách này có tác dụng xây dựng nên huyền thoại Hồ Chí Minh chứ không phải là một cuốn sách có giá trị lịch sử cao. Tiểu sử Hồ Chí Minh bằng tiếng Nga của Kobelev là tác phẩm của một nhà báo hơn là của một lịch sử gia [20]. Cuốn tiểu sử này phần lớn dựa trên cuốn tiểu sử viết bởi Hồng Hà, một người mà qua cách đánh giá về việc cẩn trọng trong việc sử dụng tài liệu tham khảo nên cũng được xem là một nhà báo hơn là một sử gia thực thụ [21].

Những thông tin tiểu sử về thời trai trẻ của Hồ Chí Minh trong những năm tháng đầu tiên ở Paris được phát hiện trong tàng thư của Pháp bởi, Nguyễn Thế Anh, Thu Trang Gaspard,  và Daniel Hémery sau khi cuốn sách của Lacouture  được in đã làm mạnh thêm quan điểm về nguồn gốc dân tộc chủ nghĩa  của ông Hồ [22].  Đặc biệt trong  bài báo in năm  1992  của mình  với tựa đề “Jeunesse  d’un Colonisé  genèse  d’un exil, Ho Chi Minh jusqu’en  1911”,  Hémery  đã chỉ ra sự nghiệp của bố ông Hồ (cụ Nguyễn Sinh Huy – ND) và việc ông bị cách chức quan đã ảnh hưởng như thế nào đến sự phát triển của anh thanh niên Nguyễn Tất Thành. Cuốn tiểu sử gần đây của William Duiker đáng tiếc đã không lưu ý đến nghiên cứu này của Hémery. Duiker chỉ sử dụng những tài liệu về thời trẻ của ông Hồ được xuất bản ở Hà nội. Mặc dù Duiker cũng đưa các quan điểm ngược chiều vào cuốn tiểu sử của mình và sử dụng một số tài liệu của Quốc Tế III, nhưng ông cũng cho rằng Kobelev đã hơi thổi phồng quá vai trò của ông Hồ trong Quốc tế Cộng Sản 3.

Tìm kiếm hình ảnh lịch sử thật của Hồ Chí Minh.

Với việc tàng thư Quốc tế Cộng Sản được mở công khai năm 1992, hiện đã có thể có đủ dự kiện để phác hoạ về sự thật cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh trong những năm trước 1945, thay vì những huyền thoại như trước đây. Nghiên cứu trong cuốn sách này là về những năm tháng hoạt động chính trị của ông từ năm 1919, khi ông lần đầu tiên xuất hiện tại Paris dưới cái tên Nguyễn  Ái Quốc; cho đến năm 1941 trước cuộc đại chiến thế giới lần thứ 2, khi liên hệ giữa những người Cộng sản Việt Nam với Quốc Tế III chấm dứt. Nghiên cứu trong cuốn sách này dựa trên nghiên cứu các tàng thư tại Trung bảo tồn và lưu trữ tàng thư về lịch sử cận đại Nga, trước  đây  là  Học  viện  MarxLenin  [23],  và  tại  Centre  d’Archives  d’OutreMer  tại  Aixen Provence. Chúng tôi cố gắng nhất trong mức có thể giữ nguyên trạng những sự thực do chúng tôi phát hiện được trong những tàng thư này mà không biến chúng thành một chuỗi các sự kiện rời rạc. Chúng tôi có chỉnh lý những tự chuyện, hồi ký của người Việt và cố gắng so sánh với nguồn tài liệu chính thống của Đảng Cộng sản Việt nam với các tài liệu chúng tôi tìm thấy tại các tàng thư về cùng một sự kiện mỗi khi có thể. Cũng cần chú ý rằng đối với các tài liệu về thời kỳ từ năm 1941 trở về trước trong kho tài liệu của Đảng Cộng sản Việt nam, trừ các hồi ký, và những tài liệu đã được in lại trong Văn Kiện Đảng, Hồ Chí Minh Toàn Tập đều được thu thập đầy đủ từ các tàng thư của Nga và Pháp nói trên (Xem thêm chi tiết tại phần tài liệu tham khảo).

 

Photo 003

 

Mục đích của nghiên cứu này không phải là để huỷ hoại thanh danh của Hồ Chí Minh, mà chỉ là để làm rõ sự thực những gì ông đã làm trong thời kỳ ông làm việc cho Quốc Tế III. Những năm tháng hoạt động bí mật và được cải trang kỹ lưỡng đã đưa ông Hồ trở thành một huyền thoại kiểu Phantomat.  Điều đó không có gì đáng ngạc nhiên. Sự thực là mặc dù cuộc đời ông trong giai đoạn này đẫy rẫy những sự nguy hiểm, thì một trong những công việc mà ông cũng thường xuyên phải làm là ngồi gõ thật nhiều các bản báo cáo với mục đích thuyết phục người Nga cung cấp thêm nhiều tiền cho các hoạt động của ông. Ông Hồ thực sự không có cuộc sống của nhà tu hành, Ông có hai mối quan hệ với phụ nữ được chứng minh bằng các tài liệu chúng tôi tìm được trong khoảng thời gian hoạt động mà cuốn sách này đề cập đến [24]. Ông là một sinh vật chính trị phức tạp chứ không phải là một vị thánh. Tài liệu chính thống của Việt nam thường đặt trọng tâm vào tấm gương lãnh đạo của ông và thường xem ông như là người khởi nguồn của mọi tình huống – ông được khắc hoạ như một nhân vật đạo đức cao cả hàng đầu. Chúng tôi muốn khắc hoạ hình ảnh của ông khách quan hơn trong một ngữ cảnh rộng hơn trong đó ông chỉ là một trong số nhiều nhân vật chứ không phải là nhân vật trung tâm duy nhất.

Sự nghiệp của Hồ Chí Minh trong những năm đó đóng vai trò một cầu nối giữa Việt Nam và Quốc tế Cộng Sản 3. Nghiên cứu của chúng tôi sẽ làm rõ tiến trình quan hệ này, bắt đầu từ việc Quốc Tế III cố gắng khuyến khích và đỡ đầu các cuộc cách mạng ở các thuộc địa cho đến thời kỳ của cuộc đấu tranh giai cấp quốc tế từ năm 1928 đến 1935, và quay lại phòng trào giải phóng dân tộc bắt đầu từ đầu những năm của cuộc đại chiến thế giới lần thứ 2.

Những năm tháng mà ông Hồ có ảnh hưởng nhất chính là những năm tháng của mặt trân dân tộc thống nhất. Còn trong những năm 1930s ông không có được ảnh hưởng đáng kể và do đó đã tạo điều kiện để những lãnh đạo khác như Trần Phú, Hà Huy Tập, Trần Văn Giầu, Lê Hồng Phong, và Nguyễn Văn Cừ chiếm lĩnh sự ảnh huởng. Tất cả các lãnh đạo trên, trừ Nguyễn Văn Cừ, đều được học tập và huấn luyện tại Moscow.  Đây có lẽ là cách tiếp cận nghiên cứu Top down về ảnh huởng lãnh đạo, một xu hướng có phần lỗi thời trong nghiên cứu lịch sử. Nhưng trừ phi chúng ta có đầy đủ tài liệu, bằng chứng về những người và những tư tưởng đã giúp hình thành nên chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam thế kỷ 20, mà không cần đến những kiến thức về nguồn gốc kinh tế và nhân chủng học của các cuộc nổi dậy chống thực dân, thì khung lịch sử của chúng ta chỉ mang tính thuần tuý lý thuyết.

Để hiểu được mối liên quan giữa các chính sách tại Moscow và những sự kiện ở Việt nam chúng tôi đã phải nghiên cứu lại kỹ lượng các cuộc tranh luận và tài liệu chính yếu trong việc thiết lập các chính sách của Quốc Tế III đối với các nước thuộc địa. Một trong những thứ quan trọng nhất đó là cuộc tranh luận về bản luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin năm 1920, năm Hồ Chí Minh ra nhập Đảng Cộng sản Pháp. Một cuộc tranh luận quan trọng nữa là cuộc tranh luận diễn ra từ năm 1928 đến năm 1929, mà các tài liệu về chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam thường diễn giải sai. Cuộc tranh luận về các chính sách cấp tiến hơn cho phong trào cộng sản quốc tế, thay thế các chiến thuật giành cho các nước thuộc địa mà Lenin đề ra năm 1920. Để phân tích quá trình cấp tiến hoá của phong trào cộng sản tại Việt nam những năm cuối thập niên 20, chúng ta cần xem xét trình tự thời gian mà chính sách của Quốc Tế III chuyển sang “giai cấpđấugiai cấp” mà thường được gọi là “giai đoạn 3” của chủ nghĩa tư bản sau năm 1918. Trong chương 3, 4, và 5 chúng tôi cũng sẽ phân tích những con đường khác nhau mà những chủ nghĩa cực đoạn kia có thể đã được truyền vào Việt nam. Hơn nữa các sự kiện ở Việt nam được đặt trong một ngữ cảnh rộng hơn đó là ngữ cảnh của toàn bộ Đông Nam Á. Dường như lịch sử ít đề cập đến vai trò của Hội Đồng Nam Hoa của Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Việt nam trong những năm cuối thập niên 20, mà trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ ra rằng nó đã tồn tại ở Việt Nam và có lẽ đã hoạt động độc lập ngoài tầm kiểm soát của Quốc Tế III.

Có thể có người sẽ cho rằng, đến thời điểm này đã có thể quét sạch những thứ lịch sử bị chính trị hoá, những tuyên truyền thuần tuý về Hồ Chí Minh. Nhưng thực tế, mọi tài liệu đều có vấn đề riêng của nó và cần được diễn giải cẩn thận. Về khía cạnh tích cực mà nói, các sự kiện được đề cập đến trong các tài liệu của Quốc Tế III, thường được khẳng định và minh hoạ bởi các tài liệu trong tàng thư của Pháp, nhưng để xác định tác giả, nguồn gốc, ngày tháng của các tài liệu trong tàng thư của Quốc Tế III không phải là chuyện dễ dàng. Trong các bản báo cáo gửi về Moscow của mình các lãnh đạo của Đảng CS, nhất là Hồ Chí Minh, thường cố gắng tránh không sử dụng tên thật của mình. Đôi khi có thể xác định chính xác ngày viết và ngày nhận của các bản báo cáo tại Moscow nhưng không phải lúc nào cũng xác định được như vậy.

Một vấn đề khác nữa, không chỉ của riêng Nga, là không phải tất cả các tài liệu đã được bạch hoá. Lấy ví dụ phần tài liệu liên quan đến hoạt động của các bộ phận của Quốc Tế III dưới sự điều khiển của NKVD (lực lượng mật vụ Sô Viết, hậu thân của Cheka) vẫn còn đóng kín. Do đó nếu chỉ dựa vào nguồn tài liệu đã bạch hoá ở Moscow, có lẽ còn quá sơm để khẳng định rằng mối quan hệ giữa Quốc Tế III và những người cộng sản Việt nam đã được làm sáng tỏ hoàn toàn. Ví dụ cho đến giờ chúng tôi vẫn chưa có đủ cứ liệu về cuộc điều tra của Quốc Tế III về các hoạt động của Hồ Chí Minh ở Trung Quốc cho đến thời điểm ông bị bắt năm 1931. Mặc dù nguồn tài liệu phụ khác cho chúng tôi thấy, Hồ Chí Minh đã bị loại khỏi Đại hội Quốc Tế III năm 1935 và trong khoảng thời gian từ năm 19341938 Ông “gần như không hoạt động chính trị gì” trong thời gian sống tại Moscow. Vì vậy ta chỉ có thể phỏng đoán rằng đã có một sự nghi ngờ và điều tra từ phía Quốc Tế III đối với Hồ Chí Minh tại thời điểm này và có lẽ thông tin về cuộc điều tra này có trong các tài liệu còn đang chưa được bạch hoá kia. Ngay bản thân Hồ Chí Minh, khi khai báo với Quốc Tế III cũng thường xuyên đưa những thông tin mơ hồ và trái nghịch về chính bản thân mình. Ví dụ khi nhập học tại trường quốc tế Lenin năm 1934, ông đã khai báo kiến thức nghề nghiệp của mình là “không có gì”. Hay như năm 1938, ông tự khai lý lịch của mình là sinh năm

1903, khoảng 10 tuổi trẻ hơn so với tuổi thật của mình [25].

Việc sử dụng các nguồn tài liệu từ tàng thư của Pháp cũng có thể gây tranh cãi. Độ tin cậy trong những nguồn tin và phân tích của lực lượng mật vụ Pháp không có gì đảm bảo là chính xác. Hơn nữa các tài liệu tại SPCE được sử dụng ít hơn vì chúng mới chỉ được bạch hoá vào những năm 90. SPCE chỉ lưu trữ các hồ sơ chủ yếu của Phòng nhì liên quan đến các hoạt động của từng nhà cộng sản hay chủ nghĩa dân tộc đơn lẻ. Nguồn tài liệu này lưu trữ những bản cung khai vô giá lấy được của cảnh sát Pháp từ những người Cộng sản bị giam cầm, hoặc các báo cáo của các điệp viên, chỉ điểm của Pháp trong hàng ngũ những người cộng sản.

Mặc dù những nguồn tài liệu này cần được sử dụng một cách hết sức thận trọng, nhưng trong một số tình huống chúng tôi vẫn buộc phải sử dụng các nguồn tài liệu này. Chúng tôi dựa vào những khai báo trung thực đối với cảnh sát Pháp của những người cộng sản từ bỏ hàng ngũ do bất đồng và thường kiểm tra chéo bằng cách so sánh với các lời khai của những người khác về cùng một sự kiện. Điều này đặc biết có lý trong khoảng thời gian từ năm 1930 đến 1931, khi mối bất đồng trong việc lựa chọn chiến lược giữa các lãnh đạo Đảng cộng sản lên đến đỉnh điểm. Đối với những điệp viên và chỉ điểm của Phòng nhì, thì rất có thể họ phóng đại những thông tin, liên hệ và hiểu biết bên trong của họ nhằm lấy lòng chủ của họ là Phòng nhì Pháp. Mặc dù vậy chúng tôi thường chỉ lựa chọn thông tin cung cấp bởi những người chỉ điểm lâu năm và dường như đã chiếm được niềm tin của Phòng nhì Pháp vì điều đó chứng tỏ tài liệu và thông tin của họ cung cấp chính xác hơn những người chỉ điểm khác.

Lấy ví dụ, một điệp viên chỉ điểm thành công nhất của Phòng nhì Pháp chính là Nguyễn Công Viên hay còn được gọi là Lâm Đức Thụ (trong cuốn Wiliam Duiker , Lâm Đức Thụ được mô tả như là một người bạn thân thiết của Nguyễn Ái Quốc, lúc đó là Lý Thuỵ, Lâm Đức Thụ cưới vợ người Hoa, và theo Hoàng Tranh chính là người cùng với vợ giới thiệu Tăng Tuyết Minh làm vợ Lý Thuỵ, Lâm Đức Thụ bị Việt Minh bắn chết năm 1945 tại quê nhà Thái Bình vì tội Việt gian – ND), người không chỉ gửi các báo cáo đều đặn đến phòng nhì về các hoạt động của Hồ Chí Minh ở Quang Đông từ năm 1925 trở đi mà còn thường xuyên gửi các tài liệu và thư gốc. Lấy ví dụ ông ta chuyển cho Phòng nhì Pháp gần như toàn bộ các số báo Thanh Niên của Hồ Chí Minh, mà bản dịch hiện vẫn đang được lưu trữ ở tàng thư nói trên. Giá trị của các bản báo cáo này đối với các sử gia là ở chỗ ông Hồ đã cố gắng đấu kín các mối quan hệ với cả phía cộng sản lẫn không cộng sản, mà vào những năm 1950 điều này có thể nguy hiểm cho cả hai bên, nên không được bên nào nhắc tới. Điều đó cho thấy sự trái ngược với cách nhìn nhận thời kỳ chiến tranh lạnh rằng đã có sự chia rẽ sâu sắc giữa các nhà hoạt động cộng sản và phi cộng sản những năm 20 ở Nam Trung Hoa.

Mặc dù quãng thời gian đề cập đến trong nghiên cứu này nằm ngoài tầm ảnh hưởng của thời kỳ chiến tranh lạnh, nó cũng bị ảnh hưởng bởi quan điểm nhìn nhận diễn giải của thời kỳ phân cực này. Do đó nhất thiết cần phải nắm vững những tập quán của “lịch sử chính tranh lạnh mới” khi xem xét lại thời kỳ đầu trong sự nghiệp  của Hồ Chí Minh.  Theo quan điểm của John Lewis Gaddis, có ba điểm cần nhấn mạnh [26]. Đầu tiên cần phải “thấy được đoạn sản phẩm cuả đời sau không phản ánh giai đoạn lịch sử giai đoạn trước”. Chính vì vậy mà các nguồn tài liệu hiện có về Hồ Chí Minh được chúng tôi xem xét cẩn thận kết hợp với sự nghiên cứu về mức độ kiến thức, hiểu biết trực tiếp của tác giả nguồn tài liệu về các vấn đề đề cập trong tài liệu . Quan điểm thứ hai của Gaddis  là phải “ xem xét kỹ lưỡng tầm quan trọng của lý tưởng”.  Điều đó buộc chúng tôi phải đặt địa vị của mình vào để hiểu được những gì diễn ra trong suy nghĩ của những người chiến đấu chống lại thực dân Pháp, và cố thấu hiểu sức mạnh của những lý tưởng Marxit Leninit trong những năm 20 và 30 của thế kỷ trước. Để có được sự tôn trọng và duy trì được quyền lực trong phong trào Quốc tế Cộng Sản, những nhà lãnh đạo cộng sản cần phải chứng tỏ họ nắm vững những lý tưởng này như thế nào trước Quốc Tế III.

Quan điểm thứ ba của Gaddis là phải sử dụng nhiều nguồn tài liệu từ nhiều tàng thư, và chúng tôi đã cố gắng đạt được điều này thông qua việc nghiên cứu các tài liệu về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh từ các tàng thư ở Nga và ở Pháp. Lẽ dĩ nhiên sẽ còn nhiều phát hiện thú vị khác về các hoạt động của Hồ Chí Minh trong giai đoạn này từ các tàng thư của Trung Quốc và Việt Nam khi chúng được bạch hoá đối với các nhà nghiên cứu. Thậm chí ngay cả các tài liệu còn chưa được bạch hoá ở Nga, Pháp, Anh, hay Mỹ sẽ có thể cung cấp thêm cho chúng ta những hiểu biết mới về những năm tháng mà Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc. Mặc dù vậy hy vọng rằng tài liệu này cho thấy được giá trị của nguồn tài liệu từ Quốc Tế III và cho thấy được sự ảnh hưởng của những thay đổi trong chính sách diễn ra ở Nga lên các hoạt động của Hồ Chí Minh trong giai đoạn này.

Chú thích cho chương 0

1. Thái độ này phần nào là do gán ghép về sự phản bội của Hồ Chí Minh đối với nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa dân tộc Phan Bội Châu năm 1925. Vấn đề này sẽ được bàn luận trong chương 3.

2. Tran Ngoc Danh, Tiểu Sử Hồ Chủ Tịch, Paris, chi hội LiênViệt tại Pháp, 1949, trang 6.

3. Trích trong Thai Quang Trung, Collective Leadership and Factionalism, Institute of South East Asia Studies, Singapore, 1985, trang 20.

4. Nguyen Nghia, Công cuộc hợp nhất các tổ chức cộng sản đầu tiên ở Việt nam và vai trò của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Tạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử, số tháng 2, năm 1964.

5. Judith Stowe, “Revisionism in Vietnam”, paper for AAS conference, Washington DC, 03/1998, trích cuộc trò chuyện với Hoàng Minh Chính tháng 2 năm 1995, về việc Trường Chinh thú nhận năm 1963 ông Hồ Chí Minh đã bị “vô hiệu hoá”.

6. Trường Chinh, Hồ Chủ Tịch: Lãnh tụ kính yêu của giai cấp công nhân và nhân dân Việt nam, Nhà xuất bản sự thật, Hà nội, 1973, trang 66.

7. Xem ví dụ trong, Pierre Brocheux, Ho Chi Minh, Paris: Presses de Sciences Po, 2000, trang 5571.

8. Jean Lacouture, Ho Chi Minh, Hamondsworth, Penguin, 1968, trang 33.

9. Branko Lazitch, A Biographical  History of the Comintern,  Standford, CA: Hoover Institution Press, 1973, trang 378.

10. William J. Duiker, Ho Chi Minh: A Life, Hyperion, New York, 2000, trang 102.

11. Chales  B. McLane,  Soviet  Strategies  in SouthEast  Asia:  An Exploration  of Eastern  Policy under Lenin and Stalin, Princeton University Press, 1966, trang 137.

12. Chales Fenn, Ho Chi Minh, New York, Chales Scribner’s Sons, 1973, trang 59.

13. Ton That Thien, Vérités et Mensonges:  Le voyage clandestine de Ho Chi Minh en Russie en 1923 et sa disgrâce Au Komintern en 19331939, in Ho Chi Minh: L’homme et son héritage, Paris: La Voie Nouvelle, 1990, trang 5152.

14. Lacouture, sách đã dẫn trang 48.

15.  William  J. Duiker,  The  Communist  Road  to Power  in Vietnam,  Boulder,  CO:  West  View Press,  1996,  trang  2123;  Huynh  Kim  Khanh,  Vietnamese  Communism  19251945,  Ithaca,  NY: Cornell University Press, 1968, trang 168170.

16. A.Neuberg,  Armed Insurrection,  London: NLB, 1970, Dịch bởi Quentin Hoare từ bản tiếng Đức năm 1928 và bản tiếng Pháp năm 1931.

17. Titerenko,  Leunert  et al., VKP, Komintern  I Kitai (dokumenti),  Vol III, 19271931,  phần 1), Moscow Russien Center, 1999, trang 35.

18. Titarenko et al. Tài liệu đã dẫn, trang 572574, Letter from Berzin and Sudakov to Shifres.

19. Tran Dan Tien, Những  Mẩu Chuyện  về Đời Hoạt Động của Hồ Chủ Tịch, NXB Chính trị Quốc gia, 1994. Việc gán ghép tác giả bản xuất hiện năm 1949 cho Trần Ngọc Danh có gì đó không rõ rang. Sự thực Trần Ngọc Danh đã bị trục xuất khỏi Đảng Cộng Sản Đông dương (ICP) năm 1949, có thể sự gán ghép này nhằm làm dịu những thắc mắc bên trong Đảng về tác giả thật của cuốn sách.

20. Yevgeny Kobelev, Ho Chi Minh, Moscow: Progress, 1989 dịch từ bản tiếng Nga năm 1983.

21. Hong Ha, Ho Chi Minh v Strane Sovietov  (Hồ Chí Minh trên đất nước Sô Viết), Moscow Polit. Literatury,  1986, dịch từ bản tiếng Việt, Hồ Chí Minh trên đất nước Lenin, Hanoi: NXB Thanh niên, 1980.

22. Xem Nguyen The Anh, ‘How did Ho Chi Minh become a Proletarian?  Reality and Legend’, Asian  Affairs,  Vol.  16,  Part  II;  Thu  Trang  Gaspa,  Ho  Chi  Minh  à  Paris  (19171923),  Paris: L’Mahattan, 1992; and Daniel Hémery, ‘Jeunesse d’un colonisé, genèse d’un exil, etc.’, Approcies Asie, no. 11, 1992.

23. Trong năm 2001, Tàng thư này được đổi tên thành “Tàng thư quốc gia Nga về lịch sử chính trị xã hội”.

24. Người  phụ nữ thứ nhất là “Tuyết Minh”,  một cô gái sinh viên hộ lý người Quảng Châu, người bắt đầu cuộc sống vợ chồng với Hồ Chí Minh từ tháng 10 năm 1926. Bà không được đề cập đến trong chương 3 của cuốn sách này vì mối quan hệ đã chấm dứt ngay khi Hồ Chí Minh trốn   khỏi   Trung   Quốc   năm   1927.   (Xem   AOM,   SPCE   367,   Renseignements   fournis   par Lesquendieu  au sujet de Tuyet  Minh, femme  chinoise,  maitresse  de Nguyen  Ai Quoc, Hanoi,

28/10/1931). Người phụ nữ thứ 2 là Nguyễn Thị Minh Khai, có tầm quan trọng chính trị lớn hơn người trước (xem chương 5,6, và 7).

25. Các form khai báo hồ sơ nhân sự của ông có tại RC, 496 201/1. Năm sinh khả dĩ nhất của ông là vào khoảng năm 1892 hoặc 1893 theo lời khai của chị ông (bà Thanh) với cảnh sát Pháp năm 1920 (SPCE 364 Note conf. 711, Hue, 7/05/1920). Còn theo nguồn chính thống của Hà Nội thì ông sinh năm 1890.

26. John Lewis  Gaddis,  We know  how: rethinking  cold war history,  Oxford  Clarendon  Press, 1997; đặc biệt chương cuối: “The New Cold War History”

 

CHƯƠNG 1:

SỰ XUẤT HIỆN CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC

1919: Con đường đến hội nghị hoà bình Paris

Mùa hè năm 1919, mật vụ Pháp bắt đầu liên tục gửi yêu cầu tới chính quyền bảo hộ tại Hà nội yêu cầu cung cấp thông tin khẩn cấp [1]. Một nhà hoạt động chính trị bí ẩn mới xuất hiện ở Paris, chỉ 4 năm sau khi nước Pháp bước vào cuộc chiến nặng nề (chiến tranh thế giới lần thứ nhất – ND). Anh dường như có rất nhiều mối quan hệ với nhiều người trong cái cộng đồng người Việt Nam tạp nham tại Pháp thời điểm đó – bao gồm cả trí thức, công nhân, và binh lính bị bắt sang phục vụ mẫu quốc trong thời kỳ chiến tranh. Hầu như không có ai biết anh là ai và từ đâu đến, một con người hoàn toàn bí ẩn. Tên của anh không có trong hồ sơ lưu trữ về cư trú từ Đông Dương. Trong thời gian chờ đợi tin tức gửi từ phía Phòng Nhì tại Đông Dương, Bộ thuộc địa đã phải gấp rút cử một nhân viên điều tra về con người bí ẩn này, một nhân vật mới xuất hiện trên chính trường Paris.

Anh thường ký tên mình “Nguyễn Ái Quốc” (Nguyễn, người yêu nước) với vị trí là “đại diện cho nhóm những người Việt nam yêu nước”. Anh hành xử với một phong thái thật tự nhiên, mạnh dạn liên hệ trực tiếp với các nghị sỹ, các phái đoàn đến dự hội nghị hoà bình Paris và các chủ báo. Thậm chí tháng 9 năm 1919 anh còn trực tiếp liên hệ với Albert Sarrault, toàn quyền Pháp tại Đông Dương mới trở về nước sau khi hết hạn nhiệm kỳ [2]. Thông điệp mà anh mang đến gây sốc đối với các nhà chức trách Pháp. Anh trực tiếp gửi thư thỉnh cầu với tựa đề “Yêu sách của nhân dân An Nam” tới các đại biểu tham gia hội nghị hoà bình quốc tế tại Paris, một diễn đàn chính trị mà ở đó 27 đoàn đại biểu họp để cùng nhau lập ra một trật tự thế giới mới sau cuộc đại chiến lần thứ nhất. Mặc dù thực sự lúc đó ít có đại biểu nào ngoài những người Pháp biết được Việt Nam nằm ở đâu trên bản đồ thế giới, nhưng cũng có một số đoàn đại biểu đã bỏ thời gian để thông báo cho anh về việc họ đã nhận được thỉnh nguyện thư này. Đáng chú ý là lá thư phúc đáp viết rất lịch sự và trang trọng của Đại tá House đại diện cho tổng thống Mỹ Wilson gửi, cũng như một lá thư phúc đáp khác được gửi bởi của một nhà ngoại giao Nicaragoa [3]. Hội nghị hoà bình đã thu hút được sự tham gia của nhiều nhà hoạt động chính trị trên thế giới, từ Ireland đến Triều Tiên, tất cả đều bày tỏ mong muốn cho sự độc lập của quốc gia mình. Mặc dù đứng trên quan điểm của người Pháp, chuyện  đòi độc lập của Việt Nam tại thời điểm đó là không tưởng, nhưng đối với những người Việt nam yêu nước, thì đó có thể là cơ hội để có sự thay đổi. Các đế chế Nga và Phổ đã suy yếu, còn tổng thống Mỹ Wilson đã hứa sẽ chấm dứt tình trạng ngoại giao trong bí mật, trong đó những nhà quý tộc hay chính trị gia trong hoàng gia hay chính phủ các nước Châu Âu có thể tự quyết định từ xa số phận của hàng triệu người dân các nước thuộc địa.

Bản yêu sách của người dân Việt Nam kêu gọi các cường quốc chiến thắng trong đại chiến thế giới lần thứ nhất hãy giữ đúng lời hứa của họ về về một kỷ nguyên mới của “luật lệ và công bằng” cho những người dân thuộc địa. Bản yêu sách này cũng xuất hiện trong một bài báo ngắn trên trang 3 của tờ báo theo xu hướng dân chủ xã hội L’Humanité,  ngày 18 tháng 6 năm 1919. Một bản báo cáo với những đòi hỏi về dân chủ và nhân quyền rất vừa phải. Đó là những đòi hỏi về:

1)   Trả tự do cho tất cả những tù nhân chính trị trong nước.

2)   Cải tổ lại hệ thống pháp luật để người dân Đông Dương được bình đẳng trước Pháp luật như đối với người Châu Âu.

3)   Tự do ngôn luận và tự do báo chí.

4)   Tự do lập hội.

5)   Tự do di cư và ra nước ngoài cư trú.

6)   Tự do mở các trường dạy kỹ thuật và dạy nghề tại các tỉnh giành cho dân bản xứ.

7)   Thay thế luật cai trị bằng pháp trị.

8)   Đề nghị có dân biểu do dân Việt Nam bầu ra trong nghị viện Pháp để có thể nói lên những nguyện vọng và mong muốn của nhân dân bản xứ.

Bản yêu sách này được ký: “Đại diện cho nhóm người Việt yêu nước, Nguyễn Ái Quốc”.

Tuy nhiên vào thời điểm đó giới cầm quyền tại Pháp không hề có ý định buông lỏng quyền lực kiểm soát thuộc địa cũng như mạng sống của người dân thuộc địa tại bất cứ đâu cho dù đó là người Algeria, Campuchia hay Việt Nam. Nước Pháp vừa bước ra khỏi một cuộc chiến mà miền bắc của họ đã bị tàn phá nặng nề, mà tài nguyên ở các nước thuộc địa có vai trò rất quan trọng đối với việc phát triển và khôi phục kinh tế Pháp sau chiến tranh. Vậy nên chính quyền Pháp cảm thấy sốc trước sự xuất hiện và bản yêu sách của một người dân thuộc địa, bất ngờ xuất hiện trong cuộc họp của những người chiến thắng, và lẽ tự nhiên chính phủ Pháp không đáp ứng lại bản yêu sách này mà xem nó như một hành động đòi lật đổ chính quyền thuộc địa. Họ công khai trên phương tiện truyền thông nhà nước xem bản yêu sách kia là một sự ʺbáng bổʺ [4]. Trong hồ sơ hải ngoại Pháp (French Oversea Archives), nhiều tài liệu cho thấy chính quyền Pháp đã gần như ngay lập tức tìm cách phát hiện ra nơi cư trú của Nguyễn Ái Quốc và cử người theo dõi anh suốt thời gian ở Paris năm 1919 và cả sau này cho đến năm 1923. Đáp lại chiến dịch kêu gọi nhân quyền cho người Việt tháng 6 năm 1919, bộ phận quản lý binh lính người Việt tại Pháp thành lập bộ phận Service de Renseignerment  (SR) dưới sự chỉ huy của Pierre Arnoux [5]. Chỉ điểm của SR trà trộn vào nhóm bạn bè người quen của Nguyễn Ái Quốc, ghi lại và báo cáo về các buổi nói chuyện của anh [6]. Họ thu thập các bài báo, thư từ mà anh định gửi về Việt Nam, việc làm của họ như thể cho anh thấy rằng cách thức duy nhất có thể chống lại chính quyền bảo hộ là hoạt động bí mật.

Vào mùa thu năm 1919, thông tin tình báo thu thập được đã cho phép chính quyền Pháp xây dựng được bức chân dung ban đầu về người Việt bí ẩn kia:

"Nguyễn  Ái Quốc tự nhận mình sinh ra ở Nam Đàn, Nghệ An, hiện đang ở cùng Phan Văn Trường, dường như đã học ở Anh và sống ở đó khoảng 10 năm, điều hành một nhóm người Việt yêu nước không được thừa nhận, dường như anh ta đã thay thế Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường trong vai trò này. Hãy cho biết những thông tin mà các ngài cần biết, cần thu thập về con người này"  [7].

Một chỉ điểm người Việt khác có bí danh là “Edouard” cung cấp thông tin tên thật của Quốc là Nguyễn Văn Thành, gần đúng so với tên mà cha của Quốc gọi anh lúc trưởng thành Nguyễn Tất Thành (Nguyễn người sẽ thành công). Phần lớn những thông tin còn lại cung cấp bởi Edouard đều sai lệch (có lẽ là do chính Quốc cung cấp) trong đó cho biết Quốc quê ở Đà Nẵng và hiện đang sống nhờ vào tiền trợ cấp từ gia đình khá giả của anh [8]. Đến tháng 12 năm 1919, mật vụ Pháp đã thường xuyên qua lại và theo dõi mọi hành động tại số 6 Villa des Goblins. Đó là một khu nhà yên tĩnh nằm trong một ngõ cụt ở phía đông nam Paris, nơi có một anh thanh niên tự xưng là Quốc ở cùng với luật sư Phan Văn Trường và nhà sĩ phu bị lưu đầy Phan Chu Trinh.

 

Photo 004

 

Đối với những người Việt yêu nước chống đế quốc, hai trí thức họ Phan là những người nổi tiếng đáng kính trọng, thậm chí đối với Phan Chu Trinh là sự tôn thờ. Phan Văn Trường từng bị bắt vào thời kỳ đầu xảy ra chiến tranh năm 1914 vì bị buộc tội là đã hỗ trợ và hợp tác với phòng trào đấu tranh khởi nghĩa chống lại thực dân Pháp tại Đông Dương. Phan Chu Trinh cũng bị nghi ngờ là đã tham dự vào các kế hoạch nổi loạn ở Đông Dương nói trên và đã liên lạc với người Đức. Chính vì lý do đó mà Phan Chu Trinh từng bị câu lưu tại nhà tù ChercheMidi  tại trung tâm Paris. Mặc dù vậy những lời buộc tội hai nhà trí thức này đã bị dỡ bỏ chỉ sau 1 năm khi nhân chứng chính yếu người Việt bị tâm thần và không thể làm chứng trước toà [9]. Thế nhưng chính quyền Pháp vẫn nghi rằng họ có tội [10]. Đối với Phan Văn Trường, sự nghi ngờ này có thể xuất phát từ truyền thống phản kháng nổi loạn của gia đình ông. Hai người anh em của ông đã bị kết tội lưu đầy và lao động khổ sai vì đã tham gia vụ đánh bom làm chết hai sỹ quan chỉ huy quân đội Pháp ở Bắc Kỳ (một trong rất nhiều vụ đánh bom được thực hiện bởi những người theo Phan Bội Châu, lúc bấy giờ đang lưu vong ở nước ngoài). Chuyến  đi năm 1913 của Phan Văn Trường sang Anh để gặp Joseph Thanh, một phái viên của hoàng tử Cường Để, càng làm tăng sự nghi ngờ này [11]. Phía Pháp cũng rất ngại sự hiểu biết và thông tuệ của Phan Văn Trường, một người được đào tạo làm phiên dịch tại Hà Nội, nhờ những năm tháng học luật tại Paris đã trở thành người có khả năng tranh luận chính trị hết sức sắc sảo và nhạy bén.

Bản thân Phan Chu Trinh đến Pháp năm 1911 sau khi được ân xá khỏi nhà tù vì đã tham gia vào việc ủng hộ và khuyến khích phong trào đấu tranh đòi giảm sưu thuế của nông dân trung kỳ năm 1908. Trong năm đầu ở Paris, công việc chủ yếu của Phan Chu Trinh là đấu tranh nhằm buộc chính phủ thuộc địa Pháp phải trả lại tự do cho các đồng chí của mình. Bài viết “Toàn cảnh cuộc nổi dậy của nông dân trung kỳ” lên án sự đàn áp nặng nề của thực dân Pháp đối với những người nông dân tham gia đấu tranh đòi giảm sưu thuế đã được dịch sang tiếng pháp bởi Jules Roux (một nhà hoạt động xã hội theo hướng dân chủ xã hội, người đã can thiệp và đại diện cho Phan Chu Trinh lúc ông bị bắt vào tù) [12]. Chính phủ Pháp lo sợ ảnh hưởng của Phan Chu Trinh tới các sinh viên Việt Nam tại Paris thời trước chiến tranh và cố gắng cô lập ông khỏi những nhà hoạt động cách mạng người Á khác đang tập hợp tại khu phố Latin [13]. Mặc dù vậy những cố gắng của chính quyền Pháp không mang lại thành công nào. Năm 1912, Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường đã thiết lập được một câu lạc bộ người Việt thường tụ tập nhau tại các quán Cafe hay quán ăn Tầu tại Montparnasse,  nơi họ không chỉ nói những chuyện thông thường  của cuộc sống tha hương,  Trinh luôn cho rằng mình không dính dáng gì đến các âm mưu chống lại thực dân Pháp của Phan Bội Châu và hoàng tử Cường Để. Để chứng minh sự trong sạch của mình thậm chí Trinh còn gửi cho bộ thuộc địa một lá thư của hoàng tử Cường Để gửi cho ông năm 1913 [14]. Những lời chứng chống lại ông có thể là do chính quyền quân sự thêu dệt nên. Nhưng chính người phiên dịch cho ông vào năm 1915 đã khai rằng “Phan Chu Trinh  nhận  tiền  trực tiếp từ Đức  của chính  phủ  Đức  thông  qua hai phái  viên  của hoàng  tử Cường Để là Trương Duy Toàn và Đỗ Văn Ý” [15]. Người chỉ điểm cũng cho biết trong trường hợp xảy ra nổi loạn tại Việt nam chính phủ Đức hứa sẽ cấp thêm tiền thông qua người của họ ở Trung Quốc. Quan điểm xem Phan Chu Trinh là một người vận động bằng lời nói và bài viết hơn là người tham gia tổ chức các kế hoạch nổi dậy trên có lẽ là quan điểm gần với sự thật nhất. Người cầm đầu nhóm điều hành Đông dương (mà Phan Chu Trinh là một thành viên) đã viết như sau lên cấp trên của mình: ”Nếu có một người sinh viên hay học sinh trẻ tuổi người Đông Dương, thì đối với anh ta Phan Chu Trinh là người chỉ biết dùng lời nói để đấu tranh chứ không phải là hành động, nhất là khi nếu người sinh viên hay học sinh trẻ tuổi này có mối liên hệ với những người Trung Quốc, Nhật... Ấn Độ, những kẻ tín đồ của các phương thức đấu tranh cực đoan hơn” [16].

Việc Phan Văn Trường và Phan Chu Trinh tham dự vào những chuyện nổi dậy ở quê nhà như thế nào vẫn còn là điều chưa rõ ràng. Bằng chứng tố cáo họ cuối cùng không có sức thuyết phục vì kẻ chỉ điểm đã mắc bệnh và bị câm. Sau khi được thả khỏi tù năm 1915, trợ cấp chính phủ cho Phan Chu Trinh  bị cắt và ông buộc phải tự kiếm  sống  bằng  nghề in tráng  ảnh. Sự quấy  rối thường xuyên của cảnh sát Pháp làm ông không mấy tin tưởng nữa vào tầng lớp lãnh đạo của mẫu quốc [17]. Phan Văn Trường thì bị bắt buộc làm việc cho quân đội với tư cách là một thông dịch viên tại kho vũ khí Toulouse và sau khi được giải ngũ năm 1918, ông bắt đầu hành nghề luật sư. Cho đến những năm cuối của cuộc chiến hai người đã thành lập nên một nhóm người Việt mới có tên là “Hội người Việt yêu nước”.

Quan hệ của Nguyễn Ái Quốc đối với hai sỹ phu họ Phan là không rõ ràng dưới con mắt của những  người  ngoài cuộc. Người  thanh niên với cái tên này chỉ đáng tuổi con của Phan Chu Trinh và chưa cho thấy chút phẩm chất học giả nào. So với Phan Văn Trường, anh chỉ như một người dân quê lên tỉnh. Do sự khác biệt như vậy nên sau này nhiều người sau này đã cho rằng thực chất Quốc chỉ là người đưa tin, mang thông điệp và đại diện cho hai nhà hoạt động chính trị nổi tiếng hơn kia mà thôi. Nhà trí thức theo phái Trostkit Hồ Hữu Tường trong hồi ký của mình  đã viết rằng,  mọi  ý tưởng  của nhóm  là do Phan  Chu  Trinh  đưa  ra, sau  đó Phan  Văn Trường và những người khác dịch sang tiếng Pháp, còn Quốc mang các bài viết đến các toà soạn báo. Mặc dù ông Tường không có liên hệ trực tiếp nào với nhóm trên [18], nhưng trong hồ sơ của phòng nhì Pháp cũng cho thấy một chỉ điểm người Việt có bí danh là “Chỉ điểm Jean” cũng có cùng kết luận như vậy trong một báo cáo của mình lên thanh tra Arnoux vào năm 1919. “Chỉ điểm Jean” báo cáo Arnoux rằng Quốc “chẳng qua chỉ là kẻ cầm đầu bù nhìn thông minh được ngụy trang bằng những sự bí ẩn nhằm làm tăng vẻ khả kính. Nguyên nhân là hiện Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường đang bị theo dõi bởi pháp luật nên Quốc bây giờ được đóng vai lãnh đạo” [19].

Phần lớn những bản báo cáo của cảnh sát Pháp thì lại nhìn nhận anh Quốc bí ẩn như là một người có tri thức và kinh nghiệm xã hội bên cạnh hai họ Phan chứ không phải là một chú bé ngây ngô. Vào cuối năm 1919, Chỉ huy quân đội Đông dương tại Pháp, Pierre Guesde, lại tin rằng Quốc thực sự là một nhà hoạt đống chính trị. Những  bản báo cáo mà tướng Guesde  có được từ những chỉ điểm của ông ta cho thấy Quốc là một người tích cực đấu tranh cho quyền con người ở Việt nam, một nhà hoạt động chính trị với tâm huyết bù vào khiếm khuyết vì không được học hành đào tạo bài bản. Các bản báo cáo cho thấy Quốc thường xuyên liên hệ với các đại biểu theo chủ nghĩa dân tộc đến dự hội nghị hoà bình từ Ireland, Trung Quốc, và Triều Tiên. Các bản ghi báo cáo về những cuộc nói chuyện của Quốc với bạn bè trong hội người Việt cho thấy anh nhận thức được rất rõ những vấn đề mà dân tộc anh đang phải hứng chịu và nhận thức này chịu sự ảnh hưởng sâu sắc các quan điểm của Phan Chu Trinh. Lấy ví dụ vào tháng 12, chỉ điểm viên người Việt “Edouard”, có lẽ là một viên chức người Việt trong bộ thuộc địa đã gửi một bản tường trình dài 11 trang về một buổi tối tại số 6 Villa des Gobelins. Phần đầu của bản báo cáo nói về cuộc nói chuyện với Nguyễn  Ái Quốc về vấn chuyện toàn quyền Đông Dương mới trở về nước sau khi hết hạn nhiệm kỳ, Albert Sarraut, người sau này trở thành bộ trưởng bộ thuộc địa, và những kế hoạch cải tổ của ông ta.

Edouard  viết “Quốc gần như hoàn toàn tán đồng với các chính sách ở Đông Dương của toàn quyền Sarraut đặc biệt là việc thiết lập một hệ thống giáo dục kiểu Pháp và xây dựng hệ thống đường xe lửa giúp khai thác các khu rừng ở An Nam và Lào”. Anh ta viết tiếp những nhận định theo lời của Quốc:

“Quốc nói ngài Albert Sarraut đã cho xây dựng một đại học và một trường trung học ở Hà nội, điều đó tốt nhưng mới chỉ là sự khởi đầu. Với 20 triệu dân ở Đông Dương chúng ta cần không phải là 1 trường trung học mà là 20 thậm chí 30 trường trung học. Người dân cần phải được giáo dục bắt buộc, bởi vì chính họ tạo nên đông đảo tầng lớp quần chúng chứ không phải giới thượng lưu của xã hội ... nhiều người cứ vin cớ thiếu tiền bạc để giải thích về vấn đề phát triển giáo dục ở Đông Dương và họ sẽ còn sử dụng lý do này để chống lại toán quyền kế nhiệm tiếp tục công việc mà ngài Albert Sarraut đã bắt đầu“ [20]

Khi Phan Chu Trinh đến và tham dự vào cuộc nói chuyện thì ông và Edouard tiếp tục bàn luận về chính sách tương lai và những yêu sách người dân thuộc địa có thể đòi hỏi từ toàn quyền mới, Maurice Long. Nguyễn Ái Quốc xen ngang và cho rằng người dân thuộc địa lại sẽ chẳng bao giờ được gì nếu chỉ bằng cách đưa yêu sách và chờ sự nhân nhượng của thực dân Pháp, Quốc nói: “Tại sao 20 triệu đồng bào chúng ta lại không thể làm gì để buộc cho chính quyền thực dân phải trao trả lại nhân quyền? chúng ta đều là người cả vậy phải được đối xử bình đẳng? những kẻ không chịu đối xử bình đẳng với ta thì phải coi chúng là kẻ thù“. Phan Chu Trinh quay ra quở lại Quốc vì sự bộp chộp: “Thế anh muốn đồng bào của chúng ta không tấc sắt trong tay đối đầu lại với người Tây phương với vũ khí tối tân ư?“ ông hỏi tiếp “Tại sao cứ phải đẩy người dân chết một cách vô nghĩa mà chẳng thu được kết quả nào?“ [22]. Quan điểm đấu tranh bất bạo lực của Phan Chu Trinh rõ ràng đối nghịch với quan điểm bạo động của Phan Bội Châu, mà sau này Quốc đã tiếp thu, cũng như anh tiếp thu quan điểm của bậc tiền bối của mình về việc phát triển kinh tế và giáo dục. Nhưng anh nhanh chóng rời bỏ quan điểm của Phan Chu Trinh về phương pháp yêu sách đòi nhân quyền trong hoà bình một cách “nhẹ nhàng, từ bước, và bền bỉ“ [23].

Để có một bức tranh hoàn chỉnh và khách quan về con người mà sau này là Hồ Chí Minh tại thời điểm mới đến Paris, theo quan điểm của chúng tôi, chúng ta cần phải bắt đầu với các tài liệu và bằng chứng cung cấp bởi Phòng Nhì Pháp. Sau đó lần ngược trở lại những năm tháng trước từ khi anh rời Việt nam năm 1911 đến khi anh xuất hiện dưới cái tên Nguyễn Ái Quốc. Sau khi cân nhắc các bằng chứng, chúng tôi cho rằng cho tới thời điểm năm 1919, ông Hồ đã là một nhà hoạt động chính trị có kinh nghiệm, và ông đã hoạt động tích cực trong khoảng thời gian đó chuẩn bị cho vai trò của mình sau này trong công cuộc giải phóng dân tộc thoát khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp. Mặc dù rõ ràng, Phan Văn Trường là tác giả của bản tiếng Pháp bản yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới hội nghị hoà bình tại Paris, và là tác giả của phần lớn các bài báo ký tên Nguyễn Ái Quốc vào năm 1919 đó, thì Hồ có lẽ cũng là một nhân tố tích cực trong việc thúc đẩy phong trào đòi nhân quyền cho nhân dân Đông Dương vào thời điểm tháng 6 đó tại Paris. Thực tế đó cũng là lời giải thích trong cuốn tự truyện của Hồ (lấy tên là Trần Dân Tiên –ND): tác giả nói chính ông là người đưa ra các ý tưởng cho bản yêu sách, nhưng Phan Văn Trường là người soạn bằng tiếng Pháp, bởi bản thân Hồ tại thời điểm đó không có khả năng viết tiếng Pháp một cách trôi trảy [24]. Người thanh niên trẻ tự xưng là Nguyễn Ái Quốc đã chứng tỏ các kỹ năng tổ chức chính trị đối với cộng đồng người Việt vượt lên trên cả chuyện viết tuyên ngôn hay thư ngỏ.

Một trong những đầu mối của cho việc chứng minh kinh nghiệm chính trị của Hồ trước năm 1919 chính là việc anh đã từng có những liên hệ với đoàn Triều Tiên ở hội nghị hoà bình Paris. Chỉ điểm “Jean“ báo cáo rằng Quốc đã học được rất nhiều ý tưởng từ phong trào đòi độc lập của Triều Tiên[25]. Hội dân tộc Triều Tiên hoạt động ở Mỹ đã bắt đầu chiến dịch đấu tranh đòi độc lập từ Nhật bản gần như ngay khi tổng thống Mỹ Woodrow Wilson ra bản tuyên bố 14 điểm vào tháng giêng năm 1918. Lời kêu gọi trao trả độc lập cho họ từ Nhật bản được đưa ra vào ngày 12 tháng 5 năm 1919, chỉ khoảng một tháng trước khi bản yêu sách của nhân dân An Nam xuất hiện tại Paris. Một tờ báo Trung Quốc in ở Tianjin, tờ Yishibao, ra ngày 18 và 20 tháng 9 năm 1919 đăng bài phỏng vấn Nguyễn Ái Quốc tại Paris, giải thích rằng Quốc đã trao đổi kinh nghiệm và ý tưởng với đoàn Triều Tiên trong một chuyến anh sang thăm nước Mỹ [26]. Tác giả của bài báo, có lẽ là một Người Hoa hay Triều Tiên sống tại Mỹ mô tả Quốc như một đại diện của Việt Nam tại hội nghị hào bình tại Paris. Trong phần giới thiệu bài báo viết:

Phóng viên tại Mỹ qua lời giới thiệu của hai đại diện của chính phủ lâm thời Triều Tiên là Kin TchongWen và KimKoeiCho  đã có cơ hội phỏng vấn Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Ái Quốc tuổi khoảng 30 trông trẻ trung và mạnh bạo; Anh có thể nói được tiếng Anh, tiếng Pháp, và cả tiếng Hoa; anh đã gặp đại diện Kim của đoàn Triều Tiên trong thời gian anh ở Mỹ, anh đã nói về các vấn đề độc lập dân tộc và tin tưởng rằng tình hình của hai nước khác nhau và do đó có thể có những cách đi khác biệt của riêng mình [27].

Trong bài phỏng vấn này, Hồ Chí Minh đã cho thấy rõ việc đưa yêu sách ra hội nghị hoà bình chỉ là bước đi ban đầu, bản tóm tắt tiếng Pháp của cuộc phỏng vấn này cũng chỉ rõ:“Bản yêu sách của anh ta tại hội nghị rút cục đã thất bại xong anh ta vẫn tiếp tục trong nỗ lực của mình để gặp gỡ nhiều nhân vật chính trị và đã gây được sự chú ý của một số“ [28]. Bản tóm tắt còn trích lời Nguyễn Ái Quốc: “bên cạnh việc đưa bản yêu sách ra các nghị viên, tôi còn tích cực vận động sự ủng hộ từ nhiều nơi. Đảng dân chủ xã hội không hài lòng với các hành động của chính phủ và có ý định ủng hộ chúng tôi. Đó là hy vọng duy nhất chúng tôi có tại Pháp. Đối với sự vận động của chúng tôi với các đất nước khác thì chính nước anh (nước Mỹ) là nơi ủng hộ chúng tôi nhiệt thành nhất...“ [29].

Bộ phân SR của Pháp tại Bắc Kinh đã gửi bản dịch tiếng Pháp của bài phỏng vấn này về Paris kèm theo nhận xét sau:

 “Trong điểm 9 báo cáo hôm mùng 5 tháng 6 tôi đã lưu ý các ngài về tờ báo Trung Quốc Yi Che Pao (Yishibao), trong nhiều năm với nhiều bài đã vi phạm nghiêm trọng vào quyền lợi quốc gia của Pháp và của Đông Dương. Tháng tư vừa qua tờ báo này đã cho đăng một bản tuyên ngôn của người Việt. Quá đáng hơn nữa, trong khi các hoạt động phản kháng lại quân đội Nhật Bản gần đây tại Bắc Kinh do cuộc đàm phán về TsingTao gây ra, tờ báo này đã cho đăng nhiều bài báo kết tội Pháp đã bí mật cấu kết và thoả hiệp với Nhật trong thời gian chiến tranh...„ [30]

Quan hệ của tờ báo Yishibao với phòng trào yêu nước của người Việt có thể dễ dàng nhận thấy, nhất là bản thân Hoàng tử Cường Để từng đăng nhiều bài báo trên báo này với nội dung gần giống như bản yêu sách của dân An Nam kia. Các bản copy của các bài báo trên tờ này xuất hiện trên tường của các trại công nhân Trung Hoa ở Marseille tháng 6 năm 1919 [31]. Hồ nói với chỉ điểm Jean rằng anh đã bàn với đoàn đại diện Triều Tiên để gửi bản yêu sách của mình (hay của Phan Văn Trường?) để đăng trên tờ báo ở Tianjin [32]. Dường như đã có sự phối hợp nào đó giữa những gì xảy ra ở Paris và những người theo phái của Cường Để, Phan Bội Châu ở Trung Quốc.

Một trong những thách thức cần phải giải quyết đối với quan điểm nhìn nhận Hồ Chí Minh như một nhà hoạt động chính trị có kinh nghiệm năm 1919 là theo trình tự thời gian của những năm đầu bôn ba hải ngoại của ông, thì Hồ mới chỉ đến Paris vào năm 1917 và sống ở đó mà không gây nên sự chú ý nào của nhà chức trách cho đến khi xảy ra sự kiện tại hội nghị hoà bình quốc tế. Hồ trước đó hoàn toàn không có vai trò gì trong nhóm người Việt yêu nước ở Pháp. Thêm một lý do cho sự nghi ngờ về giả thuyết trên là các mối quan hệ của gia đình ông Hồ và bản thân ông với Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu đã không được làm rõ cho đến tận năm 1992. Với sự thiếu hụt thông tin và bối cảnh như vậy, thật khó tin là một anh phụ bếp, một người lao động chân tay như trong cách tuyền truyền của Đảng cộng sản về ông Hồ thời trai trẻ lại có thể nhanh chóng biến hoá thành người đại diện cho một phong trào yêu nước. Dưới đây chúng tôi sẽ cố gắng cắt nghĩa điều này.

Về vấn đề ngày tháng tới Paris của Quốc, có lẽ bằng chứng đáng tin cậy nhất chính là hồ sơ của cảnh sát Pháp, ở đó ghi nhận anh đến Paris vào tháng 6 năm 1919 từ London [33]. Thông tin trong hồ sơ cho biết Hồ đến Paris ngày 7 tháng 6 năm 1919 từ London, ban đầu anh ở số 10 rue de Stockholm  sau đó là số 56 rue M. le Price, và tiếp theo là số 6 Villa des Gobelins. Nếu ước lượng trên báo chí Triều Tiên về cuộc gặp mặt của Hồ với đoàn đại diện Triều Tiên ở Mỹ là chính xác, thì chắc chắn đó không phải là chuyến dừng chân tại nước Mỹ của Hồ ở New York khi anh còn là một phụ bếp. Thời điểm đó là vào tháng 12 năm 1912, khi anh viết thư cho toàn quyền ở Huế để tìm cách gửi tiền cho cha mình. Mặc dù lá thư được dán tem gửi từ New York, Hồ lại ghi địa chỉ của mình là địa chỉ bưu điện tại Le Havre và nhận mình là một thuỷ thủ [34]. Tại thời điểm đó Quốc chưa có đủ thời gian học tiếng Anh, anh mới chỉ rời khỏi đất nước mình có một năm rưỡi. Theo cách nhìn nhận của chúng tôi, thời điểm Quốc gặp đoàn đại diện của Triều Tiên ở Mỹ chỉ có thể là giữa năm 1917 và 1918, khi các nhóm Triều Tiên yêu nước hoạt động tích cực hơn tại Mỹ. Chưa có bằng chứng nào cho thấy Quốc sống ở Pháp trong thời gian này nhưng bản thân Quốc từng khai báo vởi Quốc Tế III là anh từng làm việc cho một gia đình giầu có ở Brooklyn vào năm 1917 và 1918. Tài liệu trên của Quốc Tế III cũng ghi rõ là anh đến Pháp năm 1919. Thông tin này đáng khả nghi bởi trong cùng bản khai báo trên, những thông tin khác Quốc cung cấp về mình cho Quốc Tế III đều là các thông tin giả mạo, ví dụ Quốc khai mình sinh năm 1903 mẹ mình chết năm 1910 [35]. Cũng có thể Quốc có đưa thông tin trên là phần sự thật để cải trang cho những thông tin giả mạo còn lại. Thông tin được đưa ra bởi nhà hoạt động cho hoà bình David Dellinger năm 1969 cũng cho thấy nhiều khả năng ông Hồ đến Mỹ sau năm 1916. Hồ Chí Minh đã nói với Delllinger rằng thời gian ở Mỹ, ông đã từng tham dự buổi diễn thuyết của Marcus Harvey ở Harlem [36]. Bản thân Harvey, người lãnh đạo phong trào “trở về Phi Châu” cũng chỉ đến Mỹ từ năm 1916 từ Jamaica. Trong những năm 1917 và 1918, Harvey thường xuyên có các cuộc diễn thuyết về vấn đề chủng tộc tại Harlem, đặc biệt sau khi tổ chức Ku Klux Klan (3K tổ chức khủng bố phân biệt chủng tộc tại Mỹ ND) được thành lập năm 1915. Hồ Chí Minh năm 1924 đã viết một bài báo mô tả những cuộc hành hình người da đen của 3K tại miền nam nước Mỹ có thể những thông tin mà Hồ có là từ các buổi tham dự các cuộc diễn thuyết của Harvey [37].

Nếu đúng như giả thuyết Hồ có mối liên hệ với nhóm yêu nước người Triều Tiên tại Mỹ năm 1917 hay 1918, thì nó đưa đến câu hỏi: Liệu anh thanh niên này đã tham gia vào chính trị tình cờ trên con đường bôn ba du lịch vòng quanh thế giới của mình (với tư cách là thuỷ thủ, phụ bếp – ND)? Hay anh ra nước ngoài với mục đích tìm đường cứu nước? Vào thời điểm năm 1911 và 1917 liệu anh có phải là một thành phần tham dự trong phòng trào hoạt động cách mạng đòi độc lập cho tổ quốc mình? Đối với chính quyền Pháp, họ đã có câu trả lời vào năm 1920 khi cuối cùng họ đã tìm ra anh và chị của Quốc. Nhà chức trách cuối cùng đã phác thảo ra được chân dung của một người đáng ngờ do tiền sử gia đình và các mối quan hệ của gia đình anh ta.

Cả anh và chị của Hồ Chí Minh đều đã từng bị kết án lao động khổ sai vì tham gia phòng trào đấu tranh khởi xuớng bởi Phan Bội Châu. Chị của ông nhớ lại là năm 1915 bà nhận được tin Hồ đang ở London. Anh trai Hồ thì kể rằng Hồ đã từng nhập học ở Quốc Học Huế, nhưng sau đó bỏ học ngay sau khi cha họ mất chức quan huyện. Anh thanh niên Hồ (lúc đó là Nguyễn Tất Thành –ND) sau đó đã tới Phan Thiết, làm trợ giáo tại trường tư thục Dục Thanh, được lập nên bởi một ái hữu của Phan Chu Trinh [39]. Cả anh và chị của Hồ đều khai rằng Hồ có một vết sẹo ở tai do một tai nạn hồi nhỏ (vết sẹo phía trên tai trái của Hồ sau này trở thành một dấu hiệu chủ yếu để cảnh sát Pháp nhận dạng ông) [40].

Sau khi tìm ra nhà hoạt động chính trị bí ẩn Hồ là thành viên của gia đình Nguyễn Sinh Huy, người Pháp đã nhanh chóng xác định được các thông tin khác, các bản báo cáo về các thông tin liên quan đến Hồ trước năm 1919 đã cho thấy được sự biến chuyển trong con người này như thế nào. Cả Hồ và anh của ông đã bị Hiệu trưởng trường Quốc học Huế gọi lên khiển trách vì thái độ thù nghịch với người Pháp trong thời gian diễn ra các sự kiện lôn xộn tại Huế (biểu tình của nông  dân  –ND)  năm  1908  [41].  Điều  này  trùng  khớp  với  thông  tin  cung  cấp  bởi  chỉ  điểm “Edouard”,  người báo cáo với Phòng Nhì Pháp rằng Quốc từng ở Huế khi xảy ra sự kiện năm 1908 và Quốc tỏ thái độ không dung thứ với hành động của người Pháp trong sự kiện đó. “Anh ta nói rằng anh ta đã trực tiếp chứng kiến cảnh người dân Việt nam biểu tình với tay không trước toàn quyền tại Huế để phản đối việc lao động khổ sai cưỡng bức (đi sưu –ND) … và người Pháp đã xả súng bắn vào người dân để giải tán biểu tình” [42].

Các bản báo cáo này cũng cho thấy sự ảnh hưởng đáng kể của sự nghiệp cụ thân sinh ra ông Hồ đến đến sự phát triển của Nguyễn Tất Thành / Nguyễn Ái Quốc. Mặc dù ông Nguyễn Sinh Huy thi đỗ Phó Bảng năm 1901 cùng năm với Phan Chu Trinh, nhưng ông không có một sự liên hệ công khai nào với các phong trào cách mạng yêu nước dẫn đến những cuộc biểu tình đòi giảm tô, giảm thuế ở Trung kỳ năm 1908. Năm 1919, ông được bổ nhiệm làm chi huyện ở một huyện mới được khai khẩn ở tỉnh Bình Định (huyện Bình Khê –ND) [43]. Thế nhưng chỉ sau vài tháng làm quan, ông đã dính vào một vụ scandal. Ông bị buộc tội đã xử đánh đòn một nông dân mà sau đó người này đã chết, có lẽ là do trận đòn quá nặng. Năm 1910, Huy bị chính quyền tỉnh giáng 4 cấp, và gần như mất nguồn thu nhập từ lương bổng. Bản thân Huy cho rằng cái chết của người nông dân kia chẳng liên quan gì đến trận đòn phạt [44]. Nhưng Phòng Nhì Pháp tại Huế báo cáo rằng Huy phạm tội ngộ sát trong lúc đang say rượu [45]. Tháng giêng năm 1911, Huy xin phép để vào Sài GònGia Định kiếm sống, nhưng cảnh sát Pháp từ chối vì “nghi ngờ Huy có cảm tình và dính lứu với Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh”. Đại diện mật vụ Pháp ở Huế nhận xét: ” Con trai ông ta 2 năm trước đã đột ngột biến mất, có lẽ là đang ở miền nam, có thể Nguyễn Sinh Huy vào đó với mục đích là để tìm con và gặp Phan Chu Trinh chứ không phải đơn thuần là kiếm sống” [46]. Không đợi sự đồng ý của chính quyền, Huy tự tìm đến mối quan hệ với quan lại người Việt ở Huế và được cho đi nhờ bằng đường biển vào nam từ Đà Nẵng vào ngày 26 tháng 2. Toàn quyền ở Huế thông báo đã có thông tin cung cấp từ phía toà án rằng: ”Mục đích chuyến đi của ông ta (Huy) không rõ ràng, có người nói rằng mục đích chuyến đi của Huy là chuyển thông tin giúp một số bạn bè của con gái ông ta . Đáng ngờ hơn đó là thời điểm chuyến đi của Huy diễn ra ngay sau các chuyến đi của con gái ông ta, gọi là cô Bạch Liên, tới Huế và Quảng Ngãi, sau nhiều năm sống tại làng quê Kim Liên” [47].

Liệu Nguyễn Sinh Huy có cảm tình hay dính lứu gì đến phong trào đòi cải tổ của Phan Chu Trinh hay phong trào bạo động của Phan Bội Châu hay không? đây là câu hỏi vẫn chưa có câu trả lời. Mặc dù vậy chúng tôi có thể khẳng định, ông đã cố gắng giữ cho lý lịch của ban thân mình hoàn toàn trong sạch trong mắt người Pháp cho tới thời điểm đó. Chúng ta cũng không thể biết rõ việc mất chức của ông ảnh hưởng đến con trai út của ông đến đâu. Mặc dù vậy, như Daniel Hemery đã chỉ ra việc mất chức này thu hẹp khả năng chọn lựa của Nguyễn Tất Thành, làm cho việc học hành trong một trường danh tiếng là Quốc học Huế của anh bị giang dở (do không có tiền đóng học –ND). Việc Nguyễn Tất Thành đến làm việc tại trường Dục Thanh, một ngôi trường được xây dựng theo khuyn hướng của Phan Chu Trinh, với việc giảng dạy kiến thức hiện đại bằng  tiếng  Pháp  và chữ Quốc  Ngữ,  cho thấy có lẽ Nguyễn  Tất Thành  đã tham  gia phong trào canh tân do họ Phan khởi xướng từ năm 1909. Chủ trường Dục Thanh thậm chí còn cho thành lập nhà máy sản xuất nước mắm, theo lời kêu gọi của Phan Chu Trinh về phát triển buôn bán và tham gia thương mại đối với người bản xứ. Bằng việc đến dậy trường Dục Thanh, Nguyễn Tất Thành đã định hướng tương lai của mình đi theo con đường của Phan Chu Trinh, lúc này đã bị trục xuất khỏi đất nước như một tội phạm quốc gia. Cha của anh, người đã chứng kiến sự bất lực và lạc hậu của các sỹ phu đào tạo theo nền giáo dục Trung Hoa dưới sự cai trị của Pháp như thế nào, có lẽ đã là người khuyến khích anh đi theo con đường đó.

Vào đầu năm 1911, Thành đã vào tới Sài Gòn, và theo học một lớp đào tạo thợ cơ khí, theo lời kể của anh của anh [49]. Nếu những nghi ngờ của người Pháp là có cơ sở thì có lẽ cha của Thành đã vào đến Sài gòn vào tháng 3 và đã gặp Phan Chu Trinh trước khi họ Phan lên tầu sang Pháp vào cuối năm đó. Nhà trí thức mới được thả tù Phan Chu Trinh có thể mang thông tin về những sỹ phu bị giam cầm tại Poulo Condore, đặc biệt là nhóm sỹ phu gốc Nghệ An. Cả Daniel Hemery và Thu Trang Gaspard đều cho rằng Nguyễn Tất Thành và cha của anh đã gặp và bàn bạc với Phan Chu Trinh về kế hoạch đưa Thành ra nước ngoài học tập [50]. Tất Thành cuối cùng đã tìm được đường đến Châu Âu trên con tầu Latouche Treville, với công việc của một phụ bếp; sau khi cha anh bị bãi chức anh không có hy vọng gì trong việc xin được tài trợ từ chính phủ cho chuyến sang châu Âu của mình như đối với trường hợp của của Phan Chu Trinh. Mặc dù vậy không có lý do để tin rằng dự định đi Châu Âu của Thành chỉ là để làm phụ bếp hay lao động chân tay trên tầu vào những năm sau đó.

Vào tháng 9 (năm 1911), hai tháng sau khi đến Marseille (vào tháng 7), Thành đã có một hành động rất giống với một người theo con đường của Phan Chu Trinh. Anh gửi một lá thư đến tổng thống Pháp xin được vào học trường thuộc địa, một nơi đào tạo quan lại, chức sắc cho chính quyền ở các thuộc địa. Anh viết: ”Tôi không có tiền bạc hay của cải gì và rất ham muốn được học hỏi. Tôi muốn trở thành người có ích cho nước Pháp và với Nhân dân mình, muốn giúp đỡ người dân có được sự cai trị tốt”. Rõ ràng anh viết là thư này với sự giúp đỡ của một người rành tiếng Pháp [51]. Đối với một số nhà nghiên cứu như Nguyễn Thế Anh, bức thư và lời lẽ trong đó có thể hiểu là đã bầy tỏ mong muốn của người viết được chở thành một quan lại phục vụ cho chính quyền thuộc địa, vì quyền lợi của chính quyền thuộc địa [52]. Mặt khác cũng có thể hiểu nguyện vọng này nhất quán với chiến thuật mà Phan Chu Trinh thường khuyến khích các thanh niên, trí thức theo mình, đó là “đấu tranh trong sự hợp tác”, trong đó kêu gọi thanh niên, trí thức Việt Nam hãy học tập truyền thống và văn hoá dân chủ của người Pháp để phục vụ cho quyền lợi của dân tộc mình. Tại thời điểm đó Nguyễn Ái Quốc tương lai đã hy vọng rằng giới lãnh đạo cao cấp nhất của Pháp sẽ đánh giá anh dựa trên tinh thần và phẩm chất mà anh có chứ không phải anh với tư cách là con của một quan lại mới bị cách chức. Nhưng yêu cầu của anh lại bị chuyển đến toàn quyền Huế, và ông này đã chỉ ra rằng anh đã không chịu tận dụng cơ hội để được học tập ở ngay chính bản xứ (ý nói anh Thành đã tự ý bỏ trường Quốc học Huế ND) [53].

Việc từ chối nhập học không làm tiêu tan khát vọng học hành của Hồ, nhưng làm thay đổi con đường để ông đạt được điều đó. Hiện chúng tôi cũng chưa biết rõ rằng ồng Hồ có tham gia một khoá học bài bản nào ở Anh hay không, hay ông học tiếng Anh và chính trị về thuộc địa thông qua tự học và trao đổi ngoài giảng đường. Việc phải kiếm sống trong hoàn cảnh trong tay không có gì có lẽ đã buộc anh phải tiếp tục cuộc phưu lưu trên biển trong vài năm sau đó. Tháng 11 năm 1911, anh tìm cách gửi tiền về cho cha của mình từ Clayton [54]. Lá thư mà chúng tôi đề cập ở đoạn trước là lá thư gửi từ New York vào tháng 12 năm 1912. Bức thư đó anh gửi đến toàn quyền Pháp tại Huế giải thích rằng anh muốn gửi một phần lương hàng tháng của mình cho cha nhưng hiện không biết ông đang ở đâu. Anh viết: ”Tôi không biết phải làm thế nào nữa, tôi chỉ hy vọng mong ngài giúp đỡ vì ngài là người quan bảo hộ nhiệt thành với đất nước chúng tôi” [55]. Giọng điệu hạ mình đối với người Pháp trong thư thể hiện thái độ khiêm nhường của một người theo khổng giáo đồng thời cũng có thể là sự khôn ngoan trong hành xử. Nếu đối chiếu với giọng điệu của anh đối với người Pháp trong các lá thư anh gửi cho Phan Chu Trinh sau đó thì có thể cho rằng thái độ hạ mình trên của anh là một sự giả vờ.

Vào năm 1913 hoặc đầu năm 1914, Hồ Chí Minh dường như đã rời bỏ cuộc sống lang thang trên biển và quyết định định cư ở Anh. Anh kể lại trong một bức bưu thiếp gửi Phan Chu Trinh ở Paris là anh “đã tìm được chỗ để học ngôn ngữ đã làm việc cho người Tây Phương được một tháng rưỡi và luôn sử dụng ngôn ngữ của họ”. Anh viết tiếp: ”Sống ở đây cũng không khác mấy ở Pháp. Cháu hy vọng rằng trong khoảng 4 đến 5 tháng nữa khi cháu gặp chú (bác?) tiếng Anh của cháu sẽ khá hơn nhiều” [56]. Trong thư trên anh đề địa chỉ của mình là khách sạn Drayton Court, West Ealing, tại điểm đường sắt sang phía Tây rời khỏi London.  Có thể dễ dàng chấp nhận giả thuyết anh Thành đã làm việc như một phụ bếp trong cái khách sạn đường sắt này (mặc dù vậy hiện chưa có bằng chứng nào chứng tỏ anh từng làm phụ bếp cho đầu bếp nổi tiếng Escoffier ở khách sạn Carlton, như được kể trong cuốn sách của Trần Dân Tiên). Trong một bưu thiếp khác gửi cho Phan Chu Trinh, lần này đề địa chỉ gửi là Số 8 đường Stephen, Tottenham Court Road, London, anh chứng tỏ rằng mình vẫn quan tâm và theo dõi đầy đủ các sự kiện diễn ra ở châu Á. Anh viết: ”Ngũ đại cường quốc đang tranh đấu. Chín nước đang có chiến tranh. Cháu tự nhiên nhớ lại điều cháu đã nói với bác mấy tháng trước về một cơn bão chính trị sắp đến. Số phận sẽ cho chúng ta chứng kiến nhiều điều bất ngờ nữa sắp tới và không ai biết ai sẽ thắng trong cuộc chiến này. Các nước trung lập chưa thể hiện thái độ còn các nước tham chiến thì không đoán được dự định của họ. Trong bất kể trường hợp nào nếu một nước tham gia thì họ sẽ buộc phải chọn một bên để tham gia. (….) Có lẽ chúng ta nên bình tĩnh chờ xem” [57]. Rõ ràng vào thời điểm Phan Chu Trinh bị bắt ở Paris năm 1914, tiếng Anh của Hồ Chí Minh đã đủ tốt và cho rằng anh đã có thể tự đưa ra những ý kiến của mình về tình hình chính trị thế giới, theo cách nhìn nhận của riêng mình từ London.

Một phần của một bức thư khác mà Hồ Chí Minh gửi cho Phan Chu Trinh đã được nhân chứng trích dẫn trong phiên toà xét xử Phan Chu Trinh ở Paris. Nhân chứng Cao Đắc Minh nói rằng thư anh ta trích dẫn là một bức thư Nguyễn Tất Thành trả lời thư của Phan Chu Trinh. Dường như lá thư đó đã được gửi đi sau khi Phan Chu Trinh bị bắt. Nhân chứng khai rằng rằng trong bức thư Nguyễn  Tất Thành đã cam kết với Phan Chu Trinh rằng “không  chỉ sót thương  cho những thống khổ của đồng bào mình mà Thành nguyện sẽ đi theo và tiếp tục công việc của Phan Chu Trinh”[58].

Trong quá trình điều tra các mối liên hệ giữa những người Việt lưu vong và chính phủ Đức, cảnh sát Pháp đã phát hiện ra rằng, ngoài Tất Thành, còn có những người Việt nam yêu nước khác thuộc phái của Hoàng tử Cường Để cũng từng sống và học tập tại London. Một trong số đó là Joseph Thành, sau này được xác định là Lâm Văn Tú người Nam kỳ, đã đến Singapore  từ Hồng Kông  bằng đường  biển để gặp hoàng  tử Cường  Để cùng với hai người  Nam kỳ khác, những người sau này đều trở thành đặc phái viên đưa tin của Cường Để ở Châu Âu . Một trong hai người Nam kỳ này có tên là Trương Duy Toản từng là chủ biên một tạp chí có tinh thần dân tộc, “Lục tỉnh tân văn”. Người được cho là đã tháp tùng Phan Chu Trinh trong chuyến sang Paris [59]. Còn người Nam kỳ còn lại là Đỗ Văn Y, một giáo viên ở Mỹ Tho, định cư ở Pháp và thường xuyên có mối liên hệ với Joseph Thành, trong thời gian Thành sống ở London. Chính quyền Pháp đã tịch thu được 4 bức thư của Joseph Thành gửi Đỗ Van Y năm 1914, hai trong số đó  được  gửi  từ địa  chỉ  tại  đường  Gower  [60].  Hai  lá thư  còn  lại,  một  đề  địa  chỉ  gửi  đi  từ Constantine  Road  tại  Hampstead,  London,  và  một  đề  địa  chỉ  gửi  từ  số  3  Conquest  Road, Bedford. Những bức thư này cho thầy Joseph Thành đang đợi tiền gửi đến từ Cường Để. Như chúng ta đã biết chính Phan Văn Trường cũng từng bị nghi ngờ là đã tham dự vào các hoạt động bí mật này trong phiên toàn xử ông [61].

Bị người Pháp thúc dục gửi gấp kết quả điều tra về chỗ ở và thông tin của Joseph Thành, bộ cư trú Anh quốc đã vội vàng thông báo cho Paris biết rằng Joseph Thành và Nguyễn Tất Thành là hai anh em tuổi khoảng 18,19 và rằng Tất Thành sống và học tại Bedford. Cả hai đã đăng ký vào học trường Bách Khoa Regent Street, và ở đó họ đã quen một người bạn Anh tên Gourd, người có cha mẹ hiện sống ở 12 Constantine Road. Bản báo cáo nói rằng “Tất Thành rất thân với một cô con gái nhà Gourd “và nhờ đó mà bà Gourd đã giúp anh vào học việc tại công ty Igranic Electric ở Bedford. Bản báo cáo kết luận: ”Vẻ bề ngoài chẳng có gì cho thấy họ tham dự vào một âm mưu hay tổ chức chính trị bí mật nào” [62]. Sau đó Phòng Nhì Pháp đã xác định rằng “anh em ruột” với Tất Thành hoá ra là họ Lâm, và rằng Lâm Văn Tú tức Joseph Thành đã quay trở lại Nam Kỳ [63]. Tại thời điểm đó chưa có mạng lưới chỉ điểm người Việt của Phòng Nhì Pháp ở London, do đó không rõ là bộ cư trú Anh có thực sự xác định đúng tên tuổi và các hoạt động của các thanh niên này hay không. Không có lý do gì để cho rằng việc bộ cư trú Anh nhầm lẫn Joseph Thành với Nguyễn Tất Thành là hai anh em vì cùng có chung chữ Thành trong tên, vì đó là tên riêng chứ không phải là họ. Nhưng dường như không thể có chuyện có 2 Tất Thành ở Anh tại thời điểm đó. Các mối quan hệ phức tạp này cho chúng ta sự nghi ngờ rằng Nguyễn Tất Thành là một thành viên của một nhóm ái hữu, một bản sao phương Tây của phòng trào Đông Du [64]. Trong cuốn tự chuyện của mình, Trần Dân Tiên (Hồ Chí Minh) viết rằng một người đã thuật lại rằng anh cùng với Hồ Chí Minh đã tham gia một tổ chức người Việt bí mật tại Anh lúc đó là Hội Lao Động Hải Ngoại [65]. Trong thời gian Thành lênh đênh trên biển thì ở nhà anh và chị của anh đã tham gia các phong trào cách mạng khởi xướng bởi Phan Bội Châu, điều đó đủ để anh trở thành một ứng cử viên cho vị trí làm phái viên của Cường Để. Liệu có phải là vào năm 1914

Cường Để đã sử dụng số tiền quyên góp được từ Việt Nam (và có lẽ cả từ người Đức) để hỗ trợ cho các du sinh người Việt ở phương Tây? Liệu có phải là ngẫu nhiên mà Nguyễn Tất Thành xuất hiện gần như cùng thời điểm với sự xuất hiện của Joseph Thành và hoàng tử Cường Để tại London?

Vào thời điểm cuối năm 1916, tự chuyện của Hồ Chí Minh viết rằng Nguyễn Tất Thành trở lại Pháp để gặp Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường. Một cuộc khởi nghĩa nữa trong nước vừa bị dập tắt. Hoàng đế trẻ Duy tân đã bị lưu đầy ra đảo Réunion xa sôi. Hồ hỏi các đồng hương của mình, viết trong cuốn tự chuyện bằng một ngôn ngữ đơn giản,”Vua Duy Tân đã đứng dậy khởi nghĩa, Nhân dân Thái Nguyên cũng thế, còn chúng ta phải làm gì?”. Tác giả (Trần Dân Tiên – ND) viết tiếp: ”Nhưng sau đó không ai biết anh Ba sẽ làm gì” [66]. Những năm cuối của cuộc đại chiến có lẽ là thời điểm thích hợp để các nhà yêu nước nói tiếng Anh của Á châu tìm cách liên hệ với Mỹ. Những nhà yêu nước người Hoa và cả Triều Tiên đã nhận được sự ủng hộ từ những người có tầm ảnh hưởng của nước Mỹ . Mặc dù vậy ngoài bằng chứng là bài trả lời phỏng vấn trên báo Yishibao  nói trên, thì chuyến  đi của Hồ đến nước Mỹ năm 19171918  vẫn chỉ là giả thuyết. Dấu hiệu tiếp theo về sự xuất hiện của Nguyễn Tất Thành/Nguyễn  Ái Quốc chính là tại Paris vào năm 1919.

Việc tìm kiếm các bằng chứng, tài liệu trong tàng thư khổng lồ của Pháp có thể cho thấy con đường đến với chính trường Paris của người thanh niên xuất hiện với cái tên Nguyễn Ái Quốc. Khi anh nói với chỉ điểm viên “Jean”  vào tháng giêng  năm 1920 rằng anh đã nghiên  cứu kỹ chính sách thuộc địa của người Mỹ, người Anh, người Tây Ban Nha, anh nói với vẻ rất thành thực [67]. Quan hệ thân thiết của anh và Phan Chu Trinh cũng như Phan Văn Trường có lẽ đã có từ trước cuộc chiến thế giới lần thứ nhất. Có thể một lý do kéo họ dễ dàng đến gần nhau chính là vì họ có cùng cảnh ngộ, cùng có anh, chị em, người thân đang phải nằm trong lao tù của Pháp hay đang bị lưu đầy biệt xứ. (Về mặt này có lẽ nhiều nhà nghiên cứu với quan điểm xem hai học Phan như những học giả khả kính , những nhà cách mạng ôn hoà đối nghịc với anh thanh niên non nớt Nguyễn Ái Quốc, đã bỏ qua). Mặc dù nhiều năm sau Phan Chu Trinh và Nguyễn Ái Quốc có nhiều mối bất hoà về quan điểm chính trị, nhưng họ vẫn luôn đối xử với nhau trong tình cảm tôn trọng và có trách nhiệm. Đối với Phan Văn Trường, mối quan hệ của họ trở nên rất tốt đẹp cho đến tận thời điểm họ chia tay năm 1923.

Giải pháp cấp tiến (19201923)

Hội nghị hoà bình Paris kết thúc vào tháng giêng năm 1920, với sự ra đời của Liên đoàn các quốc gia. Nhưng đối với Hồ Chí Minh và đồng bào của mình thì hội nghị Paris kế thúc cũng là lúc kết thúc hy vọng của họ rằng các nước Dân Chủ phương tây sẽ công nhận quyền độc lập của Việt Nam. Chiến dịch vận động tại hội nghị hoà bình Paris thất bại cũng là lúc nhóm người Việt yêu nước bắt đầu tan đàn xẻ nghé. Từ năm 1920 kinh phí hoạt động bắt đầu suy giảm đáng kể. Đã có thời điểm Hồ phải sống dựa vào nguồn tài trợ của một người sống tại số 6 Villa des Gobelins có tên là Khánh Kỳ, người có một cửa hàng buôn bán giấy ảnh tại Rhineland (mà cảnh sát còn nghi ngờ ông có các hoạt động đầu tư tiền tệ). Cuối năm 1919, Phan Văn Trường mở văn phòng luật tại Mayence  và tham gia bào chữa cho các quân nhân người Việt và Pháp tại toà án quân sự. Ngoài ra ông cũng kiếm được tiền thông qua việc tham dự với tư cách là luật sư vào các vụ tranh chấp về thương mại giữa Pháp và Đức [68]. Phan Chu Trinh cũng đóng góp vào quỹ nhóm một phần thu nhập 30 francs /ngày của ông từ nghề in tráng ảnh [69]. Nhưng một nhân viên của bộ thuộc địa có tên là Phu Bay, có lẽ chính là chỉ điểm “Edouard”, đã báo cáo rằng vào thời điểm đó nhóm này thường mắc các bệnh như viêm phế quản, ho lao do “ họ không có điều kiện kinh tế cho một cuộc sống đầy đủ và khoẻ mạnh” [70]. Ông ta không xem nhóm này như một sự đe doạ nghiêm trọng đối với hoà bình, ổn định ở Đông Dương.

Hồ Chí Minh thường xuyên phàn nàn với các chỉ điểm của Phòng nhì trong các cuộc trao đổi rằng, vào đầu những năm 20 của thế kỷ, hầu như không mấy ai biết về Đông Dương. Đối với những nhà hoạt động chính trị quốc tế mà anh tiếp xúc, người thì không biết Đông Dương ở đâu, kẻ lại cho là một tỉnh nằm giữa Trung Quốc (China) và Ấn Độ (India). Anh nói với chỉ điểm Jean: ”Chúng ta phải làm ầm ĩ lên tý để người ta biết mình là ai. Người ta biết nhiều đến Triều Tiên hơn chúng ta là vì người Triều Tiên họ đã lên tiếng nhiều hơn chúng ta”. Mặc dù vậy anh cũng nói thêm rằng anh muốn đợi một thời gian để xem các chính sách mới của tân toàn quyền Maurice  Long như thế nào [71]. Trong một cuộc gặp mặt quan trọng của những  người trong phong trào hoà bình quốc tế tại Orient, trong đó có bài phát biểu và tham dự của phó tổng thư ký đảng dân chủ xã hội Marius Mautet và Giáo sư Félicien Challaye và đại diện của các nhóm yêu nước Triều Tiên và Trung Quốc, Quốc đã cố gắng nêu vấn đề về quyền tự do của người Việt Nam. Trong số 1000 người tham dự cuộc miting đó, mà trong đó phần lớn là người Trung Quốc, có cả thanh tra Pierre Arnoux. Ông ta kể lại rằng Quốc đã phát tán các bản copy của “bản yêu sách của nhân dân An Nam” đến các thành viên tham dự, tuy nhiên khi anh muốn phát biểu thì chủ toạ đã không cho phép anh làm việc này. Arnoux viết: ”Thái độ và cách thức giành bằng được quyền phát biểu của Quốc làm nhiều người ủng hộ nhưng cũng nhiều người tham dự la ó chế riễu anh ta”  [72]. Sau đó chính Hồ đã tổ chức một cuộc míting và anh phát biểu với tư cách là đại diện của “Nhóm các nhà cách mạng Việt Nam”. Bài phát biểu của anh có tựa đề là ”Cuộc cách mạng xã hội của nhân dân phương đông và yêu sách cho một nước An Nam cổ đại” đã thu hút được một đám đông khoảng 70 người, những người đã vỗ tay nhiệt thành cho bài phát biểu của anh khi nó kết thúc [73]. Mặc dù vậy, trong số người tham dự bài phát biểu của anh không có ai là người Việt, điều đó làm anh cảm thấy không muốn làm điều tương tự như vậy nữa sau này. Khi chỉ điểm Jean gợi ý cho Quốc rằng có thể vì cái tên “Nhóm các nhà cách mạng Việt Nam” đã làm cho kiều bào ngại ngần không muốn tham dự, Hồ đã lên tiếng bảo vệ quan điểm và cách làm của mình. Tất nhiên trong thực tế không tồn tại một nhóm nào có cái tên như vậy, nhưng Hồ nói với Jean: ”Chúng ta phải cố gắng hết sức và cũng phải dối trá một chút để gây sự chú ý” [74].

Vào  thời  gian  đó  Hồ  dành  nhiều  thời  gian  của  mình  để  đến  đọc  sách  tại  Bibliotheque  St Geneviève gần Panthéon. Như một phần trong chiến dịch vận động chính trị của mình Hồ muốn in một cuốn sách mà anh dự định đặt tên cho nó là Les Opprimés. Để làm cho cuốn sách có giá trị học thuật hơn Hồ quyết định sẽ trích dẫn các nghiên cứu và sách của các tác giả Pháp khác. Mật vụ Pháp đã tìm ra danh sách khoảng 13 tài liệu Hồ đã mượn và đọc trong đó có cả bài viết của Phan Chu Trinh tường trình về các sự kiện diễn ra ở Trung kỳ năm 1908 và các tài liệu về chính sách tài chính, sưu thuế, cũng như về nông nghiệp mà người Pháp đưa ra [75]. Anh tìm cách kiếm tiền để in cuốn sách của mình bằng cách tìm cách làm trợ lý thuê cho một người nào đó theo khuynh hướng dân chủ xã hội, cho đến tháng 9 anh vẫn hy vọng rằng Marcel Cachin làm việc ở tờ báo L’Humanité  sẽ giúp đỡ để in cuốn sách này [76]. Thế nhưng các hoạt động chính trị của anh bị đột ngột dán đoạn từ tháng 8 khi anh phải vào viện vì bị xưng tấy ở vai phải [77]. Không rõ đó có phải là triệu chứng cho thấy anh đã nhiễm bệnh lao hay không, nhưng năm sau anh đã bị cửa hiệu ảnh cho thôi việc vì họ kết luận anh bị bệnh lao [78].

Khi người Pháp đã chắc chắn rằng Nguyễn Ái Quốc chính là Nguyễn Tất Thành, họ đã tìm ra được cách để kiểm soát anh. Tại Pháp, họ tìm cách ngăn cản anh tiếp xúc với những người Việt Nam khác, và cho tới mùa thu năm 1920, họ quyết định sẽ không cho anh rời khỏi nước Pháp. Chỉ huy sở phòng nhì Đông Dương tại Hà nội, René Robin đã ra lệnh không cấp chiếu khan (hộ chiếu) cho Hồ, ông gợi ý nhà cầm quyền tại Pháp vận động Việt kiều khuyên giải Hồ nên tự khai báo nhân thân thật của mình và hứa sẽ cấp hộ chiếu và vé cho Hồ quay lại Việt Nam nếu Hồ chịu công khai thú nhận nhân thân thật của mình và chứng minh điều đó. Tuy nhiên Hồ không chịu làm theo yêu cầu của cơ quan thẩm quyền của Pháp. Ngày 20 tháng 9 anh đã đến đồn cảnh sát để họ chụp ảnh và lấy lời khai, nhưng ngay sau đó anh đến thẳng Hội Nhân Quyền để phản ánh rằng anh đã bị cảnh sát quấy rối, vi phạm nhân quyền [79].

Nhà cầm quyền Pháp ở Hà nội cũng tin rằng Hồ sẽ không dám quay trở lại Đông Dương vì sợ bị phạt vì tội đã vượt biên trái phép. Nhưng họ lại lo ngại rằng Hồ có thể đào tẩu sang một nước khác mà theo như M. Lacome viết trong thư gửi về Paris: ”Anh ta sẽ thoát hoàn toàn khỏi sự kiểm soát của chúng ta, một người kiên định như thế hẳn sẽ còn làm chúng ta phải bất ngờ nhiều lần. Tốt nhất là cứ để anh ta cải trang như Nguyễn Ái Quốc hiện nay và theo dõi anh ta thật sát xao” [80]. Piere Guesde, tổng chỉ huy quân đội Đông dương tại Pháp, thì muốn có biện pháp xử lý mạnh hơn đối với Hồ và các đồng chí của anh. Vào giữa năm 20, Guesde đã thu thập được đến 250 hồ sơ nghi vấn là người Việt, trong đó ông xem nhóm ở số 6 Villa Des Goblin là nhóm nguy hiểm nhất [81].

Việc Guesde xem Hồ và nhóm của anh là các phần tử nguy hiểm nhất có vẻ hơi khó hiểu. Cơ quan mật vụ Pháp đã thành công trong việc cô lập anh, bản thân anh thì vừa nghèo nàn lại bắt đầu ốm yếu bệnh tật (bệnh lao –ND). Lý do là vì nhóm Việt nam này bắt đầu có mối liên hệ với cánh cực tả trong Đảng xã hội dân chủ Pháp. Tháng 11 năm 1920, Hồ và Trần Tiến Nam đã tham dự một buổi mítting do Đảng dân chủ xã hội Pháp tổ chức để kỷ niệm ngày sinh nhật thứ 3 của Liên Xô. Vào ngày 3 tháng 11, Phan Chu Trinh, Hồ và 3 người khác đang sống ở Villa Des Goblin đã tham dự buổi mítting của “Hội đồng Quốc Tế III” được tổ chức bởi chi bộ 13 của Đảng cách mạng dân chủ xã hội. Vào ngày 19 cùng tháng, Hồ được mời đến tham dự một cuộc miting của cánh cực tả thuộc chi bộ 13 Liên đoàn cách mạng dân chủ xã hội. Tại cuộc gặp mặt này một buổi bỏ phiếu cho việc tham dự của liên đoàn vào Quốc Tế III tại Moscow được tiến hành [82]. Mật vụ Pháp không cho biết kết quả bỏ phiếu nhưng có lẽ Hồ đã có quyết định riêng cho mình về vấn đề này từ khi anh còn ở trên tầu ngày 20 tháng 12 năm 1920 trên đường đến Tours để tham dự đại hội Đảng cách mạng dân chủ xã hội. Anh đại diện cho chi bộ 13, chi bộ cạnh đó và cả “nhóm xã hội dân chủ Đông Dương” [83]. Chính tại đại hội Tours, phần lớn các đoàn đại diện đều bỏ phiếu tán thành việc ra nhập Quốc Tế III cùng với những người Bolsevik Nga, và từ bỏ Quốc Tế II theo thiên hướng xã hội dân chủ mà những người cấp tiến đã cho rằng quá dân tộc sôvanh trong đại chiến thế giới lần thứ nhất. Việc tham dự đại hội Tours đã khiến cho Hồ trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp.

Một bài báo Hồ viết đăng trên tờ L’Humanité trước khi đại hội Tours diễn ra cho thấy quan điểm của anh vào thời điểm này. (Có lẽ một lần nữa bài báo lại được viết dưới sự trợ giúp của Phan Văn Trường. Lý do là một người người bạn trong chi bộ 13 đã góp ý với Hồ rằng bản nháp bài báo của anh cần phải sửa nhiều sao cho văn phong kiểu cách hơn. Không rõ là bản chúng tôi tìm thấy trong tàng thư của Pháp là bản gốc hay bản đã được sửa chữa). Hồ đặt tên bài báo này là:

”Chính sách thuộc địa”. Bài báo này cho thầy Hồ đã nghiên cứu kỹ bản “Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lenin, công bố tại đại hội Quốc Tế II diễn ra vào tháng 7 năm 1920 và in trên tờ L’Humanité vào ngày 16 và 17 tháng 7. Những phân tích trong bản luận cương của Lenin về bản chất chủ nghĩa đế quốc đã giúp Hồ có luận cứ cho sự căm thù chủ nghĩa thực dân.

“Con bạch tuộc tư bản Tây phương đang vươn chiếc vòi của nó ra khắp toàn cầu, châu Âu đã trở nên quá chật hẹp với nó, máu của những người vô sản Châu Âu không còn đủ cho nó hút. Tội ác của bọn tư bản Anh, Pháp, Đức đều như nhau cả, tồi tệ hơn cả tội ác của bọn tự bản khác bởi, đối với bọn này ít nhất chúng cũng không cố nguỵ trang cho mình bằng những khẩu hiệu mỹ miều như là “thực hiện sứ mạng khai hoá thuộc địa”. Đằng sau lá cờ ba sọc với chiêu bài Tự DoBình ĐẳngBắc Ái, thực dân Pháp mang đến thuộc địa rượu, thuốc phiện, và nhà thổ cũng như mang đến cho người dân thuộc địa sự thống khổ, huỷ hoại, chết tróc và sự vơ vét để làm giầu cho mẫu quốc.

Trước những tội ác như vậy của chủ nghĩa tư bản và đế quốc, Đảng dân chủ xã hội có chính sách thuộc địa thực sự dân chủ hơn không? không, thậm chí đảng còn chưa thèm hỗ trợ các cuộc cách mạng giành độc lập ở thuộc địa. Sự án binh bất động trước các vấn đề về thuộc địa này sẽ còn tiếp tục nếu chiến tranh của phe cực hữu không bóc trần sự dối trá và đạo đức giả của nền dân chủ tư sản và nếu như không có cuộc cách mạng bạo lực tháng 10 Nga đã khuấy động lên sức mạnh của giai cấp vô sản trên toàn thế giới.

Từ khi đại đa số thành viên của Đảng tán thành việc gia nhập Quốc tế Cộng Sản và từ khi Lenin trình bày bài luận cương của ông về các vấn đề thuộc địa tại đại hội 2, các đồng chính chúng ta mới bắt đầu đề cập đến các vấn đề thuộc địa…” [84]

Bài phát biểu của Hồ tại đại hội Tours có lời lẽ nhẹ nhàng hơn, song cũng nhận được những phê bình trong Đảng xã hội dân chủ. Khi phó chủ tịch đảng Jean Longuet đứng lến phản đối Hồ về việc phát biểu về vấn đề thuộc địa, Hồ đã đề nghị Jean không được ngắt lời. Mặc dù có sự phản đối nhưng rõ ràng bài phát biểu của Hồ vẫn tiếp tục với những lời lẽ mềm mỏng hơn so với bài báo của Hồ trên tờ L’Humanité nói trên. Khi kết thúc bài phát biểu ngắn của mình, Hồ kêu gọi các đại biểu của đảng, cho dù là cảnh tả hay cánh hữu, hãy ủng hộ Đông Dương. Bài phát biểu của anh được hoan nghênh nhiệt liệt và giữa những tiếng vỗ tay có cả những tiếng hét: ”Đả đảo bọn thực dân cá mập!” [85]

Bài phát biểu của Hồ không ấn tượng bằng bức ảnh chụp anh bởi một đại biểu. Bức ảnh chụp một thanh niên Việt nam với khuôn mặt mịn màng ăn mặc chỉnh tề như một cậu học sinh với comple và nơ thắt, giữa các đại biểu râu rậm, tóc mai người Pháp. Một tờ báo của cánh hữu thì mô tả anh như anh hề hút khách  ở rạp xiếc được  giới thiệu  trong  đại hội Tours  bởi Marcel Cachin. Nhưng bạn của Hồ, Paul Vaillant Couturier thì lại mô tả lại sự kiện này như là: ”Bài phát biểu của anh đã nói lên một cách chính xác đến ngạc nhiên nỗi thống khổ của một quốc gia 20 triệu người” [86]. Trong những năm sau này, bản thân Hồ cũng luôn muốn giữ mình ở một vị trí khiêm tốn trong các cuộc tranh luận mang tính học thuyết ở Quốc Tế III. Thế nhưng có vẻ những gì mà Hồ tự nhận là mình không hiểu rõ về những vấn đề đang chia rẽ những người xâ hội dân chủ cấp tiến và phái trung dung khi ông đến dự đại hội Tours là không chính xác. Vào thời điểm Hồ tham dự đại hội Tours, anh đã có đến một năm rưỡi tham dự nhiều buổi miting và đọc nhiều bài báo của cánh tả tại Paris.

Chính tại đại hội Tours, Hồ đã cho thấy sự gia nhập và trung thành của mình với một phong trào mà ông đã theo đuổi đến trọn đời. Phong trào cộng sản thế giới sau đó đã trở thành ngôi nhà đồng thời cũng là người chủ thuê của Hồ. Vậy nhưng vào mùa đông năm 1921, phòng trào cộng sản không thể giúp gì cho những vấn đề cá nhân của riêng anh. Từ ngày 14 tháng giêng đến ngày 5 tháng 3, Hồ phải ở trong bệnh viện Cochin (Nam kỳ) để chữa ung nhọt trên vai của mình. Khi ra viện anh từ chối việc trả viện phí với lý do hiện anh đang thất nghiệp và không có thu nhập [87]. Tại số 6 Villa des Goblins lúc này, Phan Chu Trinh cũng đang bị trầm cảm nặng. Con trai duy nhất của ông, Dat, đã rời Pháp về Việt nam để chữa bệnh lao và đã không qua khỏi. Bạn bè của Trinh mô tả rằng sau cái chết của con trai Trinh không còn là mình nữa [88]. Bản thân ông cũng không được phép trở lại Việt Nam cho đến năm 1925. Cũng tại thời điểm đó, nhiều người sống tại Villa des Goblins đã công khai tỏ ý khó chịu với chiều hướng cấp tiến ngày càng rõ nét của Nguyễn Ái Quốc. Một bản báo cáo của phòng nhì đã cho thấy Khánh Kỳ và Trần Tiến Nam đã phàn nàn rằng họ đã gặp rắc rối với cảnh sát chỉ vì thái độ và cách hành xử cấp tiến của Quốc. Trần Tiến Nam thì nói rằng chỉ có Phan Văn Trường, Phan Chu Trinh và Võ Văn Toàn còn ủng hộ các quan điểm của Quốc. Anh này cũng phàn nàn rằng không hiểu tại làm sao “họ lại có thể tin tưởng một người mà ngay cả tên và nguồn gốc lý lịch cũng không rõ ràng” [89]. Trong khi đó, Khánh Kỳ, người kiếm tiến chính của cả nhóm, thì phàn nàn rằng ông không còn đủ tài chính để trả tiền thuê nhà cho cả nhóm vì giá thuê nhà sau cuộc chiến đã bắt đầu leo thang [90]. Sau đó cả Hồ và Phan Chu Trinh phải tìm một chỗ khác để ở. Do đó Hồ buộc phải giảm bớt thời gian cho các hoạt động chính trị của mình để kiếm sống. Vào tháng 7, Hồ chuyển qua sông Sen dọn đến khu Tây bắc Paris để ở trọ tại số 9 ngõ Compoint. Anh tìm được việc làm thợ tráng ảnh cho một hiệu ảnh ngay sát nhà trọ với mức lương 40 France một tuần, mức lương giành cho người học việc. Với cuộc sống tằn tiện của mình, mức lương đó đủ để anh trả tiền trọ 40 France một tháng và mua thức ăn. Vào cuối tháng 7, phòng nhì Pháp báo cáo anh đang sống một cách lặng lẽ chỉ thỉnh thoảng đi thăm bạn bè tại Villa des Goblins” [91]

Các bài báo của Hồ trong thời kỳ này chỉ nhận được sự thờ ơ từ phía những người bạn thuộc phe dân chủ xã hội. Cuốn sách của anh viết về chủ nghĩa thực dân của Pháp đã hoàn thành từ năm 1920 nhưng vẫn chưa có nơi nào nhận in. Marcel Cachin thì từ chối khéo việc in cuốn sách trên tờ L’Humanité lấy lý do là số lượng báo bán ra đang bị giảm sau sự chia rẽ của đảng xã hội dân chủ tại đại hội Tours và do đó ông không thể trả trước Hồ tiền nhuận bút [92]. Mặc dù vậy Hồ vẫn có bài viết được đăng ở các báo khác. Một bài của anh đăng trên tờ báo hàng tháng Revue Communiste vào ngày 14 tháng 4 năm 1921, và một bài khác trên tờ L’Action Coloniale vào ngày 10 tháng 6. Ở bài thứ nhất, đăng tận trang thứ 133, vẫn là điệp khúc bấy lâu nay anh vẫn thường viết đó là về sự thật bại của các Đảng cộng sản trước vấn đề thuộc địa. Anh viết: ”sự lảng tránh này thật đáng ngạc nhiên, đặc biệt là khi không hề còn tranh cãi về vấn đề này trong một Đảng đã thuần khiết …”. Còn ở bài báo thứ 2, anh so sánh chính sách thuộc địa tương đối cởi mở của Nhật bản tại Triều Tiên và các chính sách của Pháp tại Đông Dương.  Vào tháng 8 năm 1919, chính phủ thuộc Nhật đã ra sắc lệnh trao quyền tự trị cho thuộc địa của mình và công nhận quyền bình đẳng của người dân thuộc địa với người Nhật. Anh viết: ”Thật ngạc nhiên rằng, trong khi đó, chính phủ Pháp vẫn ngây thơ tin rằng có thể có được sự ủng hộ của người dân thuộc địa tại Đông Dương chỉ bằng cách tiếp tục lừa bịp bằng những lời lẽ hoa mỹ….”.

Vào mùa hè năm 1921, nhóm Người Việt yêu nước, chuẩn bị rã đám. Các chỉ điểm của thanh tra M. Devèze mật báo rằng tại số 6 Villa des Goblins thường xuyên xảy ra những cuộc tranh cãi nảy lửa. Vào đầu tháng 7, Hồ đã có một cuộc tranh luận “dữ dội” với hai tiền bối họ Phan kéo dài từ 9 giờ tối cho đến đầu giờ sáng hôm sau [93]. Trong tháng 9 nhiều cuộc tranh luận tương tự đã nổ ra. Vào tháng 10, Phan Chu Trinh chuyển đến sống ở đường Pernéty. Thực sự đến giờ, chúng tôi cũng chưa biết rõ nội dung các cuộc tranh luận đó là gì và liệu đó có phải là những cuộc tranh luận do bất đồng về quan điểm chính trị. Việc họ chia tay nhau ra sống riêng và con đường chính trị tương lai của mỗi người có thể phần nào hỗ trợ cho giả thuyết rằng đó là các cuộc tranh luận chính trị. Nhưng khó có thể biết được liệu có đúng là vì những cuộc tranh cãi nảy lửa đó Hồ Chí Minh đã đoạn tuyệt với hai tiền bối họ Phan như giới học thuật lâu nay vẫn giả định hay không [94]. Mặc dù trong những lá thư mà Phan Chu Trinh gửi cho Hồ vào những năm 1922 và 1923 cho thấy rõ ông không tán thành việc Hồ theo chủ nghĩa Max nhưng ông vẫn luôn tỏ ra rất tôn trọng các quyết định của Hồ và luôn quan tâm đến các hoạt động chính trị của anh cũng như tham dự các buổi miting chính trị với anh. Dường như Phan Văn Trường thì phê phán Phan Chu Trinh nặng nề hơn về thái độ có phần giao động của ông sau cái chết của con trai mình [95]. Nhưng trong mắt phòng nhì, Trường vẫn luôn bị xem là một nhà chính trị cực đoan. Vào cuối tháng 2 năm 1922, phòng nhì Pháp vẫn còn nghi ngờ rằng, Nguyễn Ái Quốc vẫn đang đóng vai trò đại diện cho Phan Văn Trường, người đứng sau lưng [96].

Có lẽ những cuộc tranh cãi này cũng liên quan đến lời mời tham gia công đoàn thuộc địa quốc tế từ một giảng viên tại Malagasy (trường ngôn ngữ) có cái tên rất kêu là Stéphany Oju Oti [97]. Stéphany từng tham gia làm báo Action Coloniale. Công đoàn tiến hành buổi miting ra mắt vào tháng 10 năm 1921 sau mấy tháng trời chuẩn bị. Số lượng lớn thành viên khác của liên đoàn ủng hộ Quốc Tế III và liên đoàn công khai mối liên hệ mật thiết của mình với Đảng Cộng Sản Pháp. Tổ chức mời này đặt mục đích hoạt động là nghiên cứu các chính sách kinh tế và chính trị tại các nước thuộc địa và đồng thời cũng là một tổ chức tương thân tương ái. Hồ tham dự cuộc miting ra mắt này cùng với Phan Văn Trường và một người cháu họ mới chuyển tới ở tại số 6 Villa des Goblins. Tham dự buổi miting, như thường lệ, Hồ phát biểu một cách sôi nổi về chính quyền và chính sách thuộc địa của Pháp. (Phòng nhì có được báo cáo vì có một chỉ điểm tham gia cuộc miting này, nhiều khả năng chỉ điểm viên này chính là Nguyễn Văn Ái, có mật danh là điệp viên Villier [98]). Hồ tham gia vào ban điều hành của công đoàn cùng với 6 người khác là luật sư, thương  gia cỡ nhỏ  đến  từ Réunion,  Dahomey,  Goudeloupe,  Antilles,  Martinique  và Guyana. Anh được giao tín nhiệm làm quản lý tài chính cho liên đoàn có nhiệm vụ thu hội phí mỗi kỳ 4 tháng. Anh đã giúp công đoàn mở được văn phòng tại trung tâm khu Latin tại đường Marché des Patriarches, đồng thời giúp ra tờ báo của công đoàn Le Paria vào tháng 4 năm 1922 [99].

Công đoàn thuộc địa quốc tế trở thành cơ sở hoạt động mới của Hồ thay cho nhóm Người việt

yêu nước và tổ chức có lẽ là chưa bao giờ tồn tại “Nhóm các nhà cách mạng Việt Nam”. Như vậy là bên cạnh đảng cộng sản, Hồ đã có được sự ủng hộ của một tổ chức có đủ quyền quyền pháp lý và các hội viên đóng phí, cũng như một phòng làm việc cho riêng mình. Ban đầu Le Paria có 103 người đặt mua [100] và số lượng bản in nhanh chóng tắng lên đến 2000. (vào tháng 4 năm 1923 số lượng bản in của báo đã giảm xuống 1000 và số trang cũng bị giảm, đồng thời không có thu nhập nào từ quảng cáo [101]).

Hồ cho rằng đã có 150 người đông dương đăng ký mua báo Le Paria nhưng thật ra số người này thuộc bộ phân SR (Service de Renseignements)  tại Marseille [102]. Một vài số báo in roneo cũng đã được chuyển về Việt Nam và địa chỉ người đặt báo là hai thông dịch viên người Việt làm việc ở phủ toàn quyền tại Hà nội, mặc dù vậy Hồ nghi rằng hai người này thực chất làm việc cho phòng nhì Pháp [103]. Sau khi tờ Le Paria ra đời, Hồ có ít thời gian để làm việc tráng ảnh mà giành phần lớn thời gian để viết báo và hoạt động chính trị. Mặc dù chủ tiệm ảnh đã cảnh cáo Hồ, nhưng anh vẫn tham dự cuộc biểu tình ngày 1 tháng 5 và hệ quả là anh đã bị đuổi việc [104]. Sau đó anh có một thời gian kiếm sống bằng nghề sơn và trang trí cửa sổ, nhưng có lẽ nguồn thu nhập chính vẫn là từ làm việc cho tờ Le Paria. Nghiệp báo chí sau này đã trả thành nghề bên ngoài của anh trong suốt những năm tháng là nhân viên cộng sản bí mật của Quốc Tế III.

Đến năm 1922 Nguyễn Ái Quốc đã trở thành một nhà báo cộng sản thực thụ, với đề tài chính là những vấn đề thuộc địa và sự độc lập của Đông Dương. Ông tham dự Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng Sản Pháp tại Marseille vào tháng 12, 1921 cũng như lần hai tại Paris vào tháng 10, 1922. Trong lần sau có lẽ ông đã được vị khách mời từ Moscow, Dmitry Manuilsky  [105] để ý đến. Vào tháng 4 năm 1922 ông tham dự buổi họp của Hội Đồng Nghiên Cứu Thuộc Địa vừa thành lập bởi ĐCS Pháp trong hội nghị đầu [106]. Có thể trong thời gian này ông đã gầy dựng được mối giao hảo với các sinh viên hoạt động Trung Quốc ở Paris, nơi mà vào năm 1921, Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình đã hợp tác một tờ báo tiếng Hoa mang tên Thanh Niên tại một chung cư gần Place dʹItalie, gần Villa des Goblins. Hồ được cho là đã giới thiệu một vài người Trung Quốc thông thạo tiếng Pháp vào ĐCS Pháp, trong đó có hai con trai của nhà lãnh đạo ĐCS Trung Quốc Chen Duxiu [107]. Ta không biết được là vào thời điểm này Hồ có tham gia vào Đoàn Thanh Niên Cộng Sản hay không. Đến năm 1921 những người cộng sản Trung Quốc đã thiết lập liên lạc của họ với BerlinMoscow. Trong phần đông trong số 2.000 sinh viên Trung Quốc tại Pháp tham gia vào những chương trình thực tập, đa số sống tại các tỉnh hoặc trong các khu lao động ngoại ô Paris như Billancourt [108]. Trong khi đó Hồ đã tham gia quá sâu với những vấn đề thuộc địa và những hoạt động trong ĐCS Pháp.

Khó mà đánh giá được hiệu lực tuyên truyền của Hồ. Có rất ít bằng chứng về việc tờ Người Cùng Khổ (Le Paria) đã lưu hành tại Việt Nam, đặc biệt là trước 1925. Việc truyền đạt quan điểm của ông đến đồng bào mình ngày càng trở nên khó khăn. Số lính tráng và thợ thuyền người Việt tại Pháp đã đang vơi dầntính đến tháng 6 năm 1920 chỉ còn 19 nghìn người Đông Dương, so với 60 nghìn trong tháng 7 năm trước. Cho đến năm 1927 chỉ còn khoảng 2.670 người chính thức là cư dân tại Pháp [109]. Bộ Thuộc Địa và nhân viên mật thám của bộ này tại Marseille là Léon Josselme, đã trở nên lão luyện trong việc chặn đứng thư từ đi bằng đường biển (mặc dù họ có thể bị qua mặt khi những thứ này được dấu bên trong sách vở bình thường).  Độc giả của Hồ ngày càng giới hạn trong số những người Âu cánh tả và những đồng hương thuộc địa xa quê. Với ấn tượng về Albert Sarrat như là một Toàn Quyền cách tân, những người Pháp lẽ ra đã cảm thông với những vạch trần của Hồ cho rằng sự chỉ trích của ông đối với chính sách của Pháp là cường điệu. Vào tháng 11 năm 1921, cơ quan mật vụ tìm thấy trong phòng của Hồ một lá thư (không đề ngày tháng) của một viên chức của Liên Đoàn Nhân Quyền (Human Rights League), Gabriel Seailles. Ông ta viết rằng đã nhận được bản ʺYêu sách của nhân dân An Namʺ mà Hồ đã gửi cho hội đồng trung ương của Liên Đoàn. Họ đã trả lời sau khi hội ý với văn phòng của Sarraut.  ʺHọ nói rằng ông đã không đề cập đến những cải tổ của Ngài Sarraut,ʺ  Seailles  viết.

ʺChắc chắn là có một sự hiểu lầm ở đây. Những đề xướng của ông được trình bày quá tổng quát.

Tốt hơn là ông nên giải bày những khiếu nại của mình một cách cụ thể.ʺ Dù sao, Seailles cho rằng việc cải tổ hệ thống công lý thuộc địa đã được tiến hành; quyền tự do báo chí đã được cho phép; tự do giáo dục là vấn đề đang quan tâm của chính toàn quyền Sarraut  [110]. Trên thực tế những cách tân của Sarraut diễn tiến rất chậm, và những tự do mà người Việt được hưởng vẫn là những quyền lợi dành cho loại công dân hạng hai. Vào tháng 3 năm 1926 một bản yêu sách do Nguyễn An Ninh đưa ra tại Sài Gòn cũng đã nhắc lại một số điểm chính từ yêu sách của Hội Ái Quốc năm 1919 [111].

Bản thân Phan Chu Trinh cũng nản lòng vì không thể quay về được Việt Nam. Vào đầu năm 1922 ông kết luận rằng đây là thời điểm Hồ Chí Minh nên trở về nước. Nhờ những người bạn trong  Đảng  Xã  Hội,  Trinh  tìm  được  việc  làm  thợ  chụp  ảnh  tại  nhà  Đấu  Xảo  Thuộc  Địa  ở Marseille. Nhưng lá thư Trinh gửi cho Hồ vào tháng 2, 1922 cho thấy rằng ông không có một ảo tưởng tốt đẹp gì vào thịnh tình của người Pháp đối với đất nước ông, hoặc khả năng thay đổi thời cuộc của mình. Người sĩ phu già cho rằng kiến thức của Hồ sẽ phí hoài nếu ông ở lại Pháp. Thời điểm để đem những bài học về chủ nghĩa MarxLenin về Việt Nam để thử nghiệm đã đến. Ông viết với một tinh thần hoà giải:

Vì những bất đồng giữa hai chúng ta mà anh đã gọi tôi là một ʺhọc giả bảo thủ và lạc hậuʺ... Tôi không giận dữ tí gì về cái danh hiệu này, vì tiếng Pháp của tôi quá tệ và tôi không hiểu được thấu đáng những gì đã làm được trên mảnh đất văn minh này. Tôi là con ngựa già mệt mỏi không còn nhấc nổi vó; anh là một con tuấn mã đang hăng máu... Tôi gửi lá thư này vì hi vọng rằng anh sẽ lắng nghe và chuẩn bị cho kế hoạch vĩ đại của mình. Từ Đông sang Tây, từ thời cổ chí kim, chưa ai hành động như anh, cứ nán lại nước ngoài viện cớ là đất nước mình có quá nhiều cạm bẩy... Để thức tỉnh mọi người, để đồng bào ta đứng lên chống lại bọn xâm lược, điều rất cần thiết là ta phải có mặt ở đó... Bằng phương pháp của mình anh đã gửi bài viết đến báo chí ở đây nhằm khuyến khích những đồng hương cống hiến sức lực và tinh thần của họ. Điều này thật vô ích vì những đồng hương của chúng ta không đọc được tiếng Pháp hoặc ngay cả chữ quốc ngữ; họ không thể nào hiểu được những bài viết của anh! [112] 

Khó mà biết được rằng một người theo phong cách cũ như Phan Chu Trinh, ông vẫn viết lách bằng tiếng Hán, đã có những ảnh hưởng gì đến Hồ. Nhưng người ta có thể thấy rằng sau những phê bình trên, Hồ càng cố gắng hơn bao giờ hết để đem vấn đề thuộc địa đến trước công luận.

Báo cáo của mật vụ trong năm 1922 miêu tả ông làm một người ʺkhông biết mệt mỏiʺ. ʺNguyễn Ái Quốc tham gia vào hoạt động tuyên truyền cộng sản trong giới người Việt tại Paris,ʺ Pierre Guesde viết tại Hà Nội vào tháng 7; ʺvà anh ta đã đem hết sức lực để tham gia những buổi hội họp tại thủ đô và những vùng ngoại ôʺ [113]. Guesde còn lưu ý rằng Hồ đã gia nhập vào hội Freemason  (Một hội ái hữu bí mật, có thành viên trên khắp thế giới – ND). Ông liệt kê những cuộc họp mà Hồ đã tham gia trong tuần vừa qua:

Hai cuộc họp của Uỷ Ban Điều Hành của Đảng Xã Hội Cộng Sản;

Một buổi mítting ủng hộ cuộc Cánh Mạng Nga do Đảng Cộng Sản tổ chức tại Bagnolet;

Hai cuộc họp của hội Club du Faubourg, Salle Printania, Ave. de Clichy;

Một buổi tối tại Hội Masonry (Freemason ND) tại 94 Ave. de Suffern.

Bên cạnh đó, ông còn tìm đến một số toà soạn, đáng lưu ý là tờ LʹHumanité  (Nhân Đạo), tờ

Journal du Peuple và tờ La Bataille Syndicaliste.

Không bao lâu sau đó, Hồ và các nhà hoạt động Việt Nam bắt đầu thẩm định phương cách tiếp xúc với những thành viên đồng hương bình dân. Những bài viết trên những tờ Người Cũng Khổ và Nhân Đạo có mục đích hội tụ sự chú ý của những người trí thức Việt Nam, nhưng Phan Chu Trinh đã đúng khi chỉ ra rằng chúng chỉ vói được đến một số nhỏ trong số những người có tiềm năng ủng hộ họ. Quan điểm vận động đại trà của Quốc tế Cộng Sản III (Commintern)  và ĐCS Pháp cũng có thể đã ảnh hưởng những hoạt động của họ. Vào tháng 2 và tháng 5 năm 1923 thành phần cốt lõi của những nhà hoạt động người Việt bắt đầu thảo luận cương lĩnh mới. Đến cuối năm 1921 một trí thức trẻ người miền bắc là Nguyễn  Thế Truyền  đã tham gia cùng họ, Truyền nhanh chóng trở thành một trong những người hợp tác thân cận nhất của Hồ. Là con của một quan chức cấp huyện ở Nam Định, Truyền có bằng hoá học Pháp nhưng rõ ràng ông thiên về việc viết lách và báo chí hơn. Năm 1922 Truyền trở thành thành viên mới nhất của số 6 Villa des Gobelins và đến cuối năm đó bắt đầu làm việc cho tờ Người Cũng Khổ [114]

 

Photo 005

 

Vào tháng 2 năm 1923 Phan Văn Trường, Hồ và Trần Tiến Nam thảo luận việc tái tạo ʺHiệp Hội Huynh Đệʺ ngày xưa do Trường và Phan Chu Trinh khởi lập năm 1912. Mục đích là để lôi kéo những người lao động nghèo khổ Việt Nam tại Pháp, những  người mà theo Trường  là ʺlãnh đồng lương tồi tệ, thiếu ăn, thiếu ở và đôi khi còn bị giới chủ miệt thị...ʺ [115]. Phan Văn Trường được khuyên là không nên giữ chức chủ tịch vì quá khứ chính trị của ông có thể làm những thành viên mới e dè vì sợ sẽ bị trả thù. Trên thực tế, trong một buổi họp tại Công Đoàn Thuộc Địa Quốc Tế, Trường đã phát biểu về vấn đề Việt Nam, trong đó ông khẳng định ʺQuyền tự do và tự quyết chỉ hiện hữu một khi tất cả mọi người hiểu được sự cần thiết của chủ nghĩa cộng sản nhằm xoá bỏ chế độ người bóc lột người và đem đến bình đẳng trong quan hệ chủng tộcʺ [116]. Tại một  cuộc  họp  vào  tháng  4, Phan  Chu  Trinh  được  đề cử làm  chủ tịch,  nhưng  Phan  Văn Trường phản đối, một mực tuyên bố rằng ông không bao giờ làm việc chung với người đồng sự xưa của mình [117]. Vấn đề nan giải này được giải quyết ra sao thì không rõ.

Vào tháng 5 Hồ đích thân đăng quảng cáo kêu gọi đặt mua tờ báo bằng tiếng quốc ngữ có tên là Việt Nam Hồn. Tờ quảng cáo của ông hứa hẹn ʺÁ Châu, Âu Châu, Ấn Độ và Mỹ Châu được tổng hợp trong một tờ báo. Phụ nữ và trẻ em cũng có thể hiểu được.ʺ Nó sẽ là tờ báo ʺbằng chính ngôn ngữ của chúng ta để đồng bào ta có thể đọc được.ʺ Số đầu tiên ra khoảng 100 ấn bản. Địa chỉ đặt báo được gửi tới số 3 rue du Marché des Patriarches, văn phòng của tờ Người Cùng Khổ [118]. Đây có thể là dấu hiệu Hồ đã thật sự lắng nghe những phê bình của Phan Chu Trinh về phong cách viết báo chỉ cho giới trí thức của mình. Dường như ông không còn thời gian dành cho dự án mới này. Vào ngày 13 tháng 6, 1923 ông đột ngột biến mất khỏi Paris, và mãi đến mùa thu nhà cầm quyền  Pháp  mới thấy tên ông xuất hiện trên báo chí tại Moscow.  Nguyễn  Thế Truyền lên làm chủ bút tờ Việt Nam Hồn.

Ta không biết được chuyến đi Moscow của Hồ được tổ chức ra sao và ai là kẻ chủ mưu. Giả thiết rằng ông được phát hiện bởi những người tuyển mộ cán bộ tài giỏi cho Quốc tế Cộng Sản III như Manuilsky  tại đại hội ĐCS  Pháp  năm  1922  thì cũng  hợp lý. Nhưng  không  có vẻ việc Hồ đi Moscow như là một người được lựa chọn để phục vụ lâu dài trong Cộng Sản Quốc Tế III, như sẽ bàn đến trong chương sau. Cũng rất có thể là ông và các thành viên trong Công Đoàn Thuộc Địa Quốc Tế muốn trực tiếp tiếp xúc với Quốc tế Cộng Sản III để nhằm thúc dục ĐCS Pháp quan tâm hơn đến những vấn đề thuộc địa. Cũng có thể chính Hồ đã khởi sự chuyến đi này nhằm tìm kiếm phương tiện để quay lại Đông Dương với hậu thuẫn của Quốc tế Cộng Sản III (chương kế sẽ phân tích những tiếp xúc ban đầu của Hồ với Quốc tế Cộng Sản III.) Nhưng có vẻ là những nhà ái quốc Việt Nam tại Pháp đã chuẩn bị phối hợp hành động cho một kế hoạch nào đó. Sở Liêm phóng Pháp được tin rằng Phan Chu Trinh đang tìm cách quay về Paris từ Castres, nơi ông đã dời đến sau khi đột ngột bỏ việc tại Nhà Đấu Xảo Thuộc Địa tại Marseille [119]. Trinh viết thư mượn Hồ 340 quan cho chi phí đi lại và ăn ở đến khi ông có thể tìm được việc làm tại Paris. Nhưng bản thân Hồ cũng không dư giả gì và chẳng có ai trong số những người Việt đồng hương sẵn sàng cho vay số tiền, vì thế mà Hồ Chí Minh và Phan Chu Trinh đã bỏ lỡ cơ hội gặp nhau lần cuối [120].

Việc Hồ rời khỏi Paris đã được chuẩn bị cẩn thận. Vào đầu tháng 6 ông bắn tin rằng sẽ đi nghỉ lễ khoảng 8 ngày tại vùng Savoie với hội Club du Faubourg. Ông tâm sự với người quản gia ở số 6 Villa des Gobelins rằng ông mơ ước được đi thăm vùng núi Thụy Sĩ, nhưng không muốn bị bẽ mặt nếu bị khước từ hộ chiếu. Rồi vào ngày 15 tháng 6 mật vụ ʺDésiréʺ báo cáo rằng ngày 13 Nguyễn Ái Quốc đã rời khỏi nhà mà không mang theo hành lý. Bạn bè ông nghĩ rằng kỳ nghỉ của ông sẽ ngắn ngủi. Công việc tại Công Đoàn Thuộc Địa được đặc trách bởi Monnerville người đảo Martinique (thuộc địa của Pháp tại vùng biển Caribe-ND). Trong cuộc họp sáu người của nhóm Người Cùng Khổ vào cuối tháng 6, không ai trong họ kể cả Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền tình nguyện xúc tiến việc in báo. ʺHọ quyết định hoãn lại đến khi Nguyễn Ái Quốc quay về,ʺ Désiré báo cáo [121]. Vào cuối mùa hè Phan Chu Trinh viết thư cho Nguyễn Văn Ái, tên thật của mật vụ de Villier, buộc tội hắn về việc Quốc mất tích. (Ái đã trở thành một thành viên quan trọng của nhóm Người Cùng Khổ, nhưng lốt mật vụ của hắn bị Trinh khám phá.) 

Cho dù Nguyễn Ái Quốc còn trẻ và thiếu chững chạc, điều này không quan trọng vì anh ấy thực lòng yêu nước. Anh ấy từ bỏ gia đình lưu vong đến tận châu Âu và Mỹ, làm việc cật lực để học hỏi mà không một ai giúp đỡ... Dù anh ấy có lỗi lầm hay không, việc ấy không thành vấn đề, bởi vì tất cả người Việt đều trân trọng tấm lòng đầy nhiệt huyết của anh ấy... Ai muốn theo anh ấy thì để họ theo, và ai không muốn thì cũng để yên cho anh ấy làm công việc của mình.

Tại sao anh lại phản bội anh ấy bằng những hành động hèn hạ và nham hiểm của mình? Anh ấy tin anh như anh em ruột... tại sao anh lại muốn gây khó khăn cho anh ấy? Tôi muốn anh nói sự thực, anh đã xúi giục anh ấy đi đâu? [122]

Chính bản thân Albert Sarraut đã ký bức điện mật được gửi vào ngày 11 tháng 10, 1923 đến Thống Sứ Hà Nội để báo với ông này rằng đã tìm thấy dấu vết của Nguyễn Ái Quốc ở Moscow. Bloncourt, một đồng sự người Dahomey (thuộc địa của Pháp ở Tây Phi, giờ là Benin ND) đã giúp trả chi phí chuyến đi bằng quĩ của Công Đoàn Thuộc Địa Quốc Tế, một mật vụ báo cáo [123]. Đến tháng 11 có tin đồn rằng Hồ sẽ sớm trở về Paris [124]. Phan Văn Trường đã sắp đặt để trở về Việt Nam vào giữa tháng 12 nhưng ông đã hoãn ngày đi vì hi vọng rằng Hồ sẽ quay về với tin tức mới từ Moscow. Cuối cùng vào ngày 23 tháng 12, Trường không thể chờ đợi được nữa và đã khởi hành, đem theo một số ấn bản của tờ Người Cùng Khổ [125]. Hồ Chí Minh và hai chí sĩ họ Phan không bao giờ gặp lại nhau.

Trong cuộc đời chính trị mới mà Moscow đã mở ra cho Hồ Chí Minh, ông vẫn giữ lại những yếu tố cơ bản đã giúp ông trong thời gian hoạt động tại Paris. Một trong số đó là cơ cấu Marxist Leninist được xử dụng để ông công kích chủ nghĩa thuộc địa. Vấn đề này sẽ được bàn chi tiết ở chương sau. Nhưng ta nên nhớ rằng bên cạnh quan điểm cấp tiến mới mẻ ông vẫn mang đặc tính của tinh thần yêu nước và trách nhiệm của Khổng giáo, những đặc tính đã khiến thân phụ của ông chống đối người Pháp trước đây. Hồ đang bước vào môi trường chủ nghĩa quốc tế của Cộng Sản Quốc Tế III, nhưng ông vẫn bắt rễ vào truyền thống yêu nước của người Việt những tình cảm gia đình và quê hương mà trước đây chúng đã nối kết ông với Phan Chu Trinh, Cường Để và Phan Bội Châu tại Trung Quốc, và có lẻ tới cả thân phụ ông, người mà giờ đây đã trở nên lập dị, lang thang từ ngôi chùa này đến ngôi chùa khác ở xứ Nam Kỳ [126]. Khi rời khỏi Paris, mối quan hệ của ông với những người cánh tả như Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền đã trở nên chặt chẽ hơn bao giờ, và ông đã dựa trên những quan hệ đó khi trở thành phái viên của Quốc tế Cộng Sản III tại Quảng Đông sau này.

Có phải Hồ Chí Minh vào năm 1923 là một nhân vật đã có quan điểm chính trị rõ ràng hay không? Tôi muốn đưa ra lập luận rằng có rất nhiều dấu hiệu cho thấy rằng quan điểm của ông về thế giới đã hình thành từ những gì ông đã trãi qua với người Pháp từ thuở thiếu thời, từ thất bại của ông tại Hội Nghị Hoà Bình Paris, và từ những hiểu biết trước đó của ông về những quan điểm của Lenin về chủ nghĩa đế quốc. Và ông cũng đã bắt đầu bày tỏ sự uyển chuyển trong đường lối của một nhà chính trị thực dụng. Mặc dù ông đã gia nhập hội Freemason với mục đích nới rộng giao tiếp với những tầng lớp thế lực trong xã hội Pháp, sau này ông đã chấp hành nghị quyết từ Đại Hội lần 4 của Quốc tế Cộng Sản III là các đảng viên phải cắt đứt liên hệ với hội Freemason cũng như Liên Đoàn Nhân Quyền Pháp [127]. Việc thiếu tính kiên định về lý tưởng mà một số người có thể cho là xảo quyệt là một đặc điểm đã giúp Nguyễn Ái Quốc / Hồ Chí Minh sống sót trong những năm tháng ở Quốc tế Cộng Sản.

 

CHƯƠNG 2:

THÀNH VIÊN QUỐC TẾ CỘNG SẢN (19234)

Những tiếp xúc đầu tiên tại Moscow

Hồ Chí Minh đến Petrograd (giờ lại là St. Petersburg) bằng đường thuỷ vào ngày 30 tháng 6 năm 1923 từ Cảng North Sea của Hamburg. Mạng lưới Quốc tế Cộng Sản (QTCS) tại Berlin cung cấp cho ông giấy thông hành Nga với cái tên là Chen Vang [1]. Ông đến Nga vào đúng thời điểm mà những ảo tưởng cách mạng của những người lãnh đạo Bolshevik đã chấm dứt. Nền kinh tế bị kềm toả bởi đấu tranh cộng sản đã đã dẫn đến việc chống đối của nông dân ở khắp nơi trong năm 1921; mọi nỗ lực nhằm kích động một cuộc cách mạng tại những quốc gia phát triển tại châu Âu đều bị thất bại. Khi một cố gắng để tiến hành cuộc cách mạng lần thứ hai tại Đức xảy ra vào tháng 10 năm 1923, chỉ vài tháng sau khi Hồ đến Moscow,  nó đã được tầng lớp lao động Đức hưởng ứng một cách lạnh nhạt. Lời hứa hẹn sôi nổi của Trotsky năm 1919, rằng ʺThời điểm của nền chuyên chế vô sản tại châu Âuʺ sẽ là thời điểm giành tự do cho ʺnhững nô lệ thuộc địa tại châu Phi và châu Áʺ [2], nghe có vẻ trống rỗng đối những nhà hoạt động thuộc địa đã hết kiên nhẫn vào cuối năm 1923. Ngoài ra, Lenin, nhà lãnh đạo tối cao của cuộc Cách Mạng Tháng Mười, đang nằm liệt giường vì một cơn đau tim vào tháng 12 1922. Vào thời điểm Hồ đặt chân đến thủ đô cộng sản này, những lý thuyết căn bản về thế giới đại đồng đang bị xét lại và một cuộc khủng hoảng trong hàng ngũ lãnh đạo vừa mới bắt đầu. Thời gian từ cuối cuộc Nội Chiến năm 1921 cho đến khi Stalin củng cố quyền lực năm 1929 đã trở thành khoảng  thời gian mà Stephen Cohen (nhà Nga học người Mỹ ND) gọi là ʺthời điểm gây tranh luận nhiều nhất trong lịch sử đảngʺ [3].

Nguyên  nhân chính thức mà Hồ được mời đến Nga là Hội Nghị Nông Dân Quốc Tế lần thứ nhất, được khai mạc tại cung Andreyev  trong điện Kremlin ngày 10 tháng 10, 1923. Hội nghị đánh dấu sự ra đời của ʺNông Dân Quốc Tế ʺ hay còn gọi là Krestintern, một tổ chức nhằm tập trung những người lãnh đạo của các nông hội thiên tả từ châu Âu, châu Á và Mỹ. Nó được thiết lập như một tổ chức hợp pháp bao gồm những thành phần không cộng sản, nhưng sự liên hệ giữa nó và Moscow chẳng bao giờ được che đậy. Trong danh sách của những diễn giả đến tỏ lời chào mừng và đoàn kết trong ngày thứ hai của đại hội có một người tên là ʺMiguelalKvakʺ  đến từ Đông  Dương  [4] (tên Việt khi chuyển  sang  tiếng  Nga thường  nghe  không  chính  xác lắm, nhưng trong trường hợp này thì lại hay). Hồ không muốn phí thời gian với những lời chúc tụng xã giao: ông đi thẳng vào vấn đề với một giới thiệu ngắn về tình trạng của nông dân ở những thuộc địa Pháp. ʺCác bạn là những nông dân từ châu Âu và châu Mỹ. Các bạn bị bóc lột như những nông dân,ʺ ông nói với các đại biểu, ʺNhưng những người như chúng tôi ở những thuộc địa Pháp bị bóc lột gấp đôi, như những nông dân và như những dân tộc bị chinh phục,ʺ ông nói.

ʺMột người chủ da trắng có thể đến yêu cầu chính phủ, và những làng mạc liền bị sung công, làng mạc mà cha ông chúng tôi và cả chúng tôi đang sinh sống và trồng trọt” [5] Ông muốn bảo đảm rằng nghị quyết chống chiến tranh được thông qua bởi Đại Hội phải đề cập đến vấn đề áp bức thuộc địa, bằng cách đưa ra một điều khoản bổ xung trong đó nói lên ʺtầng lớp nông dân của các thuộc địa là thành phần rất quan trọng trong những vấn đề về chiến tranh và hoà bìnhʺ [6]. Tại cuộc họp tiền hội nghị, Hồ được bầu vào Đoàn Chủ Tịch của Nông Dân Quốc Tế gồm mười một thành viên, cùng với một người Nhật tên Ken Hayasho [7].

Việc thành lập Nông Dân Quốc Tế phản ánh sự chuyển hướng thoả hiệp với giai cấp nông dân Nga, cũng là vấn đề then chốt trong Chính Sách Kinh Tế Mới của Lenin. Được viết vào tháng 3, 1923, Chính Sách Kinh Tế Mới thay thế việc trưng thu lúa gạo bằng chính sách thuế nhẹ và cuối cùng  sẽ hoàn  chỉnh  việc  quay  lại thể chế  tư bản thị trường  cho  những  ngành  nông  nghiệp, thương nghiệp và tiểu công nghiệp. Đến tháng 8 năm 1923 chính sách đã thành công đến nỗi Moscow đã tổ chức một cuộc triển lãm nông nghiệp rầm rộ nhằm chứng tỏ nền kinh tế nước nhà đã được tái ổn định. Những lãnh đạo thiên tả nước ngoài đến xem triển lãm được mời ở lại để dự hội nghị nông dân.

Sự ra đời của Nông Dân Quốc Tế còn là kết quả trực tiếp của quá trình chuyển hoá của chính sách mặt trận thống nhất của QTCS. Việc tái xác nhận liên hiệp côngnông  tại Nga mà Chính Sách Kinh Tế Mới đã đưa ra tín hiệu được kèm theo bởi những thay đổi dần trong thái độ của những người Bolshevik đối với những đồng minh quốc tế. Không có hi vọng gì từ giai cấp công nhân ở châu Âu. Người Nga đang thúc dục QTCS thừa nhận ʺgiai cấp nông dân thế giớiʺ như là những đồng chí trong hành trình tiến đến chủ nghĩa xã hội. Tại đại hội Đảng Bolshevik lần thứ

12 vào tháng 4 năm 1923, Bukharin đưa ra quan điểm rằng nông dân tại các nước thuộc địa là

ʺkho dự trữ khổng lồ cho lực lượng cách mạngʺ [8]. QTCS đã thành lập Uỷ Ban Nông Nghiệp vào năm 1923, sau đại hội lần 4 vào cuối năm 1922. Nhiệm vụ của Uỷ ban là ʺtheo dõi và củng cố châm ngôn của chính thể công nông trong trong các đảng pháiʺ [9]. Châm ngôn này biểu hiện việc những người Bolshevik đã chấp nhận thực tế: trong một thế giới đầy thù địch, nước Nga Xã Hội Chủ Nghĩa cần nhiều đồng minh hơn là chỉ một giai cấp vô sản của tư bản phương Tây. Mặc dù công nhân vẫn được hiểu theo định nghĩa kinh điển của Marx là lực lượng tiên phong của cách mạng, nhưng cũng có thể sửa đổi huấn điều của Marx để kêu gọi ʺNông dân và công nhân toàn thế giớiʺ đoàn kết lại [10]. Ủy Ban Nông Nghiệp của QTCS tổ chức Hội Nghị Nông Dân Quốc Tế vào tháng 10 dẫn đến việc Hồ Chí Minh đến Moscow.

Hồ Chí Minh dự tính ở Nga trong ba tháng. ʺVì lý do này hay lý do khác, ngày trở về của tôi cứ bị dời từ tuần này đến tuần khác, tháng này đến tháng khác,ʺ Ông viết trong một lá thư gửi cho một người đồng chí [11]. Mục đích chính của ông khi đến Moscow dường như là để kêu gọi mọi người quan tâm đến khiếm khuyết của Hội Đồng Nghiên Cứu Thuộc Địa của ĐCS Pháp mà sau này trở thành Ủy Ban Thuộc Địa của đảng. Trên thực tế vào tháng 7 năm 1923 ông đã đưa ra một báo cáo chi tiết về những  nhược  điểm này đến Ủy Ban Đông Dương  của Cục Đông Phương thuộc QTCS, điều này tôi sẽ bàn thêm ở dưới [12]. Bao gồm Grigory Voitinsky, Voja Vujovic và Boris Souvarine, Ủy Ban Đông Dương có vẻ như là cơ quan hợp lý nhất để giải quyết những vấn đề của mảnh đất thuộc địa láng giềng với Java [13]. Voitinsky đã giúp thành lập Đảng Cộng Sản Trung Quốc năm 1920 [14] và trở thành đại diện của QTCS tại Thượng Hải vào tháng 4 1924 [15]. Cũng như Mikhail Borodin, ông đã sống lưu vong mấy năm ở Mỹ. Hồ giữ mối liên hệ khắn khít với Voitinsky ít nhất là đến năm 1927, khi cả hai phải rời Trung Quốc.

 

Photo 007

 

Từ những liên lạc với QTCS ở Moscow, rõ ràng là khi vừa đặt chân đến thủ đô nước Nga ông đã yêu cầu được giúp đỡ để quay về lại Đông Dương qua ngõ Trung Quốc. Trong một lá thư đầy bực dọc gửi cho một ʺcamaradesʺ (đồng chí ND) vô danh vào tháng 3 năm 1924 (ngày tháng đề trong thư không rõ, nhưng  hàm ý của ông về chín tháng tại Nga cho thấy nó được viết vào khoảng tháng 3), ông viết: ʺKhi đến Moscow, họ đã đồng ý là sau khi ở đây ba tháng, tôi sẽ đi Trung Quốc để bắt liên lạc với những người trong nước mình. Giờ tôi ở đây đã qua chín tháng và đã chờ đợi suốt sáu tháng mà quyết định về chuyến đi của tôi vẫn chưa có. Tôi cảm thấy thật vô ích khi thảo luận ở đây về những phong trào cách mạng quốc gia mới hay cũ, về sự tồn tại hay không của những đảng công nhân, hay về những tổ chức hoạt động bí mật khác, bởi vì tôi không có ý định trình bày một luận án gì cho đồng chí cả; tôi chỉ muốn đồng chí cảm thấy việc cần thiết phải nghiên cứu MỌI THỨ một cách chính đáng, và nếu KHÔNG CÓ GÌ, thì hãy tạo ra MỘT CÁI GÌ (chữ in lớn trong bản gốc).ʺ Cùng với bốn mục tiêu của chuyến đi ông còn liệt kê ʺđể thiết lập liên hệ giữa Đông Dương và Quốc Tếʺ, và ʺđể tổ chức cơ sơ thu thập thông tin và tuyên truyềnʺ. Ông yêu cầu một ngân sách khoảng 100 Đôla Mỹ mỗi tháng cho phí tổn đi lại, liên lạc, mua sách báo, ăn ở; ngoài ra ông còn yêu cầu chi phí cho chuyến đi từ Nga về Trung Quốc [16]. Phải đến Đại Hội QTCS lần thứ 5 vào tháng 5 năm 1924 mới có quyết định chắc chắn để gửi Hồ đi Quảng Châu [17]. Có vài lý do vì sao QTCS và Cục Đông Phương lại chậm trễ trong việc giao phó một công việc cụ thể cho Hồ. Trước tiên, kế hoạch giúp đỡ của Nga cho Tôn Dật Tiên chỉ mới vừa hình thành sau khi Mikhail Borodin đến Quảng Châu vào mùa thu năm 1923. Những sĩ quan giảng dạy cho quân đội Quốc Dân Đảng đã chưa đến Quảng Châu cho tới tháng 6, 7 và tháng 10 năm 1924 [18]. Hơn nữa, khi việc chuẩn bị cho Đại Hội lần 5 bắt đầu, những người lãnh đạo QTCS rõ ràng là đang bận rộn với hậu quả của cuộc nổi dậy không thành tại Đức, và lẽ đương nhiên, việc này cấp bách hơn nhiều so với vấn đề Đông Dương. Cũng có thể là những quan chức trong QTCS muốn giữ Hồ lại Moscow để đánh giá Hồ và để điều tra những quan hệ chính trị của ông.

Việc triển khai chính sách đối với những nước thuộc địa của Quốc tế Cộng Sản

Đến khi Hồ đặt chân đến Nga, Quốc tế Cộng Sản đã phát triển từ một liên hiệp lỏng lẽo của những đại diện của các đảng cộng sản và đảng cánh tả thành một bộ máy quyền lực bền vững tại Moscow, ngày càng ảnh hưởng bởi những thay đổi chính trị trong nội bộ nước Nga. Bắt đầu từ Đại Hội 4 (5 tháng  11 đến 5 tháng  12, 1922),  Ủy Ban Trung  Ương  QTCS  được bầu chọn bởi những đại biểu thay vì những đảng thành viên. Mục đích là để biến QTCS trở thành một ʺđảng thực sự tập trung, đoàn kếtʺ [19]. Khi mới thành lập vào năm 1919, những thành viên người Nga đã không lũng đoạn mấy trong những quyết định của đảng, mặc dù trong số 52 đại biểu có mặt trong đại hội, chỉ có bảy người là ngoài nước Nga. Ba thành viên xã hội người châu Á sống tại Nga tham gia Đại Hội 1 là: Liu Shaozhou và Zhang Yongkui thuộc Liên Hiệp Công Nhân Trung Quốc, và một người Triều Tiên được biết như Đồng chí Kain đại diện cho Liên Đoàn Công Nhân Triều Tiên [20]. Cũng có một nhóm đại diện cho những  khu vực Trung Á thuộc đế chế Nga Hoàng trước đây. Bukharin chỉ ra trong một bài viết trên báo Sự Thật (Prava ND) rằng ủng hộ những thuộc địa bị áp bức trong cuộc đấu tranh giải phóng của họ là một trong những điều nổi bật của chủ nghĩa cộng sản mới hay Quốc Tế III so với chủ nghĩa dân chủ xã hội hay Quốc Tế II.

ʺKhông phải tình cờ mà trong kì đại hội đầu tiên của QTCS chúng ta được nghe phát biểu bằng tiếng Hoa,ʺ ông viết [21]. Nhưng rồi ba đại biểu đông Á, đều sống tại Nga, chỉ được quyền bầu dưới dạng tham vấn, trong khi cả nhómʺLiên Hiệp Các Dân Tộc Phương Đông tại Ngaʺ chỉ được bầu chung một phiếu [22]. Vị thế thấp bé của những người châu Á tại đại hội 1919 phản ánh quan điểm rằng cuộc cách mạng tại châu Âu là không thể tránh khỏi và vì thế nó quan trọng hơn cuộc đấu tranh giải phóng của các thuộc địa. Như Trosky đã nói trong bản Tuyên Ngôn QTCS, đề cập đến ʺgiai cấp vô sản trên toàn thế giớiʺ, ʺviệc giải phóng các thuộc địa chỉ có thể xảy ra cùng lúc với việc giải phóng giai cấp công nhân bên trong các nước đế quốc. Tầng lớp công nhân và nông dân, không những tại Annam, Algeria và Bengal, mà còn tại Persia và Armenia, sẽ có được cơ hội giành độc lập chỉ khi nào giai cấp công nhân tại Anh và Pháp hạ bệ Lloyd George và Clemenceau (Thủ tướng Anh và Pháp ND) và giành chính quyền về tay của họʺ [23].

Cương lĩnh đầu tiên cho cái mà QTCS gọi là ʺnhững nước thuộc địa và bán thuộc địaʺ đã được vạch ra vào Đại Hội 2 năm 1920. Cương lĩnh này do Lenin soạn thảo, đã trở thành Luận Cương về Những Vấn Đề Dân Tộc và Thuộc Địa (Hồ đã đọc bản thảo đầu trên tờ Nhân Đạo vào tháng 7 năm 1920]. Nó được tranh cãi sôi nổi tại uỷ ban thuộc địa tại Đại Hội và cuối cùng đã được thông qua, với rất nhiều chỉnh đổi, như là cương lĩnh chính thức của QTCS. Vì cương lĩnh này bao gồm những vấn đề chính trị trọng yếu của sự nghiệp cộng sản của Hồ Chí Minh, nên việc phân tích tranh luận nảy sinh trong QTCS là rất cần thiết. Sự tranh chấp này đã lặp lại trong nhiều giai đoạn dưới những hình thức khác nhau trong những đảng cộng sản châu Á ít nhất là đến thập niên 70. 

Con người Lenin khi thảo Luận Cương đã cẩn tắc hơn Lenin vào năm 1917. Mặc dù cương lĩnh của ông không  phải là những  hướng  dẫn chính xác nhất nhưng  nó vẫn là nguồn  gốc của lý thuyết về mặt trận thống nhất đã được thực hành một cách thành công bởi những người cộng sản Trung Quốc và Việt Nam vào thời điểm Chiến Tranh Thế Giới thứ II bắt đầu. Chính vì sau khi đọc Luận Cương vào mùa hè 1920 trên tờ Nhân Đạo, Hồ Chí Minh cho rằng mình đã trở thành một người Leninist chính thống [24]. Khi nó được công bố với những sửa đổi sau cuộc tranh luận tại Ủy Ban Thuộc Địa của Đại Hội, kèm theo những điều khoản hơi mâu thuẫn của Mahendra Nath Roy thuộc đảng cộng sản Ấn Độ, nó đã để nhiều chỗ trống để có thể hiểu theo những cách khác nhau. Nhưng nó vẫn được xem là một yếu tố quan trọng của lý luận Marxist Leninist trong suốt nhiều năm. Mặc dù một cương lĩnh mới, cấp tiến hơn về những nước thuộc địa được  Otto Kuusinen  đưa ra tại Đại Hội 6 QTCS  vào năm 1928, ông vẫn muốn  cho rằng cương lĩnh của mình là sản phẩm của Luận Cương Lenin 1920 mà ông cho là vẫn có đầy đủ giá trị của ʺnhững đường lối của các đảng cộng sảnʺ [25].

Luận cương của Lenin đưa ra tầm quan trọng của các nước thuộc địa trong bối cảnh của cách mạng toàn cầu. Chúng là khai triển hợp lý của ông về những phân tích về chủ nghĩa tư bản trên thế giới trong cuốn Về Chủ Nghĩa Tư Bản, xuất bản năm 1917. Lenin lý luận rằng, là nguồn tài nguyên của nguyên liệu thô và sức lao động rẻ tiền, những nước thuộc địa rất quan trọng đối với quyền lực của chủ nghĩa tư bản phương Tây. Nếu giai cấp công nhân phương Tây liên minh với những dân tộc bị áp bức tại các thuộc địa để giúp họ giành độc lập, Lenin lập luận, họ sẽ đánh một đòn chí mạng vào kẻ thù của chủ nghĩa cộng sản.

Khía cạnh quan trọng thứ hai của Luận Cương là trong giai đoạn đầu, giai đoạn tư sản dân tộc của cuộc cách mạng thuộc địa, những người cộng sản phải bắt tay với những đảng phái quốc gia, vì giai cấp vô sản thuộc địa không đủ lớn mạnh để đơn phương tiến hành cách mạng. Chỉ sau khi cách mạng tư sản đã đạt được mục đích của nó giành độc lập quốc gia và chấm dứt chế độ phong kiến ở nông thôn thì cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa do giai cấp công nhân lãnh đạo mới có thể bắt đầu. Lenin cho rằng nếu giai cấp công nhân tại những thuộc địa vừa được giải phóng được các quốc gia cộng sản phát triển giúp đỡ, họ có thể bỏ qua thời kỳ chủ nghĩa tư bản và tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Điều này có vẻ như một lập lại của lý thuyết ʺcon đường riêngʺ của những người theo phái Dân Tuý tại Nga.

Những đại biểu châu Á lẫn châu Âu có vẻ không quán triệt lắm với quan điểm rằng cộng sản cần liên minh với tư sản dân tộc trong các phong trào giành độc lập. Những người dân chủ xã hội thuộc Quốc Tế II được cho là những nhà cải cách không đáng tin cậy, luôn sẵn sàng thoả hiệp với giai cấp tư bản cầm quyền. Việc họ ủng hộ các chính sách chủ chiến của các chính phủ trong trong Chiến Tranh Thế Giới thứ Nhất bị những người xã hội cấp tiến thành lập Quốc Tế III cho là đã phản bội tinh thần quốc tế. Cuối cùng các đại biểu đã thuyết phục Lenin sửa đổi cụm từ ʺnhững phong trào tư sản dân tộcʺ thành ʺnhững phong trào cách mạngʺ [26]. Có những đoạn văn được chêm vào phiên bản hoàn tất của Luận Cương để giảm nhẹ chiến lược mặt trận thống nhất để vừa lòng các đại biểu. Ví dụ như trong điều khoản 11a kêu gọi các đảng cộng sản ʺủng hộ bằng hành độngʺ phong trào cách mạng giải phóng trong ʺnhững đất nước có những đặc tính lạc hậu, phong kiến, địa chủ hoặc địa chủnông dânʺ, một điều kiện đã được thêm vào: ʺHình thức ủng hộ phải được thảo luận trước với Đảng Cộng Sản của đất nước ấy, nếu đảng ấy hiện hữuʺ [27]. Nhưng nó vẫn không che đậy được thực tế là Lenin chấp nhận việc các đảng viên cộng sản có thể phân tán tạm thời trong cuộc đấu tranh giai cấp theo học thuyết  Marxist  tại những đất nước ʺlạc hậuʺ này. Thành viên cộng sản người Hà Lan ʺMaringʺ (Henk Sneevliet) trở thành công cụ để thuyết phục các đại biểu. Kinh nghiệm tổ chức của ông tại Java trong thời kỳ Chiến Tranh Thế Giới thứ Nhất, khi những  người xã hội cấp tiến hợp tác với đảng quốc gia Sarekat Islam để chống lại Hà Lan, đã trở thành kiểu mẫu cho chiến lược của QTCS tại Trung Quốc. Phương pháp của ông vô cùng thực dụng: Các lực lượng tư sản và cộng sản phải hợp tác với nhau trong các nước thuộc địa, vì những người cộng sản không đáng kể mấy nếu đứng một mình [28].

Bản Bổ Sung cho Luận Cương về Các Vấn Đề Dân Tộc và Thuộc Địa do M.N. Roy (thuộc Ấn Độ ND) soạn cũng được thông qua bởi Ủy Ban Thuộc Địa tại Đại Hội 2 dưới dạng bổ túc. Việc nhấn mạnh sự khác biệt giữa giai cấp tư sản thuộc địa và công nhân trong Luận Cương của Roy rõ ràng là đã mâu thuẫn với lý luận của Lenin. Lenin bỏ lửng ý tưởng của mình trong một phạm vi nhất định để mọi người có thể hiểu theo cách riêng vì không muốn phật lòng một đồng minh quí báu từ mảnh đất thuộc địa lớn nhất của Anh Quốc. Sự khác biệt của Roy so với đường lối của Lenin được thể hiện rõ trong điều khoản 7: ʺTrong các quốc gia độc lập hiện hữu hai phong trào dị biệt ngày càng cách xa nhau. Một bên là phong trào tư sảndân chủ quốc gia, với phương trình chính trị độc lập dưới sự lãnh đạo của giai cấp tiểu tư sản, và bên kia là khối hành động của tầng lớp nông dân và công nhân nghèo khổ bị bỏ rơi nhằm giải phóng họ khỏi mọi áp bức. Tầng lớp thứ nhất luôn cố gắng kiềm chế tầng lớp sau và thường thành công trong một mức độ nào đó. Nhưng Quốc tế Cộng Sản và các đảng phái liên minh phải đấu tranh chống lại việc này và giúp nâng cao ý thức giai cấp cho khối quần chúng của giai cấp công nhân thuộc địa.ʺ Trong những phiên bản khác của bài viết có một đoạn được thêm vào như là một thoả hiệp: ʺTrong bước tiến đầu tiên của cuộc cách mạng thuộc địa lật đổ chế độ tư bản ngoại quốc việc hợp tác với những phần tử cách mạng tư sản dân tộc là hữu íchʺ [29].

Maring, chủ tịch Ủy Ban Thuộc Địa tại Đại Hội, đã tìm cách xoa dịu được mối mâu thuẫn có thể thấy là rất hiển nhiên này. Ông lập luận rằng cả hai Luận Cương của Lenin và Roy đều ʺmang cùng một ý nghĩaʺ: ʺVấn đề là việc tìm ra phương cách đúng đắn trong mối quan hệ giữa hai phong trào cách mạng quốc gia và xã hội trong những nước lạc hậu và thuộc địa. Trên thực tế vấn đề này không hề tồn tại. Việc quan trọng là ta phải hợp tác với những lực lượng cách mạng quốc gia, và chúng ta chỉ làm phân nửa công việc nếu chúng ta phản đối phong trào này và tỏ ra là những nhà Marxist giáo điềuʺ [30]. Con người thực dụng Maring đã bỏ qua những trở ngại hiển nhiên trong giải pháp của mình. Allen Whiting (Giáo Sư Chính Trị Học người Mỹ ND) chỉ ra rằng sự thoả hiệp này chỉ là một giải pháp mong manh mà sau này đã phá huỷ mặt trận thống nhất tại Trung Quốc: ʺNhững từ chương phức tạp của những giải pháp đa dạng đã phục vụ như một thứ bình phong  tạm bợ, che đậy mối mâu thuẫn giữa những  chiến lược cách mạng của Lenin và mối thù của những người châu Á đối với những kẻ bóc lột họ. Nếu mâu thuẫn này không được giải quyết, chiến lược ʺmặt trận thống nhấtʺ ở Trung Quốc không những chỉ đối diện với sự nghi ngờ từ cánh Hữu mà còn cả thái độ mơ hồ của cánh Tảʺ [31]. Điều không tránh khỏi là những mặt trận thống nhất dựa trên Luận Cương của Lenin chỉ là một hiện tượng nhất thời. Chúng không xoá bỏ được những dị biệt về tư tưởng giữa những người cho rằng sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản là một quá trình hữu cơ cần có đủ thời gian để hoàn tất và những người như Lenin vào năm 1917, muốn đẩy nhanh việc thay đổi bằng bạo lực.

Vị trí của Hồ Chí Minh tại Quốc tế Cộng Sản

Mặc dù Quốc tế Cộng Sản đã tăng cường mối quan tâm đến giai cấp nông dân, khi Hồ Chí Minh đến Moscow tháng 7 năm 1923, báo cáo của ông về các hoạt động phản đế tại Pháp đã phê phán nặng nề cơ quan này.Trong khi những người Cộng Hoà Trung Quốc đang được các nhà ngoại giao và đặc sứ của Nga ve vãn, mảnh đất thuộc địa Pháp xa xôi rõ ràng là không thu hút được mối quan tâm của Nga. Cuối cùng chuyến đi của Hồ trở về châu Á do QTCS bảo trợ trở thành hiện thực có thể là vì nó nằm trong chương trình hổ trợ của Nga dành cho Cộng Hoà Trung Hoa. Về mọi phương diện, khi đến Moscow Hồ vẫn hành xử như một đại diện của Công Đoàn Thuộc Địa ở Paris, và có thể đã soạn bản báo cáo chung với những đồng nghiệp trong Công Đoàn. Ông than phiền rằng Luận Cương về Các Vấn Đề Dân Tộc và Thuộc Địa đã dấy lên mối trông chờ trong các thuộc địa rằng QTCS sẽ giúp giải phóng họ. Nhưng cho đến nay những Luận Cương này chỉ là ʺvật trang hoàng trên giấyʺ, ông viết. Mặt khác Luận Cương cũng đã làm cho những nhà nước thống trị tăng cường nỗ lực trong chính sách tuyên truyền ngu dân và đàn áp trong khi đó lại không có được bất cứ hành động nào từ các ĐCS Pháp và Anh [32], ông cho biết.Những cơ hội để giúp đỡ các phong trào thuộc địa như vụ đình công tại Martinique và cuộc khởi nghĩa ở Dahomey đã bị bỏ lỡ, ông nói. ʺThật là mỉa mai và buồn thay cho những người anh em bất hạnh Dahomey của tôi, trong bóng tối của những nhà tù văn minh, khi phải đọc mục thứ 8 của bản 21

Điều Kiện (để tham gia QTCS), trong đó nói rằng ʹmỗi đảng bộ có nhiệm vụ thi hành hệ thống tuyên truyền cho lực lượng trong nước mình chống lại sự đàn áp dân chúng thuộc địa; và phải ủng hộ phong trào giải phóng trong các thuộc địa bằng lời nói và việc làm.”

Cái chết của Lenin trong tháng Giêng lạnh giá năm 1924 đã mở ra một thời kỳ mới của việc đấu tranh bè phái trong nội bộ QTCS. Hoà chung dòng người đứng đợi hàng giờ dưới trời đông để viếng nhà lãnh đạo tối cao vừa qua đời, mũi và các ngón tay của Hồ bị lở loét vì cóng [33]. Việc bày tỏ lòng thành này đã giúp cho tương lai chính trị của Hồ. Trong những tháng năm kế ông đã tìm cách để tránh bị nhận diện là thuộc hạ của Leon Trotsky  lúc ảnh hưởng của ông này tại Kremlin đã bắt đầu đi xuống và Lenin rút khỏi hoạt động chính trường. Có rất nhiều người đỡ đầu và đồng chí của Hồ trong ĐCS Pháp đã bị truất phế, trong đó có Boris Sourarine thuộc Ủy Ban Thuộc Địa của QTCS và Jacques Doriot, sau này trở thành người bảo trợ cho Hồ khi Hồ vận hành Ủy Ban Thuộc Địa của ĐCS Pháp. Hồ đã có được bài học đáng giá về cách sống còn trong chính trường vào mùa thu đầu tiên ở Moscow,  khi ông chứng kiến chiến dịch chính trị thành công cuối cùng của Trosky cuộc vận động cho phong trào Dân Chủ Công Nhân.

Trotsky bắt đầu khởi xướng vấn đề dân chủ trong đảng khi quyền lực tối cao của ông đã yếu đi. Trong lá thư gửi cho Ủy Ban Trung Ương ngày 8 tháng 10, 1923 ông lên án việc bổ nhiệm những chức bí thư từ phía trên. Ý kiến của ông được sự tán đồng của bốn mươi sáu đảng viên tên tuổi, họ đã cùng viết thư cho Ủy Ban Trung Ương ủng hộ đề xướng của ông. Đối diện với sự ủng hộ rộng khắp cho quan điểm này, bộ tam tối cao gồm Grigory Zinoviev,  Leve Kamenev  và Josef Stalin cho phép việc thành lập một uỷ ban về vấn đề dân chủ công nhân. Trotsky là một trong những tác giả soạn thảo nghị quyết chính thức, được đăng trên báo Sự Thật ngày 7 tháng 12,

1923. Nghị quyết kêu gọi chấm dứt việc ʺquan liêu hoáʺ nội bộ đảng, cho phép tự do thảo luận và bầu cử các chức vụ lãnh đạo một cách công khai [34].

Trong khi đó Trotsky  lại bị cô lập trong Bộ Chính Trị. Phong trào ʺDân Chủ Công Nhânʺ đã không đạt được điều gì ngoài bản nghị quyết (cho đến khi Stalin cảm thấy đúng lúc để xử dụng cho việc bầu cử các chức bí thư); đến khi Đại Hội Lần 5 QTCS được tổ chức vào tháng 6 1924, Trotsky đã trở thành một kẻ vô danh. Mặc dù ông vẫn được bầu vào Chủ Tịch Đoàn (nhưng chỉ là một ứng cử viên bình thường) và đã đưa ra bản tuyên ngôn hùng hồn trong bài ʺKỷ Niệm Mười Năm Chiến Tranh Thế Giới Bùng Nổʺ [35], con người có công thành lập QTCS này hầu như không  xuất hiện trong suốt kỳ Đại Hội. Boris Sourvarine,  người  đóng vai trò trọng yếu trong việc xuất bản tờ Con Đường Mới (The New Course ND) cho phong trào dân chủ công nhân bằng tiếng Pháp, đã bị đẩy ra khỏi ĐCS Pháp khi Đại Hội bế mạc. Hình như vào thời điểm này Hồ đã học được tài tránh né những cuộc tranh luận mang tính học thuyết, Ruth Fischer, một đảng  viên  cộng  sản  người  Đức  nhớ  lại khoảng  thời  gian  làm  việc  tại QTCS.  Bà kể với Jean Lacouture (nhà sử học người Pháp ND) rằng Hồ ʺhướng nhiều về hành động hơn là bàn thảo lý luận. Ông luôn là người thiên về kinh nghiệmʺ [36]. Dù vậy những hồi ức của Fisher cũng như của các cựu thành viên QTCS đã khác viết về Hồ sau khi ông đã nắm quyền lực cần nên nghiên cứu một cách cẩn trọng. Trong cuốn Từ Lenin đến Mao (Von Lenin Zu MaoND),  Fisher viết rằng Hồ đến Moscow vào năm 1922 để tham dự Đại Hội 4 QTCS. Vì không có bất cứ tài liệu hoặc bằng chứng củng cố cho việc này, chúng ta có thể cho rằng Fisher đã dùng dữ liệu không chính xác [37]. Dù trong bất cứ trường hợp nào, ta vẫn biết rằng ngay từ năm 1924 Hồ đã biết được rằng nếu đứng không đúng chỗ trong trận chiến tư tưởng có nghĩa là không những sự nghiệp cộng sản của ông sẽ bị chấm dứt mà hy vọng giành được sự ủng hộ cho nền độc lập của Việt Nam cũng tiêu tan. Tính kín đáo có sẵn của ông có lẽ đã giúp ông che đậy những suy nghĩ thật của mình về những vấn đề không liên quan trực tiếp đến Việt Nam.

Phản ứng của Hồ đối với những cạm bẫy chính trị trong nội bộ QTCS là giữ mình kín đáo và tiếp tục hướng tới mục tiêu đã được hoạch định cẩn thận của mình. Ông tập trung nỗ lực của mình để thúc dục QTCS có hành động mạnh mẽ hơn đối với những vấn đề thuộc địa. Vào tháng 2 và lần nữa vào tháng 3 năm 1924 ông viết thư yêu cầu được gặp Zinoviev. Vào năm 1920 Zinoviev đã trở thành chủ tịch ʺTiểu Vụʺ của Ban Chấp Hành QTCS (Hồ đã ngưng làm việc tại các cơ quan của QTCS vì mũi và những ngón tay bị loét cóng) [38]. Zinoviev đã chuyển những yêu cầu của Hồ đến lãnh đạo mới của Cục Đông Phương, Fyodor Petrov (F.F. Raskolnikov) thay thế Karl Rakek vào ngày 8 tháng 3, 1924 [39]. (Radek bị đem làm vật tế thần cho sự thất bại của cuộc cách mạng tại Đức, nhưng trở lại để đứng đầu Học Viện Tôn Dật Tiên cho đến năm 1927). Vào ngày 20 tháng 5, 1924 Hồ gửi một bản đề nghị dài ba trang đánh máy cho Petrov. Bản đề nghị vạch nền tảng cho một Liên Minh Cộng Sản Á Châu. Sự yếu kém của nhân dân phương đông, ông viết, là do họ bị cô lập với nhau.

ʺThật có ích khi những người An Nam học hỏi phương pháp tổ chức của những người anh em Ấn chống lại đế quốc Anh,ʺ ông viết một cách hào hứng, ʺhoặc cách thức của giai cấp công nhân Nhật đoàn kết chống chủ nghĩa tư bản, hoặc sự hi sinh cao cả của nhân dân Ai Cập nhằm đòi hỏi tự do. Người dân phương đông nhìn chung rất tình cảm; đối với họ, một ví dụ điển hình có giá trị hơn cả trăm bài diễn thuyết.ʺ Hồ đề nghị trường Đại Học Lao Động Cộng Sản Phương Đông, nơi học sinh của 62 dân tộc châu Á đang nghiên cứu, nên trở thành cơ sở để tạo dựng Liên Minh. Ông nôn nóng muốn tổ chức một uỷ ban dự bị trước khi Đại Hội QTCS sắp xảy ra vào tháng 6 [40].

Sáng kiến của Hồ dường như không được ai thực hiện, cho đến khi chính ông giúp thành lập Liên Hiệp các Dân Tộc bị Áp Bức vào năm 1925 lúc ông đến Quảng Châu [41]. QTCS nghĩ rằng cơ cấu của họ tại Moscow đã đủ để giúp các nước châu Á liên lạc với nhau. Vì thế những người cộng sản Việt Nam lại không có một đảng Cộng Sản cho riêng mình. Điều này đặt họ vào vị thế lúng túng, phải đi tìm sự giúp đỡ từ nhiều hướng. Những người Việt tại Pháp thì tham gia ĐCS Pháp; trong khi đó cộng sản Pháp lại cho rằng những người cộng sản Việt Nam đang tìm hướng đi đến Ủy Ban Thuộc Địa của ĐCS Pháp mặc dù uỷ ban này chỉ làm việc lấy lệ. Trong cơ cấu hành chính quan liêu của QTCS, từ 1923 đến 1926 Đông Dương trực thuộc trong bộ phận rất mơ hồ là ʺPhân  Bộ Trung  Đôngʺ  thuộc Cục Đông Phương  trong đó bao gồm cả Ấn Độ và Nam Dương. Khi phong trào cộng sản Việt Nam đã phát triển, sự lẫn lộn vẫn còn tiếp diễn trong việc ai là người chịu trách nhiệm hướng dẫn phong trào. Trên thực tế, sự lớn mạnh của cộng sản Trung Quốc trong giai đoạn 19231927 có lẽ là nguồn động viên lớn nhất cho phong trào cộng sản phôi thai tại Việt Nam cũng như những phong trào cộng sản khác trên khắp vùng đông nam châu Á. Một số người Việt lưu vong tại Trung Quốc đã trở thành đảng viên ĐCS Trung Quốc trước khi ĐCS Việt Nam được thành lập.

Không có nhận xét nào: