Tìm
hiểu về cuộc đời
Hồ
Chí Minh
Kỳ 7
Chú giải:
Chúng tôi chọn ra 5
bài ( 16,17,22,64,109) đều có liên quan đến nhau, với mục đích để chứng minh,
cùng thuộc hệ thơ văn Hán ngữ, nhưng vì các tác giả xuất thân từ những địa
phương khác nhau nên sự vận dụng từ ngữ
có những chỗ khác nhau. Ví dụ, “cước liễu thủ khảo” (腳鐐手銬-xiềng chân
còng
tay). Cụm từ này, tại Trung Quốc Đại lục là khá phổ biến, nhưng ở vào thời kỳ
Nhật Bản chiếm đóng Đài Loan, người dân ở đây hầu như không nói. “cước áp”.
Giáo sư Hoàng Tranh thuộc Viện Khoa học Xã hội Quảng Tây, giải nghĩa: “ Cước
áp”(腳閘)là một loại cùm chân bằng sắt (gông sắt), xã hội phong kiến
trước đây, trong lúc áp giải phạm nhân trên đường, đề phòng họ bỏ trốn, ban đêm
đem giam vào nhà lao địa phương, khóa một chân lại, phạm nhân chỉ được tự do một
chân mà thôi.
Chúng tôi đã tra cứu
“Văn sử Từ nguyên” (Từ điển Từ nguyên), “Trung văn Đại từ điển” đều không có từ
“cước áp” nên phải tạm lấy “cước liễu”(腳鐐) xem như “cước áp”. Như vậy, hiển nhiên là HCM không biết từ
“cước liễu” mà dùng từ “cước áp” thay thế. Tiếp đến bài 17 “cước kiềm”(腳鉗), bài 64 “ thủ liễu”(手鐐), đều chứng minh
HCM không hiểu cách sử dung thành ngữ Trung Quốc “cước liễu thủ khảo” mà chỉ biết
“cước kiềm thủ liễu” theo âm Khách Gia chuyển thành Trung văn tự.
Lại như: “ Vãn vãn
trương khai bả cước thôn” (Đêm đêm há hốc nuốt chân người), với từ “vãn
vãn” là cách dùng khẩu ngữ Khách Gia, hàm ý chỉ mỗi buổi chiều của ngày. Cũng
như “thân thân cước” là một kiểu sử dụng đặc biệt trong Khách Gia thoại, ý của
nó là nghỉ lâu dài, còn Trung văn phổ biến là dùng “thân thân thối”(伸伸腿) mà không dùng
“thân thân cước”伸伸腳). “Tẩy diện”(洗面) có nghĩa là “rửa má”, người Khách Gia thường dùng “tẩy diện”
mà không dùng “tẩy kiểm”(洗臉). Còn “tẩy diện” ở đây chính là “tẩy kiểm”( rửa má). Khách
Gia thoại dùng “tẩy diện” mà không dùng “tẩy kiểm” của Trung văn.
Bài 20
學奕棋
三
雙方勢力本平均,勝利终須屬一人
攻守運籌無漏著算,才稱英勇大將軍
Học
dịch kỳ
3
Song phương thế lực thản bình
quân
Thắng lợi chung tu thuộc nhất
nhân;
Công thủ vận trù vô lậu toán,
Tài xưng anh dũng đại tướng
quân.
Học
đánh cờ
3
Vốn trước hai bên ngang thế lực,
Mà sau thắng lợi một bên
giành;
Tấn công, phòng thủ không sơ hở,
Đại tướng anh hùng mới xứng
danh.
Văn Trực – Văn Phụng dịch
Chú giải:
“Lậu toán”(著算): trong từ vựng Trung văn
không có từ “lậu toán”, nhân vì văn bản “Nhật ký trong tù” xuất bản năm 1960 của
nhà xuất bản Văn học Việt Nam đã chỉnh lý thơ HCM, đem từ “lậu toán” cải thành
“lậu trước”(漏著). Bản in năm 1990 lại phục hồi từ “lậu toán”. “Lậu toán” là loại
ngữ từ tiêu chuẩn của người Khách Gia, chỉ sự tính toán sai lầm khi đánh cờ tướng.
Bài
25
賭
民間賭博被官拉,獄裡賭博可公開
被拉賭犯常嗟悔,何不先到這裡來
Đổ
Dân gian đổ bác bị
quan lạp
Ngục lý đổ bác khả
công khai
Bị lạp đổ phạm thường
ta hối
Hà bất tiên đáo giá
lý lai!?
Đánh
bạc
Đánh bạc ở ngoài,
quan bắt tội,
Trong tù đánh bạc
được công khai;
Bị tù, con bạc ăn
năn mãi:
Sao trước không vô
quách chốn này!?
Nam Trân dịch
Chú giải:
“Quan lạp”(官拉) là từ ngữ rất
thông dụng của người Khách Gia, Miêu Lật. Thời Nhật chiếm đóng Đài Loan, nhân
dân bị cảnh sát rượt đuổi gọi là “quan lạp”, còn người Khách Gia ở các địa
phương khác có xưng hô như vậy hay không thì tôi chưa rõ.
Bài 37
自勉
没有冬寒憔悴景,將無春暖的輝煌
災殃把我來鍛鍊,使我精神更緊張
Tự miễn
Một hữu đông hàn tiều tụy cảnh
Tương vô xuân noãn đích huy
hoàng
Tai ương bả ngã lai đoạn luyện
Sử ngã tinh thần cánh kiện cường.
Tự khuyên
mình
Ví không có cảnh đông tàn,
Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày
xuân;
Nghĩ mình trong bước gian
truân,
Tai ương rèn luyện tinh thần
thêm hăng.
Nam Trân dịch
Chú giải:
“Khẩn trương”(緊張), gần giống như “lậu toán”,
năm 1960, văn bản “Nhật ký trong tù” của nhà xuất bản Văn học đổi “khẩn trương”
thành “kiện cường”(健強), đến năm 1990 đã lấy lại hai
từ này. “Khẩn trương” là từ rất thông dụng của người Khách Gia Miêu Lật, ý
nghía của nó là, thời gian cấp bách rồi, cần phải có tinh thần phấn chấn, ví dụ
như cách dùng tiếng Khách Gia sau đây: “ Tham gia thi đấu, thời gian càng gần
càng phải khẩn trương”.
Bài 48
落了一隻
你的心情硬且剛,不如老舌軟而長
從來與你同甘苦,現在東西各一方
Lạc liễu nhất chích nha
Nhĩ
đích tâm tình ngạch thả cương
Bất
như lão thiệt nhuyễn nhi trường
Tòng
lai dữ nhĩ đồng cam khổ
Hiện
tại đông tây các nhất phương.
Rụng mất một chiếc răng
Cứng
rắn như anh chẳng kém ai,
Chẳng
như lão lưỡi dẻo và dài;
Ngọt
bùi cay đắng từng chia sẻ,
Nay
kẻ chân mây, kẻ cuối trời.
Trần Đắc Thọ dịch
Dị bản:
Cứng
rắn như anh khác thói thường,
Phải
đâu mềm tựa lưỡi không xương;
Ngọt
bùi cay đắng từng chia sẻ,
Nay
phải xa nhau, kẻ một đường.
Chú giải:
“Lạc liễu nhất
chích nha”(落了一隻牙):
càng tìm hiểu, nghiên cứu, giải nghĩa thơ HCM, càng phát hiện ra, ông là nhà
thơ dân gian chính hiệu, vì trong bài này, ông đã biểu đạt được mối quan hệ giữa
“nha xỉ”(牙齒-răng) với “thần thiệt” (唇舌-môi lưỡi) rồi lấy
đó làm tựa đề. “Lạc liễu nhất chích nha”, thực chất là một câu văn bất thông
trong cấu trúc ngữ pháp và ngữ nghĩa Trung văn, nhưng lại là một phương ngôn rất
thông dụng nếu phát âm theo cách của người Khách Gia, Miêu Lật, cho dù không
tương ứng với với ý nghĩa biểu đạt cùng một đối tượng trong Hán ngữ. Vì vậy,
HCM phải dùng “lạc”(落) và “chỉ”(只) để thay thế.
Bài 62
一个賭犯硬了
他身只有骨包皮,痛苦飢寒不可支
昨夜他仍睡我側,今朝他已九泉歸
Nhất cá đổ phạm “ngạnh” liễu
Tha thân chỉ hữu cốt bao bì
Thống khổ cơ hàn bất khả chi
Tạc dạ tha nhưng thụy ngã trắc
Kim triêu tha dĩ cửu tuyền
quy.
Một người tù
cờ bạc chết cứng
Thân anh da bọc lấy xương,
Khổ đau, đói rét hết phương sống
rồi;
Đêm qua còn ngủ bên tôi,
Sáng nay anh đã về nơi suối
vàng.
Nam Trân dịch
Chú giải:
“Ngạnh liễu”(硬了)
hàm ý chỉ sự chết, là một từ rất thông dụng trong ngôn ngữ Khách Gia Miêu Lật.
Ngýời Khách Gia thýờng nói “ngạnh liễu” thay cho “nhân tử liễu”(ngýời chết)của
Trung vãn.
Bài 65
夜半聞哭夫
嗚呼夫君兮夫君,何故夫君遽棄塵
使妾從今何處見,十分心合意投人
Dạ bán văn khốc
phu
Ô hô phu quân, hề phu quân!
Hà cố phu quân cự khí trần?
Sử thiếp tòng kim hà xứ kiến,
Thập phần tâm hợp ý đầu nhân.
Nửa đêm nghe
tiếng khóc chồng
Hỡi ôi, chàng hỡi, hỡi chàng
ơi!
Cơ sự vì sao vội lánh đời?
Để thiếp từ nay đâu thấy được,
Con người tâm ý hợp mười
mươi.
Nguyễn Sĩ Lâm dịch
Chú giải:
"Thập phần tâm hợp ý đầu
nhân" (十分心合意投人), thoạt nhìn không hiểu ý tứ ra sao, nhất thời chưa thể giải
nghĩa. Nhưng nếu ta biết được HCM thường có thói quen dùng ngôn ngữ Khách Gia
làm thơ, đồng thời đọc diễn cảm bài thơ, thì có thể giải đáp được thắc mắc
trên. HCM sáng tác thơ thường hay chú ý việc gieo vần nên rất khoái sử dụng thủ
pháp "đảo trang", nếu đem câu thơ này đổi thành "Thập phần hợp ý
tâm đầu nhân" và dùng tiếng Khách Gia đọc diễn cảm, sẽ thấy rất rõ ràng "Thập
phần ý hợp tâm đầu nhân" hàm ý chỉ sự đống ý đồng tình trong tâm trạng con
người.
Bài
91
獄中生活
每人各有一火炉,大大小小幾個鍋
煮飯煮茶又煮采,成天煙火没時無
Ngục trung
sinh hoạt
Mỗi nhân các hữu nhất hỏa lô,
Đại đại, tiểu tiểu kỷ cá oa;
Chử phạn chử trà hựu chử thái,
Thành thiên yên hoả một thời
vô.
Sinh hoạt
trong tù
Hỏa lò ai cũng có riêng rồi,
Nhỏ nhỏ, to to mấy chiếc nồi;
Cơm, nước, rau, canh, đun với
nấu,
Suốt ngày khói lửa mãi không
thôi.
Nam Trân dịch
Chú giải:
"Một thời vô"
(没時無), mấy từ này rất không hợp lý nếu xét theo cú pháp Trung văn,
trái lại, đọc theo Khách Gia thoại sẽ dễ dàng biết được ý tứ của nó. Đó là "lúc
nào cũng có". Bài thơ này, đọc diễn cảm theo tiếng Khách Gia, Miêu Lật rất
thuận miệng và dễ hiểu.
Bài 94
遷江獄
籠外六十九人盎,籠中的盎不知數
監房卻像刨藥堂,又像街上買盎鋪
Thiên Giang
ngục
Lung ngoại lục thập cửu nhân
áng,
Lung trung đích áng bất tri số;
Giam phòng khước tượng bào dược
đường,
Hựu tượng nhai thượng mại áng
phố.
Nhà lao Thiên
Giang
Ngoài lao sáu chín chiếc ang
người,
Chồng chất trong lao biết mấy
mươi;
Nhà ngục mà như nhà chế thuốc,
Gọi là hàng chĩnh cũng không
sai.
Băng Thanh dịch
Chú giải:
"Áng" (盎), giáo sư Hoàng Tranh giải
thích: Là loại đồ đựng bằng gốm thời cổ, bụng to, miệng nhỏ. “Nhân áng” chỉ loại
chum bằng gốm, một số địa phương vùng Quảng Tây có tập quán dùng chôn người chết.
HCM những năm ấy bị giam tại nhà tù Thiên Giang, có thể đã nhìn thấy loại đồ gốm
như đã nói trên đựng xương người chết sau khi được quy tập vào một nơi trước cửa
nhà tù rồi mới đem chôn, nên mới có từ "nhân áng" (人盎)."Áng" rất
giống với cách phát âm Khách Gia được chuyển sang Hán ngữ.
Bài 95
搭火車往來賓
幾十日來勞走路,今天得搭火車行
雖然只得坐炭上,畢竟比徒步漂亮
Tháp hoả xa vãng Lai Tân
Kỷ thập nhật lai lao tẩu lộ,
Kim thiên đắc tháp hoả xa hành;
Tuy nhiên chỉ đắc tọa thán thượng,
Tất cánh tỷ đồ bộ phiêu lượng.
Đáp xe lửa đi Lai Tân
Cuốc bộ mấy mươi ngày vất vả,
Hôm nay được bước lên xe hỏa;
Dù rằng chỉ ngồi trên đống than,
Sang gấp mấy lần khi cuốc bộ.
Đỗ
Văn Hỷ, Huệ Chi dịch
Chú giải:
“Lai Tân” là tên một
huyện ở Quảng Tây, thuộc quyền quản lý địa khu Liễu Châu, cách Liễu Châu 80 km.
"Lao" (勞), "đắc" (得), "chỉ đắc" (只得), "phiêu lượng" (漂亮) cho dù đọc diễn cảm
bằng Trung văn cũng sẽ thấy rất không lọn nghĩa, thậm chí không biết tác giả
nói về cái gì. Tuy nhiên, nếu dùng Khách Gia thoại, đọc diễn cảm thì hoàn toàn
thông suốt và dễ hiểu. "Lao" (勞)là "lao động" (vất vả), "đắc" (得)là "khả dĩ"
(可以),"chỉ đắc" (只得)là "chỉ khả dĩ" (只可以), ý nghĩa là "chỉ được, có
thể được" đều là từ ngữ Khách Gia được chuyển âm. "phiêu lượng"
cũng là tiếng Khách Gia được chuyển thành từ ngữ Trung văn, chỉ sự so sánh tốt
hơn. Vì không có từ Trung văn phiên âm đối ứng nên HCM đành phải dùng từ "phiêu
lượng" thay thế.
Bài 114
伍科長,黃科員
伍科長與黃科員,兩人見我太可憐
慇勤慰問和幫助,這像冬寒見暖天
Ngũ khoa trưởng, Hoàng khoa
viên
Ngũ khoa trưởng dữ Hoàng khoa viên,
Lưỡng nhân kiến ngã thái khả liên,
Ân cần ủy vấn hòa bang trợ,
Giá tượng đông hàn kiến noãn thiên.
Khoa trưởng họ Ngũ, khoa viên
họ Hoàng
Họ Ngũ trưởng khoa với họ
Hoàng,
Thấy ta cùng cực động lòng
thương;
Ân cần thăm hỏi và cứu giúp,
Như nắng bừng lên giữa giá
sương.
Nam Trân dịch
Chú giải:
“Khoa trưởng họ Ngũ, khoa viên họ Hoàng” đều là các viên chức
của cơ quan Chính trị bộ thuộc Đệ tứ Chiến khu.
1 – “Giá tượng”: Ngữ pháp Trung văn không có từ loại này mà
là khẩu ngữ của người Khách Gia. “lưỡng nhân” chỉ hai người, còn “giá tượng” chỉ
“hình như”, “như”.
2- Phải là người có trình độ Hán học khá uyên bác mới trứ tác
được “Nhật ký trong tù”, trong đó có một số bài rất khó tưởng tượng một người
Việt Nam lại có thể viết nổi, huống hồ, cho dù đã học Hán văn rất cẩn thận,
nhưng không thường xuyên tu dưỡng, bổ sung kiến thức, làm sao sử dụng ngôn ngữ
nhuần nhuyễn như Hồ Chí Minh để diễn đạt tư tưởng tình cảm của mình qua các thể
tài trên.
Bài 7
世路難
一
走遍高山與峻岩,那知平路更難堪
高山遇虎終無恙,平路逢人却被監
二
余原代表越南民,擬到中华見要人
無奈風波平地起,送余入獄作嘉賓
三
忠誠我本無心疚,却被嫌疑做漢奸
處世原來非易易,而今處世更難難
Thế lộ nan
*
Tẩu biến cao sơn dữ tuấn nham
Na tri bình lộ cánh nan kham
Cao sơn lộ hổ chung vô dạng
Bình lộ phùng nhân khước bị
giam.
**
Dư nguyên đại biểu Việt Nam dân
Nghĩ đáo Trung Hoa kiến yếu
nhân
Vô nại phong ba bình địa khởi
Tống dư nhập ngụ tác gia tân
***
Trung thành ngã bản vô tâm cứu
Khước bị hiềm nghi tố Hán gian
Xử thế nguyên lai phi dị dị
Nhi kim xử thế cánh nan nan.
Đường đời hiểm
trở
*
Đi khắp đèo cao, khắp núi cao,
Ngờ đâu đường phẳng lại lao
đao!
Núi cao gặp hổ mà vô sự,
Đường phẳng gặp người bị tống
lao?!
**
Ta là đại biểu dân Việt Nam,
Tìm đến Trung Hoa để hội đàm;
Ai ngỡ đất bằng gây sóng gió,
Phải làm “khách quý” ở nhà
giam!
***
Ta người ngay thẳng, lòng
trong trắng,
Lại bị tình nghi là Hán gian;
Xử thế từ xưa không phải dễ,
Mà nay, xử thế khó khăn
hơn.
Nam Trân dịch
Chú giải:
“Trung thành”, “Hán gian”: “Nhật ký trong tù”
nếu do một nười Việt Nam là Nguyễn Ái Quốc
sáng tác thì xem ra thật vô lý, bởi người viết đã dùng các từ “trung
thành”, “Hán gian”. Đặc biệt từ “Hán gian” càng tỏ rõ, người viết bài thơ này
không thể là công dân nước ngoài. Nếu quả như Nguyễn Ái Quốc viết thật thì phải
tự xưng là “Việt gian” hoặc “Cộng điệp” (gián điệp của Quốc Tế cộng sản ) mới hợp
lý.
Bài
88
寄尼魯
其一
我奮鬥時君活動,君入獄時我住籠
萬里遥遥未见面,神交自在不言中
Ký Nê Lỗ
Ngã phấn đấu thời quân hoạt động,
Quân nhập ngục thời ngã trú
lung;
Vạn lý dao dao vị kiến diện,
Thần giao tự tại bất ngôn
trung.
Gửi Nehru
Khi tôi phấn đấu, anh hoạt động,
Anh phải vào lao, tôi ở tù;
Muôn dặm xa với chưa gặp mặt,
Không lời mà vẫn cảm thông
nhau.
Hoàng Trung Thông
dịch
Chú giải:
Nê Lỗ (尼魯): Giáo sư Goàng Tranh chú
thích, Nê Lỗ tức Nê Hách Lỗ ( Jawaharlal Nehru - 1889-1964), nhà lãnh đạo dân tộc
chủ nghĩa, lãnh tụ đảng Quốc Đại, Thủ tướng nhiệm kỳ đầu (1947- 1964) sau khi Ấn
Độ độc lập. Hồ Chí Minh và Nehru là người cùng thời đại, đều cùng ra sức phấn đấu
cho nền độc lập dân tộc và quốc gia. Hai người chưa từng gặp mặt nhưng đã là bạn
tâm giao từ lâu. Từ tháng 12 năm 1921 đến tháng 6 năm 1945, Nehru trước sau từng
bị bắt 9 lần. Thời kỳ Hồ Chí Minh bị bắt tại Quảng Tây, Nehru cũng bị nhà đương
cục của chủ nghĩa thực dân Anh, kẻ thù của
nhân dân Ấn Độ giam giữ, mà kẻ bắt giam
Hồ Chí Minh, lại là chính phủ Quốc Dân đảng, một láng giềng hữu hảo, là đồng
minh chống chủ nghĩa phát xít.
Năm 1939, Hồ Chí
Minh từng nhiệm chức Đài trưởng Đài thông tin vô tuyến cơ quan Bát Lộ quân Quảng
Tây và nhân viên Đài vô tuyến Ban Huấn luyện cán bộ du kích Hành Dương, phụ
trách thu thập thông tin ngoại văn, sau đó dịch sang tiếng Trung. Đối với tình
hình quốc tế và các lãnh tụ quốc gia lúc ấy, trình độ của ông là tương đối cao.
Tháng 12 năm 1927,
Nguyễn Ái Quốc từ Paris đến Bruxelles
tham dự “Hội nghị thế giới các dân tộc bị áp bức”, Jawaharlal Nehru cũng tham dự
hội nghị này và được bầu làm Ủy viên chấp hành, đồng thời, cùng với Nguyễn Ái
Quốc có mối quan hệ rất mật thiết. Xem lại
bài “Ký Nê Lỗ”: “Ngã phấn đấu thời quân hoạt động/ Quân nhập ngục thời ngã trú
lung/ Vạn lý dao dao vị kiến diện/ Thần giao tự tại bất ngôn trung”,(Khi tôi
phấn đấu, anh hoạt động/Anh phải vào lao, tôi ở tù/Muôn dặm xa với chưa gặp mặt/Không
lời mà vẫn cảm thông nhau),thì thấy rõ ràng, trước năm 1943, Hồ Chí Minh
chưa từng gặp Nehru. Một lần nữa, bài thơ này chứng thực Nguyễn Ái
Quốc và Hồ Chí Minh không phải là một
người.
Bài 77
折字
囚人出去或為國,患過頭時始見忠
人有憂愁優點大,籠開竹閂出真龍
Chiết tự
Tù nhân xuất khứ hoặc vi quốc,
Hoạn quá đầu thì thuỷ kiến
trung;
Nhân hữu ưu sầu ưu điểm đại,
Lung khai trúc sản, xuất chân
long.
Chơi chữ
Người thoát khỏi tù ra dựng nước,
Qua cơn hoạn nạn, rõ lòng
ngay;
Người biết lo âu, ưu điểm lớn,
Nhà lao mở cửa, ắt rồng bay!
Nam Trân dịch
Chú giải:
“Chiết tự”(折字): Giáo sư Hoàng Tranh chú giải,
Trung Quốc từ lâu đã lưu truyền một loại
văn học du hý, đem phân giải tổ hợp chữ Hán này thành một số chữ Hán khác, những
chữ mới này biểu đạt một ý nghĩa nào đấy. Trình độ Hán học của Hồ Chí Minh phải
khá uẩn súc mới có thể sử dụng thành thạo lối chiết tự du hý chữ Hán như vậy.
Trong bài thơ này,
Hồ Chí Minh vận dụng lối bẻ chữ, nghĩa là từ một chữ Hán, ông chia tách ra
thành những chữ khác nhau vốn là các thành tố cấu tạo nên chữ đó, rồi thêm vào
hoặc bớt đi một vài nét, tạo nên những chữ mới, mục đích vui đùa lúc nhà rỗi
trong ngục. Cụ thể là, chữ 囚 (tù) bỏ chữ人(nhân) bên trong rồi thêm chữ 或(hoặc) thì biến thành chữ 國(quốc). Chữ 患 (hoạn) bỏ một chữ 中 (trung) trên đầu thì sẽ còn
chữ 忠 (trung) nghĩa là trung thành.
Chữ 憂 (ưu) vốn là lo lắng, thêm chữ 人 (chính xác là bộ
“nhân đứng”) bên trái sẽ biến thành chữ 優 ưu, nghĩa là ưu điểm. Chữ 籠 (lung) là nhà lao, lược bỏ bộ trúc ( 竹 ) trên đầu sẽ
thành chữ 龍 (long) nghĩa là rồng. Bài thơ này, sau khi
chiết tự sẽ thành bốn chữ mới 國(quốc), 忠 (trung).優 (ưu), 龍(long), hàm ý của nó là, vì đất nước tâm trạng nhà thơ đầy ưu
phiền, trong hoạn nạn càng rèn luyện ý chí đợi khi ra khỏi nhà tù sẽ tiếp tục sự
nghiệp.
Bài 63
又一个
夷齊不食周朝粟,賭犯不吃公家粥
夷齊餓死首陽山,賭犯餓死公家獄
Hựu nhất cá...
Di, Tề
bất thực Chu triều túc,
Đổ phạm
bất ngật công gia chúc;
Di, Tề
ngã tử Thú Dương sơn,
Đổ phạm
ngã tử công gia ngục.
Lại một người nữa...
Di,
Tề chẳng ăn gạo nhà Chu,
Tù
bạc chẳng ăn cháo nhà nước;
Di,
Tề chết đói ngàn Thú Dương,
Tù
bạc chết đói trong nhà ngục.
Nam Trân dịch
Chú giải:
Tiêu đề “Hựu nhất cá”, chỉ sự tiếp tục của bài
trước, “Lại một tù cờ bạc nữa chết đói trong ngục”. Bài thơ này, Hồ Chí Minh lấy
việc tù cờ bạc chết đói trong nhà giam so sánh với sự tích Bá Di, Thúc Tề con
vua nước Cô Trúc đời nhà Ân (1401- 1122 trước CN, Trung Quốc), không ăn thóc
nhà Chu mà chết đói ở núi Thú Dương, chứng tỏ ông hiểu rất rõ các nhân vật
trong lịch sử cổ đại Trung Quốc, nên luôn chuyên tâm trau giồi đạo đức, khí tiết.
Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương) từ nhỏ đã được tiếp thụ nền giáo dục truyền thống của
gia đình. Thân sinh ra ông là Hồ Dần Lượng thường lấy sự tích “Di Tề không ăn
thóc nhà Chu”, “Quan Công qua năm ải chém sáu tướng” để giảng giải về đại nghĩa,
hy vọng giáo dục Hồ Chí Minh thành người có nhân cách lớn, khí tiết cao cả. Ngô
Trọc Lưu trong tác phẩm “Hồ Chí Minh”, đã xen kẽ giới thiệu lịch sử gia tộc Hồ
Chí Minh (Hồ Tập Chương). Tại thiên “Vân thê thư viện” (Thư viện thang mây) của
ông, có thuật lại việc từ nhỏ Hồ Chí Minh đã được dạy về điển tích “Bá Di, Thúc
Tề”.
Bài 132
即景
樹梢巧畫張飛像,赤日長明關羽心
祖國終年無信息,故鄉每日望回音
Tức cảnh
Thụ
sao xảo họa Trương Phi tượng,
Xích
nhật trường minh Quan Vũ tâm;
Tổ quốc
chung niên vô tín tức,
Cố
hương mỗi nhật vọng hồi âm.
Tức cảnh
Cành
lá khéo in hình Dực Đức,
Vầng
hồng sáng mãi dạ Quan Công;
Năm
tròn cố quốc tăm hơi vắng,
Tin
tức bên nhà bữa bữa trông.
Nam Trân dịch
Chú giải:
“Trương Phi”, “Quan
Vũ”: Tại nhà Hồ Chí Minh ở Miêu Lật, Đồng La, thời kỳ trước sau năm 1960, tác
giả đã nhìn thấy một tập tranh “Tam quốc diến nghĩa” cổ, ước khoảng 10 hồi, đóng
thành quyển, ngoài ra còn có “Tứ thư độc bản”, “Thiên gia thi”, “Dược thang ca
quyết” và một số loại sách khác.
“Tổ quốc”, “cố
hương”: Ý trực tiếp để thông báo với mọi người là quê hương Nghệ An, Việt Nam , nhưng thực chất lại
chỉ Miêu Lật, Đài Loan. Vào đầu năm 1939, Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương) gặp người
em ruột là Hồ Tập Dưỡng lần cuối cùng, sau đó thì không nhận được tin tức gì của
gia đình nữa. Trong bài thơ này có câu “ chung niên vô tín tức” (suốt năm không
tin tức) là phù hợp với hoàn cảnh thực tế của ông. Trước khi chia tay, Hồ Chí
Minh (Hồ Tập Chương) đặc biệt dặn Hồ Tập Dưỡng: “Sau này, nếu không thành công
sẽ không về nhà, mong gia đình đừng mất công tìm tôi”. Tác giả dự đoán, Thời
gian ấy, Hồ Tập Chương đã quyết định phấn đấu hy sinh vì nền độc lập của Việt Nam . Vậy mà tạo hóa
trêu ngươi, không ai ngờ, sau năm 1948, tập đoàn Tưởng Giới Thạch thoái thủ Đài
Loan, Hồ Chí Minh dù có thành công đến mấy cũng không còn đường về quê cha đất
tổ.
Bài 115
限制
沒有自由真痛苦,出恭也被人制裁
開籠之時肚不痛,肚痛之時籠不開
Hạn chế
Một hữu
tự do chân thống khổ,
Xuất
cung dã bị nhân chế tài;
Khai
lung chi thì đỗ bất thống,
Đỗ thống
chi thì lung bất khai.
Bị hạn chế
Đau
khổ chi bằng mất tự do,
Đến
buồn đi ỉa cũng không cho;
Cửa
tù khi mở, không đau bụng,
Đau
bụng thì không mở cửa tù.
Nam Trân dịch
Chú giải:
“Xuất cung”(出恭): Từ thời Nhật Bản
chiếm đóng, người dân ở Miêu Lật, Đồng La gọi việc đến nhà xí đại tiện là “xuất
cung”. Cách gọi này lưu truyền cho đến ngày nay nhưng rất ít người hiểu được
nguồn gốc ra đời của nó. Qua quá trình khảo cứu thư tịch cổ, tác giả xin cung cấp
những tư liệu sau đây có liên quan đến từ “xuất cung”:
1- Trong các kỳ thi của hệ thống khoa cử triều
Minh, người ta đặt ra một loại thẻ bài “xuất cung nhập kính” (出恭入敬) để đề phòng thí sinh tự tiện bỏ vị trí ra
ngoài. Khảo sinh muốn đi đại tiện, trước hết phải lĩnh thẻ “xuất cung nhập
kính” mới được ra, từ đó mới có tên gọi “xuất cung”.
2 – Cuối triều nhà
Thanh, trước khi bị Nhật chiếm đóng, văn chương, học vấn của người Miêu Lật, Đồng
La rất hưng thịnh, xuất hiện không ít tiến sĩ, cử nhân, tú tài. Đầu triều
Thanh, cử nhân Ngô Tử Quang đã mở trường học tại Đồng La, thu nhận nhiều môn đệ.
Nhà chí sĩ kháng Nhật Khâu Phùng Giáp chính là học trò xuất sắc của ông. Phụ
thân Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương) là Hồ Dần Lượng, những năm đầu Quốc dân cũng từng
mở trường dạy học tại quê nhà. Nhiều năm trước đó, học trò Miêu Lật, Đồng La
thường xuyên vào Đại lục tham dự các kỳ thi của triều đình, nên khi về quê đã
dùng từ “xuất cung” thay cho “đại tiện”, nghe có vẻ trang nhã hơn.
Từ “xuất cung” được
lưu truyền cho đến ngày nay trở thành một thứ phương ngôn đặc thù của người Đồng
La. Năm 1929, Hồ Chí Minh vừa mới rời Miêu Lật, Đồng la đến Thượng Hải, nên từ
“xuất cung” ông sử dụng không có gì lạ.
3 – Đối với một người
nắm chắc ngôn ngữ Nhật Bản như Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương), khi viết “Nhật ký
trong tù”, có thể chen vào một số từ tiếng Nhật mà lại không có vốn từ Nhật Bản
thì khó mà viết được những bài thơ hàm súc và thấm đẫm tinh thần nhân văn như
thế.
Bài
59
南寧獄
監房建築頂摩登,澈夜輝煌照電燈
因為每餐惟有粥,使人肚子戰兢兢
Nam Ninh ngục
Giam phòng kiến trúc đính
“ma-đăng”
Triệt dạ huy hoàng chiếu điện
đăng
Nhân vị mỗi xan duy hữu chúc
Sử nhân đỗ tử chiến căng căng.
Nhà ngục Nam
Ninh
Nhà lao xây dựng kiểu tân thời,
Đèn điện thâu đêm sáng rực trời;
Nhưng mỗi bữa ăn lưng bát
cháo,
Cho nên cái bụng cứ rên hoài.
Nam Trân dịch
Chú giải:
“Ma đăng”(摩登): Thời kỳ Nhật Bản
chiếm đóng Đài Loan, có một số từ nước ngoài
du nhập vào Đồng La mà từ “ma đăng” vốn có nguồn gốc Anh ngữ (modern),
nghĩa là “hiện đại” là một ví dụ.
Bài
67
工金
煮一鍋飯六毛錢,一盆開水銀一元
一元買物得六角,獄中價格定昭然
Công
kim
Chử nhất oa phạn lục
mao tiền,
Nhất bồn khai thủy
ngân nhất nguyên;
Nhất nguyên mãi vật
đắc lục giác,
Ngục trung giá cách
định chiêu nhiên.
Tiền
công
Thổi một nồi cơm,
trả sáu hào,
Nước sôi mỗi chậu,
một đồng trao;
Một đồng của đáng
sáu hào chỉ,
Giá cả trong tù định
rõ sao!
Nam Trân dịch
Chú giải:
“Công kim”(工金): Thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng Đài Loan có một số từ nước
ngoài được du nhập vào hệ thống từ vựng Hán ngữ. “Công kim” chỉ tài sản công,
tiền công.
Bài
85
獄丁窃我之士的
一生正直又坚剛,携手同行幾雪霜
恨彼奸人離我俩,長教我你各凄凉
Ngục đinh thiết
ngã chi sĩ-đích
Nhất sinh chính trực hựu kiên
cương,
Huề thủ đồng hành kỷ tuyết
sương;
Hận bỉ gian nhân ly ngã lưỡng,
Trường giao ngã nhĩ các thê
lương.
Lính ngục
đánh cắp mất chiếc gậy của ta
Suốt đời ngay thẳng lại kiên
cường,
Dìu dắt nhau đi mấy tuyết
sương;
Giận kẻ gian kia gây cách biệt,
Hai ta dằng dặc nỗi buồn
thương.
Nam Trân dịch
Chú giải:
“Sĩ đích”(士的): là danh từ chỉ
cái gậy chống (quải trượng). Trong Nhật ngữ, “quải trượng”(guăi zhàng), đọc âm
nhấn mạnh như “sĩ đích”. Giáo sư Hoàng Tranh chú giải: “quải trượng” vốn là từ
tiếng Anh “stick” được phiên âm sang Hán ngữ. Tác giả có hỏi các tiên sinh cao
tuổi biết Nhật ngữ thời Nhật Bản chiếm đóng Đài Loan, “sĩ đích” phải chăng là
tiếng Nhật được đưa vào Hán ngữ. Một số
người nói đúng, nhưng số khác lại bảo không thể xác định rõ ràng. Tôi cảm
thấy thật kỳ lạ. Hồ Chí Minh vì sao không trực tiếp dùng từ “stick” hoặc “quải
trượng” làm tiêu đề bài thơ, đọc vừa thuận tai vừa dễ hiểu. Trái lại, ông chơi
trò đùa bỡn, lấy “sĩ đích” đặt tên khiến người đọc không tìm ra đầu mối. Câu
thơ “Ngục đinh thiết ngã chi sĩ đích”, rốt cuộc hàm chưa ý tứ gì? “Nhật ký
trong tù” được sáng tác vào năm 1942 – 1943, là thời kỳ Hồ Chí Minh bị giải đi
giải lại từ Quế Lâm đến Liễu Châu. Lúc ấy, mỗi chuyến xe xuất phát từ Liễu Châu
đều có viết hai chữ “đích sĩ” lên cái chiêu bài bốn mặt trên nóc làm dấu hiệu.
Có thể, khi bị giải trên đường, đúng vào lúc tinh thần cao hứng, Hồ Chí Minh liền
đem âm tiếng Nhật của hai từ “quải trượng”, tạm mượn hai chữ “đích sĩ” trên biển
hiệu nóc xe, đảo trật tự thành “sĩ đích” thay thế cho âm “quải trượng” Hán ngữ
để đùa vui chăng? Chuyện này không phải không có khả năng. Hồ Chí Minh hoạt động
gần biên giới Trung – Việt, đi đi về về, không lúc nào rời xa chiếc gậy chống,
đối với nó vô cùng thân thiết như người bạn tâm giao. Một người bạn thân Trung
Quốc, tướng quân Vi Quốc Thanh, sau này đã từng tặng Hồ Chí Minh một gốc trúc
vuông Quảng Tây đặc biệt hiếm để ông làm gậy chống.
Tổng hợp những phần
đã phân tích ở trên, chúng tôi đi đến kết luận, tác giả “Nhật ký trong tù” nhất
định phải là người có đủ ba điều kiện sau đây:
1- Đối với ngữ văn
Trung Quốc phải có trình độ cao, mà đối với nền Quốc học thường thức cũng phải
đạt trình độ tương đối khá. Sáng tác được thơ trong “Nhật ký trong tù” tuyệt đối
không phải là người chỉ có trình độ chữ Hán ba, bốn năm tiểu học.
2- Tác giả “Nhật ký trong tù” nhất định phải là
người sắc tộc Khách Gia thuộc cộng đồng cư dân Miêu Lật, Đồng La, Đài Loan.
3- Tác giả “Nhật ký
trong tù” phải là người Khách Gia thông thạo Nhật ngữ.
Thư pháp chữ
Hán của Hồ Chí Minh.
Ngoài trừ “Nhật ký trong tù”, từ sau năm 1938, Hồ Chí
Minh đã dùng Trung văn công bố một số chuyên luận, sáng tác văn thơ và viết thư
pháp. Toàn bộ trước tác của ông, bao gồm cả những bức thư pháp đại, tiểu khải,
thật ra rất khó thuyết phục được người ta tin là, Nguyễn Ái Quốc thuở niên thiếu chỉ học qua vài năm Hán ngữ lại
có thể viết được. Những dẫn chứng sau đây có thể chứng minh nhận định trên:
1- Từ tháng 12 năm
1938 đến tháng sáu năm 1939, Hồ Chí Minh viết 7 bài báo và chuyên luận bằng
Trung văn, các bản thảo được gửi đến Hà Nội, Việt Nam. Các bài có tiêu đề như
sau: Tháng 12 năm 1938: “Người Nhật muốn khai hóa Trung Quốc như thế
nào?”.Tháng hai năm 1939: “ Thư gửi từ Trung Quốc”. Tháng ba năm 1939: “Thư gửi
từ Trung Quốc”. Tháng tư năm 1939: “Chủ nghĩa anh hùng trong kháng chiến chống
Nhật của nhân dân Trung Quốc” và “Thư gửi từ Trung Quốc”. Tháng sáu năm 1939:
“Thư gửi từ Trung Quốc”, trong đó có bài “Người Nhật muốn khai thác Trung Quốc
như thế nào?” dài khoảng hai nghìn chữ,
nội dung tự thuật và chuyên thuật, nhất định phải là người có trình độ Nhật văn
khá mới có thể viết được. Tháng mười một đến tháng mười hai năm 1940, Hồ Chí
Minh thường xuyên viết cho tờ “Cứu vong nhật báo” Quảng Tây với bút danh Bình
Sơn, đăng tải 11 bài chuyên đề bằng Trung văn. Tiêu đề các bài như sau:: “Thiên
thượng cố muội” ( Tác giả tự dịch ra tiếng Việt là "Ông trời có mắt”, 24
tháng mười một năm 1940) “Ác tác kịch của La Tư Phúc tiên sinh” (It started
with a kiss of Mrs Roosevelt, 27 tháng mười một năm 1940), “Lưỡng cá Phàm Nhĩ
Tái chính phủ” (Hai chính phủ Versailles, 29 tháng mười một năm 1940), “Vu khống”
(1 tháng mười hai năm 1940), “Báo chí Trung Quốc và nhân dân Việt Nam” (2 tháng
12 năm 1940), “Ca dao Việt Nam với phong trào kháng Nhật của nhân dân Trung Quốc”(4
tháng 12 năm 1940), “Ngư mục hỗn châu”,(5 tháng mười hai năm 1940), “Bàn về huyết
thống”( 8 tháng mười hai năm 1940), “Nghĩa Đại Lợi (Ytalia) thực bất đại lợi”(16
tháng mười hai năm 1940), “Quân Phục quốc Việt Nam trở thành quân Bán nước Việt
Nam”(18 tháng mười hai năm 1940), tổng cộng 11 thiên chuyên đề. Sau khi nghiên
cứu các bài viết này, tác giả thấy, chẳng những khả năng bình luận những vấn đề
thời cuộc sắc sảo mà bút pháp của Hồ Chí Minh còn vô cùng sinh động, câu văn
trôi chảy, giầu hình ảnh, không thể do một người ngoại quốc viết mà phải là tác
giả Trung Hoa, hiểu biết sâu sắc về văn hóa Nhật Bản.
2 – Sáng tác thơ, phú ngẫu hứng
贈陳賡將軍詩抄(一)
攜杖登高觀陣地,萬重山擁萬重雲
義兵壯志吞牛斗,誓滅豺狼侵掠軍
Tặng tướng quân Trần Canh thi sao(1)
Huề
trượng đăng cao quan trận địa
Vạn
trùng sơn ủng vạn trùng vân
Nghĩa
binh tráng khí thôn ngưu đẩu
Thệ
diệt sài lang xâm lược quân.
Dịch:
Chống
gậy lên non xem trận địa
Vạn
trùng núi đỡ vạn trùng mây
Quân
ta khí mạnh nuốt Ngưu Đẩu
Thề
diệt xâm lăng lũ sói cầy.
贈陳賡將軍詩抄(二)
香檳美酒夜光杯,欲飲琵琶馬上催
醉臥沙場君莫笑,敵人休放一人回
Tặng tướng quân Trần Canh thi sao(2)
Hương
tân mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm,
tỳ bà mã thượng thôi
Túy
ngọa sa trường quân mạc tiếu
Địch
nhân hưu phóng nhất nhân hồi.
Dịch:
Tặng tướng quân Trần Canh (2)
Rượu
ngọt sâm banh lấp lánh ly
Muốn
uống, tỳ bà thúc ngựa phi
Đừng
cười say nghỉ nơi trận mạc
Không
tha quân địch một tên về.
贈韋國清將軍詩抄
百里尋君未遇君,馬蹄踏碎領頭雲
歸來偶過山梅樹,每朵黃花一點春
Tặng Vi Quốc Thanh tướng quân thi sao
Bách
ký tầm quân vị ngộ quân,
Mã đề
đạp toái lãnh đầu vân,
Quy
lai ngẫu quá sơn mai thụ,
Mỗi
đóa hoàng hoa nhất điểm xuân.
Dịch
nghĩa:
Tặng Vi Quốc Thanh tướng quân
Trăm
dặm đi tìm ông mà chưa gặp ông,
Vó
ngựa xéo nát đám mây đầu núi,
Trở
về, bỗng đi qua cây mai già trên núi,
Mỗi
đóa hoa vàng điểm một nét xuân.
遊長城即興賦詩
聽說長城萬里長,頭連東海尾西疆
幾千百萬勞動者,建築斯城鎮一方
Du Trường Thành tức hứng phú thi
Thính
thuyết Trường Thành vạn lý trường,
Đầu
liên Đông Hải vĩ Tây Cương,
Kỷ
thiên bách vạn lao động giả,
Kiến
trúc tư thành trấn nhất phương
Dịch
nghĩa:
Chơi Vạn Lý Trường
Thành ngẫu hứng làm thơ
Nghe
nói Trường Thành dài vạn dặm,
Đầu
liền với Đông Hải, cuối đến tận biên giới phía tây,
Hàng
trăm ngàn vạn người lao động
Đắp
nên thành này để trấn giữ một phương.
遊太湖即興賦詩
西湖不比太湖美,太湖更比西湖寬
魚舟來去朝陽暖,桑稻滿田花滿山
Du Thái Hồ tức hứng phú thi
Tây Hồ bất tỉ Thái Hồ mỹ,
Thái Hồ cánh tỉ Tây Hồ khoan,
Ngư chu lai khứ triêu dương noãn,
Tang đạo mãn điền hoa mãn sơn.
Dịch nghĩa:
Chơi Thái Hồ ngẫu hứng làm thơ
Tây Hồ không đẹp bằng Thái Hồ,
Thái Hồ rộng hơn Tây Hồ,
Thuyền đánh cá qua lại trong nắng sớm ấm áp,
Dâu lúa đầy ruộng, hoa nở đầy núi.
遊漓江即興賦詩
桂林風景甲天下,如詩中畫,畫中詩
山中樵夫唱,江上客船歸。奇!
Du Ly Giang tức hứng phú thi
Quế
Lâm phong cảnh giáp thiên hạ,
Như thi trung họa, họa trung thi.
Sơn trung tiều phu xướng,
Giang thượn khách thuyền quy.
Kỳ!
Dịch nghĩa:
Chơi Ly Giang ngẫu hứng làm phú
Phong cảnh Quế Lâm đẹp nhất thiên hạ,
Như thơ trong họa, như họa trong thơ.
Trong núi tiều phu hát,
Trên sồng thuyền khách về.
Lạ kỳ!
Đọc tiếp: Kỳ 8 -
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét