Sophie Quinn-Judge (2)


HỒ CHÍ MINH
NHỮNG NĂM THÁNG CHƯA ĐƯỢC BIẾT ĐẾN (19191941)
HO CHI MINH: THE MISSING YEARS
Kỳ 2

Photo 008
Ta có thể đoán rằng những cuộc tiếp xúc không chính thức giữa các nhân viên QTCS và sinh viên của Đại Học Lao Động Cộng Sản Phương Đông (còn có tên là ĐH Stalin) ở Moscow đã trở thành
một diễn đàn trao đổi tư tưởng và tin tức. Nhưng ngoại trừ Hồ ra, không có người Việt Nam nào có cơ hội theo học tại đây trước năm 1925 hoặc 1926, khi những sinh viên Đông Dương đầu tiên được gửi qua từ Paris chính thức theo học [42]. Thành lập vào năm 1921 với mục đích đào tạo những thành viên cộng sản cốt cán, cho đến năm 1924 trường  này giảng dạy những người Á châu nằm trong lãnh thổ của liên bang Sô Viết và con số học sinh nước ngoài theo học ngày càng đông. Danh sách của sinh viên đến từ miền đông và nam Á năm ấy có 56 sinh viên Triều Tiên, 109 sinh viên Trung  Quốc, 6 sinh viên Mã Lai hoặc Nam Dương  và 16 sinh viên Mông Cổ [43]. Không có tài liệu chính thức về việc Hồ Chí Minh nghiên cứu tại đây trước năm 1936, mặc dù tác giả người Nga tên Yevgeny Kobelev trích dẫn từ một bài phỏng vấn Hồ ngày 15 tháng 3 năm 1924 trong tờ báo cộng sản Ý LʹUnità, trong đó Hồ đề cập đến việc nghiên cứu của mình tại trường này [44]. M.N.Roy cũng xác nhận rằng Hồ đã theo học tại trường [45]. Vì Hồ đến Moscow với tư cách chính thức qua Nông Dân Quốc Tế, rất có thể ông đã học những lớp về vận động nông dân khi mới đến đây.

Hồ Chí Minh được phép làm việc như một ʺnhân viên không biên chếʺ cho các cơ quan QTCS vào tháng 4 năm 1924 [46]. Một trong những nhiệm vụ chính của ông tại Moscow là soạn thảo báo cáo về Việt Nam và viết bài cho báo chí cộng sản. Có thể là ông đã sửa lại những bản thảo đã viết khi còn ở Pháp, đã được xuất bản dưới cái tên Bản Án Chế Độ Thực Dân Pháp bởi Nghiệp Đoàn Lao Động tại Paris năm 1925. Bản thảo đánh máy bằng tiếng Pháp từ bản tài liệu của Hồ về vấn đề Đông Dương nằm trong văn khố của QTCS, nhưng không có bằng chứng là nó đã được xuất bản. Bản tài liệu bao gồm một giới thiệu ngắn về lich sử và địa lý Việt Nam và những phần nói về việc trưng thu đất đai của người Việt một cách vô nhân đạo của nhà cầm quyền Pháp [47]. Một thành quả báo chí của Hồ tại Moscow là bài báo ʺLenin và Nhân Dân Phương Đôngʺ viết năm 1924. Ông đã viết một bài dài 8 trang phân tích quan điểm của Lenin về chủ nghĩa đế quốc và phong trào giải phóng thuộc địa. Bài viết này có giá trị hơn là bài viết tương tự nhưng đầy cảm xúc ca tụng được in với cùng đầu đề trên tờ Sự Thật số 27 tháng 1, 1924 sau khi Lenin qua đời. Bài viết sau đã phản ánh trung thực nỗi ray rứt của Hồ trong giai đoạn này của đời mình ʺQuá quen với việc bị đối xử như những người lạc hậu và thấp hènʺ, ông viết, ʺhọ (người dân Á châu) đã thấy Lenin như hiện thân của tình huynh đệ quốc tế. (...) họ sùng kính ông với với lòng thành của con cái đối với cha mẹʺ [48]. Luận Cương của Lenin và những hứa hẹn của QTCS với dân tộc thuộc địa có lẽ là những dấu hiệu đầu tiên mà Hồ tìm được về việc phương Tây thật sự quan tâm đến vấn đề áp bức của người Pháp.

Đại Hội Quốc tế Cộng Sản lần 5

Khi Đại Hội 5 Quốc tế Cộng Sản khai mạc tại Moscow vào tháng 6 1924, Hồ cảm thấy cần giữ nguyên áp lực với những người cộng sản tây Âu để họ quan tâm nhiều hơn nữa đến các thuộc địa của mình. Cả ba lần phát biểu của Hồ tại Đại Hội chủ yếu tập trung vào việc yêu cầu có nhiều hành động hơn đối với những vấn đề thuộc địa. Rõ ràng là Hồ vẫn còn nguyên tình yêu nước và tinh thần kiên quyết của những tháng ngày ở Paris. Nhưng ông vẫn chỉ là một đại biểu với lá phiếu tham vấn [49]. Chỉ vừa tròn 30 tuổi, ông đã không ngần ngại lên lớp giới lãnh đạo của cộng sản thế giới về những thiếu sót của họ ông luôn xen vào những cuộc tranh luận kéo dài về những vấn đề dân tộc và thuộc địa. Ông đã rất gay gắt với các đảng cộng sản Pháp và Anh: ʺTất cả những gì mà đảng chúng ta đã làm trong lĩnh vực này là con số không. Tại xứ Tây Phi thuộc Pháp chính sách quân dịch được thực hiện bởi những biện pháp cưỡng chế không thể tưởng tượng, mà báo chí chúng ta chẳng đả động gì đến. Chính quyền thuộc địa tại Đông Dương đã trở thành những kẻ buôn nô lệ, chuyên bán dân bản xứ Bắc Kỳ cho những chủ đồn điền ở quần đảo Thái Bình Dương; họ đã tăng hạn quân dịch của dân bản xứ từ hai năm lên bốn năm; họ đã trao phần lớn thuộc địa cho tập đoàn cá mập... và báo chí chúng ta vẫn một mực lặng imʺ [50]. Ông đề nghị một số biện pháp có thể áp dụng lập tức như: một diễn đàn về thuộc địa trên báo Nhân Đạo, tăng cường việc tuyên truyền và kết nạp thành viên thuộc địa, bảo trợ các sinh viên thuộc địa tại Đại Học Lao Động Cộng Sản Phương Đông ở Moscow, tổ chức thành phần công nhân thuộc địa tại Pháp, và bắt buộc các đảng viên quan tâm đến những vấn đề thuộc địa [51].

Việc tham gia lần cuối cùng của Hồ vào cuộc tranh luận về vấn đề nông dân rõ ràng là đã được ông tính toán kỹ lưỡng. Ông phát biểu với tư cách là một chuyên viên về nông dân thuộc địa Pháp chứ không chỉ riêng về Đông Dương. Những nghiên cứu và bài vở của ông và đồng nghiệp từ tờ báo Người Cùng Khổ có thể là cơ sở cho bài phát biểu. Ông đã không bỏ phí thời gian với những lời chính trị sáo rỗng như tỉ lệ phần trăm của bần nông, trung nông, phú nông và địa chủ. Theo ông 95% dân số thuộc địa Pháp đang bị ʺbóc lột hoàn toànʺ [52]. Việc trưng thu đất đai của tư bản Pháp là nguồn gốc của sự bóc lột ấy. Ông nói tại Việt Nam ʺKhi người Pháp đánh chiếm vùng đất này, chiến tranh đã đẩy nông dân ra khỏi làng quê của mình. Kết quả là khi họ quay về quê quán, đất đai của họ đã bị chiếm dụng bởi các chủ đồn điền theo gót đội quân chiến thắng. Chúng đã chuyển nhượng đất đai mà dân bản xứ đã sinh sống và lao động suốt mấy thế kỷ quaʺ

 [53]. Ông đã vẽ lên một bức tranh đen tối của việc hành hạ, mà tồi tệ nhất là những nông dân vùng châu Phi xích đạo, nơi mà ʺngười già, phụ nữ và trẻ em bị giam giữ, hành hạ, tra tấn, bỏ đói, đoạ đày và đôi khi giết chếtʺ [54]. Hồ so sánh việc giải phóng người dân khỏi ách thuộc địa cũng giống như cách mạng vô sản: ʺNhiệm vụ của Quốc tế Cộng Sản là giúp đỡ tổ chức thành phần nông dân đáng thương này. Nhiệm vụ của họ là vạch ra con đường đến cách mạng vô sản và giải phóngʺ [55]. Ta tự hỏi rằng những kỷ niệm của ông ở Trung phần Việt Nam năm 1908 đã ảnh hưởng nhiều như thế nào đến cái nhìn của ông về sự áp bức của người Pháp những bất công mà ông đã chứng kiến khi còn là một thiếu niên chắc chắn đã thúc đẩy ông như thời ông còn ở Paris. Trên thực tế, trong báo cáo cho Quốc Tế Nông Dân vào tháng 7 năm 1924 về giới vô sản Việt Nam, ông đã đề cập đến ʺsự áp bức dã man và đẫm máuʺ của người Pháp năm 1908 [56]. Thời điểm cho cuộc cách mạng dân chủ tư sản hay mối quan hệ công nông đối với ông không quá quan trọng vào năm 1924.

Mặc dù Đại Hội 5 đã đánh dấu sự xuất hiện chính thức của Hồ trong chính trường QTCS, bản thân nó không phải là một diễn đàn quan trọng để thảo luận về các vấn đề thuộc địa. Sự cách biệt ngày càng lớn giữa Trotsky và bộ ba lãnh đạo tại Nga, cùng với thời kỳ hậu tử của cuộc cách mạng Đức bị thất bại năm 1923, đã che phủ mọi chủ đề khác. Với mối nguy hiểm ngày càng lớn của việc chia rẽ trong nội bộ CSQT, mọi quan tâm đều chú trọng vào vấn đề ʺkỷ luật Bolshevikʺ. Câu khẩu hiệu ʺBolshevik hoáʺ xuất hiện lần đầu tiên tại đại hội này những đảng thành viên của  QTCS  bắt  buộc  phải  trở  thành  những  đảng  có kỷ  luật,  ʺkhông  cho  phép  chia  rẽ,  nhiều khuynh hướng hay bè pháiʺ [57]. Chúng phải được tái cơ cấu theo mô hình của đảng Bolshevik Nga. Những thành phần chủ chốt của các đảng thành viên trong QTCS không những phải báo cáo với lãnh đạo của đảng mình mà còn cả với Ban Chấp Hành QTCS. Ban Chấp Hành sẽ có trách nhiệm hiệu đính cương lĩnh của các đảng cũng như tất cả các tài liệu hoạt động khác.

Những dấu hiệu chia rẽ trong nội bộ đảng cộng sản Nga đã xuất hiện trong cuộc thảo luận về sách lược của mặt trận thống nhất, một thảo luận mà Zinoviev gọi là ʺvấn đề gây tranh cãi nhất trong hàng ngũ chúng taʺ [59]. Chính Zinoviev đã đánh giá rất thấp sách lược và nguồn gốc của nó, nhưng ông vẫn chắc chắn rằng nó sẽ tồn tại trong đường lối của QTCS cũng như của đảng CS Nga. ʺSách lược của Mặt Trận Thống Nhất vẫn đúng đắn,ʺ ông nói thẳng thừng. Nhưng ông lại bổ sung một điều khoản về ʺvấn đề phải đặt ra một cách vững chắc, cá biệt cho mỗi quốc gia, phù hợp với những điều kiện thuận lợi.ʺ Ông nhấn mạnh rằng sách lược đang đưa nước Nga trở lại tình trạng kinh tế tương đối ổn định là một sự lùi bước:

Nhìn lại quãng đường đã qua, chúng ta có thể thấy rằng với tổng thể Quốc tế Cộng Sản trong giai đoạn 19211922, những sách lược về mặt trận thống nhất có nghĩa là việc nhận thức rằng chúng ta vẫn chưa chiếm được đa số tầng lớp lao động; thứ hai, phong trào dân chủ xã hội vẫn còn rất mạnh; thứ ba, chúng ta vẫn còn trong vị thế phòng thủ và kẻ thù vẫn đang tấn công... thứ tư, cuộc đấu tranh quyết định vẫn chưa là ưu tiên hàng đầu. Vì thế chúng ta phải thúc đẩy khẩu hiệu:

ʺHướng tới quần chúng!ʺ và kế đến là những sách lược của mặt trận thống nhất... 

Đối với những đảng CS châu Âu, Đại Hội 5 đã thiết lập một hướng đi về phía tả. Karl Radek, người cố vấn của đảng CS Đức đã bị đổ lỗi cho sự thất bại của cuộc khởi nghĩa năm 1923. Cả ông ta và một cách gián tiếp, Trotsky bị phê bình là đã hiểu lầm sách lược của mặt trận thống nhất như là ʺmột liên hiệp hữu cơ với phong trào dân chủ xã hộiʺ [60]. Nhưng cũng nên lưu ý rằng, theo Radek và lãnh đạo ĐCS Đức Brandler, liên hiệp này đã được phê chuẩn bởi QTCS vào năm 1923 [61]. Việc QTCS và giới lãnh đạo Nga một mực đổ lỗi cho những người thực hiện chính sách tại địa phương đã là điềm báo trước cho những gì sẽ xảy ra sau đổ vỡ của mặt trận thống nhất tại Trung Quốc. Điều nên lưu ý nữa là Trotsky không bao giờ là người ủng hộ cho việc hợp tác với tầng lớp dân chủ xã hội. Trong bản ʺTuyên Ngôn của Đại Hội Năm QTCS Kỷ Niệm Mười Năm Chiến Tranh Thế Giới Bùng Nổ,ʺ ông lên án những thành viên dân chủ xã hội Đức vì vai trò của họ trong sự thất bại của cuộc khởi nghĩa 1923: ʺRõ ràng là trong những thời khắc quan trọng, thời khắc giữa sự sống và cái chết của giai cấp tư sản, khi tương lai của giai cấp lao động đang bị đe doạ, những kẻ dân chủ xã hội đã hiểm ác phá hoại mặt trận thống nhất của giai cấp công nhân, dẫn đến sự lưỡng lự trong hàng ngũ công nhân, làm ngã lòng và cô lập đảng cộng sản, và trở thành kẻ cầm trịch cho bọn tư bản phản độngʺ [62]. Trong vài năm sau quan điểm này đã được củng cố vững chắc trong tư tưởng của QTCS và được Stalin truyền bá rộng rãi trong những năm 19281929.

Nhận định của đại biểu người Pháp Albert Treint về mặt trận thống nhất đã tóm tắt quan điểm đang thịnh hành trong đại hội: ʺMặt trận thống nhất là một sách lược nhằm  huy động quần chúng cách mạng và không phải là một tổ chức liên minh với những người cầm đầu dân chủ xã hội . (...) Những chính quyền Lao Động và Cánh Tả tạo ra bởi nền dân chủ tư sản tìm được sự hưởng ứng từ bên trong những đảng phái của chúng ta... đấu tranh chống lại chủ nghĩa tư sản hơn bao giờ hết là đồng nghĩa với đấu tranh chống lại dân chủ xã hội bên ngoài, cũng như đấu tranh chống lại thành phần hữu khuynh bên trong QTCS.ʺ Trong bài diễn văn bế mạc đại hội, ông nói:ʺĐồng thời chúng ta cũng: Chống lại sự xóa bỏ việc Bolshevik hoá ĐCS Nga; Ủng hộ việc Bolshevik hoá các đảng anh em, ủng hộ việc nhận thức rằng Quốc tế Cộng Sản, trong tinh thần Lenin, phải trở thành một đảng Bolshevik quốc tếʺ [63].

Dmitry  Manuisky,  một  thành  viên  nói tiếng  Pháp  của  QTCS  từ Ukraine,  người  được  cho  là xướng ngôn viên cho quan điểm của Stalin, đã giới thiệu trước Đại Hội sách lược mặt trận thống nhất cho các thuộc địa. Ông nêu lên việc ĐCS Trung Quốc đã phê phán các thành viên đảng này tham gia vào Quốc Dân Đảng là ʺphản bội giai cấpʺ. Ông thừa nhận rằng những người cộng sản phải khéo léo giữa việc lợi dụng những sách lược của mặt trận thống nhất đang ʺcách mạng hoá các nước phương Đông,ʺ và việc mất đi đặc điểm riêng biệt của giai cấp họ. Ông công khai tự hỏi rằng những người cộng sản châu Á có nên ʺkhông những hợp tác với các đảng tiểu tư sản mà còn đi đầu trong việc tập hợp họ lại trong những quốc gia lạc hậuʺ [64]. Căn cứ vào một bức thư ông viết vào năm 1925 từ Quảng Đông, Hồ Chí Minh không hề băn khoăn về sách lược hợp tác và trà trộn này. Ở phần tái bút của bức thư, viết cho các đại diện Pháp tại QTCS, ông yêu cầu họ liên lạc với Ủy Ban Nghiên Cứu Thuộc Địa của ĐCS Pháp tại Paris để tìm hiểu xem Nguyễn Thế Truyền có gia nhập ĐCS hay không. Nếu có, Hồ yêu cầu họ ra lệnh cho Truyền ʺgia nhập Nhóm Lập Hiến vừa thành lập tại Paris để lũng đoạn nhóm này (pour la noyauter)ʺ [65].

Dù sao trên tổng thể Manuilsky đã cẩn thận không đi quá xa khi xác nhận sách lược của mặt trận thống nhất. Phần lớn những phát biểu của ông nhắm vào những vấn đề tự quyết của các quốc gia vùng Balkan và trung Âu. Tính hiệu quả của ông chắc chắn đã giảm thiểu vì việc M.N.Roy bị truất phế. Từ năm 1920 Roy đã công khai bất đồng với đánh giá của những đảng viên Sô Viết về phong trào dân tộc tại các nước thuộc địa. Roy cho rằng QTCS nên quan tâm hơn nữa đến tầng lớp công nhân cách mạng và đặc biệt là giai cấp nông dân ở các nước thuộc địa [66]. Khi ông trở thành thành viên với lá phiếu chính thức của Ban Chấp Hành QTCS, ý kiến của ông đã có nhiều trọng lượng hơn. Phát biểu của Hồ trong cuộc tranh luận mà tôi đã trích dẫn ở trên, nằm trong phiên họp thứ 22, sau phát biểu của Roy và Katayama.  Rõ ràng là Hồ ủng hộ chủ trương  về thuộc địa của QTCS, nhưng lại không trực tiếp đối phó với vấn đề đầy tranh cãi của mặt trận thống nhất. Ông chia xẻ với Roy niềm tin rằng cách mạng châu Âu phải dựa trên sự tiến bộ của phong trào giải phóng tại các nước thuộc địa, và có vẻ sẵn sàng đưa ra một thảo luận về phương cách quảng bá quan điểm này. Mục tiêu của ông là sự trì trệ của ĐCS Pháp. Ông còn đi xa hơn trong việc cảnh báo rằng dân chúng thuộc địa đang ʺhướng về những tổ chức dân chủ cấp tiến như Liên Đoàn Nhân Quyền... vì những thành phần này đã cố gắng đại diện hoặc ít ra là đã cho thấy họ đã làm một cái gì đấy cho người dânʺ [67].

Sau Đại Hội 5 QTCS, Hồ Chí Minh còn tham gia vào Đại Hội 3 Công Đoàn Quốc Tế Đỏ (Red International of Trade Unions, còn gọi là Profintern, thành lập năm 1921). Một lần nữa, tư tưởng chủ đạo của ông vẫn là tình cảnh khốn cùng của đất nước mình và sự mong mỏi những đồng chí người Pháp ủng hộ những người anh em lầm than tại các vùng thuộc địa. Trong bản báo cáo dài năm trang của ông trước Đại Hội, ông đưa ra tình hình lực lượng công nhân trưởng thành tại Việt Nam đang chờ đợi để được tổ chức. ʺCó những công ty với con số thợ thuyền rất cao,ʺ ông nói: 3.000 người tại một nhà máy sợi ở Bắc Kỳ, 4.000 người tại các mỏ than ở Vịnh Hạ Long; 8.000 công nhân hoả xa và 30.000 công nhân tại nhà máy Xi Măng Portland. Những công nhân này làm việc trong tình trạng vô cùng khốn khó, theo lời Hồ, từ 12 đến 14 tiếng một ngày, và còn hơn thế nữa tại các đồn điền. Không có vấn đề về hưu trí hoặc bảo hiểm tai nạn lao động; công nhân không được phép đình công [68]. Tồi tệ hơn nữa là tại Việt Nam đang tồn tại ba loại hình lao động mà Hồ gọi là ʺba loại hình nô lệʺ [69]. Đầu tiên là những tù khổ sai được các nhà máy hoặc đồn điền vay mượn họ làm việc trong khi trên người phải đeo gông xiềng. Kế đến là những người đủ tuổi để làm phu tạp dịch ʺcỏ vêʺ (corvée   lao động công ích ND) từ 18 đến 60 tuổi. Con số nhất định cho những ngày lao động công ích thực sự chỉ nằm trên lý thuyết, Hồ nói; ʺTrên thực tế nó là vô thời hạn. Khi một con kênh cần đào hoặc một đoạn đường cần đắp hoặc sửa,ʺ ông giải thích, ʺthì lại có một cuộc tổng huy động kéo dài đến vài thángʺ. Loại hình thứ ba là những người phu được chiêu mộ để đưa sang làm việc tại những thuộc địa của Pháp ở vùng đảo Thái Bình Dương, nơi mà theo lời Hồ, họ bị bán cho các chủ đồn điền và xí nghiệp người Âu.

Tình trạng của công nhân vô cùng tồi tệ, nhưng không hẳn là vô vọng, Hồ phát biểu trước Đại Hội: ʺVới sự trợ giúp của các tổ chức cách mạng mà chủ yếu là Công Đoàn Quốc Tế, chúng ta có thể phá tan gông xiềng áp bức của chủ nghĩa tư bản.ʺ Nhưng những người đồng chí Pháp phải có ʺnhiệm vụ thiết thực để giúp đỡ một cách hiệu quả và thực tế chứ không chỉ bằng lời nói mà thôiʺ. Hồ thảo ra một văn bản chính thức, kêu gọi các công đoàn Pháp ủng hộ quyền được thành lập hội đoàn của dân bản xứ và đề nghị phân công ít nhất là hai cán bộ tổ chức đến Đông Dương [70]. Reynauld, đại biểu Pháp tỏ vẻ tán thành những đề nghị trên nhưng không đưa ra một hậu thuẫn chính thức đối với kiến nghị của Hồ vì công đoàn của ông không đủ tài chánh để đưa cán bộ tổ chức sang Việt Nam [71].

Quốc tế Cộng Sản và Mặt Trận Thống Nhất ở Trung Quốc

Sự do dự của Quốc tế Cộng Sản đang tách xa ra khỏi cái gọi là ʺmặt trận thống nhất thượng tầngʺ được cấu thành bởi những thương lượng giữa tầng lớp lãnh đạo đảng, và nghiêng về ʺmặt trận thống nhất hạ tầngʺ, tạo ra bởi việc kêu gọi sự ủng hộ những cương lĩnh và hành động của ĐCS từ các thành phần công nhân không cộng sản và nông dân. Thật mỉa mai là đúng vào thời điểm này, ĐCS và nhà nước Nga đang thực hiện Luận Cương về Những Vấn Đề Dân Tộc và Thuộc Địa của Lenin bằng cách giúp tổ chức một mặt trận thống nhất hoàn toàn thượng tầng giữa những người quốc gia Trung Quốc trong Quốc Dân Đảng và ĐCS Trung Quốc. Chính sách này có lẽ đã không được đệ trình để thảo luận tại QTCS; Charles McLane (Giáo sư sử người Mỹ ND) chỉ ra rằng đây là một ʺchính sách đa tầngʺ bao gồm ĐCS và các cơ quan chính phủ Nga [72]. Dù những thảo luận trong QTCS ít nhiều cũng được in ra toàn bộ, nhưng chắc hẳn là vì lý do chính trị nên những chính sách về Trung Quốc đã không được thảo luận công khai. Bộ Ngoại Giao Nga không muốn công khai hoá vai trò cố vấn của Borodin cho Tôn Dật Tiên, vì ngại rằng nó sẽ làm lệch hướng  quá trình bình thường  hoá quan hệ với các nền dân chủ phương  Tây. (Những tài liệu của Nga vừa được bạch hoá gần đây cho thấy Borodin là viên chức chính thức trong phái bộ của Bộ Ngoại Giao Nga tại Bắc Kinh. Leo Karakhan đã cân nhắc việc rút Borodin vào cuối năm 1923 vì sợ rằng sự công khai của Tôn Dật Tiên về vai trò cố vấn của Borodin sẽ mang tai tiếng cho Bộ Ngoại Giao [73])

Cơ cấu tổ chức của QTCS về nhiệm vụ hành động ở phương Đông đã liên tục thay đổi từ năm 1919 trở đi. Để tránh nhầm lẫn về khu vực và nhiệm vụ của những văn phòng và ban bí thư của các cục Đông Phương và Viễn Đông, tôi sẽ giải thích vắn tắt về những thay đổi này cho đến thời điểm 1924. Một Phân Cục Đông Phương của QTCS được thành lập vào tháng 12, 1919 theo quyết định của Ban Chấp Hành, nhưng nó đã gặt hái được những gì thì không rõ [74]. Vào tháng 7 năm 1920 một phân cục Nhân Dân Phương Đông được thành lập, trực thuộc Phân Bộ Siberian của ĐCS Nga ở Irkutsk, trong khi đó một Phân Bộ Đông Phương của của Ban Chấp Hành QTCS ra đời vào tháng 5 năm 1920 tại Vladivostok [75]. Rồi vào tháng Giêng năm 1921 một bước mới được thực hiện để liên kết các cơ quan có trách nhiệm về vùng Viễn Đông thuộc ĐCS Nga và QTCS. Phân cục Nhân Dân Phương  Đông tại Irkutsk  được đổi thành ʺĐại diện của QTCS tại Viễn Đông dưới hình thức Ban Bí Thưʺ. Đến tháng 3 năm 1921 có sáu mươi tám nhân viên tại ban này, trong đó có nhà lãnh đạo tương lai của Mông Cổ là Choibalsan [76]. Cho đến cuối năm 1921 ban bí thư có bốn bộ phận: Mông Cổ Tây Tạng, Trung Quốc, Triều Tiên và Nhật [77].

Nhưng tại Đại Hội 4 vào tháng 12 1922 một bản báo cáo cho thấy rằng bộ phận phía Đông làm việc không theo một chương trình cụ thể nào và ʺhoàn toàn vô tổ chứcʺ [78]. Vì thế mà một chỉ thị tái tổ chức lại được ban hành. Một cơ cấu hợp nhất được thành lập và cũng lại mang tên Cục Đông Phương và Karl Radek được bổ nhiệm là người đứng đầu vào tháng 5 1923. Phụ tá của ông là Grigory Voitinsky. Ba phân bộ được thành lập trực thuộc Cục Đông Phương là: Phân Bộ Cận Đông, gồm Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập, Syria, Palestine, Morocco, Tunisia, Algeria và Persia; Phân Bộ Trung Đông gồm Ấn Độ thuộc Anh, Đông Dương và Nam Dương; và Phân Bộ Viễn Đông gồm Nhật, Triều Tiên, Trung Quốc và Mông Cổ [79]. Sự lưỡng lự và cũng có lẽ là tranh chấp quyền lực làm thay đổi nhanh chóng việc quản lý các hoạt động của Phân Bộ Viễn Đông. Ngay sau Đại Hội 4, vào tháng 12 năm 1922, Ủy Ban Vladivostok của Cục Đông Phương QTCS được thành  lập,  bao  gồm  Voitinsky,  Sen  Katayama  và  Maring.  Nhưng  đến  tháng  Giêng  năm  tới, Phòng Tổ Chức của Ban Chấp Hành QTCS đề xuất việc thiết lập một Ban Bí Thư Viễn Đông để báo cáo trực tiếp với Ban Chấp Hành QTCS  mà không lệ thuộc vào Cục Đông Phương.  Văn phòng Ban Bí Thư Viễn Đông có quyền lực rộng hơn Ủy Ban Vladivostok, bị chính thức đào thải và tháng 6 1923. Ban Bí Thư mới cũng nắm quyền quản lý nhân viên Ủy Ban này:Voitinsky, Katayama và Maring. Mặc dù ban bí thư này rõ ràng là trực thuộc Moscow, Voitinsky và Maring giành phần lớn thời gian làm việc tại Trung Quốc [80]. Có thể hiểu rằng sự thay đổi hệ thống điều hành đuợc Bộ Chính Trị ĐCS Nga cho là cần thiết vì đến năm 1923 họ đã quyết định quan tâm cặn kẽ hơn về việc Nga và QTCS hỗ trợ Trung Quốc. Điển hình như vào năm 1923 Bộ Chính Trị và có lẽ là chính Stalin đã chọn Mikhail Borodin nắm việc giúp đỡ Tôn Dật Tiên [81]. Ngay cả vào thời của Lenin, Ban Chấp Hành QTCS đã bị những thành viên thuộc ĐCS Nga lũng đoạn [82].

QTCS bắt đầu tham gia vào việc cố vấn cho phong trào cộng sản Trung Quốc vào mùa xuân năm 1920, khi Voitinsky lần đầu tiên đến Thượng Hải để giúp Trần Độc Tú (Chen Duxiu ND) soạn thảo Cương Lĩnh Đảng Cộng Sản Trung Quốc vào tháng 10 năm ấy [83]. Maring và một phái viên khác của QTCS là Nikolsky có mặt tại Đại Hội thứ nhất ĐCS Trung Quốc vào tháng 7 1921 báo cáo của Maring cho thấy rằng ông đã đưa ra vấn đề liên minh giữa cộng sản và Quốc Dân Đảng trong chuyến đi đầu tiên của mình, nhưng đã bị đại hội bác bỏ [83]. Vì thế mà những chủ trương ủng hộ việc liên minh với các phong trào dân tộc tại các quốc gia tiền tư bản vẫn chỉ là một tuyên ngôn mà không có một kết quả thực tiễn nào. Vào tháng 8 1922, Maring đã thuyết phục được 5 lãnh đạo tối cao của ĐCS TQ chấp thuận một chính sách gọi là ʺKhối chính trị bên trongʺ [85]. chính sách này kêu gọi tất cả các đảng viên ĐCS TQ tham gia vào Quốc Dân Đảng trong khi vẫn giữ nguyên cơ cấu và mục tiêu của ĐCS. 

Vào năm 1923, nước Nga Sô Viết non trẻ đã bắt đầu vạch ra một cương lĩnh hành động để hỗ trợ chính quyền cộng hoà của Tôn Dật Tiên ở miền nam Trung Quốc. Chủ trương này được phát triển từ những mục tiêu đối ngoại của Nga tìm kiếm đồng minh và an vị bờ cõi chúng được theo đuổi với một tốc độ nhanh hơn là những thành viên QTCS muốn. Charles McLane (Giáo sư sử người Mỹ ND) chỉ ra rằng QTCS không trực tiếp liên quan đến những thương lượng ngoại giao dẫn đến sự thoả thuận giữa Adolf Joffe và Tôn Dật Tiên vào tháng Giêng 1923 [86]. Thoả Thuận JoffeTôn đã chứng nhận sự trợ giúp của Moscow cũng như sự chấp nhận có điều kiện của Tôn. Sau đó thì không những chỉ có QTCS cung cấp cố vấn cho Trung Quốc, mà còn có cả cố vấn từ Ủy Ban Trung Ương Đảng Bolshevik Nga, Học Viện Hồng Quân, Công Đoàn Quốc Tế và Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Quốc Tế. Sau khi Hồ chí Minh đến Quảng Châu thì Nông Dân Quốc Tế cũng có đại diện tại đây. 

Nhiệm vụ của QTCS ở Trung Quốc giống như là một chi nhánh của lãnh sự Nga mà trong đó những quyết định cuối cùng đều trực thuộc sự độc quyền của Stalin và Ủy Ban Trung Ương ĐCS Nga. Những chỉ thị của QTCS với ĐCS Trung Quốc cho đến giữa năm 1923 cho thấy một biện pháp cẩn trọng đối với những chủ đích của Tôn. Ví dụ như chỉ thị tháng 5 1923 của Ban Chấp Hành QTCS gửi đến Đại Hội 3 ĐCS Trung Quốc yêu cầu rằng đảng này ʺphải cố gắng thiết lập một liên minh công nôngʺ; nhưng chỉ thị này lại tiếp tục, ʺkhông cần phải nói ra rằng quyền lãnh đạo phải thuộc về đảng của giai cấp công nhân... Để củng cố ĐCS, biến nó thành đảng của đại đa số giai cấp vô sản, tạo ra những lực lượng của giai cấp công nhân trong các liên minh đây là nhiệm vụ hàng đầu của các đảng viên cộng sản...ʺ [87]. Nhưng việc tái tổ chức của các cơ quan đặc trách vùng Viễn Đông của QTCS có thể xem là bằng chứng là những cố vấn của QTCS sẽ làm việc sát cánh với Ủy Ban Trung Ương ĐCS Nga để thành lập mặt trận thống nhất giữa ĐCS Trung Quốc và Quốc Dân Đảng. Như đã nói ở trên, vào tháng Giêng năm 1923, cùng thời gian bản Thoả Thuận JoffeTôn được ký, thì Ban Bí Thư vùng Viễn Đông trực thuộc Ban Chấp Hành QTCS cũng được thành lập. Khi Đại Hội 3 ĐCS Trung Quốc chính thức thông qua chính sách Khối Chính Trị bên trong vào tháng 5 1923, hậu trường đã được sắp xếp cho để Mikhail Borodin  bắt đầu nhiệm vụ của mình tại Quảng Châu. Borodin (Mikhail  Grusenberg),một  một phái viên dày dạn của QTCS, ông đã ở Mỹ 11 năm để dạy tiếng Anh cho dân nhập cư cũng như tổ chức những người xã hội gốc Nga. Borodin rời Bắc Kinh đến Quảng Châu vào tháng 9 1923.

Nhiệm vụ của Hồ tại Quảng Châu

Sau Đại Hội 5 QTCS, Hồ Chí Minh cuối cùng đã thuyết phục được Cục Đông Phương thực hiện kế hoạch đi Trung Quốc của ông. Nhiệm vụ của ông hình như không được định nghĩa một cách rõ ràng. Dù vậy, khó mà tin được rằng những người lãnh đạo QTCS đã không quan tâm đến yêu cầu của ông. Những tóm lược về các sự kiện trong lá thư viết ngày 9 tháng 9 năm 1924 cho thấy rõ là ông rời khỏi Moscow với rất ít hậu thuẫn:

Sau Đại Hội 5, Cục Đông Phương thông báo cho tôi rằng: 1) họ sẽ giới thiệu tôi với Quốc Dân Đảng và tôi sẽ phải làm việc cho họ vì ngoài chi phí cho chuyến đi, Cục đã không có một trợ giúp tài chính nào khác; 2) tôi đến đấy với tư cách cá nhân chứ không phải làm một phái viên của QTCS; 3) tôi không có bất cứ liên hệ gì với đảng chúng ta [có lẽ ông ám chỉ ĐCS Pháp vì ông vẫn là một đảng viên của nó) khi đến Trung Quốc.

Mặc dù những điều kiện trên có vẻ khó khăn nhưng tôi vẫn chấp nhận chúng để được đi khỏi nơi đây. Để bù đắp cho điều kiện 2 và 3, tôi đã yêu cầu đảng mình gửi cho tôi một ủy nhiệm thư đến ĐCS Trung Quốc, yêu cầu họ giúp tôi làm việc. Vì thế khó khăn trên đã được giải quyết [88].

Dù vậy chuyến đi của ông vẫn bị dời lại, lần này là do cuộc nội chiến vừa nổ ra tại Trung Quốc.

ʺQuốc Dân Đảng vẫn chưa trả lời bức thư của Cục Đông Phương. Và ngày khởi hành của tôi lại bị dời lại vô hạn địnhʺ [89], ông viết. Những khó khăn này đã không xảy ra, ông tiếp tục, nếu không vì trở ngại tài chính. Ông đề nghị QTCS nên đơn giản là chu cấp tiền để ông sống ở Trung Quốc vì ông vẫn đang được họ chu cấp tiền chỉ để ʺngồi chơi không ở Moscowʺ.

Vào ngày 19 tháng 9 Hồ viết thư cho Albert Treint, một đảng viên của ĐCS Pháp đã trở thành viên tối cao của QTCS từ Đại Hội 5. Ông là thành viên chính thức của Ban Chấp Hành QTCS cũng như Ban Bí Thư. Trong bức thư Hồ nói rõ khó khăn của mình trong vấn đề mưu sinh tại Quảng Châu. ʺViệc kiếm sống không là một khó khăn với tôi, ngay cả ở một nước mà tôi chỉ biết ngôn ngữ viết chứ không biết ngôn ngữ nói,ʺ ông giải thích. ʺNhưng trong trường hợp của tôi thì có vài trở ngại,ʺ ông bổ sung. Trước hết, ông than phiền rằng ông phải sống bất hợp pháp trong một thành phố ʺđầy rẫy mật vụ Phápʺ. Thứ hai, ông ʺphải được hoàn toàn tự do để làm những gì mình muốn như nghiên cứu tình hình, gặp gỡ mọi người và tổ chức một cái gì đóʺ. Ông thỉnh cầu Treint lần cuối cùng là nên trình bày trường hợp của ông cho Ban Chấp Hành QTCS [90]. Treint đã trình bày với Ban Bí Thư QTCS, cơ quan có thẩm quyền để ra quyết định nhanh chóng, ông kêu gọi Ban Bí Thư yêu cầu Cục Đông Phương xét lại đề nghị trợ giúp tài chánh cho Hồ:

ʺTrong khi thực dân Pháp đang dùng Đông Dương làm bàn đạp để bắt đầu can thiệp vào Trung Quốc thì đây không phải là lúc để Cục Đông Phương cắt giảm nỗ lực tại Đông Dương nếu họ có một chút ý thức chính trịʺ [91].

Rõ ràng là lời kêu gọi của Treint đã thành công, vì cuối cùng Hồ Chí Minh đã đến được Quảng Châu khoảng ngày 11 tháng 11 1924. Khi ông báo cho một người bạn tại QTCS về chuyến đi của mình, ông nói là ông đang trọ tại nhà Đồng chí Borodin với hai hoặc ba đồng chí người Trung Quốc khác. Ông cho biết địa chỉ của mình là Lou, thuộc Văn Phòng ROSTA, Quảng Châu, Trung Quốc [92]. Trong khoảng thời gian giữa 22 tháng 9 đến khi Hồ đến Quảng Châu, ai đó đã sắp xếp cho ông làm công việc thông dịch cho ROSTA, Cơ Quan Điện Báo Nga, tiền thân của thông tấn xã Tass. Vì Borodin đã đi Trung Quốc vào mùa thu 1924, việc này không thể là do ông sắp đặt. Rất có khả năng là do công can thiệp của Voitinsky mà Hồ tìm được nơi ở lý tưởng này tại Quảng  Châu.  Voitinsky  lúc  ấy  đã  quay  lại  Moscow  và  quay  lại  Trung  Quốc  vào  tháng  11

1924[93]. Thư từ trong văn khố QTCS cho thấy ông có một đặc vụ hoặc chỉ điểm tại Bắc Kinh tên là Sam Slepak,  người  này làm việc tại ROSTA  trong  năm 1923.  Vì Slepark  là Phó Cục Đông Phương vào năm 1922, ta có thể cho rằng một nhân viên thường trực của QTCS và ROSTA đã được  dùng  như  là  vỏ  bọc  cho  hoạt  động  của  QTCS  [94].  Việc  Hồ  có  báo  cáo  trực  tiếp  với Voitinsky khi ông hoạt động tại Trung Quốc hay không thì không rõ, nhưng Voitinsky rất có thể là người thu nhận những báo cáo viết bằng tiếng Anh của Hồ từ Quảng Châu (Cả hai Voitinsky và Slepak, cũng như Borodin, đều thông thạo tiếng Anh, một lợi thế quan trọng để hoạt động tại Trung Quốc). Trong khi công việc thông dịch và thông tín viên của Hồ đủ để ông chi tiêu hàng ngày  nhưng  nó không  tạo dựng cho ông được một vỏ bọc như là một phóng  viên thực thụ. Trong lá thư đầu tiên gửi cho Nông Dân Quốc Tế, ông yêu cầu họ tiếp tục giữ tên ông trong danh sách Chủ tịch đoàn hoặc nếu họ quyết định rút tên ông ra thì nên đưa ra lý do rằng ông bị bệnh  ông không muốn mọi người biết việc ông đã đến Quảng Châu vì ông đang sống bất hợp pháp tại đây [95]. 

Tóm lại, ta có thể khẳng định một cách chắc chắn là Hồ Chí Minh không được gửi đến Quảng Châu như một phụ tá trực tiếp hoặc thư ký cho Borodin như trong những giả thiết trước đây [96]. Dù vậy, vị thế và quan hệ của ông trong QTCS giai đoạn 19234 vẫn là một bí ẩn. Có rất ít cơ sở trong văn khố của QTCS về việc Hồ là một thành viên tên tuổi trong giai tầng lãnh đạo ngang hàng với Manuilsky,  hoặc được ai đó đỡ đầu [97]. M.N.Roy,  một nhân vật đầy ấn tượng nói được nhiều thứ tiếng người gốc Brahman Bengal đã nổi lên trong chính trường của QTCS giai đoạn từ năm 1920, chính là đại biểu kỳ cựu cho các vấn đề thuộc địa tại Đại Hội 5 QTCS. Điều rõ rệt là Hồ thích hợp với chủ trương mặt trận thống nhất cho các thuộc địa hơn là Roy, và vì thế đã được Manuilsky khuyến khích ông lên tiếng tại Đại Hội. Nhưng không như Roy và những người gốc Á khác hoạt động trong QTCS trong năm 1924, Hồ không hề đại diện cho một đảng cộng sản châu Á nào cả. Cả hai Semaun của Nam Dương và Sen Katayama của Nhật được đề cử vào Ban Chấp Hành QTCS năm 1924 có thể là vì họ đại diện cho những phong trào cộng sản tương đối lớn mạnh.

Hơn nữa, sự đồng cảm Hồ đối với quan điểm của Manuilsky không đồng nghĩa với những đặc ân. Trong một lá thư gửi Petrov, lãnh đạo Cục Đông Phương, Hồ than phiền về giá tiền thuê nhà mà ông phải trả cho những tiện nghi tồi tệ tại Khách sạn Lux chật chội. ʺTrong những tháng Chạp, tháng Giêng và tháng Hai,ʺ ông viết, ʺTôi ở phòng 176, luôn có 4 hay 5 người ở chung. Ban ngày thì không ngớt ồn ào làm cản trở công việc của tôi. Ban đêm tôi lại bị rận cắn không thể nghỉ ngơi được.ʺ Từ tháng 3, ông được chuyển sang một căn phòng đơn, ông nói. ʺVới diện tích chật chội và đồ đạc giản đơn trong phòng tôi so với những phòng lớn hơn, thoải mái hơn, nhiều đèn, điện thoại, phòng tắm, tủ quần áo, sofa, vân vân... với giá phải chăng thì số tiền họ bắt tôi phải trả thì thật kinh khủng” [98] Với giọng điệu của kẻ bị sỉ nhục Hình như ông cảm thấy rằng mình bị đối xử tệ hơn những người châu Âu hoặc có tầm cở như Roy.

Ấn tượng trong những thư từ liên lạc của Hồ Chí Minh trong suốt 14 tháng sống tại Nga là nỗi bực tức về sự bất động của QTCS. Điều này có thể phản ánh thực tế của QTCS là chính nó cũng không  có  được  một  đường  lối  chắc  chắn  hoặc  vì  việc  đấu  tranh  bè  phái  giữa  Trotsky  và Zinoview đã thu hút mọi quan tâm của giới lãnh đạo. Vị thế đảng viên của Hồ trong ĐCS Pháp có thể đã làm cho tình huống của ông thêm phức tạp Ảnh hưởng của Trotsky đối với ĐCS Pháp cũng đáng kể và đến tháng Giêng năm 1923 ông vẫn còn giao chức cố vấn của QTCS cho ĐCS Pháp, với Jaques Doriot là người phụ tá [99]. Trong bãi mìn chính trị này, Hồ Chí Minh có vẻ như đã học được cách ứng xử với những cấp quyền thế để theo đuổi những mục đích của mình. Phong cách của ông khác biệt hẳn với Roy Sở trường của Roy là tranh luận lý thuyết, và đến năm 1929 ông đã bị đẩy ra khỏi QTCS. Hồ thấy có thể quảng bá kế hoạch của mình với Albert Treint, một người cánh tả theo phe Zinoviev, mặc dù Hồ không hoàn toàn đồng ý với với mọi quan điểm của Treint. Khi đến Quảng Châu, Hồ đã viết thư cho một đồng nghiệp tại Moscow rằng Treint đã ʺđấu tranh hết mìnhʺ để ông đến được Trung Quốc [100]. Dấu hiệu đầu tiên về vị thế chính trị không hoàn toàn vững chắc của Hồ trong QTCS chỉ xuất hiện vào khoảng cuối năm 1927 và 1928, khi ông bắt đầu chuẩn bị quay lại châu Á. Đến cuối năm 1927 Albert Treint bị trục xuất khỏi ĐCS Pháp và những ai tỏ rõ ngọn nguồn về sự thất bại của chính sách của Stalin về mặt trận thống nhất tại Trung Quốc đều bị đặt dưới tầm nghi vấn. 

 

CHƯƠNG 3:

THỜI GIAN TẠI QUẢNG CHÂU VÀ NHỮNG HỆ QUẢ (19248)

Mặc dù Hồ Chí Minh không nói được tiếng Quảng Châu nhưng khi đặt chân đến bến cảng nhiệt đới này ông vẫn có cảm giác của một chuyến hồi hương sau bao cách trở. Quảng Châu là một tiền đồn cho những chiến sĩ Việt Nam tự do từ khi triều đại Mãn Châu sụp đổ vào năm 1911. Nhưng những hy vọng ban đầu của người Việt về hậu thuẫn của cộng hoà Trung Hoa trong việc giúp đỡ tiền bạc và vũ khí cho cuộc khởi nghĩa chống Pháp đã nhanh chóng tiêu tan. Việc tăng cường đàn áp của Pháp tại Việt Nam trong giai đoạn Chiến Tranh Thế Giới thứ I cộng với ảnh hưởng mờ nhạt của Tôn Dật Tiên tại Trung Quốc dẫn đến những thất vọng đắng cay của người cầm đầu phong trào chống Pháp Phan Bội Châu. Những hoạt động phá hoại với mục đích kêu gọi sự quan tâm của chính phủ Tôn Dật Tiên cũng như chính phủ Đức trong thời kỳ chiến tranh đã làm mất đi một số thành viên trung thành của Quang Phục Hội [1]. Sau vụ đặt bom giết hai đại tá Pháp tại một khách sạn Hà Nội tháng 4 năm 1913, bảy người đã bị xử tử hình và 57 người khác bị cầm tù, trong đó có hai người em của Phan Văn Trường [2]. Bản thân Phan Bội Châu cũng bị giam tại một nhà tù Trung Quốc trong những năm 191417, sau đó ông ẩn dật tại Hàng Châu và kiếm sống bằng cách viết bài cho tờ báo Quân Sự [3].

Hồ Chí Minh xuất hiện trong bối cảnh ấy vào tháng 11 1924, vào lúc sự hỗ trợ quân sự của Nga tại Quảng Châu đang đến mức tối đa với khoảng 50 giảng viên [4]. Chuyến tàu chở vũ khí đầu tiên từ cảng Vladivostok  đến Quảng Châu vào ngày 8 tháng 10 [5]. Mặt trận thống nhất giữa ĐCS Trung Quốc và Quốc Dân Đảng đã được chính thức hoá trong Đại Hội Quốc Dân Đảng lần

1 vào tháng Giêng 1924, khi việc thành lập trường quân sự Hoàng Phố trên sông Châu Giang được phê chuẩn. Cũng thời gian đó ba đảng viên cộng sản cũng được bầu vào Ban Chấp Hành Trung Ương Quốc Dân Đảng, trong khi đó 6 đảng viên cộng sản khác, trong đó có Mao Trạch Đông cũng là những thành viên ứng cử [6]. Thời gian Hồ sống tại Trung Quốc cho đến tháng 5 1927, trùng hợp với thời điểm thành công chính trị của chính phủ tại Quảng Châu. Ông đã tận dụng được khoảng thời gian đầy lợi thế của mặt trận thống nhất, thời gian mà những người lưu vong Việt Nam tại Trung Quốc có thể tự do hấp thụ những bài học và ý tưởng mới từ những cố vấn người Nga, từ những vấn đề quân sự đến lý luận chính trị và phương pháp tổ chức. Khí thế sôi sục tại Trung Quốc đã giúp dấy lên một làn sóng hoạt động chính trị mới tại Việt Nam, nơi cũng đã cung cấp những thành viên mới cho lực lượng nổi dậy trong tương lai ở miền nam Trung Quốc. Điểm chính của chương này sẽ là việc Hồ đã lợi dụng những bối cảnh trên như thế nào để tạo dựng mầm mống cho đảng cộng sản Việt Nam.

Dù thế, thật quá đơn giản nếu cho rằng những năm tháng của Hồ tại Quảng Châu chỉ là một kẻ truyền giáo từ Moscow đến để cải đạo mọi người qua chủ nghĩa cộng sản. Mặt trận thống nhất cũng là một kinh nghiệm đáng học cho ông cũng như những người Việt Nam khác đã sống qua giai đoạn này. Hồ đến vào thời điểm cao trào của khởi nghĩa nông dân tại tỉnh Quảng Châu mà ông có nhiệm vụ phân tích và cổ vũ dưới danh nghĩa của Nông Dân Quốc Tế. Đây là lần đầu tiên ông tiếp xúc với giai cấp nông dân châu Á kể từ thuở thiếu thời tại Trung phần Việt Nam, và chắc chắc là nó đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình chuyển biến của ông từ một tuyên truyền viên để trở thành một nhà tổ chức cách mạng thực thụ. Mặt trận thống nhất giữa ĐCS Trung Quốc và Quốc Dân Đảng lại là một hiện tượng chính trị phức tạp hiếm thấy mà một thời gian sau nó vẫn bị đem ra tái thẩm định và phê phán. Cuối cùng khi mặt trận này tan vỡ vào năm 1927, đấu đá nội bộ trở thành một phần trong cuộc đấu tranh gay gắt cho linh hồn của phong trào cộng sản thế giới. Sự tan rã của mặt trận thống nhất trở thành khuôn mẫu cho những người cộng sản với những mục đích khác nhau cả hai trào lưu Stalinist và Trotskyist đều dùng nó để chứng minh rằng không bao giờ tin vào những đồng minh tư sản. Hồ Chí Minh và những đồng hương trải qua thời kỳ hỗn loạn này đã không hoàn toàn rút ra bài học giống nhau. Cụ thể là những học viên Việt Nam sống tại Trung Quốc trong giai đoạn tan rã của mặt trận thống nhất đã trở thành những người cực đoan nhất trong giai tầng chính trị Việt Nam. Phần cuối của chương này sẽ phân tích những hệ quả này và vị trí của phong trào cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1928.

Có ba nguồn tài liệu chính về giai đoạn này trong sự nghiệp của Hồ Chí Minh, mỗi tài liệu phản ảnh một quan điểm khác nhau về những hoạt động của ông. Trước hết là những báo cáo và thư từ của ông gửi đến các cơ quan của QTCS có trách nhiệm giám sát những hoạt động của ông về việc kết nạp những cán bộ khung cho mạng lưới cộng sản Việt Nam. Kế đến là những thư từ của ông gửi cho Nông Dân Quốc Tế, trong đó cho thấy ông đã tích cực tham gia vào phong trào nông dân tại Quảng Đông, đặc biệt là trong năm 1925. Nguồn tài liệu thứ ba là tàng thư Pháp, cụ thể là những báo cáo của điệp viên Sở Liêm Phóng có tên là Lâm Đức Thụ (còn có tên là Nguyễn Công Viễn, Nguyễn Chí Viễn hoặc Hoàng Chấn Đông).

Là một trong những phụ tá chủ lực của Phan Bội Châu, từng tốt nghiệp Học Viện Quân Sự Bắc Kinh, Lâm Đức Thụ (còn gọi là điệp viên Pinot) đã sớm trở thành một thành viên trong nhóm bí mật của Hồ. Là con trai của Nguyễn Hữu Đàn, một một đồng học với cha của Hồ tại Trường Quốc Tử Giám ở Huế [7]. Những  báo cáo của Thụ gửi cho Sở Liêm Phóng  đôi khi bao gồm những  nhận  định  sâu  sắc về phương  pháp  hoạt  động  của Hồ,  nhưng  phần  đông  thường  là những  tường  thuật  từ những  tin đồn gián tiếp, giống  như những  mật vụ khác của Sở Liêm Phóng đã từng làm. Việc này chỉ có thể giải thích là do Thụ không lọt sâu vào được hàng ngũ tin cẩn của Hồ nhưng cũng có thể là do Thụ đã không báo cáo tất cả với Sở Liêm Phóng. Những cộng tác viên của Thụ, trong đó có cả hai đồng minh gần gũi nhất với Hồ là Lê Hồng Sơn và Hồ Tùng Mậu, đều tin rằng Lâm Đức Thụ chỉ truyền đạt những thông tin vô bổ cho người Pháp để nhận tiền thưởng đem giúp cho tổ chức[8].

Công bằng mà nói, rõ ràng là Sở Liêm Phóng cũng đã gặt hái được nhiều thành quả từ sự hợp tác của Lâm Đức Thụ. Rõ ràng là ông là một điệp viên vô cùng quí giá ít nhất là cho đến năm

1929. Ông rất tự tin về giá trị của mình nên đã liên tục yêu cầu tăng tiền thưởng. Ví dụ như vào tháng Chạp năm 1926, ông than phiền rằng tiền lương của mình bị chậm trễ ʺvà hơn thế nữaʺ, ông viết, ʺtôi chẳng nhận được toàn bộ số tiền còn thiếu và những chi phí liên lạc đang làm tôi phá sản” [9] Là một thợ chụp ảnh tại Quảng Châu, ông đã chụp hình rất nhiều thành viên vừa tham gia vào nhóm hoạt động của Hồ Chí Minh [10]. Những bức ảnh này đã được người Pháp sử dụng trong giai đoạn 19301 để nhận diện những nghi can cộng sản. Dù vậy, đến tận cuối năm 1929 những người cộng sản miền nam Trung Quốc mới vỡ lẽ rằng lòng trung thành của Thụ chỉ dành cho người Pháp [11]. Vào đầu năm 1925, Thụ đã tìm cách đánh động người Pháp rằng Hồ Chí Minh đã đến Trung Quốc dưới bí danh Lý Thụy [12]. Mọi cố gắng của Hồ nhằm giữ bí mật về sự hiện hữu của ông đối với người Pháp đã trở nên vô ích.

Bước đầu tổ chức

Hồ thông báo việc ông đến Quảng Châu cho những đồng sự cộng sản trong một số thư từ đề ngày 12 tháng 11 năm 1924. Ông bảo rằng ông đã đến nơi một ngày trước đó [13], mặc dù trong thư ông lại viết như ông đã chứng kiến rất nhiều sự kiện xảy ra tại Trung Quốc lúc bấy giờ. Một trong những lá thư có nội dung tường thuật trực tiếp việc bà Fanya Borodin,  vợ của Mikhail Brorodin, đã tổ chức phong trào phụ nữ Trung Quốc ra sao [14]. Có thể ông đã đi xa lên đến Thượng Hải với Voitinsky,  người đã từ Moscow quay lại Trung Quốc vào tháng 11. Dù gì đi nữa, ông đã mau chóng tiếp cận và tổ chức liên lạc với Cơ quan ROSTA, nơi chu cấp nguồn thu nhập của ông trong thời gian sống tại Quảng Châu. Vấn đề quan tâm cấp bách nhất trong thủ đô nước cộng hoà Trung Hoa lúc ấy là chuyến đi của Tôn Dật Tiên đến Bắc Kinh, vị tổng thống Quốc Dân Đảng hy vọng có thể thương lượng về một hoà hoãn chính trị với các lãnh chúa phía bắc [15]. Hồ viết bằng tiếng Anh với lối hành văn súc tích thường lệ cho một người bạn vô danh ở QTCS:  ʺTôi vẫn chưa  gặp gỡ ai cả. Mọi người  ở đây đều bận rộn về chuyến  du hành  lên phương Bắc của Bác sĩ Tônʺ [16]. Trong bức thư gửi cho Tomas Dombal, tổng bí thư Nông Dân Quốc Tế người Ba Lan, ông xin lỗi vì đã không thông báo cho những uỷ viên ban chấp hành về chuyến đi Trung Quốc của ông. ʺQuyết định cho chuyến đi từ Moscow của tôi đã được đưa ra rất đột ngột và tôi đã không có thời gian báo cho ông biết,ʺ ông viết bằng tiếng Pháp. Sau đó ông tường thuật việc những nông dân cùng khổ được tổ chức ra sao dưới ʺsự bảo hộ của Quốc Dân Đảng, nhưng lại ở dưới sự chỉ đạo của những người cộng sản. Đây là cơ hội tuyệt vời cho việc tuyên truyền của chúng taʺ [17].

Hồ đã giả danh một nữ đảng viên Quốc Dân Đảng có tên là Loo Shing Yan để viết bài tường thuật về phong trào phụ nữ. Ông gửi kèm với một lá thư giới thiệu cho một tờ báothư phụ nữ [18]. ʺKhi tôi còn làm việc tại QTCSʺ, ông viết, ʺTôi rất hân hạnh được hợp tác với quí báo. Hiện nay tôi mong muốn được tiếp tục hợp tác. Nhưng vì tôi đang hoạt động bất hợp pháp tại đây nên tôi sẽ gửi những bài báo dưới dạng ʺnhững lá thư từ Trung Quốcʺ, và sẽ ký tên của một phụ nữ. Tôi cho rằng việc này sẽ giúp chúng giữ được tính nguyên thuỷ và đa dạng, và đồng thời cũng để bảo đảm bí mật cho tôi.ʺ Ngay khi Hồ nhận nhiệm vụ là một thông dịch viên và tuyên truyền viên cho ROSTA chắn hẳn là ông đã tìm cách liên lạc với những người Việt lưu vong sống rải rác ở miền nam Trung Quốc. Vào cuối năm 1924 những người này dường như không có một tổ chức chặt chẽ nào. Họ đã được thu nhập vào những học viện hoặc quân đội địa phương, cụ thể là quân đội Vân Nam của tướng Yang Ximin, đang chia sẻ quyền lực tại tỉnh Quảng Đông cho đến giữa năm 1925. Một số khác như thủ lĩnh phiến quân người Việt gốc Hoa là Tam Kam Say, một thổ phỉ, kết giao với bọn buôn thuốc phiện và trộm trâu ở vùng biên giới. Ngay cả trước khi Hồ đến Trung Quốc, vị thế của Phan Bội Châu trong thành phần lưu vong người Việt cũng đã trở nên mờ nhạt hơn thời kỳ trước chiến tranh. Trong khoảng thời gian 1923, một số trong họ bắt đầu gây dựng một tổ chức mới lấy tên là Tâm Tâm Xã và không mời Phan Bội Châu tham gia. Thanh danh của ông đã bị hoen ố bởi luận thuyết về sự hợp tác PhápViệt mà ông đã viết theo chỉ thị của Phan Bá Ngọc, một người lưu vong và bị tình nghi là chỉ điểm cho Pháp. Phan Bá Ngọc  là con trai của thủ lĩnh dân tộc Phan  Đình Phùng  người  Nghệ  Tĩnh, Ngọc  bị thuyết phục bởi những hứa hẹn cải cách của Toàn Quyền Sarraut[19].  Ông đã bị ám sát với tội danh phản bội bởi Lê Hồng Sơn vào năm 1922 theo lệnh của Cường Để [20]. 

Tâm Tâm Xã bắt đầu khôi phục lại một số mạng lưới quyên góp trong nước của Phan Bội Châu, và vào tháng 6 1924 họ đã thực hiện một vụ đánh bom nhằm vào Toàn Quyền Pháp Merlin đang đi qua Quảng Châu [21]. Trong khi tài liệu của Hà Nội và hồi ký của Phan Bội Châu đều không nhấn mạnh việc này, Lê Hồng Sơn sau này đã khai nhận với Sở Liêm Phóng Pháp về vai trò lãnh đạo của Nguyễn Hải Thần trong vụ mưu sát. Nguyễn Hải Thần là một người quốc gia gốc miền bắc đã tham gia phong trào Phan Bội Châu năm 1905 và là một du sinh tại Nhật. Chuyện kể rằng ông đã tìm gặp một kẻ phản loạn người Hoa là sĩ quan trong quân đội Vân Nam đang đồn trú tại Quảng Châu, người này đã giúp ông chế tạo hai chiếc cặp đựng bom. Một chiếc được đặt tại khu tô giới Pháp là Sa Diện bởi một người lưu vong tên là Phạm Hồng Thái giả dạng một nhiếp ảnh viên. Quả bom nổ giết chết ba khách người Pháp nhưng  không trúng Merlin [22]. Phạm Hồng Thái chạy trốn và bị chết đuối trên sông Châu Giang và trở thành một anh hùng dân tộc. Điều cay đắng là vào thời điểm vinh quang này của những người Việt quốc gia, được xem như là màn khởi đầu cho trận chiến mới chống lại người Pháp, cũng là thời điểm mà Lâm Đức Thụ vừa chiếm được lòng tin của Liêm Phóng Pháp. Những đồng chí của ông cho rằng chính ông đã báo trước với người Pháp về vụ đánh bom và cũng đã giao nộp chiếp cặp đựng bom thứ hai cho họ để lấy thưởng [23].

Việc ám sát Merlin dường như đã giúp Phan Bội Châu gia tăng sinh lực. Ông đến Quảng Châu vào cuối mùa hè, vài tháng trước khi Hồ đến, để hội ý với những người lưu vong Việt Nam và để tiếp xúc những cố vấn Nga vừa được cài đặt tại Học Viện Quân Sự Hoàng Phố [24]. Vào thời điểm ấy có lẽ ông đã giúp một số môn đệ trẻ của mình được thu nhận vào trường này nhờ sự tận tâm  từ văn  phòng  của  một  lãnh  đạo  Quốc  Dân  Đảng  là Liêu Trọng  Khải  (Liao  Zhongkai ND) [25]. Ông cũng bàn thảo với các đồng hương lưu vong về việc đổi Quang Phục Hội trở thành Việt Nam Quốc Dân Đảng. Họ đã thành lập một số uỷ ban, dựa trên cơ cấu tổ chức của Quốc Dân Đảng Trung Quốc, theo trong hồi ký của ông [26]. Nhưng đến tháng 11 1924 Phan lại quay về Hàng Châu và ở lại đấy cho đến tháng 6 năm sau.

Trong số những học viên người Việt theo học tại Học Viện Hoàng Phố vào mùa thu 1924 có Lê Hồng Sơn, Lê Hồng Phong và Lê Quảng Đạt, đều là người Nghệ An [27]. Nhưng một số học viên theo học tại Hoàng Phố khoảng giữa năm 1925 là những học viên thuộc quân đội Vân Nam trong năm 1924, có lẽ dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Hải Thần. Những người này gồm có: Hoàng Lương, Lưu Bích, Ngô Chính Quốc, và Liêu Khắc Thanh, theo báo cáo của Lâm Đức Thụ. Cùng với Nguyễn Hải Thần, những người lưu vong lớn tuổi khác như Đinh Tế Dân và Đặng Sư Mặc đã làm đến chức sĩ quan quân đội Vân Nam. Cũng nên nhớ rằng cho đến mùa thu 1924, Hoàng Phố chỉ vừa mở cửa được vài tháng và vẫn còn trong giai đoạn tổ chức. Vào tháng 10 1924, Ủy Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc nói rõ rằng họ đã không vừa lòng mấy với cung cách làm việc của học viện. Họ báo cáo với Borodin rằng những kẻ phiến loạn đang cầm đầu học viện và một số trung đoàn kiểu mẫu vừa thành lập đã ʺnằm trong tay những người nàyʺ. ʺHọ đang sử dụng tiền bạc của ông để làm những việc quái quỉ gì không ai biết,ʺ họ viết trong thư [29]. Vì thế rất khó mà biết được chất lượng về quân sự và chính trị mà những học viên người Việt thuộc những khoá đầu tiên đã học được.

Hồ Chí Minh đến Quảng Châu vào một thời điểm thuận lợi, khi người Việt vừa nhận ra được tiềm năng của phái đoàn cố vấn Nga nhưng lại chưa quyết định được sẽ phải làm gì sau vụ đánh bom ám sát Toàn Quyền Merlin.  Phan Bội Châu đang ở Hàng Châu, quá xa để đóng vai trò quyết định về những công tác hàng ngày ngay cả nếu những người lưu vong trẻ sẵn lòng để ông tham gia vào những  thảo luận của họ. Là một thành viên trong phái đoàn cố vấn Nga và là người từng sống tại nhà của Borodin, Hồ có được lợi thế trong việc tìm kiếm hậu thuẫn cho tổ chức  của những  người  quốc  gia mà sau này  đã tiếp thu  những  đường  lối tổ chức  chính  trị Leninist của ông. Nhưng tìm được hỗ trợ tài chính từ phái đoàn Nga thì không dễ dàng như người ta nghĩ. Hơn nữa, tình hình nội bộ của những người Việt lưu vong cũng lỏng lẽo hơn là mọi người vẫn nghĩ. Trong thời gian từ tháng 12 đến tháng 9 1925 Hồ đã triệu tập được một số thanh niên cốt cán cho tổ chức cộng sản nguyên thuỷ, đa số trong họ vẫn giữ lòng trung thành cho đến khi ông rời khỏi Quảng Châu vào năm 1927. Nhưng quá trình này, được nhìn theo một góc độ khác như là một thắng lợi của học thuyết MarxistLeninist  và phương pháp tổ chức cũng như tài vận động của Hồ cùng với giả thiết về sự phản bội của Phan Bội Châu, vẫn cần nên nghiên cứu kỹ hơn là những tài liệu mà sử sách cộng sản Việt Nam muốn chúng ta tin vào.

Trên lý luận của những người chống cộng về việc Hồ Chí Minh nắm quyền lãnh đạo tại Quảng Châu, thì ông đã chỉ điểm cho người Pháp bắt Phan Bội Châu nhằm mục đích thanh toán đối thủ thật sự của mình. Chuyện kể rằng Hồ đã mật báo cho cảnh sát Pháp về những hoạt động của Phan và đã lừa ông đến một địa chỉ thuộc tô giới quốc tế tại Thượng Hải, và vị chí sĩ yêu nước này đã bị bắt tại đây [30]. Ngoài lý do trừ khử đối thủ, một nguyên nhân khác giải thích cho hành động của Hồ là ông muốn lĩnh số tiền thưởng mà người Pháp đã treo giải cho cái đầu của Phan Bội Châu.  Người  ta cũng cho rằng Hồ đã tính toán rằng việc bắt giữ Phan sẽ gây nên những phản đối tại Việt Nam và do đó sẽ thúc đẩy phong trào kháng Pháp [31].

Nhưng căn cứ theo báo cáo của Lâm Đức Thụ thì dường như Hồ không dính líu đến việc chỉ điểm Phan cho Sở Liêm Phóng. Những báo cáo này nêu rõ rằng Thụ đã thông báo với người Pháp từ lâu về những hoạt động của Phan, ít nhất là từ năm 1924 [32]. Vì thế khi người Pháp quyết định đã đến lúc bắt Phan, họ không gặp mấy khó khăn trong việc tìm kiếm dấu vết của ông. Ông đã bị bắt vào tháng 7 1925 (có thể là không phải vào tháng 6 như đa số giả thiết dựa trên những hồi ức của Phan) và bị gửi trả về Hà Nội. (Lâm Đức Thụ báo cáo rằng Phan dự định đến Quảng Châu vào cuối tháng 7 1925; lúc ấy ông vẫn chưa bị bắt, căn cứ theo báo cáo này vào cuối tháng 6, 1925 [33]). Vào tháng 11 1925, ông bị tuyên án khổ sai chung thân. Chiến dịch phản đối bản án của ông đã biến thành hàng loạt những cuộc bãi khoá và biểu tình trên toàn quốc mà kết quả là đã thúc đẩy nhiều sinh viên dấn thân vào con đường hoạt động bí mật. Trên thực tế, phiên toà xử Phan Bội Châu đã giúp quảng bá phong trào kháng chiến tại Trung Quốc, căn cứ theo lời khai của một nhà hoạt động bị bắt năm 1931.

Người thanh niên 20 tuổi Trần Văn Thanh khai rằng, ʺvụ án Phan Bội Châu đã mở ra cho mọi người thấy sự hiện hữu của những  nhà cách mạng Việt Nam tại Trung  Quốc,  đặc biệt là tại Quảng Châu. Học sinh chúng tôi không bàn gì ngoài chuyện  5 nghìn binh lính của quân đội Hoàng  Phốʺ [34]. Đến tháng Chạp 1925 viên Toàn Quyền  mới là Alexander  Varenne  đã phải nhượng bộ giảm bản án của Phan xuống thành quản thúc tại gia chung thân. Nhưng thật khó mà tin rằng Hồ đã có thể tiên liệu trước hệ quả của việc Phan bị bắt để lợi dụng nó một cách tài tình như người ta đã cáo buộc ông [35].

Hơn nữa, thật khó để nhìn ra vì sao Hồ lại muốn trừ khử Phan, vì trong những bức thư của mình ông cho rằng mình đã có nhiều thành công trong việc thuyết phục những ʺphần tử ưu tú nhấtʺ trong hàng ngũ Việt Nam Quốc Dân Đảng nghe theo quan điểm của mình. Văn khố Pháp có lưu giữ một lá thư của Phan Bội Châu gửi cho Hồ vào đầu năm 1925, cho thấy vị sĩ phu già không nghĩ rằng ông và Hồ là đối thủ của nhau, ông còn cho là Hồ sẽ bảo đảm cho công cuộc đấu tranh chống Pháp được liên tục đến thế hệ sau. ʺNgoài cháu, còn ai có thể tin được để gánh vác trọng trách thay thế ta?ʺ Ông hỏi. ʺTa rời tổ quốc khi đã gần tứ tuần,ʺ Phan viết, ʺvà ta không thể giũ bỏ được những gì ta đã học vì thế mà ý tưởng hiện tại của ta cũng không khác gì ngày xưa. Cháu đã học xa hiểu rộng và đã đi qua nhiều nơi hơn Bác mười lần, trăm lần hơn. Tư tưởng và kế hoạch của cháu đều hơn hẳn của ta cháu có thể chia xẻ một vài công tác với ta được không?ʺ ông hỏi, dường như với một chút mỉa mai. Phan Bội Châu cũng là bạn cùng huyện của thân phụ của Hồ ở Nghệ An, con rể của Phan là Vương Thúc Oánh cũng là người cùng làng với thân phụ của Hồ. Cả hai anh chị của Hồ đều chịu án khổ sai vì đã ủng hộ những đồng chí của Phan. Hồ Chí Minh chắc hẳn dùng Phan Bội Châu như một bù nhìn cho phong trào của mình miễn là Phan không có hành động ngăn cản kế hoạch của ông.

Không phải là không có vấn đề cạnh tranh trong nội bộ người Việt ở miền nam Trung Quốc. Nguyễn Hải Thần (còn có tên là Vũ Hải Thụ, Nguyễn Cẩm Giang), chẳng bao lâu đã không có cảm tình với Lý Thụy, và đến đầu năm 1927 đã tổ chức một nhóm kháng Pháp riêng. Ông và Hồ đã trở thành đối thủ cho đến năm 1946. Nhưng trong những tháng đầu sôi nổi của thể chế cộng hoà tại Quảng Châu, khi mặt trận thống nhất được xem là giải pháp cho cả hai phe quốc gia và cộng sản, sự khác biệt trong xu hướng chính trị của họ chưa là trở ngại cho sự hợp tác của hai bên. Hồ Chí Minh biết cách vận dụng thế lực chính trị đồng thời nhượng bộ cho những người lưu vong khác nắm giữ những chức vụ quan trọng trong các tổ chức mà ông thành lập. Việc quân đội Vân Nam bị đánh bại vào giữa năm 1925 cũng góp phần tích cực cho ông, như ta thấy, bằng cách sử dụng trường Hoàng Phố như là nguồn tiếp liệu chính trong việc đào tạo và cung cấp việc làm cho những người Việt lưu vong. Nhìn chung, những bằng chứng do báo cáo của Lâm Đức Thụ cung cấp cũng như những báo cáo của Hồ đến QTCS đã giúp rút ra kết luận rằng những người quốc gia Việt Nam và những người cộng sản nguyên thuỷ đã chưa thiết lập được những tổ chức với đường lối rõ rệt trong lần đầu Hồ đến Trung Quốc. Những người lưu vong như Lê Hồng Sơn và Trương Văn Lềnh, hai phụ tá tin cẩn nhất của Hồ, đã giữ quan hệ chặt chẽ với cả hai phía ít nhất là cho đến năm 1928. Thật sai lầm nếu cho rằng những người lưu vong Việt Nam đã có một quan điểm rõ ràng về sự trợ giúp của cộng sản đối với phong trào độc lập của họ trong những năm 1924 và 1925. Một khi Hồ vẫn còn những đóng góp tích cực cho những phương cách tổ chức và tiềm năng hậu thuẫn về tài chính thì ông vẫn có lợi thế hơn những thủ lĩnh lớn tuổi đã bị bỏ rơi bởi người Nhật. Nhưng khi QTCS trở nên chậm chạp trong việc đáp ứng những yêu cầu trợ giúp của ông, Hồ lo lắng rằng mình sẽ mất đi ảnh hưởng đối với những người quốc gia. Tôi sẽ phân tích những bằng chứng liên quan đến vấn đề này ở dưới.

Vào  ngày  18 tháng  Chạp  1924,  Hồ viết thư cho Chủ  Tịch  Đoàn  QTCS  báo rằng  ông đã đến Quảng Châu vào giữa tháng ấy. (Không thể giải thích được sự khác biệt về ngày đến của ông trong thư và việc trước đây ông nói là đã đến vào ngày 11 tháng 11. Có lẽ là ông chỉ đơn giản làm theo thói quen nhỏ giọt sự thật với những đối tượng khác nhau). Trong phần tái bút của lá thư ông báo cho QTCS biết rằng ông đã lấy tên Trung Quốc là ʺLý Thụyʺ. Về phần mình, Hồ Chí Minh đã đánh bóng sự khôn khéo của ông trong việc nối kết với các phần tử Việt Nam lưu vong.

ʺTôi đã gặp một số nhà cách mạng quốc gia người Việtʺ, ông viết, ʺtrong số họ có một người đà rời Việt Nam ba mươi năm nay và trong thời gian ấy đã tổ chức được một số cuộc nổi dậy chống Pháp... Mục đích duy nhất của người này là trả thù cho tổ quốc và gia đình đã bị sát hại bởi người Pháp. Ông ta không biết gì về chính trị và càng không biết tí gì về công tác tổ chức quần chúng. Trong những cuộc mạn đàm, tôi đã nêu lên việc cần thiết của việc tổ chức cũng như sự vô ích của những cuộc khởi nghĩa thiếu tổ chức. Và ông ta đã nghe theoʺ [37]. Nếu ta cho đoạn văn trên phóng đại khoảng 10 năm về chuyện nhân vật này rời khỏi Việt Nam thì đúng là Hồ đang nói về Phan Bội Châu. Nhưng căn cứ theo những thư từ của Phan từ đầu năm 1925, thì dường như hai người chưa gặp nhau [38]. Một khả năng khác về danh tánh của nhân vật lưu vong trên là Nguyễn  Hải Thần hoặc Hồ Học Lãm, cũng  là người  đồng  hương  Nghệ  An như Phan Bội Châu, cha và anh của ông đều bị Pháp giết hại. Nhưng Lãm, bác của Hồ Tùng Mậu, vẫn đang ở Hàng Châu trong thời kỳ mặt trận thống nhất. Báo cáo của Pháp về tiểu sử chính trị của Hồ Chí Minh vào năm 1933 cho thấy Nguyễn Hải Thần là người phù hợp nhất với miêu tả ở trên. Báo cáo này có nói rằng khi Hồ đến Quảng Châu, ông đã ʺkhéo léo tham khảo Nguyễn Cẩm Giang, lúc đấy đang là người nắm quyền lãnh đạo các đồng hương của mìnhʺ [39]. Bản báo cáo nói rằng với sự trợ giúp của Nguyễn Cẩm Giang, Hồ đã gây dựng nên một tổ chức mới, nhưng sau đó bất đồng ngày càng lớn giữa hai người và Giang đã thành lập một tổ chức riêng với không quá 30 thành viên. Sự chia rẽ này trùng hợp với tường thuật trong báo cáo của Lâm Đức Thụ về mối quan hệ giữa Hồ và Nguyễn Hải Thần. Nguyễn Hải Thần, còn có tên là Nguyễn Cẩm Giang, có vẻ là người kế nghiệp cho Phan Bội Châu cho đến khi Hồ Chí Minh xuất hiện trong chính trường [40].

Trong lá thư viết ngày 18 tháng Chạp Hồ liệt kê những công tác mà ông và người đồng hương trên đã cùng nhau thực hiện. Họ đã vạch ra một biểu đồ tổ chức. Người đồng hương lập ra một danh sách của mười người Việt Nam đã cộng tác với ông trong quá khứ; và Hồ đã chọn ra năm người từ năm tỉnh khác nhau để đem đến Quảng Châu. Ông dự định hướng dẫn họ rồi gửi họ về lại Đông Dương sau ba tháng đào tạo, sau đó một nhóm khác sẽ thay thế. Đây cũng là sơ đồ hoạt động của tổ chức tương lai mang tên Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, thường gọi tắt là Thanh Niên Hội. Nhưng Hồ chưa nói gì về cái tên này cả, và trong hai lá thư vào tháng Giêng và tháng 2 1925 ông gọi tổ chức của mình là Việt Nam Quốc Dân Đảng (xin xem phía dưới). Để đưa được nhóm người đầu tiên đến Quảng Châu, ông cần khoảng 150 đồng [chắc hẳn là đôla Mỹ) còn lại từ chi phí di chuyển từ Moscow. ʺNhưng sau đó thì sao?ʺ ông hỏi thẳng thừng. ʺTôi chỉ làm việc vài giờ một ngày tại ROSTA, nhưng lương của tôi không đủ để tôi trang trải cho các ʺhọc tròʺ, và sau khi họ đến Quảng Châu, có khả năng là tôi sẽ dành hết hoặc phần lớn thời gian cho việc đào tạo; tình trạng tài chính của tôi sẽ trở nên vô vọng. Vì thế tôi yêu cầu các đồng chí làm ơn ra lệnh cho các đại diện tại Quảng Châu cũng nên giúp đỡ những người Đông Dươngʺ [41].

Đến ngày 5 tháng Giêng 1925 Hồ đã có thể báo cáo: ʺĐông Dương  Quốc Dân Đảng đã được thành lập vào ngày 3 tháng này, khởi đầu với 3 đảng viên.ʺ Ông viết bằng tiếng Anh, vì thế rất có thể là ông  viết  cho  Voitinsky  vốn  thông  thạo  Anh  ngữ.  ʺMột  đảng  viên  sẽ được  điều  về Annam (Trung Kỳ ND) và Lào. Một người khác (chưa là đảng viên) sẽ được gửi đến Tonkin (Bắc Kỳ ND) để đưa năm người khác qua Quảng Châu học công tác tổ chức... Trong lúc ấy, tôi cầu xin đồng chí hãy ra lệnh cho các đồng chí Nga ở đây cũng nên có trách nhiệm với những vấn đề Đông Dương bởi vì một mình tôi sẽ chẳng làm được gì nhiềuʺ [42]. Khi ông viết thư cho Chủ Tịch Đoàn QTCS vào ngày 10 tháng Giêng, lần này bằng tiếng Pháp, ông đã có thể thông báo rằng Quốc Dân Đảng vừa kết nạp thêm thành viên thứ tư. Nhưng ông than phiền rằng ông đã phải vay tiền từ ROSTA để trang trải cho chi phí đi lại của các phái viên [43].

Vào ngày 19 tháng 2 1925 Hồ lại viết cho Chủ Tịch Đoàn QTCS cho biết về những tiến triển vừa đạt được. Lần này ông báo cáo rằng tổ chức bí mật của ông hiện có chín thành viên, hai người trong số đó đã được gửi về Việt Nam; ba người khác đang chiến đấu trong quân đội Tôn Dật Tiên, ông nói, và một người nữa đang thực hiện ʺnhiệm vụ quân sự cho Quốc Dân Đảngʺ. Trong chín thành viên này, năm người cũng là đối tượng đảng của Đảng Cộng Sản (Trung Quốc) [43]. Hồ cố gắng hạn chế đề cập đến tên tuổi của những  người  này trong thư từ của ông, nhưng chúng ta cũng biết từ tài liệu của Việt Nam năm người ấy chính là Lê Hồng Phong, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng  Sơn và Lâm Đức Thụ; Lê Quảng  Đạt, một trong những  học viên đầu tiên tại Hoàng Phố, có lẽ là người thứ năm [45]. Tất cả đều xuất xứ từ Nghệ An ngoại trừ Lâm Đức Thụ người gốc Thái Bình. Nguyễn Hải Thần dường như đã đứng bên ngoài nhóm cốt cán của Thanh Niên Hội, có lẽ vì tư cách sĩ quan của ông trong quân đội Vân Nam. Đến tháng 2 Hồ có vẻ đã thành công trong việc kết nối cơ cấu hiện tại của Tâm Tâm Xã và từ đó sử dụng mạng lưới cũ của Phan Bội Châu: ông báo cáo rằng tổ chức của mình đã có một cơ sở vững chắc tại Xiêm để đưa đón người trong và ngoài nước. ʺCó năm mươi nông dân rất đoàn kết và từ lâu nay họ đã phụ giúp những công tác này,ʺ ông viết.

Khi Hồ chiếm  được lòng tin của những  đồng hương,  những  hoạch định của ông càng mang nhiều tham vọng. Trong lá thư đề ngày 19 tháng 2 ông ước lượng những công việc cần hoàn tất trong 1925 sẽ tốn khoảng 5.000 đôla. Ông cần tiền để thiết lập cơ sở tại Quảng Châu cũng như những cơ sở thông tin tại Quảng Tây; tại vùng cực nam của Quảng Đông; tại Bangkok; tại đoạn cuối của tuyến đường hoả xa Bangkok Tichkho (Udon Thani?), nơi mà theo lời ông chỉ cần hai mươi ngày đi bộ từ Lacfach; và cuối cùng là tại Lachfach (Thakhek?), phía tả ngạn sông Mekong (trên đất Lào), cách Trung Kỳ khoảng mười lăm ngày đi bộ. Ông cũng dự định gửi người về Việt Nam để thâu thập và truyền bá tin tức và cho một số khác làm việc trên những tàu thuyền giữa Trung Quốc và Đông Dương. Cuối thư ông đã đính kèm một bản đồ Đông Dương vẽ rất rõ ràng với những cơ sở trên được đánh dấu.

Nhưng trong một bản ghi nhớ không đề ngày với đầu đề ʺVấn Đề Đông Dươngʺ, hình như đã được viết trong những tháng cuối năm 1925, ông vẫn không chắc chắn lắm về viễn cảnh của tổ chức. Vì nó được viết bằng tiếng Anh, có thể là lại để gửi cho Voitinsky. Trong điểm thứ 4 của bản ghi nhớ, cũng nhằm mục đích xin thêm tiền, ông giải thích: ʺNếu không có sự giúp đỡ và cố vấn của các đồng chí Nga, tôi sẽ gặp khó khăn để tránh mắc phải sai lầm. Nhưng tôi sẽ chẳng được gì cả nếu không có lệnh của đồng chí. Và họ cũng chẳng làm được gì cho tôi với hai bàn tay trắng” [46]. Điểm chính của lời yêu cầu là Hồ cần một điều gì để cho các đồng hương của mình thấy được bằng chứng chắc chắn về sự trợ giúp của người Nga, từ đó ông có thể giữ được uy tín của mình. Trong điểm 1 ông viết:ʺNếu đồng chí đồng ý tôi sẽ gửi ngay lập tức một hoặc hai học viên, điều này sẽ cho phép tôi thực hiện tốt công tác tuyên truyền, để có thể chứng minh được những gì Cách Mạng Nga có thể đem lại cho nhân dân thuộc địa. Điều này cũng cho phép tôi từ giờ đến tháng 8 chiếm được lòng tin của những phần tử tốt trong Đông Dương Quốc Dân Đảng.ʺ

Báo cáo của Sở Liêm Phóng đã giúp hoàn chỉnh một số chi tiết không rõ ràng về hoạt động của Lý Thụy trong những tháng đầu năm 1925. Vào ngày 4 tháng 3 Lâm Đức Thụ báo với đại diện người Pháp: ʺLý Thụy và Nguyễn Hải Thần đang ráo riết làm việc để thành lập một tổ chức mà tôi đã đề cập trong phần phụ chú của báo cáo số 121. Phan Bội Châu không biết gì về những hoạt động này của họʺ [47]. Tên của tổ chức này không được nói đến trong báo cáo hoặc trong bản tóm tắt của Pháp về những hoạt động của Lý Thụy trong việc kết nạp thành viên từ trong nước. Đây dường như là nỗ lực đầu tiên để phát triển một tổ chức được biết đến như Thanh Niên Hội. Bản báo cáo tháng 3 về những hoạt động của Lý Thụy, rõ ràng là đã căn cứ vào nguồn tin của Lâm Đức Thụ, đã do đích thân Toàn Quyền Merlin ký. Ông ghi chú rằng phương pháp chiêu mộ thành viên đã đánh vào tâm lý của người Việt bằng cách yêu cầu thành viên mới phải tuyên thệ trung thành với ʺđảngʺ mới, nhưng nó cũng tránh xa những ʺmỹ từ sáo rỗngʺ của những nhà cách mạng Việt Nam cũ. ʺKhông hề thấy nhắc đến những phương pháp cực đoan,ʺ Merlin viết.

ʺTa có thể thấy rằng Lý Thụy xem đó là bước quan trọng đầu tiên để đưa những thành viên vào những tổ chức có kỷ luật, từ đó sẽ tuân theo mệnh lệnh một cách mù quángʺ [48]. Merlin vô cùng ấn tượng bởi tầm ảnh hưởng của những người ʺBolshevikʺ và phương pháp của họ. Phân tích của ông về đường lối tổ chức cũng hệt như chính Hồ viết: ʺNhững người quốc gia đã tạo ra vài cuộc tấn công: họ luôn thiếu đoàn kết và vẫn chưa thể chiếm được cảm tình của đại đa số quần chúng.ʺ Ông thấy rằng đường lối chống Pháp kiểu mới có thể làm tổn thương đến việc gây ảnh hưởng đến người Pháp ʺnếu để nó phát triển một cách tự doʺ. Nhưng ông đã đề ra một số biện pháp ngăn chận, ông trấn an người lãnh đạo của mình ở Paris.

Đến đầu tháng 3 Lý Thụy đã thuyết phục được những người lưu vong đóng góp nguyệt liễm cho quỹ tuyên truyền. Lý Thụy đóng mỗi tháng 200 đôla, Nguyễn Hải Thần 300, Đinh Tế Dân 100 và Lâm Đức Thụ 50 đôla (có thể Thụ đã báo cáo phần đóng góp của mình ít đi). Theo lời Thụ thì Hồ mỗi tháng lĩnh được khoảng 300 đến 400 đôla tiền lương từ công việc dịch thuật của mình [49]. Thụ báo cáo vào tháng 3 rằng Nguyễn Hải Thần và Lý Thụy đã thoả thuận thiếp lập một mối quan hệ làm việc chung. Ông giải thích:ʺMỗi  người vẫn giữ quyền tự do hoạt động. Nguyễn Hải Thần tiếp tục cổ xuý cho phương pháp khủng bố và Lý Thụy thì thực hiện công tác tuyên truyền cộng sản. Vì cả hai đều theo đuổi một mục đích, họ giúp đỡ lẫn nhau khi có dịpʺ [50].

Dù vậy, công tác tuyển người từ trong nước có vẻ bị chậm trễ trong khi chính quyền cộng hoà Trung Hoa đang củng cố quyền lực trong nửa năm đầu của 1925. Những thành viên Việt Nam duy nhất được kết nạp từ trong nước chỉ là năm hoặc sáu người đến để tham gia các khoá học tại Học Viện Đào Tạo Phong Trào Nông Dân, và con rể của Phan Bội Châu là Vương Thúc Oánh cũng nằm trong số đó. Để hiểu được quá trình phát triển của những tổ chức cách mạng Việt Nam, ta nên lưu ý đến những sự kiện nổi bật của quá trình củng cố quyền lực này. Số phận của những người Việt Nam lưu vong phụ thuộc vào cơ cấu quyền lực địa phương tại Quảng Châu và cả tình trạng của liên minh Quốc Dân Đảng ĐCS Trung Quốc nói chung. Như ta đã thấy, rất nhiều người trong số họ đang phục vụ trong hàng ngũ quân đội Trung Quốc. Hồ Chí Minh, cũng như một số người Việt khác, chỉ có thể dành một phần thời gian của mình cho những vấn đề Việt Nam. Theo báo cáo của Lâm Đức Thụ vào cuối năm 1925, Hồ làm việc mười sáu giờ mỗi ngày, dịch bài cho ROSTA, báo cáo về phong trào nông dân cho Nông Dân Quốc Tế, và tổ chức các cơ sở mà sau này trở thành hạt nhân của đảng cộng sản Việt Nam [51].

Từ tháng 2 đến tháng 5 1925 những học viên Hoàng Phố và quân đội Quảng Châu tham gia chiến dịch tấn công lãnh chúa Trần Quýnh Minh (Chen Jiongmin ND) tại khu vực sông Đông Giang, Quảng Đông. Là một môi giới quyền lực địa phương tại Quảng Đông, Tướng Trần đang đe doạ tái chiếm Quảng Châu trong khi Tôn Dật Tiên vẫn ở Bắc Kinh với sức khoẻ đang suy sụp. Khi Tôn qua đời vào tháng 3, việc tranh giành để kế nghiệp ông vẫn tiếp tục. Quân đội Hoàng Phố bao vây Trần nhờ sự ủng hộ của những dân quân nông dân, những người này thực hiện công tác phá hoại cũng như cung cấp tin tức và tuyên truyền [52]. Ba người trong số chín thành viên thuộc tổ chức bí mật của Hồ cũng tham gia chiến đấu như Hồ đã báo cáo trong lá thư ngày 19 tháng 2. Lê Hồng Sơn phục vụ dưới quyền chỉ huy của Chu Ân Lai (Zhou Enlai ND), chính uỷ Tập Đoàn  Quân  số 1 [53]. Rồi vào tháng  5 những  tướng  lĩnh của quân đội Vân Nam  và Quảng  Tây  trước  đây  đã  tham  gia  Quốc  Dân  Đảng  là  Yang  Ximin  và  Lau  Tchauwan  [Liu Chenhuan) nổi loạn chống lại lãnh đạo nền cộng hoà. Những người lính Hoàng Phố vừa qua thử thách lại một lần nữa ra quân và đánh bại lực lượng nổi loạn. Sự kiện này đã dọn đường cho việc thành lập một chính phủ Quốc Dân Đảng độc lập tại Quảng Châu do Hồ Hán Dân (Hu Hanmin ND) đứng đầu vào cuối tháng 6 1925. Thành công chính trị của mặt trận thống nhất giữa Quốc Dân Đảng và ĐCS Trung Quốc giờ đã lên đến đỉnh điểm. Sự chuyển giao quyền lực chính trị tại địa phương đã đánh dấu một thời kỳ mới trong tổ chức của người Việt. Trước hết sự thất trận của quân đội Vân Nam làm cho Nguyễn Hải Thần mất đi chỗ dựa quyền lực. Lâm Đức Thụ đã báo cáo ngày 15 tháng 6 rằng: ʺHải Thần đã bị đánh bại. Ông ta không còn một người lính nào cả. Ông ta quay lại Quảng Châu nhưng vẫn chưa dám xuất hiện... ông ta đã cạn kiệt nguồn lực và có vẻ rất buồn.ʺ Những học viên trong đoàn quân của ông đang đợi để ʺsát nhập vào đội quân Quảng Châu theo đề nghị của Lý Thụyʺ [54]. Như đã nói ở trên, một số họ đã theo học tại trường Hoàng Phố. Tham gia đội ngũ học viên mới có hai người từ Nghệ An, cựu học sinh từ trường võ bị sĩ quan của Tập Đoàn Quân Quảng Tây: Trương Văn Lềnh và Lê Như Vọng (Lê Thiết Hùng) [55].

Với quyền lực đã được củng cố tại Quảng Đông, mặt trận thống nhất tăng cường quan tâm đến phong  trào  nông  dân và việc tổ chức  công  nhân.  Phong  trào đình  công  ngày  30 tháng  5 tại Thượng Hải (Shanghai ND) được nhanh chóng hưởng ứng bởi cuộc đình công tại Hương Cảng (Hongkong ND) và phong trào tẩy chay hàng hoá Anh tại Quảng Đông. Phong trào ở Hưong Cảng được bắt đầu bằng một cuộc tổng đình công chống lại các công ty ngoại quốc vào ngày 21 tháng 5 cùng ngày đó Hồ Chí Minh đã cho ra số đầu tiên của Thanh Niên, tuần báo này đã tiếp tục xuất hiện cho đến tháng 5 1930. (Số đầu tiên có 60 ấn bản chỉ có hai bài báo; đến tháng 10, 80 ấn bản được phân phối ở Xiêm, Quảng Tây, Vân Nam, Hàng Châu và Quảng Đông [56]) Vào ngày 30 tháng 5 Hội Liên Hiệp Các Dân Tộc Bị Áp Bức ra đời: nó là một tổ chức của những người hoạt động chống thuộc địa gồm Việt Nam, Triều Tiên và Ấn Độ cùng với những người bảo trợ Trung  Quốc.  Liêu  Trọng  Khải  (Liao  Zhongkai   ND),  tân thống  đốc Quảng  Châu  và người đứng đầu phái tả trong Quốc Dân Đảng làm chủ tịch hội, một người Triều Tiên và Lâm Đức Thụ làm phó chủ tịch. Lý Thụy quản lý ban bí thư và tài chính của phân bộ Việt Nam. Hội này là một cơ cấu mới mà trong đó Hồ Chí Minh sẽ tạo ra một tổ chức cách mạng mở rộng cho người Việt tại Quảng Châu.

Hội Liên Hiệp Các Dân Tộc Bị Áp Bức (LHCDTBAB)  thực hiện hai mục tiêu của Hồ. Mục đích chính của nó là chứng tỏ sự hậu thuẫn của nhân dân châu Á đối với cuộc cách mạng Trung Quốc, bắt đầu là việc tẩy chay mậu dịch với người Anh tại Hương  Cảng. Những truyền đơn thành lập Hội do Hồ viết bằng tiếng Hoa đã phản ánh rất rõ [57]. Ngoài ra phân bộ Việt Nam trong Hội cũng hoạt động như một tổ chức cơ bản để kết nạp và đào tạo những  người Việt chống Pháp trong giai đoạn 1925. Thành viên của Hội, trong đó có Nguyễn Hải Thần, là những người đã phát hành tờ báo Thanh Niên. Mặc dù tháng 5 1925 thường được xem là ngày thành lập Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, nhưng theo những bằng chứng có được, hội này đã không chính thức xuất hiện như một đảng chính trị thật sự cho đến khoảng năm 1926. Nó vẫn chưa có một cương lĩnh chính trị và điều lệ chính thức cho đến đầu năm 1927. Có thể Thanh Niên Hội được  thành  lập trước  như một tổ chức cho lớp trẻ trong  Hội LHCDTBAB  và đảm đương vai trò tuyên truyền của Hội, theo Lâm Đức Thụ [58]. Một tài liệu lịch sử gần đây của Hà Nội về những năm tháng của Hồ tại Quảng Châu vẫn cho rằng tên chính thức Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội được đưa ra vào cuối năm 1925. Tài liệu trích dẫn những hồi ký của Vương Thúc Oánh trong đó ông cho rằng một tổ chức có tên là Thanh Niên Cộng Sản Đoàn được thành  lập tại Quảng  Châu,  nhưng  cái tên Việt Nam Thanh  Niên Cách Mạng  Hội là do chính ông và Lê Duy Điếm nghĩ ra khi Điếm quay về từ Quảng Châu vào cuối năm 1925 [59].

Một bản tóm tắt của người Pháp về những báo cáo của Lâm Đức Thụ vào ngày 22 tháng 7 1925 nêu rõ thế lực mới của Hồ từ giữa 1925: ʺNguyễn Ái Quốc đã quyết định nắm quyền lãnh đạo của nhóm cách mạng Việt Nam tại Quảng Châu. Trong khi vẫn làm nhiệm vụ dịch thuật cho bộ phận thông tin của lãnh sự quán Sô Viết, ông ta đã làm việc không mệt mỏi để sửa soạn cho cuộc cách mạng tại Đông Dương. Là thủ quỹ của tổ chức cách mạng Việt Nam, người sáng lập, chủ bút kiêm in ấn của tờ Thanh Niên, người tổ chức của Hội LHCDTBAB tại Quảng Châu, hội viên của tất cả các nghiệp đoàn lao động và tổ chức cách mạng ở Quảng Châu, ông ta tham dự hầu hết các buổi họp tại Vườn Hoa Công Cộng và Đại Học Quảng Châu; ông gặp gỡ những vị chủ nhà danh tiếng tại nhà máy Xi Măng Quảng Châu như Liêu Trọng Khải, Sie Yng Pak và Hồ Hán Dân. Nguyễn  Ái Quốc đã tìm thấy một môi trường hoàn toàn thích hợp cho mình tại Quảng Châuʺ [60]. 

Vào cuối tháng 9 Lâm Đức Thụ mật báo với Sở Liêm Phóng rằng Hồ, Nguyễn  Hải Thần, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn và ông tại một cuộc họp của phân bộ Việt Nam đã quyết định tái tổ chức những người cách mạng Việt Nam ở Quảng Tây và nối lại liên lạc với những người kháng chiến  ở Bắc  Kỳ  (Tonkin   ND).  Hồ  Tùng  Mậu  lĩnh  nhiệm  vụ  trên  tại  Quảng  Tây  trong  khi Nguyễn Hải Thần sẽ đi Bắc Kỳ. Thụ viết: ʺNguyễn Ái Quốc tin rằng chúng tôi cần phải tái tổ chức những nhóm cách mạng trong nước dựa theo những cơ sở tại Quảng Châu... những phần tử đáng nghi sẽ bị thẳng tay trục xuất như đã làm tại Quảng Châuʺ [61].

Lê Hồng Sơn kể lại trong lời khai với Sở Liêm Phóng năm 1933 rằng trong khoảng mùa hè 1925, một nhóm 15 người Việt Nam đã được Hồ Tùng Mậu đưa đến Quảng Châu. Một số trong họ có lẽ đã được Nguyễn Hải Thần và Lâm Đức Thụ chiêu mộ. Vào mùa thu, Lê Hồng Phong, hiện là một sĩ quan trong quân đội Quảng Châu, lấy ngày phép để đưa 7 người trong nhóm quay lại biên giới Việt Nam qua hướng Nam Ninh và Long Châu. Tại biên giới ông giao nhiệm vụ lại cho một người buôn lậu Trung Quốc, người này dẫn họ về đến Bắc Kỳ. Trong số 7 người này có Xuân (Nguyễn Công Thu, em trai Lâm Đức Thụ, sau này trở thành tuyên truyền viên cho Thanh Niên Hội tại Quảng Châu), Hoàng Lùn (Lê Hữu Lập) từ Thanh Hoá, Lê Duy Dung từ Nghệ An, và Nhân (Nguyễn  Ngọc  Ba) cũng từ Nghệ An [62]. Vương  Thúc  Oánh,  con rể của Phan Bội Châu, người đã tạo dựng được một mạng lưới đưa người Việt sang Trung Quốc, đã được kết nạp vào trong nhóm nòng cốt của Thanh Niên Hội vào đầu năm [63]. Những học viên này đã tạo thành một phần của khoá huấn luyện chính thức đầu tiên của Thanh Niên Hội mà Hồ đã nhắc đến trong thư gửi cho QTCS vào tháng 6 1926 bao gồm 10 người [64].

Nhưng khủng hoảng chính trị đã làm gián đoạn những kế hoạch đưa các nhóm học viên sang Quảng Châu. Bản chất hiếu chiến ngày càng tăng của Quốc Dân Đảng ở Quảng Đông, cùng với việc tẩy chay mậu dịch với Anh đã thúc đẩy việc thành lập một liên minh quyền lực mới tại miền nam Trung Quốc giữa những phần tử cánh hữu trong Quốc Dân Đảng và những thế lực đế quốc. Một trong những dấu hiệu về sự tan rã của khối đoàn kết quốc gia là vụ Liêu Trọng Khải bị ám sát vào tháng 8. Những học viên quân sự Hoàng Phố một lần nữa lại gồng mình chờ chiến cuộc mới sắp nổ ra, theo lời Lê Hồng Phong từ học viện Hoàng Phố viết cho những đồng hương trong thành phố [65]. Dù vậy, một thoả hiệp chính trị cũng đã được đưa ra trong đó bắt buộc Hồ Hán Dân, bị tình nghi là chủ mưu trong vụ ám sát, phải lưu vong sang châu Âu. Nhân vật cánh tả Uông Tinh Vệ (Wang Jingwei ND) sẽ nắm quyền lãnh đạo chính phủ, trong khi đó Tưởng Giới Thạch (Chiang Kaishek ND) trở thành Tổng Tư Lệnh của Tập Đoàn Quân thứ 1 Quốc Dân Đảng đồng thời kiêm chức giám đốc Học Viện Hoàng Phố [66]. Việc đưa Uông Tinh Vệ làm người kế nhiệm Tôn Dật Tiên đã được hoàn toàn nhất trí tại Đại Hội Quốc Dân Đảng Toàn Quốc lần 2 vào tháng Giêng 1926. Đại Hội xác nhận sức mạnh của mặt trận thống nhất cũng như sự liên minh của nó với nước Nga Sô Viết [67]. Nhưng cái chết của Liêu Trọng Khải đã làm mất đi sự ủng hộ của Quốc Dân Đảng đối với phong trào nông dân tại Quảng Đông và có lẽ cũng là một thất bại tạm thời cho những kế hoạch của Hồ Chí Minh. Đến giữa năm 1925, ông đã tham gia rất nhiều việc của Nông Dân Quốc Tế, nhưng đến mùa xuân năm sau mối quan tâm của QTCS lại chuyển sang những hướng khác. Khoá đào tạo thứ hai của Thanh Niên Hội cuối cùng cũng đã khai mạc vào mùa thu 1926, trong khi mặt trận thống nhất chuyển hướng chú ý đến chiến dịch Bắc Phạt (Northern Expedition ND). Trước khi phân tích những hậu quả gián tiếp đến Thanh Niên Hội lúc ấy, ta cần nên nhìn lại phong trào nông dân và những lực lượng chính trị phía sau đã ảnh hưởng đến nó như thế nào.

Phong trào nông dân Quảng Đông

Vào giữa tháng 2 1925 và tháng 3 1926, vì nhiệm vụ của mình trong Nông Dân Quốc Tế, Hồ bị cuốn vào một trong những phong trào ồn ào nhất của mặt trận thống nhất: phong trào nông dân Quảng Đông. Công tác tổ chức nông dân tại tỉnh Quảng Đông đã bắt đầu ngay sau khi Đảng Cộng Sản Trung Quốc thành lập, chủ yếu là do sự phát động của Bành Bái (Peng Pai ND), con của một địa chủ giàu có từng du học ở Nhật. Ông đã thành lập các trường học và tổ chức nông dân trong những năm 1922 và 1923 nhưng bị thất bại trong việc bảo vệ chúng khỏi tầng lớp địa chủ giàu có [68]. Nhưng vào mùa xuân 1925, cán cân quyền lực đã xoay chiều trong những vùng nông thôn ở miền đông Quảng Châu khi binh sĩ Quốc Dân Đảng, vừa được huấn luyện và trang bị, đã đánh tan lực lượng của lãnh chúa Trần Quýnh Minh. Những nông hội do Bành Bái thành lập đã trở thành những tổ chức được chính phủ công nhận và được bảo đảm quyền lợi cũng như vị trí trong phong trào mặt trận thống nhất. Họ cũng nắm được quyền tổ chức quân đội riêng để tự vệ chống lại lực lượng Dân Quân (mintuan   ND) của những lãnh chúa mà trên thực tế là những đội quân của tầng lớp thống trị.

Những  lực lượng  quân sự nông dân tại hai huyện  Hải Phong  (Haifeng   ND) và Lục Phong (Lufeng ND) trong khu vực sông Đông Giang được thành lập từ những lớp đào tạo của Học Viện Đào Tạo Phong Trào Nông Dân ở Quảng  Châu. Học viện được Bành Bái thành lập vào tháng 8 1924. Ông đích thân giảng dạy hầu hết những khoá đầu tiên và kiến thiết một chương trình có thực hành mỗi tuần tại các làng xã. Fernando Galbiati (nhà sử học ND) viết rằng trong khoá đào tạo thứ 2, 3, và 4 tại Học viện, ʺyếu tố quân sựʺ không ngừng được tăng cường. Khoá đào tạo thứ 3, hình như bao gồm vài người Việt, kéo dài từ ngày 1 tháng Giêng đến ngày 3 tháng

4 1925. Lấy theo khuôn mẫu tổ chức của một đại đội quân sự và được huấn luyện về thăm dò và tuyên truyền [69]. Lớp đào tạo thứ 4 bắt đầu ngày 30 tháng 4 nhưng bị gián đoạn vì vụ nổi loạn tại Quảng Châu của những tướng lĩnh trong quân đội Vân Nam và Quảng Tây. Theo Galbiati, những học viên đã phân tán về vùng quê đến khi Học viện mở cửa lại vào tháng 7. Năm thanh niên Việt Nam đang theo học khoá này được cho là đã chuyển sang Đại Học Quảng Châu vào cùng tháng đó [70]. Khi chỉ có 50 học viên quay lại sau khi khoá học bị gián đoạn, Galbiati tin rằng những học viên mới người Việt đã được thế vào[71].  Nhóm này tốt nghiệp  vào tháng 9 - 1925. Việc đào tạo của Học viện có thể là nguồn gốc của những đội vũ trang tuyên truyền do Việt Minh thành lập vào năm 1945. Những chủ đề trong khóa học rất thực tế chúng bao gồm việc viết bài tuyên truyền và tổ chức Nông Hội cũng như cách chiếm cảm tình của nông dân bằng cách sử dụng ngôn ngữ địa phương đồng thời ăn mặc và sinh hoạt như những nông dân [72]. Khoá đào tạo thứ 5 tại Học viện do Mao Trạch Đông (Mao Zedong ND) giảng dạy có 43 học viên từ Hồ Nam [73]. (Mặc dù Mao được cho là đã có công sáng lập Học viện, ông chỉ trở thành hiệu trưởng vào mùa xuân 1926).

Vai trò của Nông Dân Quốc Tế trong việc chỉ đạo phong trào nông dân thì không rõ ràng lắm. Những cố vấn người Nga giảng dạy tại Học viện về kỹ thuật do thám và làm việc dưới quyền của Borodin như là những cố vấn đặc biệt trong Bộ Nông Dân của Quốc Dân Đảng có thể không có quan hệ với Nông Dân Quốc Tế [74]. Một trong những người này là S.N. Belenky, được biết trong QTCS là ʺVolinʺ, cũng là một phóng viên của ROSTA, có lẽ ông là người điều hành trực tiếp của Hồ Chí Minh [75]. Trong giai đoạn đầu tổ chức, bản thân Borodin dường như đã nhúng tay rất sâu trong việc cố vấn về vấn đề giảm thiểu ruộng tá điền và vấn đề phân phối đất [76]. Vì thế Hồ Chí Minh, người đại diện Á châu duy nhất trong Nông Dân Quốc Tế (và thông dịch viên tiếng Pháp và tiếng Anh], đã có thể theo dõi và tham gia phong trào nông dân Quảng Đông một cách sát sao. Ông gửi cho Nông Dân Quốc Tế tại Pháp một báo cáo về những trở ngại chính trong giai cấp nông dân Trung Quốc. Họ nhận được báo cáo này vào ngày 2 tháng 3 1925. Bên cạnh mật độ dân số quá cao, nông cụ thô sơ và thiên tai tàn phá, ông còn đưa ra những khó khăn chủ yếu khác như sự tham tàn của giai cấp địa chủ và nạn xâm lăng của tư bản ngoại quốc. Không rõ là Hồ chỉ đơn giản là phiên dịch bản báo cáo này từ người khác hay đã tự tay soạn thảo nó. Ông chỉ đề cập một cách vắn tắt ở phần cuối của báo cáo rằng tầng lớp nông dân đang thành lập các nông hội dưới sự ủng hộ của giai cấp công nhân và chính phủ miền nam Trung Quốc. Những tổ chức sau đây sẽ bị trục xuất ra khỏi các nông hội, ông viết: địa chủ với hơn 100 mẫu đất[77]; những kẻ cho vay nặng lãi; những chức sắc của các tôn giáo; những ai có quan hệ với đế quốc; dân cờ bạc và dân hút thuốc phiện [78].

Vào tháng 8 1925 Nông Dân Quốc Tế gửi Hồ năm nghìn rúp (rubles khoảng 2.500 Đôla lúc ấy) qua tài khoản của Borodin tại Ngân Hàng Viễn Đông. Họ chỉ thị Hồ dùng số tiền này để (1( in bích chương cách mạng và tài liệu về những vấn đề nông dân; (2) gửi đại diện đến các tỉnh khác để thành lập các hội liên hiệp nông dân; (3) gửi một đồng chí đáng tin cậy người Trung Quốc đến Moscow để làm việc trong Nông Dân Quốc Tế; và (4) cung cấp đều đặn tin tức và tài liệu về phong trào nông dân Trung Quốc đến Moscow. Cuối cùng là những bản báo cáo lưỡng nguyệt [79]. Hồ hồi âm bằng tiếng Anh vào ngày 17 tháng 10 rằng ông đã nhận được tất cả thư từ của Nông Dân Quốc Tế từ tháng 8 đến tháng 9 (gồm 11 lá thư tất cả, đa số chúng không nằm trong hồ sơ của Nông Dân Quốc Tế với những trả lời của Hồ) vào cùng ngày 14 tháng 10 1925. Ông hứa sẽ thực hiện hầu hết các chỉ thị của họ. Nhưng ông từ chối gửi một đồng chí đến Moscow,

ʺvì tất cả các đồng chí hiện giờ đều đang cần ở đây, và không ai trong số họ biết ngoại ngữ.ʺ Ông cũng yêu cầu họ chấm dứt gửi tài liệu bằng tiếng Đức, vì không có ai để dịch chúng [80].

Ngày 5 tháng 11 1925 Hồ gửi cho Nông Dân Quốc Tế kết quả thăm dò trong các liên hiệp nông dân trong 7 huyện của tỉnh Quảng Đông [81]. Trong bản tóm tắt kết quả, ông viết rằng nông dân ʺđồng tình với cương lĩnh của Đảng Cộng Sản khi họ không còn lo sợ về vấn đề ʺxã hội hoá phụ nữʺ và họ sẵn sàng hi sinh để bảo vệ giai cấp của mình hoặc ủng hộ chính quyền cách mạngʺ [82]. Có lẽ tiếng Quảng Đông của ông lúc ấy không lưu loát để có thể tham gia trực tiếp vào công việc thống kê; ông đã gửi các báo cáo đến Nông Dân Quốc Tế bằng tiếng Anh. Một lá thư khác viết vào ngày 3 tháng Chạp cho thấy rằng Hồ chủ yếu chỉ chuyển thông tin từ những người tổ chức  chứ  không  tự tay  thu  thập  chúng.  Hồ giải  thích  rằng  những  đồng  chí Trung  Quốc  đã khuyên ông không nên có quan hệ chính thức với Ban Chấp Hành Quốc Dân Đảng trong tư cách đại diện của Nông Dân Quốc Tế, điều mà trước đây Nông Dân Quốc Tế đã khuyến khích. Ông viết: ʺnhững đồng chí của chúng tôi cho rằng việc ấy không cần thiết, vì tôi có thể thu thập mọi thông tin liên quan đến vấn đề nông dân qua các đồng chí trong Đảng Cộng Sản. (Mặc dù vị chủ tịch Hội Đồng Nông Dân Sự Vụ là một người Quốc Dân Đảng, mọi công tác tổ chức cũng như tuyên truyền đều được thực hiện bởi các đồng chí của ta [83]). 

Sáng sớm ngày 20 tháng 3 1926 Tưởng Giới Thạch đưa quân đánh úp các chính uỷ cộng sản tại Hoàng Phố, bắt giữ khoảng 50 người [84]. Các cố vấn Nga tại Quảng Châu đều bị quản thúc tại gia. Để đối phó với cuộc đảo chánh, Borodin đã ngầm thoả hiệp với những đòi hỏi của Ban Chấp Hành Quốc Dân Đảng, trong cuộc họp vào tháng 5 đã đưa ra những yêu sách nhằm giới hạn vai trò của cộng sản trong cơ chế Quốc Dân Đảng. Kể từ đấy, những đảng viên cộng sản chỉ được phép chiếm một phần ba tổng số thành viên của đảng uỷ Quốc Dân Đảng, đồng thời đảng viên cộng sản không được đứng đầu các bộ trong chính phủ [85]. Mặc dù mặt trận thống nhất vẫn tiếp tục với hậu thuẫn của người Nga cho đến mùa hè 1927, sự kiện ngày 20 tháng 3 đã đánh dấu buổi đầu thoái trào của phong  trào nông  dân tại Quảng  Đông,  cho đến khi Sô Viết HảiLục Phong được thành lập vào cuối năm 1927. Theo báo cáo của Hồ Chí Minh với Nông Dân Quốc Tế vào tháng 6 năm 1927 thì Quốc Dân Đảng đã ngưng giúp đỡ các nông hội khi họ đã thu thập được Quảng Đông dưới trướng của mình [86]. Các lực lượng quân sự của nông dân không đủ mạnh để chống lại lực lượng dân quân địa chủ nếu không có sự giúp đỡ của quân đội Quốc Dân Đảng[87]. Sau này Hồ Chí Minh cho rằng người Anh và người Pháp đã giúp trang bị cho những lực lượng dân quân địa chủ này [88]. Vào mùa xuân 1926, khi kế hoạch Bắc Phạt đang được soạn thảo, Mao Trạch Đông nắm quyền lãnh đạo Học Viện Đào Tạo Phong Trào Nông Dân và mặt trận thống nhất bắt đầu lưu tâm đến tầng lớp nông dân tại Hồ Nam và Hồ Bắc.

Đến tháng 3 năm 1926 Nông Dân Quốc Tế thình lình ngừng quan tâm đến những công việc của Hồ Chí Minh. Ông viết cho họ một thư ngắn bằng tiếng Pháp vào ngày 8 tháng 3 năm 1926 hỏi họ vì sao những lá thư ông gửi cho họ đều không được trả lời, và vì sao họ không gửi tiếp những tài liệu tuyên truyền [89]. Ông cũng đã chuyển thư từ của họ đến Java, Manila, Ấn Độ và những nơi khác. Một phần nguyên do nằm trong thư trả lời không đề ngày của họ, họ trả lời rằng đã nhận được thư của ông. Nhưng vì họ bắt đầu trả lời với một thành viên mới trong Ban Bí Thư, đồng chí Hồ Hán Dân, về tình hình nông dân tại các tỉnh Sơn Đông và Vân Nam [90]. Thì ra là Hồ Hán Dân đã đến Moscow sau khi bị trục xuất khỏi Quảng Châu và đã được bầu vào hàng ngũ lãnh đạo của Nông Dân Quốc Tế. Tại Đại Hội 6 của Ban Chấp Hành QTCS vào tháng 3 1926 ông được mời làm thành viên danh dự [91]. Liên minh StalinBukharin  tại Moscow đoan chắc rằng Quốc Dân Đảng, lực lượng cách mạng nòng cốt tại châu Á, đã là nguyên nhân của nhiều sự kiện khó lường [92]. (Bukharin đã cách chức lãnh đạo QTCS của nhân vật cánh tả Zinoviev vào tháng 10 / 1926). Người bị cho là có trách nhiệm trong cái chết Liêu Trọng Khải, người bảo vệ phong trào nông dân Quảng Đông, bổng chốc trở thành đại diện chính của Nông Dân Quốc Tế ở Trung Quốc. Hồ Chí Minh lúc này bị cho là quá gần gũi với những người cộng sản hoặc đơn giản là không còn quan trọng để làm việc nữa. Sau tháng 3 1926, không có tài liệu về việc liên lạc giữa Hồ và Nông Dân Quốc Tế cho đế khi ông quay lại Moscow vào tháng 6 / 1927.

Sự phát triển của Thanh Niên

Trông chờ khởi nghĩa. Tình hình tiến triển trong việc kết nối với quốc nội của Hồ Chí Minh chắc hẳn đã bị chậm lại vì căng thẳng chính trị bên trong chính quyền Quảng Châu cũng như những khó khăn tài chính của ông. Đến tháng 4 1926, mặc dù Lâm Đức Thụ báo cáo rằng đã có 30 thanh niên Việt Nam đang nghiên cứu chính trị và khoa học quân sự tại Đại Học Quảng Châu và Học Viện Quân Sự Hoàng Phố, đã không có một dấu hiệu của nhóm học viên thứ hai của Thanh Niên Hội [93]. Đội ngũ cốt cán của Thanh Niên tạm thời giải tán: Lê Hồng Sơn trở thành phái viên chính trị cho Tướng Trương Phát Khuê (Zhang Fakui ND) tại đảo Hải Nam. Vào tháng 6 Hồ Tùng Mậu đi với một đồng chí mang tên ʺông Sáuʺ (Lưu Hồng Khải hoặc Võ Tùng) đến Xiêm với hi vọng tổ chức một hội tương tế [94]. Lê Hồng Phong, Tu Rue và Đặng Tu My không bao lâu đã đi Moscow để học thêm về quân sự [95]. Trong lúc đó, mối giao hảo giữa Hồ và Nguyễn Hải Thần đang bị đổ vỡ. Vào tháng 4 1926 Thần bị Lâm Đức Thụ cáo buộc là đã lạm dụng ngân quỹ của phân bộ Việt Nam trong Hội Liên Hiệp Các Dân Tộc Bị Áp Bức [96]. Hội LHCDTBAB vừa tái tổ chức trong tháng 3, có lẽ vì cái chết của Liêu Trọng Khải và hành động của Tưởng Giới Thạch nhằm giới hạn quyền lực của những người cộng sản. Một bài viết trong báo chí Trung Quốc về việc tái tổ chức có đề cập đến việc hội này đang bắt đầu một đợt kết nạp thành viên mới [97]. Sở Liêm Phóng chuyển tin tức này cùng với một phụ chú đến cho Văn Phòng Quản Lý Địa Phương, văn phòng này cho rằng việc những người Đông Dương đến Quảng Châu ʺcó thể không liên quanʺ đến việc tái tổ chức của Hội LHCDTBAB.  Những người lưu vong mới này có thể nằm trong số 30 người Việt đang theo học tại Hoàng Phố.

Lâm Đức Thụ báo với Sở Liêm Phóng rằng Nguyễn Hải Thần đang hiềm tị về ảnh hưởng của Hồ Chí Minh trong tổ chức những người cách mạng Việt Nam tại Quảng Châu. ʺNguyễn Ái Quốc đang chuẩn bị cho cuộc cách mạng một cách có phương pháp. Ông ta chỉ ra tay khi thời điểm chín muồi. Nguyễn Hải Thần lại theo đuổi phương pháp bạo động. Ông ta muốn thực hiện nó ngay lập tức,ʺ người chỉ điểm này nói [98]. Trong một buổi báo cáo khác, Lâm Đức Thụ phân tích rõ hơn về con người Hồ Chí Minh: ʺNguyễn Ái Quốc vẫn còn dính líu đến Cơ Quan Thông Tin của USSR. Ông ta không tiết lộ là mình làm gì ở đó... ông ta vô cùng đa nghi và chỉ hé lộ với bạn bè những gì cần thiết nhất...Hầu hết những gì ông làm đều theo tư tưởng của ông. Những người như Hồng Sơn đề nghị ông ta mua một mảnh đất ở Hải Nam để mở trường, nhưng ông ta bảo rằng ông sẽ chẳng bao giờ bỏ tiền ra mua đất và vì nguyên thuỷ đất đai là của mọi người nên nó nên để cho mọi người sử dụng một cách tự doʺ [99].

Cả nhóm Việt kiều tại Quảng Châu và những người ái quốc trong nước đều có một trông đợi là ʺLý Thụyʺ sẽ sớm phát động một cuộc khởi nghĩa vũ trang. Đến cuối tháng 3 1926 phản kháng chính trị tại Việt Nam đã đạt lên mức cao nhất kể từ phong trào chống thuế năm 1908. Cái chết của nhà cải cách Phan Chu Trinh, người đã từng dìu dắt Hồ Chí Minh, vào ngày 23 tháng 3 đã dẫn đến một đám tang khổng lồ trên toàn cõi Việt Nam. Những lãnh đạo sinh viên giúp tổ chức những cuộc tuần hành cho đám tang và lễ tưởng niệm đã bị đuổi học trên khắp đất nước đối với mọi người đây là cơ hội mà chính quyền thuộc địa Pháp đã vô tình đẩy họ vào con đường hoạt động bất hợp pháp. Nhà báo cách tân và chống Pháp Nguyễn An Ninh bị bắt ngày 24 tháng 3. Nối tiếp cuộc biểu tình của quần chúng chống lại bản án của Phan Bội Châu vào cuối năm

1925, đám tang Phan Chu Trinh và việc Nguyễn An Ninh bị bắt giữ đã tạo thành một bầu không khí sôi sục.

Trong lúc đó tại Quảng Châu người Nga và Tưởng Giới Thạch đã quyết định dẹp qua mọi khác biệt để cùng nhau tiến hành chiến dịch ʺBắc Phạtʺ nhằm nới rộng biên giới của chính phủ quốc dân đến phía bắc của sông Dương Tử (Yangtze ND). Một số những người kháng chiến người Việt tin tưởng rằng đây là thời điểm để họ tấn công vào vùng biên giới Đông Dương. Người Pháp bắt đầu nhận tin tức mật báo về những kế hoạch hành động quân sự tại vùng biên giới HoaViệt  trong tháng 7 1926, vào lúc chiến dịch Bắc Phạt của Tưởng Giới Thạch vừa mới bắt đầu. Ngày 13 tháng 7 một bác sĩ và cũng là lãnh sự của Pháp tại Bắc Hải (Pakhoi ND) đã gửi cho Toàn Quyền tại Hà Nội một bức điện với nội dung như sau:

Một nhà cách mạng Việt Nam có tên là L.Soui Lý Thụy, bí danh Nguyễn Ái Quốc, hiện là tuỳ viên quân sự của chính phủ Quảng Châu, người này đã tốt nghiệp học viện quân sự ở Moscow, nghe nói đã được chính quyền Quảng Châu bí mật hứa hẹn là sẽ trang bị 1.000 súng trường Nga để thực hiện một tấn công bất ngờ ở biên giới Bắc Kỳ, trong vùng Móng Cái. Người Việt Nam này được cho là đã gửi mật phái viên đến vùng Vạn Sơn (khu vực Nà Lương), nơi đó họ sẽ cung cấp súng cho bọn thổ phỉ [100] 

Một mật thám khác với bí danh ʺKonstantinʺ,  đã báo cáo về Tam Kam Say, người đã cầm đầu một cuộc khởi nghĩa vũ trang năm 1918, cũng sẵn sàng tấn công Hòn Gai, một thị trấn phía bắc Việt Nam. Cùng lúc ấy Konstantin  đã báo tin rằng Paul Monin,  một luật sư Pháp hoạt động chống chính sách thuộc địa ở Sài Gòn, đã đến Quảng Châu để đề nghị người Nga hỗ trợ một cuộc nổi dậy (những tài liệu khác của Pháp cho rằng cuộc gặp gỡ này vào khoảng cuối tháng 2 đến 30 tháng 5 1926 [101]). Kế hoạch tấn công như sau: ba nghìn lính Trung Quốc do 100 người An Nam dẫn đường sẽ đi thuyền từ Bắc Hải và đổ bộ lên một cảng thuộc Trung Quốc trên bờ biển Nam An Nam. Konstantin, hình như không đột nhập vào được hàng ngũ thân cận của Hồ, cho rằng kế hoạch tấn công đã được Hồ đồng ý [102]. Nhưng trong một báo cáo khác, chắc chắn là của Lâm Đức Thụ, cho thấy rằng Hồ không tin tưởng vào sự đánh giá của Monin và đã từ chối ủng hộ kế hoạch của ông ta [103]. Việc Monin làm việc với đồng nghiệp của Hồ tại Paris là Phan Văn Trường và rất được tầng lớp chống đối tại Sài Gòn nể trọng vẫn không đủ để thuyết phục Hồ đi theo hướng của ông.

Theo mọi nguyên tắc cũ của tầng lớp phản đế người Việt thì đây là thời điểm chín muồi cho hành động quân sự. Những truyền thống nổi dậy này dường như đã cổ vũ cho việc tạo dựng một huyền thoại về Lý Thụy như là một vị tổng tư lệnh. Nhưng những gì Hồ đang thực sự xây dựng thì không có gì ngoại trừ những hạt nhân còn rất nhỏ bé của đảng cộng sản Việt Nam tương lai. Sở Liêm Phóng tin rằng vào năm 1926 ông đã từ chối một đề nghị giúp đỡ rất lớn của những người Sô Viết để phát động một cuộc tấn công vũ trang, vì ông xét thấy những người khởi nghĩa Việt Nam vẫn chưa sẵn sàng [104]. Trên thực tế, kế hoạch xây dựng một phong trào độc lập do cộng sản lãnh đạo của ông chỉ mới vừa khởi sự.

Chi bộ Nam Kỳ Cam Bốt của Uỷ Ban Nam Dương. Rất có thể là một số tổ chức tại Việt Nam đang chuẩn bị những cuộc khởi nghĩa bạo lực chống lại quyền lực của người Pháp trong năm 1926. (Quan niệm về cuộc khởi nghĩa không tránh khỏi cũng xuất hiện trong những nhóm cánh tả ở Indonesia trong mùa hè năm đó nhưng cuộc nổi dậy ở đó chỉ chính thức bắt đầu vào tháng 11 [105]). Việc thiết lập một chi bộ của ĐCS Trung Quốc bắt đầu vào năm 1926 có thể là một nguyên nhân dẫn đến bức tranh khó hiểu này. Vào tháng 2 1927 tình báo Pháp nhận được báo cáo từ một nguồn tin được cho là ʺdigne de foiʺ (đáng tin cậy ND) trong đó nói rằng chi bộ ʺNam Kỳ Cam Bốtʺ của Uỷ Ban Lâm Thời Nam Dương thuộc ĐCS Trung Quốc có căn cứ tại Nam Dương (Nanyang ND), Singapore đã bước vào hoạt động và đang bắt đầu tổ chức tại Bắc Kỳ. Chi Uỷ Nam Dương hay là Uỷ Ban Lâm Thời đã được những Hoa kiều thành lập vào năm 1926 như là một bộ phận của ĐCS Trung Quốc; nó được tin rằng đã có thành viên tại những thuộc địa của Anh, Hoà Lan, Pháp cũng như ở Xiêm và Miến Điện [106]. Nguồn tin của người Pháp đã căn cứ trên một báo cáo của ʺSamoyanʺ (có lẽ là Semaun) định trình bày tại Đại Hội Mở Rộng của Ban Chấp Hành QTCS. Semaun được nhận diện là phái viên cho Đông Dương, Nam Dương và Quần đảo Mã Lai [107]. Tôi đã không tìm được bằng chứng vững chắc về mẫu tin này trong hồ sơ của Ban Bí Thư Cục Đông Phương hoặc của Đại Hội Mở Rộng lần 7 Ban Chấp Hành QTCS được tổ

chức vào tháng 11 1926, thời gian thích hợp nhất của bản báo cáo này. (Trong giai đoạn 19301 có vài tài liệu về tổ chức ʺNam Kỳ Cam Bốtʺ trong văn khố QTCS). Dù thế, một báo cáo tóm tắt của Sở Liêm Phóng về những diễn biến chính trị ở Đông Dương trong năm 1926 và đầu năm 1927 cho thấy đã có rất nhiều công đoàn công nhân gốc Hoa hoạt động tại miền nam Việt Nam và đã có quan hệ với Quảng Châu [108]. Cũng trong thời gian ấy, những tổ chức bạo lực bí mật đang được sự ủng hộ của Quốc Dân Đảng ở Sài Gòn [109]. Là thành phần của mặt trận thống nhất, những công đoàn và tổ chức này có thể đã bao gồm những người cộng sản nòng cốt. Đến giữa năm 1927 những người gốc Hoa tại Nam Việt Nam đã giúp đưa những thành viên mới người Việt tham gia các lớp đào tạo ở Quảng Châu dưới vỏ bọc Quốc Dân Đảng [110].

Semaun nói rằng ĐCS Trung Quốc đang hoạt động trong năm huyện của Đông Dương thuộc Pháp (có lẽ là năm khu vực trong Liên Hiệp Đông Dương) và đảng cộng sản Nam Kỳ ʺlà một tổ chức năng hoạt nhất đang dẫn đầu một phong trào mạnh mẽ trong quần chúng bản xứ.ʺ Một sơ đồ đính kèm trong bản báo cáo cho thấy những có những chi bộ Nam Kỳ tại Sài Gòn, Chợ Lớn, Trà Vinh, Sa Đéc, Cà Mau và Thủ Dầu Một. Những chi bộ tại Cambodia đặt tại Kompong Cham, Cratie và Kampot với một chi uỷ gồm 50 thành viên tại Phnom Penh. Một hội nghị bao gồm đại biểu từ Hải Phòng, Hà Nội và Lao Cai dự định tổ chức vào tháng 2 1927 tại Hải Phòng. Những đại biểu này hình như là người gốc Hoa, ví dụ như một người tên ʺMông Vĩnh Hộiʺ, được xem là một nhà cách mạng nổi bật nhất ở miền Bắc (Việt Nam). Semaun cũng đề cập đến một tổ chức cách mạng địa phương do người bản xứ thành lập tại Vinhna Tinh (sic) vào tháng 5 1926, nhưng vẫn chưa thực sự thành hình. Có lẽ ông đang muốn nói về những nổ lực kết nạp thành viên ban đầu của Thanh Niên Hội hoặc của Cách Mạng Đảng sẽ đề cập ở dưới. Có thể hiểu rằng những người quốc gia Việt Nam có liên hệ với tổ chức Nam Kỳ Cambodia là những người hoạt động mạnh mẽ nhất để khởi xướng khởi nghĩa vũ trang trong thời gian 1926. Kế hoạch của Monin có thể là một phối hợp với những phần tử trong nhóm này Những người Hoa tại Trà Vinh có tiếng là đã đóng góp rất nhiều trong công việc báo chí của ông [111]. Ngoài ra còn có một tổ chức tại Bắc Ninh do Trần Huy Liệu của Việt Nam Dân Quốc, đảng này đang dự định khởi nghĩa vào cuối năm 1926 (kế hoạch của họ bị lộ vì bom tự chế của họ đã nổ sớm [112]). Đến cuối năm 1927 họ đã trở thành một trong những thành viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng [113].

Khoá đào tạo thứ hai và thứ ba của Thanh Niên. Không thể xác định sự liên hệ, nếu có, của Hồ Chí Minh và Thanh Niên Hội với ĐCS/Quốc Dân Đảng Trung Quốc bên trong Việt Nam. Dù thế, hồ sơ lưu trữ của QTCS và tài liệu của Pháp cho thấy Hồ đã cố gắng tránh xa những cuộc mạo hiểm vũ trang. Sau khoảng một năm dài không liên lạc với Cục Đông Phương , vào ngày 3 tháng 6-1926  Hồ  đã  viết  thư  cho  QTCS  báo  rằng  công  việc  của  ông  tiến  triển  rất  chậm  vì thiếu  tài chính [114].  Ông đã phải xoay trở bằng tiền lương của mình và một số đồng chí khác cùng với một số trợ cấp từ người Nga. Một nguồn tài chính khác của Thanh Niên có thể là từ Nông Dân Quốc Tế cung cấp qua Borodin cho những công tác của Hồ trong phong trào nông dân. Số tiền này ít nhất đã trợ giúp cho các học viên đang theo học tại Học Viện Đào Tạo Phong Trào Nông Dân [115]. Vào thời điểm này có thể Hồ cũng đã nhận được quyên góp từ những người yêu nước giàu có ở miền nam Việt Nam. Một ghi chú của Sở Liêm Phóng ngày 12 tháng 8 / 1927 viết rằng Diệp Văn Kỳ, một chủ báo tại Sài Gòn và cũng là học trò của thân phụ Hồ Chí Minh, đã thường xuyên gửi tiền đến một trung gian tại Quảng  Châu mỗi khi Hồ Chí Minh yêu cầu ông đóng góp [116]. Sớm hơn nữa là trong năm 1925 Lâm Đức Thụ báo cáo rằng Hồ đã nghĩ đến việc tìm đến người bạn cũ ở Paris là Khánh Ký (Nguyễn Đình KhánhND), giờ là một nhà nhiếp ảnh tại Sài Gòn để xin tiền. Hồ cũng đề cập đến Bùi Quang Chiêu, nhà lãnh đạo giàu có của Đảng Lập Hiến, như là một người bảo trợ đầy tiềm năng [117]. Nếu nguồn tài chính từ miền nam đã thực sự lưu chuyển vào năm 1926, rõ ràng là Hồ nghĩ rằng không dại gì tiết lộ điều ấy cho người Nga biết.

Hồ tường thuật trong báo cáo tháng 6 1926 rằng kể từ khi đặt chân đến Quảng Châu, ông đã thực hiện được những việc sau cho phong trào cách mạng Đông Dương: (1) thành lập một hội bí mật; (2) thành lập một tổ chức nông hội của những người Việt sống tại Xiêm; (3) lựa chọn một nhóm ʺtiên phongʺ từ con em của nông dân và công nhân (một số trong họ đến từ Xiêm) để đào tạo tại Quảng Châu; (4) tổ chức một nhóm phụ nữ cách mạng gồm 12 người; và (5) thành lập một lớp tuyên truyền ở Quảng Châu cho những học viên được bí mật đưa sang từ Việt Nam và Xiêm. Đến lúc này, lịch sử của Thanh Niên Hội mà ta đã biết được từ những hồi ký của các nhân vật người Việt khác nhau đã trùng với những gì chúng ta rút ra từ báo cáo của Hồ [118]. Hồ gửi báo cáo này khi ông chuẩn bị cho nhóm học viên thứ hai đến Quảng Châu cho khoá đào tạo bắt đầu vào tháng 9 1926. Khoá thứ nhất, Hồ báo cáo, có 10 học viên và ông hy vọng sẽ có khoảng 30 người đến học khoá thứ hai.

Những người tham dự khoá học thứ hai của Thanh Niên Hội rời Việt Nam để đi Quảng Châu trong tháng 7 và 8 1926. Có ít nhất 3 người trong số họ xuất thân từ một tổ chức chính trị thành lập tại Vinh do những cựu binh của thời kỳ 19078 từng bị giam cầm tại Côn Đảo (Poulo Condor

 ND). Khi vừa thành lập vào năm 1925, nhóm này lấy tên là Phục Quốc, dựa trên tổ chức của Phan Bội Châu. Được đổi thành Việt Nam Cách Mạng Đảng vào năm 1926, rồi thành Tân Việt vào năm 1928. Tổ chức này, bắt nguồn từ vùng quê của Hồ, bao gồm đa phần là những trí thức Nho học và giáo viên trẻ, đã cung cấp những nhân vật lãnh đạo quan trọng nhất cho đảng cộng sản trong những ngày đầu thành lập. Lãnh tụ chính thức đầu tiên khi đảng cộng sản thành lập vào năm 1930 là Trần Phú, một giáo viên và là một trong những thành viên sớm nhất của Phục Quốc. Một thành viên kỳ cựu khác là Hà Huy Tập, một giáo viên từ Hà Tĩnh, đã trở thành người đứng đầu không chính thức của đảng trong thời gian 1935 đến tháng 3 1938. Tại sao các thành viên Phục Quốc được chọn lựa vào đội ngũ thân tín nhất của Thanh Niên là một câu hỏi lý thú. Đó là sự tổng hợp của quan hệ gia đình thân cận, với cả hai nền học vấn Nho và Pháp, cùng với tâm lý bất mãn đối với chế độ thuộc địa làm họ trở thành những thành viên giá trị của Hồ. Ví dụ như Trần Phú, xuất thân từ một gia đình đã chịu nhiều đau khổ dưới sự cai trị của Pháp. Ông là con của một vị quan mà khi đang tại chức tại Quảng Ngãi vào năm 1908 đã tự sát thay vì bắt buộc  nông  dân  địa phương  hợp tác với lính  Pháp  ruồng  bố những  người  chống  thuế  [119]. Những  thành viên trẻ hơn của Phục Quốc là những thanh niên bất mãn từ những  vùng quê nghèo khổ, đã sẵn sàng đón nhận những tư tưởng cách mạng mà Hồ mang đến. Không còn nghi ngờ gì về ưu thế của những thành viên Thanh Niên kỳ cựu xuất thân từ phía bắc của miền trung Việt Nam, kể cả uỷ ban trung ương từ Quảng Châu, đã tạo thành một tổ chức giống như là một hội đồng hương.

Những thành viên mới được Lê Duy Điếm đưa đến Quảng Châu. Lê Duy Điếm là bạn học cũ của Trần Phú, xuất thân từ Hà Tĩnh. Vào nửa cuối năm 1925, ông được Đảng Phục Quốc giao cho nhiệm vụ liên lạc với những người Việt tại Quảng Châu để bàn về phối hợp hành động. Trước khi quay lại Vinh ông đã gia nhập Thanh Niên Hội [120]. Việc này cũng xảy ra với hầu hết các thành viên của Phục Quốc/Cách Mạng Đảng sau khi qua Quảng Châu: Trần Phú và học trò của mình là Nguyễn  Ngọc Ba quay về sau ba tháng  học tập và đã trở thành thành  viên của Thanh Niên. (Như ta đã thấy ở trên, Lê Hồng Sơn đã đưa Nguyễn Ngọc Ba sang học khoá thứ nhất; có lẽ ông đã tham dự cả hai khoá học). Trong chuyện do Phan Trọng Quảng kể về chuyến đi, có những người khác từ miền trung Việt Nam bao gồm Nguyễn Văn Lợi, Lê Mạnh Trinh, Trần Văn Đắc, Nguyễn Văn Khang và Quảng. Hai thành viên của Phục Quốc là Tôn Quang Phiệt và Hoàng Văn Tùng đã không đến được Quảng Châu vì họ đã bị bắt khi bị tuột lại phía sau tại biên giới. Mãi cho đến tháng 9, sau khi đã di chuyển bằng đường thuỷ, xe lửa và đi bộ với nhiều tuần lễ chờ đợi ở mỗi trạm, cả nhóm đã đến được trụ sở của Thanh Niên tại Quảng Châu. Ở đó họ đã gặp những học viên đến từ Bắc Kỳ và Xiêm. Tất cả có khoảng 20 học viên đã đến Quảng Châu, trong đó có cả vị thủ tướng tương lai là Phạm Văn Đồng, ông bị bệnh và phải tham gia khoá học sau [121].

Những bài giảng căn bản với những chủ đề bao gồm từ sự tiến hoá của loài người, địa lý thế giới và lịch sử Việt Nam đến lý luận MarxistLeninist,  Thuyết Tam Dân của Tôn Dật Tiên và thuyết đấu tranh bất bạo động của Gandhi do Hồ Chí Minh đứng lớp. Những giảng viên bên ngoài đôi khi cũng được thỉnh giảng. Phan Trọng Quảng nhớ có cả Chu Ân Lai, Bành Bái và Hà Hương Ngưng (He Xiangning ND), vợ goá của Liêu Trọng Khải. Borodin và một phụ nữ Nga cũng đến thuyết giảng. Vào lúc bế mạc của khoá giảng vào tháng 11, Phan Trọng Quảng kể rằng có năm học viên được bí mật chọn để kết nạp vào Việt Nam Thanh Niên Cộng Sản Đoàn. Năm người này là Trần Phú, Nguyễn Văn Lợi, Nguyễn Ngọc Ba, Phan Trọng Bình và bản thân Phan Trọng Quảng, tất cả họ đều là người Trung Kỳ.

Khoá đào tạo thứ 3 bắt đầu vào cuối năm 1926 và chấm dứt sau Tết Nguyên Đán 1927. Hoàng Văn Hoan, một thành viên khác từ Nghệ An sau này đã trở thành nhân vật quan trọng trong đảng cộng sản, đã viết trong hồi ký của mình rằng đã có thêm 20 học viên mới, một số trong họ vừa tham gia vụ bãi khoá tại Nam Định [122]. Trong nhóm miền bắc này có Đỗ Ngọc Du, Dương Hạc Đính, và Nguyễn Đức Cảnh sau này đã trở thành những người đứng đầu của Thanh Niên Hội tại Bắc Kỳ [123]. (Hoan không nhắc đến số học sinh từ trường Bảo Hộ Lycée, còn có tên là Trường Bưởi ở Hà Nội. Đỗ Ngọc Du và một số sau này là học viên của Thanh Niên đã bị đuổi khỏi trường này vào năm 1926 [124]). Trong những giảng viên Hoan có kể đến Bành Bái và Lưu Thiếu Kỳ (Liu Shaoqi ND), chuyên giảng về phong trào công nhân. Thường thì Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn hoặc Lâm Đức Thụ thông dịch cho những giảng viên Trung Quốc, nhưng Hồ Chí Minh có thể thay thế hẳn nếu họ vắng mặt, Hoan kể [125]. Ông cũng nhớ lại những vai diễn trong các vở kịch. Hồ, được những học viên biết đến với cái tên là Vương, thường đóng vai công nhân hoặc nông dân [126]. Hoan không đề cập đến bao nhiêu học viên đã được kết nạp vào đội ngũ cốt cán của tổ chức cộng sản, nhưng nếu con số này cũng ít như ở khoá học trước thì số thành viên cộng sản trong Thanh Niên Hội vẫn còn rất nhỏ. Huỳnh Kim Khánh (nhà sử học ND) cho biết con số vào khoảng 24 thành viên của Thanh Niên Cộng Sản tính đến tháng 5 1929, nhưng con số này rõ ràng là chỉ đề cập đến số thành viên đang sống tại Trung Quốc lúc ấy [127].

Tổng số bao nhiêu người Việt đã kinh qua trường đào tạo của Thanh Niên thì khó mà xác định được. Tôi chỉ đã tìm thấy bằng chứng chắc chắn của 3 đợt học viên chính thức; một nhóm thứ 4 đang sắp xếp tại Quảng Châu vào tháng 3 1927 nhưng bị gián đoạn vì cuộc đảo chính tháng 4 [128]. Hồ báo cáo với QTCS khi ông quay lại Moscow vào tháng 6 1927 rằng 75 thanh niên Việt Nam đã được đào tạo tại ʺtrường tuyên truyềnʺ của ông ở Quảng Châu [129]. Hồi ký của một người Việt viết năm 1992 lại cho rằng có đến 10 khoá học với tổng cộng khoảng 250 300 học viên [130]. Một bài viết của cùng tác giả trên vào năm 1990, đã trích dẫn một tài liệu từ Viện Lịch Sử Quảng Đông rằng có tổng cộng trên 300 người Việt đã tham gia vào những hoạt động cách mạng khác nhau tại Quảng Đông từ 1924 đến 1927 [131]. Con số này bao gồm cả những người không gia nhập đảng cộng sản. Con số này cũng có thể bao gồm những học sinh theo học các khoá học chính thức vào cuối năm 1927 đến 1928, sau khi Hồ đã rời khỏi Trung Quốc. Hơn nữa, có thể nó phản ánh thực tế là những lớp đào tạo trên có nhiều cấp bậc và độ dài khác nhau. Ví dụ như chúng ta không biết được đã có những lớp dành riêng cho phụ nữ hoặc những người ʺtiên phongʺ mà Hồ đã kết nạp hay không, hoặc là cho những công nhân có học vấn thấp như Nguyễn Lương Bằng. Những nhà sử học Hà Nội dạo gần đây đã cẩn trọng hơn trong việc nâng cao tổng số học viên của Thanh Niên. Họ không thể xác nhận được con số 75 người mà Hồ Chí Minh đưa ra trong tháng 4 1927, ngay cả nếu tính luôn những học viên được biết là đã theo học các lớp sau 1927 [132].

Rõ ràng là nhóm Việt kiều đông nhất đã theo học tại Học Viện Hoàng Phố, đến đầu năm 1927 đã có 53 học viên người Việt [133]. (Vào thời điểm này, một bộ phận dạy tiếng Việt đã được thành lập tại Hoàng Phố trước 1927, những người Việt theo học như người Trung Quốc [134]) Nhưng chúng ta không biết bao nhiêu trong bọn họ đã học được đầy đủ các lớp của Thanh Niên. Như Lâm Đức Thụ đã chỉ ra, ʺNguyễn Ái Quốc chỉ thâu nhận những học viên thận trọng nhất và chỉ giảng dạy đầy đủ cho những ai dám hy sinh cho lý tưởng cách mạng” [135] Dường như những học viên miền Bắc theo học những lớp đào tạo của ông đã không trở thành đảng viên cộng sản nhiều như những người Trung Kỳ, có thể vì họ được thâu nhận bởi Nguyễn Hải Thần hoặc Lâm Đức Thụ.

Một số giáo án của Thanh Niên được in trong tập Đường Kách Mệnh năm 1927, có thể là do Hồ thu thập trong thời gian ở Nga, và có nội dung tương tự như những bài giảng chính trị của các chính uỷ cộng sản tại Học Viện Hoàng Phố trước khi họ bị loại khỏi trường vào tháng 3 1926. Tập tài liệu này trở thành thánh kinh của những thành viên cộng sản trẻ trong giai đoạn 1926 và 1927, Hà Huy Tập đã viết vào năm 1932. ʺHầu như chúng tôi đã học thuộc lòng,ʺ ông kể [136].

Nó bao gồm những định nghĩa về các hình thức cách mạng, những phong trào quốc tế, công đoàn, nông hội và hợp tác xã. Nó thấm nhuần khái niệm về hai giai đoạn cách mạng như đã vạch ra trong Luận Cương về Những Vấn Đề Dân Tộc và Thuộc Địa của Lenin. Tập tài liệu đã định nghĩa hai giai đoạn cách mạng này là cách mạng dân tộc và cách mạng thế giới. Trong khi cách mạng dân tộc không đề cập đến vấn đề phân biệt giai cấp, cách mạng thế giới sẽ do giai cấp nông dân và công nhân lãnh đạo và sẽ dẹp bỏ chủ nghĩa tư bản trên thế giới [137]. Đến năm 1932 thì khái niệm hai giai đoạn cách mạng đã bị Quốc tế Cộng Sản loại bỏ và Hà Huy Tập cũng đã viết bài lên án tính ngây thơ và khó hiểu của cương lĩnh Thanh Niên. Cụ thể là ông đã phê phán lý luận cho rằng: ʺtrong giai đoạn đấu tranh phản đế, ta phải liên kết với mọi tầng lớpʺ. ʺLý luận kiểu này chẳng có gì quan trọng hơn là sự thoả hiệp giai cấp...ʺ, ông nói [138].

Đến tháng 2 1927 công việc tuyển người và đào tạo của Hồ cuối cùng đã có tiến bộ. Thành công của Hồ trong việc chuyển hoá những đảng viên Tâm Tâm Xã đã được dùng làm kiểu mẫu trong quan hệ của ông với Phục Quốc/Cách Mạng Đảng. Bước kế đến là tạo cho Thanh Niên một chỗ dựa chính thức, đó là đạt được sự công nhận từ QTCS, soạn thảo cương lĩnh và tìm kiếm nguồn tài trợ vững vàng. Việc đoàn đại biểu của QTCS đến Quảng Châu vào tháng 2 1927 đã tạo cho Hồ những cơ hội mà ông đang tìm kiếm. Jacques Doriot, một nhà hoạt động về phong trào thanh niên cộng sản mà Hồ đã gặp tại Đại Hội 6 ở Moscow, có mặt trong đoàn cùng với Tom Mann từ Anh Quốc và Earl Browder người Mỹ. Doriot cũng đã trở thành chủ tịch Phân Bộ Thuộc Địa của ĐCS Pháp và cũng là nghị viên Quốc Hội Pháp. Với vai trò là tuyên truyền viên và thông dịch viên, Hồ đã theo phái đoàn thăm viếng Quảng Châu và chiếm được sự ủng hộ của Doriot về những công tác của ông về Việt Nam [139]. Vai trò của Doriot rõ ràng là đã có liên quan đến việc QTCS quyết định thành lập một ban bí thư mới cho Pháp, các thuộc địa của Pháp, Bỉ, Ý và Thụy Sĩ vào tháng 3 1926. Vào thời điểm ấy, nhiệm vụ chủ yếu của việc xây dựng phong trào cộng sản tại Đông Dương đã được chính thức giao cho ĐCS Pháp [140]. Vào ngày 3 tháng 3 1927 Doriot, Hồ (ký tên là Lee) và Volin đại diện cho nhóm cố vấn Nga, đã thảo ra một bản ghi nhớ trong đó đồng ý cho ʺLeeʺ đệ trình một yêu cầu ngân sách cho QTCS, trong khi đó Doriot sẽ thảo Luận Cương cho Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đảng cùng với nghị quyết hoạch định những công việc tương lai của tổ chức này [141].

Doriot đã báo cáo trong một bức thư giải thích cho Cục Đông Phương rằng Thanh Niên Hội đã tạo dựng được những chi bộ trên khắp Việt Nam: một tổ tại nam Kỳ, hai tại Trung Kỳ, sáu tại Bắc Kỳ và bốn tại Xiêm. ʺChắc chắn là họ vẫn còn nhiều yếu kém,ʺ ông viết: ʺtrước hết là họ không có một cương lĩnh chính thức, thứ hai là khuynh  hướng nổi bật của âm mưu bè phái. Hoạt động của họ giống như là một hội kín hơn là một tổ chức quần chúng cách mạng. Ví dụ như hầu hết những thành viên của họ đều nằm tại Quảng Châu. Điều này cho thấy mối liên hệ giữa họ với nhân dân vẫn còn yếu. Dù vậyʺ, ông tiếp tục, ʺmột số đầu mối đã được thiết lập và đã có những cố gắng trong việc xây dựng một tổ chức rộng lớn hơn nhằm vào học sinh, thương nhân và nông dânʺ [142]. Doriot giải thích rằng nghị quyết của ông về hoạt động đảng đã đưa ra những điểm sau: (1) sự cần thiết phải chuyển hoá hội kín thành tổ chức rộng rãi; (2) mở rộng tổ chức đến số đông quần chúng trong nước; (3) tham gia nhiều hơn nữa với tình hình chính trị Việt Nam; và (4) thành lập các công đoàn công nhân, nông hội, hội sinh viên cũng như các hiệp hội cho các thành phần dân chúng khác [143].

Luận cương của Doriot dưới dạng một lá thư gửi cho ʺThanh Niên Cách Mạng Đông Dươngʺ cho thấy rõ là ông nhìn Thanh Niên Hội như là một đảng quốc gia với những mục đích tương tự như của Trung Quốc Quốc Dân Đảng: ʺNhân dân Đông Dương như tổ chức các bạn đã tuyên bố  chỉ có thể đi theo con đường duy nhất nếu họ muốn thay đổi tình hình: đó là con đường đấu tranh giành độc lậpʺ [144]. Ông nhấn mạnh rằng giai cấp nông dân và công nhân là những lực lượng tiên yếu trong cuộc đấu tranh này. Nhưng ông cũng đã ủng hộ mạnh mẽ cho việc thành lập một mặt trận thống nhất: ʺĐừng quên rằng dưới sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc, tất cả mọi người (công nhân, nông dân, tiểu thương và trí thức), ngoại từ một số rất nhỏ của thành phần đầu cơ trục lợi, đều có quyền lợi trong cuộc đấu tranh chống thực dân. Đừng nên bỏ qua một nỗ lực nào để kêu gọi và tổ chức họ từng ngày trong cuộc tranh đấu này. Đừng nên từ chối bất cứ sự hợp tác nào của họʺ[145]. Trong suốt bài viết, ông không hề nhắc đến chủ thuyết cộng sản mặc dù đã dẫn ra ví dụ về cuộc cách mạng Nga như là một kiểu mẫu của phong trào phản đế vì nó đã giải phóng nhân dân bị áp bức ra khỏi sự thống trị của Sa Hoàng [146]. Việc QTCS mong muốn uốn nắn Thanh Niên Hội thành một đảng quốc gia cũng đã được nhấn mạnh bằng báo cáo ngày 17 tháng 3 1927 của Lâm Đức Thụ: ʺGần đây những người cách mạng Pháp và Trung Quốc đã bắt đầu khuyến khích ʺles amisʺ (những người bạn ND) thành lập một đảng tương tự như đảng quốc gia Trung Quốc, với cương lĩnh, chính sách với những bộ phận tuyên truyền và thông tin rộng khắp. Những quy chế của đảng sẽ được soạn thảo sớmʺ [147]. 

Hồ đệ trình ngân sách của năm cho QTCS với tổng số là 40.000 đồng tiền Trung Quốc. Một nửa số tiền này sẽ dùng để trang trải chi phí đi lại và đào tạo tại Quảng Châu cho 100 học viên tương lai. Ngoài ra ông còn yêu cầu 1.500 đồng cho 10 tuyên truyền viên làm việc toàn thời gian trong một năm. Chi phí xuất bản, thông tin, thành lập một cửa tiệm nhỏ để làm vỏ bọc cho việc liên lạc chiếm hết 8.500 đồng. Chi phí vận chuyển 100 học viên khác đến học tại Hoàng Phố tốn khoảng 5.000 đồng nữa. Theo giải thích của Hồ trong ghi chú đính kèm thì Hoàng Phố đã hứa đào tạo 100 người này nếu chi phí đi lại của họ được lo liệu [148]. 5.000 đồng còn lại được dự trữ cho những trường hợp bệnh tật hoặc cấp bách.

Đến tháng 3 1927, với sự hỗ trợ của Doriot và hai nhóm học viên mới đã được đưa về Việt Nam, tổ chức của Hồ Chí Minh xem ra đã có thể tự phát triển. Đã có những thương lượng để chính thức liên kết với đảng Phục Quốc tại trung phần Việt Nam, đảng này từ giữa năm 1926 đã đổi tên thành Cách Mạng Đảng. Hai nguồn tài liệu về việc thương lượng đã mâu thuẫn với nhau về việc này có được theo đuổi thật lòng hay không. Hà Huy Tập đã viết vào năm 1932 ở Moscow rằng Lê Duy Điếm quay về Việt Nam vào tháng 3 / 1927 với chỉ thị từ Quảng Châu để chuẩn bị cho việc hợp nhất. Điếm tham dự các cuộc họp địa phương của hai đảng tại miền bắc và trung Việt Nam và sau đó là một hội nghị hợp nhất toàn quốc tại Huế vào tháng 7. Tập viết rằng lần đầu tiên cả hai đảng đã nhận được cương lĩnh và quy chế trên giấy tờ, trong đó bao gồm những qui chế cho các công đoàn, nông hội, hội sinh viên và những hiệp hội khác [149]. Tiến triển của những sự kiện có thể là hệ quả hợp lý của việc Doriot đến thăm Quảng Châu. Nhưng mọi việc không trôi chảy như Hồ hy vọng. Theo Hà Huy Tập, hai đảng đã quyết định chấp nhận danh xưng của Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, vẫn được biết đến như Thanh Niên hoặc VNTNCMĐCH.  Hai tổ chức sẽ thực hiện việc thống nhất từ trên xuống, hợp nhất tất cả những tổ đảng dưới một uỷ ban trung ương lâm thời. Các chi uỷ lâm thời cũng đã được thành lập tại miền bắc và miền trung, việc còn lại là thành lập một chi uỷ lâm thời Nam Kỳ. Nhưng những thành viên của Thanh Niên từ miền Nam, vì không tham dự được hội nghị toàn quốc ở Huế, đã không chịu thừa nhận quyết định của hội nghị tháng 7. Đến thời điểm sau tháng 7 1927, Hà Huy Tập viết rằng miền nam đã có số thành viên Thanh Niên đông nhất trong cả nước. Đây là một thay đổi lớn so với tình trạng đầu năm 1927, khi Doriot báo cáo là chỉ có một chi bộ Thanh Niên thành lập tại Nam Kỳ, và đã cho thấy nỗ lực xây dựng tổ chức này thành một đảng quần chúng. Tập tự nhận rằng sau khi bị đuổi việc dạy học ở Vinh, ông đã vào Sài Gòn vào tháng 3 -  1927 để khởi sự những công tác chính trị như tổ chức các lớp học buổi tối cho công nhân [150].

Một nhóm khoảng 10 người lưu vong từ Nam Kỳ hoặc Trung Kỳ, chủ yếu là dân lao động, đã đến Quảng Châu vào tháng 5 hoặc đầu tháng 6 1927, theo lời của Lâm Đức Thụ [151] Nhóm này có lẽ bao gồm Tôn Đức Thắng, một nhà tổ chức công đoàn và chủ tịch tương lai của Bắc Việt Nam. Ông đã từ Quảng Châu về Nam Kỳ vào khoảng nửa sau năm ấy [152]. Như ta đã thấy, cũng có một nhóm 9 người miền nam được sự bảo trợ của Quốc Dân Đảng đã đến Quảng Châu vào tháng 7. Sự phát triển của Thanh Niên tại miền nam có lẽ là do phối hợp của tổ chức Nam Kỳ Cam Bốt trực thuộc ĐCS Trung Quốc. Tài liệu của Việt Nam cho rằng Tôn Đức Thắng đã làm công tác tổ chức công nhân Sài Gòn từ 1925, vì thế rất có thể là ông đã làm việc với uỷ ban nội thành của Trung Quốc này [153].

Một bằng chứng khác cho thấy Thanh Niên đã có nỗ lực trong việc cắm rễ vào miền nam Việt Nam vào năm 1927. Hà Huy Giáp, em của Hà Huy Tập, nhớ lại trong hồi ký của mình rằng ông đã dời vào Sài Gòn vào năm 1926 để tìm đường đi Pháp. Nhưng vào đầu năm 1927, Nguyễn Văn Lợi và Phan Trọng Bình, hai thành viên của Thanh Niên Cộng Sản từ khoá đào tạo thứ hai về đến Sài Gòn và đã thuyết phục ông ở lại làm việc cho Thanh Niên. Hai học viên từ Quảng Châu này lưu lại miền nam và làm nghề giáo [154]. Giáp cũng cho thấy mối quan hệ rất quan trọng giữa những nhà hoạt động miền nam và miền trung:ông cho rằng Nguyễn An Ninh bị giam tại Sài Gòn vào năm 1926 cùng với Tú Kiên, một trong những tù nhân Côn Đảo đã tham gia vào âm mưu thành lập đảng Phục Quốc năm 1818. Giáp kể rằng cả hai người đều theo đuổi những tư tưởng của Hồ Chí Minh. Theo lời Giáp thì Nguyễn An Ninh đã bàn giao ʺnhiệm vụʺ lại cho Tú Kiên vì Tú Kiên ra tù trước. Tú Kiên ra lại Vinh và được Lê Huân, một bạn tù Côn Đảo ngày xưa, chính thức kết nạp vào Cách Mạng Đảng. Sau đó ông quay lại miền nam, với bề ngoài là tìm kiếm thêm thành viên cho Cách Mạng Đảng, nhưng có thể đã bí mật làm việc cho Thanh Niên [155]. Một ghi chú của Sở Liêm Phóng vào tháng 5 1928 đã nói về Tú Kiên (Nguyễn Đình Kiên) như là một liên lạc viên cho người Việt tại Quảng Châu và Sài Gòn [156]. Khi ông bị bắt lại vào năm 1929, người Pháp đã tìm thấy hình của Marx và Lenin trong nhà ông.

Những cuộc hợp nhất đảng phái khác có thể đã được khởi sự từ tháng 3 theo đề nghị của Doriot nhằm tăng số lượng thành viên của Thanh Niên Ví dụ như một số thành viên của ʺĐảng Thanh Niênʺ (còn có tên là Jeune Annam (Thanh Niên An Nam ND)) thành lập vào tháng 3 1926, đã trở thành chi nhánh của Thanh Niên. (Hai tên đảng giống nhau chỉ là do tình cờ). Vào giữa năm 1926 Hồ Chí Minh đã gửi một báo cáo đầy lạc quan đến QTCS về nhóm Jeune Annam này vì nó đã rất thân cận với Phan Văn Trường và Nguyễn An Ninh, và cả hai người đều đã từng làm việc tại Paris trong Công Đoàn Thuộc Địa Quốc Tế [157]. Sự liên hệ của họ với Thanh Niên, có lẽ là qua ĐCS Pháp thì cần phải tìm hiểu thêm. Nhìn chung, chúng ta không biết được nhiều về sự thật của những tiếp xúc giữa Quảng Châu và những nhà cách mạng miền nam trong giai đoạn này. Nhưng điều chắc chắn là đến giữa năm 1927 những nhà hoạt động từ Trung phần Việt Nam đã bắt đầu xây dựng những tổ chức có liên hệ chính thức với những nhân tố đã có sẵn trong mạng lưới quen biết cá nhân. 

Kế hoạch hợp nhất với Thanh Niên vào tháng 7 / 1927 đã gây nên những xáo trộn trong Cách Mạng Đảng: theo Hà Huy Tập thì mãi đến tháng 7 / 1928 nó vẫn duy trì cái tên Thanh Niên cùng với những quy chế và phương pháp tổ chức [158]. Theo quan điểm của ông thì hai đảng này không mâu thuẫn về nguyên tắc, nhưng bị trì trệ vì những dị biệt cá nhân khi đề cập đến những vấn đề tổ chức.

Một cái nhìn phức tạp hơn về mối quan hệ giữa hai đảng đã được đề cập đến trong hồi ký của Hoàng Đức Thi, một thành viên Cách Mạng Đảng, do Sở Liêm Phóng phát hành vào năm 1933. Ông thừa nhận rằng trong năm 1927, đảng ông đã tiếp thu phương pháp tổ chức kiểu chi bộ theo kiểu mẫu của Thanh Niên, và họ giả vờ như hai đảng đã hoà nhập dưới sự lãnh đạo của uỷ ban trung ương Thanh Niên tại Quảng Châu [159]. Ông giải thích hành vi lập lờ này là nhằm lôi kéo lại những thành viên đã sang học ở Trung Quốc. Nhưng ta có thể ngầm hiểu ông không muốn nói thật về giai đoạn đầy hiểm nguy này trong quá khứ chính trị của mình. Năm 1933 người bạn cũ của ông là Trần Phú đã trong tù tại Sài Gòn, và bản thân Hà Huy Tập một thành viên quan trọng của Cách Mạng Đảng từ năm 1927, đang trên đường trở về từ Moscow và trở thành một thế lực mạnh mẽ trong hàng ngũ lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương. Trong khi Hoàng Đức Thi không hoàn toàn chấp nhận việc kết hợp hai đảng nhưng sự tồn tại của nó là có thật. Theo Thi thì sự đổ vỡ của những thảo luận cho việc hợp nhất là do lỗi của các thành viên Thanh Niên vì họ đã phản đối việc hợp nhất những chi bộ địa phương với miền trung và miền bắc[160]. Cả ông và Hà Huy Tập đều đồng ý rằng Vương Thúc Oánh đã đóng vai trò chính trong sự đổ vỡ này.

Tình trạng phức tạp này cũng có thể là do Hồ Chí Minh ưa chuộng chiến lược nắm giữ phong trào từ bên trong. Hà Huy Tập đã kể lại cái mà ông gọi là ʺnhững ví dụ điển hìnhʺ của việc hợp tác giữa hai đảng: ʺĐồng chí H. của Thanh Niên cũng là phó bí thư của uỷ ban trung ương Cách Mạng Đảng; đồng chí Nguyễn  Sĩ Sách, một đại diện trung gian của uỷ ban trung ương Cách Mạng Đảng, cũng là thành viên của chi bộ Thanh Niên tại Trung Kỳ” [161] Tập không cho biết là bản thân ông có là thành viên lưỡng đảng hay không, mặc dù ông đã nói rõ rằng ông là một người cộng sản (ông cũng ở chung nhà với ʺmột vài thành viên của Chi Uỷ Nam Kỳ của Thanh Niênʺ]. Hồi ký của Hoàng Đức Thi xác nhận là tuy rằng những học viên Thanh Niên không có liên hệ trước đây với Cách Mạng Đảng nhưng họ đã ʺxin được phục vụʺ cho đảng này sau khi từ Quảng Châu trở về [162]. Ta có thể hiểu rằng họ đã làm theo chỉ thị của giới lãnh đạo Thanh Niên ở Trung Quốc.

Sự tan rã của Mặt Trận Thống Nhất

Tiến trình của công tác tổ chức mà Doriot khi sang thăm đã trình bày cho Thanh Niên đã bị giảm thiểu vào thời gian thương lượng hợp nhất với Cách Mạng Đảng bị thất bại. Vừa lúc công cuộc xây dựng đảng và vận động hậu thuẫn từ CSQT của Hồ Chí Minh đang bắt đầu cho kết quả thì mặt trận thống nhất tại Quảng Châu thình lình tan rã. Cuộc đảo chính của Tưởng Giới Thạch ngày 12 tháng 4 1927 đã phá vỡ phong trào công nhân cánh tả tại đây và đẩy ĐCS Trung Quốc vào hoạt động bí mật. Những diễn biến tương tự cũng đã xảy ra tại các thành phố của Trung Hoa Dân Quốc việc bắt bớ hàng loạt và hành hình những nhà hoạt động công đoàn đã bắt đầu khoảng ngày 14 tháng 4 tại Quảng Châu. Lúc ấy Hồ Chí Minh hoặc đã chạy lên miền bắc hoặc đang trú ẩn tại lãnh sự quán Nga. Ông giải thích với QTCS sau khi quay lại Moscow rằng người Nga duy nhất còn lại Quảng Châu ʺđã không giúp đỡ hoặc cố vấn được gì cho chúng tôi, hay ít ra là tiếp tục trả lương thông dịch cho tôi vì tôi hoàn toàn không thể tìm được việc làm... Tôi không  còn cách nào khác là để mình bị bắt hoặc tiếp tục công tác tại Xiêm sau khi quay lại Moscowʺ [163]. Mật thám Constantin báo cáo rằng Hồ và những người cộng sản Việt Nam khác đã bị các thành viên của nhóm yêu nước đối lập tại Quảng Châu tố giác. Nhóm này do Tam Kam Say (Dam Giam Tay) [164] đứng đầu, có sự tham gia của Nguyễn Hải Thần, là một tổ chức có tư tưởng cách mạng dân tộc thuần tuý tại Quảng Châu. Hai đồng chí của Lý Thụy đã bị bắt giữ, cùng với bốn hoặc năm người Việt khác vừa từ Bắc Kỳ đến, theo báo cáo của Konstantin. Lâm Đức Thụ đã phải liều thân đứng ra để bị bắt chung với Hồ Tùng Mậu nhằm che dấu vỏ bọc mật thám của mình. Ông viết cho liên lạc viên Sở Liêm Phóng vào ngày 13 tháng 5 1927 rằng ông đã bị giam từ ngày 15 tháng 4. ʺSự hiện diện của Hồ Tùng Mậu là một cản trở trong việc viết và chuyển thư từ của tôi,ʺ ông giải thích. ʺNgài có hiểu được lòng tôi không, thưa Ngài? Vào lúc này tôi vẫn chưa manh động vì tôi luôn đặt lòng tin vững chắc của mình vào Ngài.ʺ Đến giữa tháng 6 họ đã được trả tự do, và Lâm Đức Thụ lại tiếp tục công việc mật báo về những nhà cách mạng [165].

Mối quan hệ giữa Hồ Chí Minh và Nguyễn Hải Thần trở nên xấu hẳn khi căng thẳng trong mặt trận thống nhất ngày càng tăng. Nguyễn Hải Thần trở nên gần gũi hơn với nhóm kháng chiến đối lập, những người này chú trọng hơn về hành động quân sự hơn là Hồ. Như Lâm Đức Thụ đã tường thuật Tam Kam Say và Phạm Nam Sơn ʺrất chuyên nghiệp trong việc tiêu thụ tiền giả và buôn lậu thuốc phiện và đã lợi dụng Nguyễn Hải Thần để thành lập đảng nàyʺ [166]. Lâm Đức Thụ báo cáo vào cuối tháng Giêng rằng Nguyễn Hải Thần đang thảo luận với Tam Kam Say và những thành phần khác để thành lập một đảng mới [167]. Đến tháng 3 Thụ báo cáo rằng Lý Thụy đã chấm dứt việc tham khảo ý kiến với Hải Thần [168]. Lâm Đức Thụ cũng nói rằng việc điều hành những vấn đề liên quan đế tài chính một cách quá bí mật của Hồ đã đánh mất lòng tính nhiệm của những đồng chí khác: ʺHầu như mọi chi phí của tập thể đều do Lý Thụy thanh toán theo một phương pháp rất tài tình: ông đưa tiền cho Hồng Sơn hoặc Tùng Mậu để họ chi trả bằng  ngân khoản  của mình...  Cách này làm cho những  người  Trung  Kỳ tin cậy lẫn nhau  và không tin tưởng vào những đồng hương đến từ những vùng khác trong khối Liên Hiệp Đông Dương, và việc không tin tưởng nhau này đã đẩy Hải Thần và Phạm Nam Sơn thành lập tổ chức riêng của họ.ʺ (tiền này là từ chính phủ Quảng Châu chi trả, Thụ viết, dưới sự yêu cầu một tuỳ viên Nga [169]).

Dù thế hai nhóm này vẫn tiếp tục hợp tác trong khuôn khổ của Học Viện Hoàng Phố. Đến tháng 2 1927 Thụ cho rằng đã có 53 người Việt theo học tại Hoàng  Phố kể từ tháng 12 năm trước.

Những học viên tốt nghiệp trong đó có Lê Hồng Sơn và Lê Như Vọng (Lê Thiết Hùng) được chọn để hướng dẫn các học viên người Việt mới, và một bộ phận đặc biệt dạy tiếng Việt đã được lập riêng cho họ [170]. Sự thật là Thanh Niên vẫn còn bám lại tại Quảng  Châu sau cuộc đảo chính tháng 4 bằng cách giữ gìn quan hệ với phong trào giải phóng dân tộc không cộng sản bao gồm những người cánh tả trong Trung Quốc Quốc Dân Đảng. Trường hợp những thành viên như Trương Văn Lềnh, ông trà trộn hoàn toàn vào tổ chức đối lập, theo mật báo của Lâm Đức Thụ cho Sở Liêm Phóng vào ngày 8 tháng 4 [171]. Trương Văn Lềnh đã tìm cách giữ được việc làm trong chính quyền Quảng Châu, đầu tiên là một cai đội và sau đó là đại đội trưởng cảnh sát đến cuối tháng 10 1927. Sau đó ông phục vụ trong quân đội của tướng Quốc Dân Đảng Tương Phát Khuệ[172] Sự nghiệp chính trị của Lê Hồng Sơn thì cũng dính dáng một phần đến Trương Phát Khuê ông làm việc dưới quyền của Trương từ 1926 khi đóng quân tại đảo Hải Nam.

Tung tích của Hồ Chí Minh vào giai đoạn ấy là nguồn gốc của những đồn đãi ít nhất là cho đến tháng 12 1927. Có thể ông đã chỉ thị cho Lê Hồng Sơn và Hồ Tùng Mậu để họ đưa ra những tin tức sai lạc trong cộng đồng Việt kiều. Ví dụ như Konstantin đã báo cáo vào ngày 1 tháng 5 rằng Lý Thụy đã bị bắt cùng với những thành viên khác của Thanh Niên. Sau đó Lâm Đức thụ lại báo rằng ông đã trốn đi Hán Khẩu (Hankou ND) [173] và cuối năm đó gia nhập quân đội của Diệp Đĩnh (Ye Ting ND) tại Sán Đầu (Swatow hay Shantou ND) [174]. Một thiếu nữ người Quảng Châu mà Hồ đã ʺcướiʺ vào tháng 10 1926 tên là Tuyết Minh, đã không được cho biết ông đã đi đâu [175]. Theo báo cáo của chính Hồ với QTCS về hành tung của mình thì chúng ta biết được ông đã rời Quảng Châu và trực chỉ đến Thượng Hải. Có lẽ ông đã đi qua ngõ Hán Khẩu, nơi có cuộc họp của Nghiệp Đoàn Thái Bình Dương vào cuối tháng 5 hoặc đầu tháng 6. Nhưng ông không hề đề cập đến việc này. Ông đã đi đường biển từ Thượng Hải đến Vladivostok cùng với Jacques Doriot và đến Moscow vào khoảng tháng 6 [176]. Tại Vladivostok  ông gặp Voitinsky, ông này đã tìm cách thuyết phục Hồ quay lại Thượng Hải để hoạt động cùng những người Pháp và người Việt tại đó. Nhưng Hồ dường như đã quyết định yêu cầu thêm ngân sách để tiếp tục mở các lớp đào tạo chính trị tại Xiêm. Tại Moscow ông chỉ có một tiếp xúc ngắn ngủi với những người Việt tại Đại Học Lao Động Phương Đông, những người này đã thành lập một chi bộ cộng sản với 5 thành  viên.  Họ là ʺFonShonʺ  (Nguyễn  Thế Rục, một người  miền  bắc họ hàng  với Nguyễn Thế Truyền]; ʺLemanʺ (Ngô Đức Trì, con của học giả và cựu tù nhân chính trị Ngô Đức Kế người Hà Tĩnh]; ʺJiaoʺ (Bùi Công Trừng, một ký giả và nhà hoạt động trẻ từ miền trung Việt Nam, trước đây tham gia hội Jeune Annam tại Sài Gòn]; ʺMinKhanʺ (Bùi Lâm, một thuỷ thủ và thợ in từ Hải Phòng, thành viên ĐCS Pháp tại Paris); và ʺLequyʺ (Trần Phú), người được bầu làm bí thư chi bộ [177]. Trong một mẫu thư ngắn Hồ chỉ thị cho chi bộ cộng sản này phải học tập chính trị tốt. Vào ngày 25 tháng 6 ông cũng đã gửi báo cáo cho Nông Dân Quốc Tế về phong trào nông dân tại Quảng Đông [178]. Sau một thời gian nằm viện để điều trị bệnh lao, vào tháng 11 ông được gửi về Paris với những chỉ thị mới của QTCS [179].

Những thành viên còn lại của phái bộ Borodin rời khỏi nơi trú nạn ở Trung Quốc vào tháng 7 1927 sau khi cố gắng tập hợp một mặt trận thống nhất với những người cánh tả trong Quốc Dân Đảng bị thất bại. Một lần nửa ảo tưởng thoả hiệp với lãnh đạo Quốc Dân Đảng là Uông Tinh Vệ đã tan biến, và ĐCS Trung Quốc phải tự tìm ra sách lược mới để bảo toàn những thành quả có được từ những năm tháng trong mặt trận thống nhất. Sau 3 năm phục vụ trong hàng ngũ quân đội do Quốc Dân Đảng chỉ huy, những người cộng sản Trung Quốc giờ đây phải tự huy động lực lượng chiến đấu riêng trong vòng chỉ vài tháng. Stalin và QTCS thình lình thay đổi chính sách  vào  tháng  7, sau  khi  những  người  đầu  tiên  trốn  thoát  cuộc  đảo  chính  tháng  4 về đến Moscow báo cáo (trong số đó có một nhân vật tên ʺFreyerʺ đã đệ trình một báo cáo dài cho Nông Dân Quốc Tế về Phong Trào Nông Dân cũng như về Hồ Chí Minh [180]). Trong một nghị quyết ra ngày 14 tháng 7, Ban Chấp Hành QTCS tuyên bố, ʺVai trò cách mạng của chính quyền Vũ Hán (Wuhan ND) đã chấm dứt; nó đang trở thành một lực lượng phản cách mạng. Đây là một đặc điểm mới mà tầng lớp lãnh đạo của ĐCS Trung Quốc cần nên quan tâm rõ ràng và đầy đủ.ʺ Dù thế những đảng viên cộng sản vẫn được khuyên là nên lưu lại trong hàng ngũ Quốc Dân Đảng để thiết lập chiến lược của một mặt trận thống nhất từ ʺdưới lênʺ: để ʺtăng cường hoạt động trong khối quần chúng vô sản... xây dựng các tổ chức công nhân... củng cố công đoàn... giúp quần chúng lao động sẵn sàng có hành động quyết định... phát triển cách mạng ruộng đất... vũ trang cho giai cấp công nhân và nông dân... tổ chức một cuộc đấu tranh cân sức với những thành phần phá hoại đảngʺ [181].

Kể từ sau vụ tàn sát chống cộng do Quốc Dân Đảng phát động vào tháng 4, lãnh đạo ĐCS Trung Quốc cuối cùng đã phản công. Cố gắng đầu tiên của họ nhằm giành lại quyền lực từ phe Quốc Dân Đảng ʺphản độngʺ xảy ra vào ngày 1 tháng 8, khi hai tướng Diệp Tĩnh (Ye Ting ND) và Hạ Long (He Long ND) khởi quân tại Nam Xương (Nan Chang ND), thủ phủ của Giang Tây (Jiang Xi ND). Chu Ân Lai chính là nhân vật chủ chốt trong cuộc khởi nghĩa Nam Xương. Sự kiện này đã tạo dựng nền móng cho Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc, theo các nhà sử học của ĐCS Trung Quốc, bắt đầu thời kỳ lãnh đạo quân đội độc lập của những người cộng sản. Cuộc nổi dậy bị dập tắt trong vòng 3 ngày, khi tướng Trương Phát Khuê mà những người cộng sản nghĩ là đồng minh của họ, đã tấn công quân nổi loạn bằng lực lượng của mình. Quần chúng nông dân đã không đến tiếp ứng cho những người cộng sản đang bị bao vây và họ bắt buộc phải rút về phía nam thành phố Sán Đầu, phía đông bắc tỉnh Quảng Đông. Nơi đó họ đã tìm cách dựng lên một thủ đô mới để rồi bị đánh bại vào đầu tháng 10. Trong lúc đó Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc họp vào ngày 7 tháng 8 tại Hán Khẩu, trong dịp ấy lãnh đạo đảng Trần Độc Tú đã bị lên án là kẻ ʺthoả hiệp cánh hữuʺ, ông đã trở thành vật tế thần cho sự thất bại của mặt trận thống nhất. Hội nghị tuyên bố chính sách mới về cách mạng ruộng đất và vũ trang chống lại Quốc Dân Đảng. Giới lãnh đạo lâm thời ʺquyết định biến công tác huy động nông dân cho cuộc khởi nghĩa Trung Thu là nhiệm vụ trọng tâm của Đảngʺ [182]. Besso Lomidadze,  đại diện mới của QTCS, đã đóng vai trò chủ động trong việc hình thành quyết định trên. Dù thế, mãi cho đến ngày 19 tháng 9 Bộ Chính Trị Uỷ Ban Trung Ương mới quyết định sẽ không còn làm ra vẻ chiến đấu dưới ngọn cờ của Quốc Dân Đảng Cánh Tả. Từ đó về sau ĐCS Trung Quốc đã chiến đấu cho quyền lực sô viết dưới ngọn hồng kỳ của họ [183]. Trong một cuộc họp vào tháng 11 / 1927 của Bộ Chính Trị Lâm Thời ĐCS Trung Quốc, những người cộng sản đã xác nhận con đường tả khuynh của mình, lần nữa dưới ảnh hưởng của Lominadze.  Mặc dù số lượng thành viên của họ đã giảm thiểu một cách đáng kể từ tháng 4, họ vẫn quyết định rằng ʺtình hình cách mạngʺ vẫn  đang  ở  điểm  cao  và  chiến  lược  kháng  chiến  vũ  trang  vẫn  nên  tiếp  tục  [184].

Những người cộng sản Việt Nam tham gia lực lượng Quốc Dân Đảng chắc hẳn đã lâm vào tình huống khó xử có thể là vào năm 1927 họ đã không có đủ thời gian để tìm được một lựa chọn rõ rệt là nên chiến đấu dưới ngọn cờ cộng sản hay dưới quyền  chỉ huy của nhân vật khó hiểu Trương Phát Khuê. Dù sao chúng ta đã biết được từ những báo cáo của Lâm Đức Thụ rằng một trong những người hùng của nhóm Việt Nam là Lê Hồng Sơn cùng một số thành viên Thanh Niên khác vẫn còn liên hệ với Trương Phát Khuê mãi cho đến tháng 11 1927. Lâm Đức Thụ báo cho Sở Liêm Phóng ngày 13 tháng 11 rằng vẫn còn ʺmột số đông đảng viên cộng sảnʺ nằm trong quân đội của Trương Phát Khuê, trong đó có cả Lê Quảng Đạt và Trương Văn Lềnh. Đạt lãnh lương 200 đồng Đông Dương (Piastre ND) và Lềnh 150 đồng mỗi tháng [185]. Tại Quảng Châu, việc thanh trừng cộng sản đang được tiến hành bởi Tướng Lý Tế Thâm (Li Ji Shen ND), người mà theo báo cáo của Hồ Chí Minh gửi cho Nông Dân Quốc Tế, đã chống phá dữ dội các tổ chức nông dân địa phương [186]. Vì thế khi quân đội Trương Phát Khuê tổ chức đảo chính tướng Lý vào  ngày  17  tháng  11,  thành  phần  lãnh  đạo  Thanh  Niên  đã  cảm  thấy  vô  cùng  nhẹ  nhõm. ʺ...những thành viên trong nhóm Tùng Mậu rất vui mừng vì việc những đồng chí của họ trở lại sẽ giúp họ tìm được việc làm và hậu thuẫn dễ dàng hơn...,ʺ Lâm Đức Thụ phán đoán về vụ đảo chính [187].

Trong giai đoạn thay đổi chính trị này, những người Việt vẫn tiếp tục đến học tập tại Quảng Châu. Họ bao gồm một số người từ Bắc Kỳ sau này trở thành lãnh đạo của một nhóm cấp tiến ly khai khỏi tổ chức Thanh Niên vào năm 1929: Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Hội [188]. Thật vô cùng khó khăn để ta biết sự thật ngoại trừ phán đoán về việc họ đã chịu ảnh hưởng chính trị từ đâu sau tháng 4 1927 vì tình hình chính trị trong Thanh Niên cũng như tại Quảng Đông trở nên rất phức tạp. Có những sự việc dường như mâu thuẫn nhau. Trong nội bộ Thanh Niên đã có những nỗ lực hoà giải với những tổ chức quốc gia đối lập, trong khi đó trong ĐCS Trung Quốc lại có khuynh hướng khởi nghĩa. Trong khi đó, những thành viên còn lại của Thanh Niên tại Quảng Châu đã bắt đầu tìm cách phối hợp việc kết nối lại với Nguyễn Hải Thần đang bị bỏ rơi trong mùa thu năm 1927. Lâm Đức Thụ đã báo cáo hai cuộc họp ngày 18 và 24 tháng 10 nhằm thống nhất hai đảng. ʺNgày Chủ nhật hôm qua,ʺ ông viết ʺNgô Thanh và Đinh Tế Dân đã gặp Tùng Mậu, Văn Lềnh và Quảng Đạt tại công viên. Họ đã thảo luận sự cần thiết phải chấm dứt những xung đột giữa hai bên.ʺ Tùng Mậu cho rằng họ đã giải quyết được những bất đồng [189]. Tiểu sử của Nguyễn Đức Cảnh nói rằng trong tháng 9 1927 ông đã đến Quảng Châu để gặp Uỷ Ban Trung Ương của Thanh Niên Hội để phối hợp hoạt động giữa hai phong trào. Là người quê Thái Bình, sinh năm 1908, Cảnh bị đuổi học tại Nam Định vào năm 1926 vì đã tổ chức  bãi khoá.  Ông  là thành  viên  của Nam  Đồng  Thư  Xã, hội này vào tháng  12 1927  đã chuyển thành Việt Nam Quốc Dân Đảng [190]. Cũng như những học viên trước đó, ông đã đầu quân vào Thanh Niên sau khi tham gia các khoá học dựa trên cương lĩnh của Hồ Chí Minh. Trịnh Đình Cửu và Nguyễn  Hội cũng có thể đang ở Quảng  Châu cùng lúc với Nguyễn  Đức Cảnh. Tiểu sử chính thức của Ngô Gia Tự viết rằng ông cũng ở Quảng Châu giữa năm 1927. Ta không biết được là ông có theo dõi cuộc đảo chính tháng 4 hay không.

Những học viên người Việt cũng đã biết được những sự kiện xảy ra tại hai huyện Hải Phong và Lục Phong phía đông Quảng Châu. Một số quân lính rút lui từ Nam Xương về Sán Đầu đã tái hợp tại các huyện này, nơi xảy ra những thắng lợi đầu tiên của phong trào nông dân Quảng Đông. Những người lính này bắt đầu nổi dậy vào ngày 25 tháng 10 để thành lập Sô Viết. Sau cuộc tấn công tàn bạo của quân đội Lý Tế Thâm, những người nông dân và lãnh đạo cộng sản của tỉnh này hình như đang muốn trả thù. Chính quyền cách mạng lâm thời được thiết lập tại Hải Phong  và Lục Phong  ʺhoàn toàn thuộc cộng sản và vũ trang đầy đủʺ, Fernando  Galbiati viết[191]. Ông đã trích dẫn một lá thư của Tỉnh Uỷ Quảng Đông trong đó viết rằng ʺviệc tiêu diệt bọn địa chủ phải được tiếp tục cho đến khi không còn tên nào. (...) Để chứng tỏ vấn đề đánh chiếm HảiLụcPhong  không phải là mong manh như ngôi nhà trên cát” [192] Như Galbiati chỉ ra, phong trào Sô Viết HảiLụcPhong  đã được quản chế chắc chắn, được điều khiển bởi ʺmột tiểu tổ trung ương, mệnh lệnh của nó được thực hiện bởi những  thành viên của Nông Hộiʺ. Những người trong ĐCS Trung Quốc vẫn giữ bí mật tối trọng và chỉ được biết đến trong Sô Viết như là những ʺzuzhiʺ (cơ cấu ND) [193].

Sự ra đời của Sô Viết nông dân HảiLụcPhong  đã khích lệ hàng ngũ lãnh đạo ĐCS Trung Quốc tổ chức một cuộc nổi dậy tại Quảng Châu. Nguyên nhân tiên khởi chính là sự cạnh tranh giữa Trương Phát Khuê và Lý Tế Thâm, vì thế vào ngày 26 tháng 11 những người cộng sản Quảng Châu đã nhận định rằng sự tranh chấp giữa các tướng quân phiệt đã tạo ra một cơ hội thuận lợi để tổ chức khởi nghĩa.  Ngày hành động được quyết định là 13 tháng 12. Nhân vật cộng sản người Đức là Heinz Neumann,  người chuyển giao các chỉ thị của Stalin tại Quảng Châu, đã ra quyết định cuối cùng cho việc khởi nghĩa, có lẽ là vì áp lực của Stalin đã muốn có một thắng lợi ở Trung Quốc nhân dịp Đại Hội thứ 15 của Đảng Cộng Sản Sô Viết. Cuộc khởi nghĩa ba ngày đã bị đè bẹp bởi những lãnh binh Quốc Dân Đảng vừa lên kết lại với nhau, một lần nữa đã gây ra hậu quả là sự trả thù dã man đối với những người cộng sản và dân lao động đã tham gia khởi nghĩa. Nó đã trở thành một huyền thoại động viên cho ĐCS Trung Quốc, cho dù nó không được chuẩn bị kỹ lưỡng cũng như đã thiếu sự hỗ trợ của tầng lớp lao động. Nhưng nó đã ảnh hưởng như thế nào đến những người cộng sản Việt Nam đang ở tại Quảng Châu hoặc đang theo học tại Học Viện Hoàng Phố?

Theo tài liệu sử chính thức của ĐCS Việt Nam thì những thành viên của Thanh Niên Hội đã tham gia vào cuộc nổi dậy và có 24 người bị bắt [194]. Những người trong hàng ngũ học viên sĩ quan tại Hoàng Phố rất có thể đã tham gia, vì đây là lực lượng quân sự duy nhất lúc ấy có thể bảo vệ các công xã. Một người Việt là Phùng Chí Kiên được kể là đã rút về Sô Viết HảiLục Phong sau khi cuộc nổi dậy bất thành, và trở thành chỉ huy một đơn vị vũ trang cộng sản [195]. Nhưng theo lời khai của một người cộng sản miền nam quen biết Phùng Chí Kiên ở Trung Quốc thì sau khi tham gia khởi nghĩa Quảng Châu, ông đã trở về lại Hoàng Phố đến khi bị bắt đi tù vào đầu năm 1929. Chỉ sau khi ra tù vào mùa thu 1929 Kiên mới tham gia ĐCS Trung Quốc và gia nhập Hồng Quân tại Đông Khu (Dong Kiang ND), Quảng Đông với chức đại đội trưởng [196]. Một học viên sĩ quan Hoàng Phố khác bị bắt sau khởi nghĩa là Trần Văn Cung (Quốc Anh), người này vào năm 1929 đã cầm đầu một tổ chức ly khai khỏi Thanh Niên [197]. Một nguồn tin tại Hà Nội cho biết rằng Trương Văn Lềnh là một trong trong những lãnh đạo công xã, sau đó đã thay đổi tên họ và quân phục để trà trộn vào quân đội quốc dân [198]. Cũng rất có thể là ông đã tham gia quân đội Trương Phát Khuê ở ngoại ô Quảng Châu. Không may là báo cáo của Lâm Đức Thụ đã không đề cập đến những gì đã xảy ra. Nhưng vào tháng 5 1928 ông đã báo rằng 24 người Việt Nam vẫn đang học tập hoặc giảng dạy tại Hoàng Phố. Trong số đó có Lê Duy Nghĩa (Lê Duy Điếm) và Mạnh Văn Liễu (một bí danh khác của Phùng Chí Kiên). Những thành viên Thanh Niên bị bắt trong thời gian khởi nghĩa đã được thả vào ngày 13 tháng 5, đa số đều trong tình trạng sức khoẻ kém [199]. Tài liệu lịch sử công xã cho biết rằng một học viên sĩ quan người Việt tên Đỗ Huy Liêm đã chết trong cuộc nổi dậy [200]; nhưng thực ra ông đã lưu lại Hoàng Phố cho đến cuối năm 1928 và quay lại làm việc tại Thanh Niên rồi cho Đông Dương Cộng Sản Đảng tại Bắc Kỳ cho đến khi ông bị bắt vào năm 1930 [201]. Dù thế, đối với những thành viên và học viên mới, công xã và phong trào Sô Viết HảiLụcPhong là một kinh nghiệm mới mẻ cho họ. Vào lúc này, ĐCS Trung Quốc đang trên con đường khởi nghĩa: việc thành lập các Sô Viết tại thành phố và nông thôn là nhiệm vụ ưu tiên hành đầu. Nhưng ngược lại với tiêu chuẩn của Hà Nội về hình ảnh của năm 1928, Thanh Niên đã tìm cách tiếp tục hoạt động và đào tạo quân sự cho đến cuối năm, khi làn sóng đàn áp phong trào cộng sản lần thứ hai bắt đầu.

Đến cuối năm 1927, cộng sản Việt Nam đã chia làm hai luồng tư tưởng trong nhóm Việt kiều tại Trung Quốc. Một nhánh tiếp thu chủ thuyết mặt trận thống nhất của những năm trước, trong khi nhánh kia lĩnh hội chiến lược vũ trang mới của ĐCS Trung Quốc. Vì đã không còn cơ cấu của QTCS tại Quảng Châu vào cuối năm 1927 nên những người Việt đã không còn nguồn chỉ thị hoặc tư tưởng chủ đạo nào khác ngoài ĐCS Trung Quốc. Vì Hồ Chí Minh đã rời khỏi Trung Quốc nên ông không bắt buộc phải theo bên nào. Sau chuyến trở về Moscow ông rút vào hoạt động bí mật và có vẻ đã đứng ngoài những tranh chấp đã chia rẽ phong trào cộng sản Việt Nam vào năm 1929. Mặc dù người Pháp tiếp tục nhận được tin tức về những kế hoạch nổi dậy trong suốt năm 1927 nhưng dường như Hồ đã không dính dáng gì đến những kế hoạch này. Ông vẫn giữ nguyên là một nhà tổ chức thận trọng và kiên nhẫn bất chấp kết quả đầy bạo lực của cuộc thử nghiệm về phong trào thống nhất. Khi Grigory Voitinsky đề nghị tại Vladivostok rằng ông nên quay về Thượng Hải để làm việc với những toán quân Việt Nam thì ông đã từ chối. ʺChúng tôi có nên tập hợp vài người lính Việt Nam ở Thượng Hải (những người này đã nói với tôi rằng họ đang tính quay về tổ quốc), và huỷ bỏ những công việc vừa được bắt đầu tại Đông Dương?ʺ ông đã hỏi trong một báo cáo gửi cho Moscow. Ông đề nghị được chuyển công tác đến Xiêm để:

ʺlàm việc hay đúng hơn là tiếp tục công việc về Đông Dương cho dù kết quả sẽ xa vời và ít hiển thị hơn thì vẫn quan trọng hơn bởi vì những đồng chí khác có thể thay thế tôi ở Thượng Hải, nhưng ở Xiêm thì không thể. Và vì tin tức từ những phản ứng của người Trung Quốc đang được thực dân Pháp loan truyền rộng rãi, đã gieo thêm những bi quan cho người Việt, và nếu chúng ta ngưng hoạt động bây giờ thì những gì chúng ta đã làm được trong ba năm qua sẽ mất cả, và sẽ rất khó khăn để làm lại từ đầu, trên tinh thần của những người Việt thì họ đã bị thất vọng vài lần rồiʺ [202].

Không có nhận xét nào: