Cuối Tháng 3/75 Tuyến Đầu Thất Thủ
Tình hình chung
Sau
tháng 1/1973 VC vẫn tiếp tục vi phạm Hiệp định Paris, cuộc chiến vẫn tiếp diễn
nhưng VNCH còn đủ mạnh, khoảng cuối 1973 Hạ viện Mỹ bắt đầu cắt giảm viện trợ
50% mỗi năm 1974, 1975 khiến miền Nam ngày càng suy yếu, CS ngày càng mạnh hơn
. Ông Nguyễn đức Phương dựa theo M.Maclear (Vietnam:
The ten Thousand Day war) cho biết vào ngày mất Ban Mê Thuột 13/3/1975 Hạ
viện Mỹ bác bỏ 300 triệu viện trợ bổ túc cho VNCH do TT Ford đệ trình. Đại sứ
Martin cũng
thông báo cho TT Thiệu biết quân viện cho năm tới (1976) sẽ không được chuẩn chi (Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 732). Tin sét đánh đã khiến TT Thiệu mất tinh thần để rồi đi từ sai lầm này đến sai lầm khác.
Nói trắng ra Hạ
Viện Mỹ đã cạn tầu ráo máng buộc miền
nam VN phải đầu hàng CS. Trong khi tại chính trường nước Mỹ vấn đề VN không
được ai quan tâm tới, chỉ còn TT Ford và
người phụ tá Kissinger cố gắng một cách tuyệt vọng để xin chút phương tiện cho
VNCH. Vào lúc này đảng Dân Chủ nắm đại đa số Quốc hội Mỹ (67% Hạ viện và 60%
Thượng viện), họ chống chiến tranh VN tích cực, đảng nọ phá đảng kia, bao giờ
cũng vậy, ai cũng đều biết cả. Theo nhận
xét của Kissinger (Years of Renewal
trang 464) thì TT Ford không tìm được giải pháp nào để thoát ra khỏi sự bế tắc,
thảm kịch không thể nào tránh khỏi.
(.. there were no easy,
heretofore undiscovered way out of this morass…
The tragedy had become
simply inevitable.)
Gerald Ford chẳng khác nào một ông Tổng
thống bù nhìn, lại nữa ông đã không do dân bầu, lên thay thế TT Nixon khi mà
đảng Cộng Hòa bị mất quá nhiều uy tín qua vụ tai tiếng Watergate.
Tình hình miền nam VN lúc này quá u ám, Hoa
K ỳ đã bắt tay được Trung
C ộng tháng 2/1972 và hòa được với Sô Viết tháng 5/1972, thuyết Domino
không còn ý nghĩa. Bây giờ là lúc họ quẳng cái miếng xương Đông Dương đi, được
Cộng sản quốc tế khuyến khích, Hà Nội
mừng rú vội chạy lại vồ ngay lấy. Năm 2006 trên internet tôi thấy có người hỏi
cựu Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn
“Chúng ta đã biết trước là thua tại sao
vẫn đánh để khiến bao nhiêu người chết thảm?”
Một câu hỏi thật khó có câu trả lời…
Tối 29/3/1975 đài phát thanh BBC Luân
Đôn cho biết Đà Nẵng đã thất thủ, một
trăm ngàn quân bị bắt làm tù binh, đó cũng là ngày sụp đổ của toàn bộ Quân khu
I, hung tin ghê gớm ấy đã khiến cho cả nước kinh hoàng: Quân khu I nơi tập
trung những lực lượng tinh nhuệ và thiện
chiến nhất của VNCH, bốn Sư đoàn chính qui chủ lực, bốn Liên đoàn Biệt động
quân đã hoàn toàn tan rã sau 9 ngày cầm cự và triệt thoái. Mặc dù nay nhiều bí
mật về cuộc lui binh đã được tiết lộ, Bộ Tổng tham mưu VNCH, các vị Tướng lãnh,
các giới chức quân sự liên hệ đã bạch hóa diễn tiến của trận chiến bi thảm này,
các nhà nghiên cứu quân sử, các nhân chứng, ký giả chiến trường… đã biên soạn,
kể lại diễn tiến của mặt trận vùng Hoả
tuyến nhưng người ta tưởng như nó vẫn còn nhiều điều bí ẩn và khó hiểu, chưa
bao giờ trong cuộc chiến tranh Quốc -Cộng giai đoạn 1960-1975 một lực lượng to
lớn của miền Nam lại có thể thua nhanh đến thế. Cũng có người cho rằng tấn thảm
kịch này bắt nguồn từ ảnh hưởng của những yếu tố chính trị hơn là về quân sự.
Các tài liệu, sách báo nói về cuộc lui
binh Quân đoàn I của Bộ tổng tham mưu Đại Tướng Cao Văn Viên , Trung Tư ớng Ngô quang Trưởng,
Thiếu Tướng Hoàng Lạc, nhà nghiên cứu quân sử Nguyễn Đức Phương, ký giả chiến
trường Phạm Huấn và những lời thuật lại của các nhân chứng … nói chung không
hoàn toàn giống nhau, có khi còn trái ngược nhau là khác.
Quân khu I là một giải đất dài và hẹp hình
cán chảo chạy theo hướng Tây bắc, Đông Nam, gồm 5 tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên,
Quảng Nam, Quảng tín, Quảng Ngãi, dân số vào khoảng ba triệu người. So với các
Quân khu khác Vùng Một nhỏ hẹp nhất, đây
là nơi tiếp giáp với Bắc Việt , chiến tranh có thể bùng nổ bất cứ lúc nào nên
cũng gọi là vùng Hoả tuyến. Từ sau khi ký hiệp định Paris , nửa triệu quân đồng
minh đã rút đi, VNCH một mình phải gánh vác toàn bộ chiến trường. Lãnh thổ quá
rộng, không đủ lực lượng trấn giữ nên tại đây VNCH chỉ còn kiểm soát được phần
đất nằm phía bên phải của giải đất theo chiều dọc tức là phía Đông, còn phía
Tây do Cộng thuộc quyền kiểm soát của CSBV. Dần dần VNCH chỉ còn những tỉnh lỵ
và thị xã và các quận do sự lấn chiếm theo lối tầm ăn dâu của địch, kể từ sau
ngày 19/3/1975, nếu nhìn trên bản đồ quân sự (Cao Văn Viên , Những Ngày
Cuối VNCH trang 166) ta sẽ thấy miền Nam chỉ còn kiểm soát được vào khoảng
gần một phần ba (1/3) diện tích Quân khu 1.
Năm 1972 Quân khu I đã là một chiến trường
lớn, nơi diễn ra những trận đánh ác liệt đẫm máu giữa các đại đơn vị của hai
miền Nam Bắc .Vì tình hình sôi động đặc biệt của vùng hỏa tuyến ngoài ba Sư
đoàn cơ hữu 1, 2, 3 của Quân đoàn, TT Thiệu còn cho hai Sư đoàn tổng trừ bị
Nhẩy Dù và Thủy quân lục chiến ra đóng
tăng cường . Đạn dược tiếp liệu ngày càng thiếu thốn bi đát, theo ông Cao Văn Viên (sách đã dẫn trang 92) từ tháng 7/1974 hoả lực miền
Nam giảm hơn 70% và vào tháng 2/1975,
đạn tồn kho các loại súng tại kho Trung ương chỉ còn đủ cung ứng khoảng một tháng (30 ngày)
Miền Nam
không được Mỹ yểm trợ B52; tiếp liệu, đạn dược đã gần kiệt quệ, tài khóa 1974, 1775 bị cắt giảm 50% mỗi năm
(Kissinger, Years of Renewal trang 472). Ngay từ cuối
tháng 12/1974 khi BV xử dụng ba sư đoàn tấn công Phước Long, pháo binh VNCH tại
đây đã phải đếm từng viên đạn để tiết kiệm hầu còn đủ chiến đấu (Kissinger, Years of Renewal, trang 490)
Trong khi ấy CS quốc tế vẫn tiếp tục viện
trợ dồi dào cho BV, Theo
BBCVietnamese.com ngày 10-5-2006, viện trợ quân sự CS quốc tế cho BV giai đoạn
1969-1972 là 684,666 tấn vũ khí, giai đoạn 1973-1975 là 649,246 tấn vũ khí coi
như không thay đổi. Từ tháng 12/1974 Nga Sô đã viện trợ quân sự cho Hà Nội tăng
gấp bốn lần hơn trước (Kissinger, Years
of Renewal trang 481).
Nhìn sơ các con số và các dữ kiện trên
chúng ta cũng đủ biết ai sẽ thắng , ai thua, về điểm này Trung Tư ớng Nguyễn Văn Toàn có nói
“Xin
nhắc lại một lần nữa, nguyên nhân sâu xa của sự sụp đổ của Miền Nam là không có viện trợ (phương tiện chiến tranh)
(Những Sự
Thật Chiến Tranh Việt Nam 1954-1975, trang 406)
Cuối năm 1974 tình hình chiến sự ở Quân
khu I yên lặng được một thời gian, VNCH
đẩy lui cuộc tấn công của BV vào đồng bằng Tây Nam Đà Nẵng, CSBV có lợi thế về
địa hình, vì gần hậu cần miền Bắc, họ được bổ sung quân số và tiếp liệu thuận
lợi. Từ tháng 6 cho tới cuối năm 1974 các lực lượng Quân đoàn I của VNCH bị tổn
thất trong các trận giao tranh không được bổ sung nên quân số thiếu hụt. Quân
khu 1 được chia làm hai khu Bắc và Nam, Bắc gồm hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên
dưới quyền Bộ Tư lệnh tiền phương do Trung tướng Lâm Quang Thi chỉ huy, ba tỉnh còn lại Quảng Nam, Quảng Tín,
Quảng Ngãi do Tư lệnh Quân đoàn Trung Tư ớng Ngô Quang Trưởng
trực tiếp chỉ huy.
Bố trí chủ lực quân VNCH như sau
-Sư đoàn Nhẩy Dù vàTQLC, Lữ đoàn 1 Thiết
kỵ từ Bắc Thừa Thiên lên tới Nam sông Thạch Hãn kéo dài
sang phía Tây Quảng Trị
Lực lượng cơ hữu của Quân khu và các Liên
đoàn Biệt động quân bảo vệ các tỉnh còn lại:
- Sư đoàn 1BB và Liên đoàn 15 Biệt động
quân đóng tại Thừa Thiên,
- Sư đoàn 3 BB và Liên đoàn 14 BĐQ đóng
tại Đà Nẵng, Quảng Nam
- Sư đoàn 2 BB và hai liên đoàn 11, 12 BĐQ bảo vệ Quảng Tín,
Quảng Ngãi.
(Theo Nguyễn đức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 751)
Các đơn vị yểm trợ gồm trên 10 tiểu đoàn
pháo binh, một tiểu đoàn phòng không, một lữ đoàn thiết kỵ. Hải quân gồm các
giang đoàn xung phong, trục lôi, tuần thám tại Thuận An, các duyên đoàn tại Cửa
Việt, tại Thuận An, Tư Hiền… Sư đoàn 1 Không quân đóng tại Đà Nẵng. Quân số của
Quân đoàn vào khoảng 90,000 chủ lực và 75,000 địa phương quân, nghĩa quân, số
gồm cả thành phần không tác chiến. Đây chỉ là con số lý thuyết, trên thực tế
thì thấp hơn không được như vậy vì nhiều lý do.
Lực lượng Cộng sản tại Quân khu I chia hai
địa bàn hoạt động lấy đèo Hải Vân làm ranh giới do các Tướng Lê
Tư Đ ồng, Nguyễn Hữu An, Chu Huy Mân chỉ huy. Theo tác giả
Nguyễn Đức Phương tại đây Bắc việt có 7
sư đoàn (324B, 325, 320B, 312, 304, 711, 2) và 3 Trung đoàn độc lập tổng cộng
vào khoảng 8 sư đoàn (Sách đã dẫn trang 752).
Theo ông Cao Văn Viên , tại đây BV có 5 sư đoàn (341, 325C , 324B, 304, 711), 10
trung đoàn độc lập (52, 4, 5, 6, 27, 31, 48, 51, 270, 271), 3 Trung đoàn đặc
công (5, 45, 126), toàn bộ vào khoảng hơn 8 Sư đoàn. Lực lượng cơ giới yểm trợ
gồm 3 Trung đoàn xe tăng, 12 Trung đoàn phòng không, 8 Trung đoàn pháo binh (Những Ngày Cuối Của VNCH trang 160)
Theo Nguyễn Đức Phương lực lượng địch tổng
cộng vào khoảng 71,000 người. Bắc Việt có ưu thế về và vũ khí đạn dược hơn VNCH
rất nhiều, chủ lực quân coi như gấp hai.
Diễn
tiến của mặt trận
Trong khi mở chiến dịch Ban Mê Thuột, CSBV
tại Quân khu I cũng xâm nhập đánh phá các nơi để cầm chân quân đội VNCH như tại
Quảng Trị, họ chiếm quận Hải Lăng Bắc Thừa Thiên, xâm nhập các xã ven biển Thừa
Thiên. Phía Nam đánh các cao điểm của Sư đoàn I, tấn công tuyến sông Bồ nhưng
bị đẩy lui bỏ lại 200 xác chết, tại Quảng Tín địch chiếm 2 quận Tiên phước, Hậu
Đức ngày 10/3 bắn phá tỉnh lỵ Tam Kỳ…
Ngày 11/3, sau khi CS tấn công chiếm Ban
mê Thuột một ngày, Tổng thống Thiệu triệu tập phiên họp tại Dinh Độc Lập, có
mặt Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Đại
Tướng Cao Văn Viên , Trung Tư ớng Đặng Văn Quang. TT Thiệu cho biết trước tình hình
hình khó khăn do quân viện bị cắt giảm, áp lực địch mạnh, ta chỉ có thể giữ
được Quân khu III, Quân Khu IV và một vài tỉnh duyên hải QK I và QK II, QK I chỉ giữ Huế và Đà Nẵng (Những Ngày Cuối Của VNCH trang 129, 130, 131)
Trong lúc tình hình quân sự có vẻ không
thuận lợi cho ta thì theo yêu cầu của của TT Thiệu, Bộ TTM lệnh cho Tướng
Trưởng trả Sư đoàn Nhẩy Dù về Trung ương.
Ngày 13/3 TT Thiệu lệnh cho Tướng Trưởng
về Sài Gòn họp Hội Đồng an ninh Quốc gia, thành phần gồm Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Đại Tướng Cao Văn Viên , Trung Tư ớng Đặng Văn Quang, Trung Tư ớng Nguyễn Văn Toàn. Ông Thiệu cho biết tình hình khó
khăn do cắt giảm quân viện, ông không tin Mỹ sẽ can thiệp dù Cộng Sản tấn công
miền Nam nên phải tái phối trí lực
lượng, rút quân bỏ những miền cao nguyên rừng núi đễ giữ những vùng mầu mỡ còn
hơn đứng chung chính phủ Liên Hiệp với Cộng Sản.
Ngày 14/3 Tướng Trưởng về Quân đoàn I họp
tham mưu, thảo luận kế hoạch tái phối
trí, Nhẩy Dù sẽ rút về Sài Gòn, hôm sau Liên đoàn 14 BĐQ nhận vùng trách nhiệm
của Lữ đoàn TQLC 369 tại Quảng Trị để Lữ đoàn này về Phú Lộc thay Lữ đoàn Dù,
một lữ đoàn TQLC sẽ chịu trách nhiệm khu vực sông Bồ để bảo vệ Huế.
Ngày 17/3 Lữ đoàn 258 TQLC sẽ rời Quảng
Trị để về Đà Nẵng thay lữ đoàn 2 Dù. Dân chúng sợ hãi đã di tản ồ ạt trên quốc
lộ Một từ mấy ngày nay làm cản trở việc điều quân tái phối trí.
Ngày 18/3 Thủ tướng Trần Thiện Khiêm ra
Đà Nẵng để giải quyết vấn đề dân tỵ nạn, ông cho Tư ớng Trưởng biết sẽ không tăng viện Quân khu I vì tình
hình Quân khu III nghiêm trọng, Việt Cộng đánh Dầu Tiếng, áp lực Tây Ninh, Long
Khánh, Bình Tuy..
Ngày 19/3 Tướng Trưởng được triệu về Sài
Gòn họp lần thứ hai, thành phần phiên họp cũng như lần trước nhưng có thêm Phó
tổng thống Trần Văn Hương. Tướng Trưởng trình bầy hai kế hoạch lui binh:
Kế hoạch Một: các đơn vị sẽ theo Quốc lộ Một từ Huế, Chu lai về Đà Nẵng, trong
trường hợp Quốc lộ Một bị cắt thì sẽ theo kế hoạch Hai.
Kế hoạch Hai: Các lực lượng Quân đoàn sẽ
tập trung tại ba cứ điểm Huế, Đà Nẵng và Chu
Lai , tầu Hải quân sẽ chuyên chở lính từ Huế Chu
Lai về Đà nẵng. Trong cả hai kế hoạch Đà Nẵng là điểm phòng thủ chánh, điểm
tựa cuối cùng, Tướng Trưởng đề nghị giữ cả ba cứ điểm để phân tán lực lượng
địch và gây tổn thất tối đa cho Việt Cộng, ông Thiệu cho biết giữ được bao
nhiêu hay bấy nhiêu.
“Kế
hoạch lui quân của Quân đoàn 1 soạn thảo rất hợp lý và đầy đủ, gồm kế hoạch dự
phòng để đối phó với những bất ngờ do địch gây ra. Khi trận chiến khai diễn như
Kế Hoạch Hai dự trù và các đơn vị của Quân đoàn 1 rút hết về Đà Nẵng, chúng ta
chỉ còn hai hành động phải làm: Cố thủ tại chỗ hoặc rút bằng đường biển nếu
tình thế bắt buộc. Như vậy vào thời điểm trên, đâu còn cần đến kế hoạch dự
phòng nào khác”
(Những
Ngày Cuối Của VNCH Trang 163)
Thật ra kế hoạch nghe thì hay nhưng thực
hiện được lại không phải dễ, thực tế rất phũ phàng, BV tấn công gấp rút, dân
chúng di tản làm náo loạn khiến binh sĩ mất tinh thần. TT Thiệu lệnh cho Tướng
Trưởng cố gắng giữ được tất cả những phần đất có trong tay sau đó ông bảo Tướng
Quang soạn bài hiệu triệu trên đài phát thanh Huế để trấn an dân chúng, quyết
bảo vệ Huế đến cùng. Buổi họp này không thấy nói đến triệt thoái mà chỉ là kế
hoạch co cụm để giữ đất.
Ngày 19/3 Quảng Trị bỏ ngỏ, chi đoàn Thiết
giáp, liên đoàn 14 BĐQ rút về bên này Mỹ
chánh lập phòng tuyến mới. Cộng quân bắt đầu tấn công mạnh vào Quân khu. Theo
Tướng Hoàng Lạc, Giám mục Phạm Ngọc Chi địa phận Đà Nẵng và Giám mục Nguyễn Kim
Điền khuyên không nên đổ máu vô ích vì các siêu cường đã sắp đặt cả rồi.
Sáng 20/3 Tướng Trưởng bay ra bộ chỉ huy
tiền phương họp các cấp chỉ huy bàn kế hoạch phòng thủ Huế như Tổng thống ra
lệnh phải giữ bằng mọi giá. Tình hình mặt trận tương đối còn tốt đẹp, các đơn
vị hoàn hảo, tinh thần cao duy trì được
kỷ luật, ai nấy đồng lòng tử thủ, dân chúng di tản nhiều. Tưởng Trưởng lạc quan
khi thấy Huế phòng thủ tốt. Trưa hôm đó ông Thiệu đọc hiệu triệu dân trên đài
phát thanh Huế. Đến chiều khi về tới Đà Nẵng TướngTrưởng nhận được lệnh của của
dinh Độc Lập chỉ giữ Đà Nẵng thôi nếu tình hình bó buộc, ông Thiệu lý luận Quân
đoàn I không đủ lính để bảo vệ cả ba cứ điểm Chu lai, Huế và Đà Nẵng. Tướng
Trưởng được quyền tùy cơ ứng biến.
Quân khu I ngày một nguy ngập, Cộng quân đã
bắt đấu tấn công mạnh theo thế gọng kìm từ trên Quảng Trị đánh xuống và từ dưới
Quảng Ngãi đánh lên, dân chúng chạy loạn ồ ạt từ Huế kéo về Đà Nẵng, từ Quảng
Nam Quảng Ngãi kéo lên. Ngày 21/3 địch tấn công Phú Lộc, áp lực mạnh trên Quốc
lộ Một, dân tản cư đông như kiến từ Huế về Đà nẵng. Sư đoàn I VNCH có pháo binh
và không quân yểm trợ đẩy lui cuộc tấn công của BV nhưng họ có ưu thế về lực lượng nên Sư đoàn 1
cầm cự đến trưa ngày 22 thì thất thủ, Trung đoàn 1 BB ( SĐ1) và Liên đoàn 15
Biệt động quân bị đẩy lui, một khúc đường Quốc lộ Một bị cô lập, Trung đoàn I
bị thiệt hại nặng, Tướng Trưởng ra lệnh thu gọn tuyến phòng thủ Huế.
Dân chúng và quân cụ bắt đầu được chở bằng
tầu ra khỏi Đà Nẵng, ngày 23 /3 Việt Cộng pháo kích Huế rời rạc không gây thiệt
hại gì nhiều nhưng khiến dân chúng hốt hoảng náo động như hỗn loạn. Tại phía
Nam Vùng Một tình hình nguy ngập khi
quận Hậu Đức, Tiên Phước thuộc Quảng Tín bị Việt cộng chiếm, Sư đoàn 2
và Liên đoàn 12 BĐQ chặn được áp lực
địch tấn công về Tam Kỳ và các vùng duyên hải. Trước áp lực dồn dập của Cộng
quân Tướng Trưởng ra lệnh di tản 2 quận Sơn Trà, Trà Bồng Quảng Ngãi, những
tiền đồn xa tiếp tế cũng được di tản, Tướng Trưởng cho gom các lực lượng rời
rạc lại để bảo vệ những điểm trọng yếu vào trận cuối cùng . Sự chỉnh đốn của
Tướng Trưởng đem lại chút yên gượng gạo cho 2 tỉnh Quảng Ngãi và Quảng Tín
trong 2 ngày.
Sáng ngày 24/3 tại phía Nam Quân khu 1,
BV tấn công mạnh tại Quảng Tín , Sư đoàn 711, Trung đoàn 52 BV và xe tăng đánh
Tam Kỳ, đặc công đột nhập tỉnh lỵ thả tù gây rối loạn đến trưa thì Tam Kỳ thất
thủ. Trung đoàn 2 thuộc Sư đoàn 3 VNCH từ Quảng Nam được lệnh tiến về Quảng
Tín để giúp Địa phương quân chạy về từ
Tam Kỳ về. Tam kỳ mất, dân ùn ùn chạy về
Đà Nẵng. Tại Quảng Ngãi Cộng quân tấn công dữ dội, đặc công và địa phương quân
Việt Cộng tại Quảng Ngãi tấn công phi trường, các cơ sở hành chánh quân sự
Quảng Ngãi. Đường Quốc lộ Một từ Quảng Ngãi tới Chu lai bị cắt đứt, đường ra
biển bị cô lập, chỉ trong một ngày tình hình Quân khu 1 rối loạn đến mức không
còn kiểm soát được nữa. Quân đoàn chấp thuận cho tiểu khu Quảng Ngãi mở đường
máu về Chu Lai nhưng chỉ có vài đơn vị
về được.
Ngày 25/3 tất cả các đơn vị Quân đoàn I tụ
lại 3 phòng tuyến chính: Chu Lai phía nam, Đà Nẵng ở
giữa và Huế phía Bắc, các lực lượng của Quân đoàn I bị thiệt hại nhiều khi di
tản về các phòng tuyến này, tinh thần binh sĩ xuống thấp, ai nấy chán nản chưa
bao giờ trong đời chinh chiến họ thấy tuyệt vọng như hiện nay. Trong tình thế
khó khăn Tướng Trưởng lại nhận thêm một lệnh nữa từ dinh Độc Lập, TT Thiệu lệnh
cho Tướng Trưởng dùng ba Sư đoàn cơ hữu của Quân đoàn : SĐ1, SĐ2, SĐ3 để phòng
thủ Đà Nẵng, Sư đoàn TQLC đóng vai trừ bị. Đêm đó Tướng Trưởng cho Sư đoàn I và
các đơn vị quanh Huế rút về Đà Nẵng, ông lệnh cho Sư đoàn 2, Chi khu Quảng Ngãi và thân nhân của họ rút ra
Cù Lao Ré, một đảo ngoài khơi Chu lai. Hai tầu dương vận hạm đón Sư đoàn 2 tại
Chu lai đưa về Cù Lao Ré, cuộc vận chuyển thành công hơn mặc dù có hỗn loạn
nhưng một nửa quân số của Sư đoàn 2 đã lên
tầu đưa về Bình Tuy, chính phủ tuyên bố Huế và Chu lai thất thủ ngày 25/3.
Các lực lượng Huế bắt đầu di tản, Sư đoàn
I và các đơn vị cơ hữu rút ra cửa Tư Hiền. Hải quân và công binh sẽ bắc cầu để
quân di tản đi ngược vào đất liền rồi dùng đường bộ về Đà Nẵng. Sư đoàn TQLC và
các đơn vị trực thuộc sẽ triệt thoái bằng tầu Hải quân. Sáng ngày 26/3 biển sóng to làm đình trệ cuộc
vận chuyển, cầu nối giữa Tư Hiền và đường bộ chưa hoàn tất. Đến trưa thủy triều
dâng cao không thể vượt biển được trong khi ấy Cộng quân đuổi theo nã pháo vào cửa Tư Hiền và các
địa điểm tập trung gây nhiều thiệt hại, hỗn loạn diễn ra không còn quân kỷ, Sư
đoàn I tan rã tại đây chỉ có một phần ba về được đến Đà nẵng, tới nơi họ rã ngũ
đi tìm thân nhân.
Trong khi đó thì Lữ đoàn kỵ binh với hơn
100 thiết giáp các loại từ mặt trận Bắc Huế tiến về cửa Thuận An, theo sau là
các đơn vị pháo binh với hằng trăm khẩu pháo, TQLC, BĐQ, ĐPQ từ tuyến sông Bồ
đang lũ lượt kéo về, hỗn loạn lại diễn ra. Hai tầu dương vận hạm đến cửa Thuận
An để chở TQLC, tầu hải vận đĩnh và quân vận đĩnh chở người từ bờ ra dương vận
hạm.
Sư đoàn 325 CS chuyển vào Quảng Nam phối
hợp với sư đoàn 304 CS tấn công Đà Nẵng,
Sư đoàn 2 CS cũng tiến về thành phố. Quân đội VNCH lập phòng tuyến phòng thủ
bảo vệ Đà Nẵng, phía Tây 2 lữ đoàn TQLC, phía Nam Sư đoàn 3 và ĐPQ Quảng Nam.
Ngày 27/3/1975 các cuộc phòng thủ Đà Nẵng thành ra vô hiệu trước sự hỗn loạn,
Cộng quân dồn nỗ lực bao vây thành phố. Từ bắc Đà Nẵng hai Sư đoàn 324B và 325C CSBV cùng với Trung
đoàn xe tăng và hai Trung đoàn pháo tiến
dọc theo thung lũng Voi bao vây thành phố. Phía Nam Sư đoàn 711, 304 BV tiến
chiếm Đại Lộc và Dục Đức, Đà Nẵng đã nằm trong tầm pháo của quân thù. Tại thành
phố lớn thứ hai của miền nam này Quân đoàn I chỉ còn có Sư đoàn 3 và 2 lữ đoàn
TQLC, các Sư đoàn 1 và 2 đã bị ngũ trên đường triệt thoái, một phần đã được tầu
chở ra khơi, lực lượng không đủ để đương đầu với áp lực quá đông của BV, lại
nữa thành phồ với hằng triệu người tỵ nạn đã trở nên hỗn loạn không thể nào kiểm soát được.
Sáng ngày 28/3/1975 Tướng Trưởng họp khẩn
cấp các đơn vị trưởng ban hành một số biện pháp vãn hồi trật tự và tái trang bị
các đơn vị di tản trong thành phố nhưng ta không còn đủ quân tác chiến để thực
hiện kế hoạch này. Các quân nhân có mặt được sung vào các đơn vị tác chiến nhưng
không đủ để bù vào thiệt hại do cuộc triệt thoái gây ra. Trưa 28/3 Phòng 2 thuộc Bộ TTM cho Quân đoàn I
biết Cộng quân có thể tấn công trong
đêm, Sư đoàn I Không quân được lệnh di tản về Phù Cát, Phan Rang , Quân đoàn I ban lệnh ứng chiến tại các tuyến phòng thủ. Hai giờ trưa các xã ấp quanh
Đà Nẵng đã lọt vào tay Cộng quân. Địa phương quân, nghĩa quân tan rã, binh sĩ
rã ngũ rời đơn vị.
CSBV pháo phi trường, căn cứ Hải quân khi
trời vừa tối rất dữ dội và chính xác nhờ những toán đặc công, tiền pháo viên
chỉ điểm hướng dẫn. Tướng Trưởng vội báo cáo về Bộ Tổng tham mưu và gọi cho
Tổng thống Thiệu xin di tản bằng đường biển. Tướng Thiệu không ra lệnh rõ ràng
chỉ hỏi vu vơ nếu di tản thì có thể được bao nhiêu. Pháo kích của BV khiến cho
liên lạc giữa Sài Gòn và Đà Nẵng bị cắt đứt, Tướng Trưởng lập tức ra lệnh bỏ Đà
Nẵng, ông họp với Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại Tư lệnh Hải quân vùng I và các cấp chỉ
huy để hẹn địa điểm rút quân tại chân
đèo Hải Vân , núi Non Nước và cửa khẩu Hội An.
Rạng sáng ngày 29/3/1975 sương mù bao phủ
dọc theo bờ biển, ngoài khơi tầu đã có mặt ở điểm hẹn, thủy triều thấp tầu
không vào bờ được, binh sĩ phải lội ra biển. Cuộc di tản êm xuôi cho đến khi
khi BV phát hiện bèn pháo kích vào địa điểm tập trung quân và tầu ngoài khơi
gây nhiều thiệt hại, đoàn tầu di tản được khoảng 6,000 TQLC, 3,000 lính Sư đoàn
3 và nhiều đơn vị khác.
Đà Nẵng được coi như thất thủ ngày
29/3/1975 Có tài liệu cho biết VNCH mất 130 máy bay tại Đà Nẵng, năm 1976 Tướng
Trưởng trả lời một cuộc phỏng vấn cho biết khoảng 6,000 TQLC, non nửa lực lượng
của Sư đoàn và 4,000 quân thuộc các binh chủng khác đã được tầu bè cứu thoát.
Tướng Nguyễn Duy Hinh Tư lệnh Sư đoàn 3 cho biết trong số 12,000 người của Sư
đoàn 3 chỉ có 5,000 đến được điểm tập trung và sau cùng chỉ có 1,000 người lên
được tầu. Tổng cộng có 70,000 người dân được cứu thoát và 16 ngàn lính, 4 Sư
đoàn kể cả TQLC bị thiệt hại nặng nề không thể gọi là đơn vị chiến đấu được
nữa. Tất cả quân trang quân dụng, vũ khí, xe tăng đại bác… của Quân khu I coi
như mất hết.
Quân khu I thất thủ một cách dễ dàng trong
khoảng 10 ngày, không có lực lượng nào được tổ chức để đánh chận hậu, đánh trì
hoãn khi Quân đoàn di tản. Cuộc lui binh thất bại hoàn toàn được coi tồi tệ hơn
so với Quân đoàn II, hỗn loạn gấp bội phần, sự thiệt hại về nhân mạng cao hơn
cuộc triệt thoái tại Tây nguyên nhiều.
Nguyên
nhân và hậu quả
Phạm Huấn nói.
“Tại những
địa điểm tập trung quân, vô cùng hỗn loạn, đau thương khủng khiếp. Và hai Cửa
Thuận An, Tư Hiền thật sự biến thành những”bãi chết”, trong vùng “Biển máu”
(Những
Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước 1975 trang 58.)
Theo ông triệt thoái vội vã, không có kế
hoạch, lịch trình, sự phối hợp Quân đoàn và Hải quân lỏng lẻo, cuộc lui binh
cũng hỗn độn y như cuộc triệt thoái Cao nguyên,
nó cũng chỉ là cuộc hành quân phá sản.
“Cuộc
rút quân đã rối loạn, hỗn độn và thất bại ngay khi bước sang ngày thứ hai,
24-3-1975. Hệ thống chỉ huy, phối hợp giữa các đơn vị, vấn đề an ninh, tổ chức
thật tồi tệ và bị tê liệt từ lúc khởi đầu. Các cấp chỉ huy ở những cấp cao nhất
và có trách nhiệm về cuộc rút bỏ Huế, đã không thành thật với nhau, phản bội,
dối trá và bỏ rơi cấp dưới.
Kế hoạch
rút quân bằng đường biển, với hơn 20 ngàn Chủ lực quân, hàng mấy trăm chiến xa,
đại bác, cùng với cả trăm ngàn dân chúng, các lực lượng địa phương quân, công
chức và gia đình họ, nhưng hai cửa Thuận An và Tư Hiền không được phòng thủ bảo
vệ. Sự phối hợp và chỉ huy giữa Bộ Tư Lệnh Tiền Phương của Quân Đoàn và hải
quân thật lỏng lẻo. Không có lịch trình lên tầu ưu tiên, rõ ràng cho các đơn
vị. Các đơn vị Quân Đội và dân chúng cứ tiếp tục đổ về hai cửa biển này để rồi
chết chồng chất lên nhau”
(Phạm Huấn, sách đã dẫn, trang 57)
Nói về nguyên nhân sự sụp đổ nhanh chóng
của Quân đoàn I, ông Cao Văn Viên , cho rằng do sự rối ren
của ta và nhất là lệnh của TT Thiệu không rõ ràng dứt khoát.
“Với cán cân
lực lượng và địa hình thuận lợi cho CSBV, Vùng I, lực lượng VNCH không thể nào
chống cự lâu dài trong cuộc tổng tấn công của địch. Nhưng phải nói, tình hình
quân sự xấu đi một cách nhanh chóng vì sự xa sút tinh thần và những rối ren,
lung túng của ta, hơn là áp lực địch. Lệnh tái phối trí - tuy cần thiết - không
rõ ràng và dứt khoát”
(Những
Ngày Cuối Của VNCH, trang 183)
Theo Tướng Viên binh sĩ nhiều người bỏ hàng
ngũ đi tìm gia đình trong làn sóng người tỵ nạn, họ quan tâm lo lắng về gia
đình mình hơn là lo về đơn vị và sự tấn công của CS. Làn sóng người di tản làm
náo loạn cả lên đã là một trong những nguyên nhân gây ra sụp đổ nhanh chóng cho
cả Quân khu.
“Sự
hỗn loạn, thất bại của cuộc tái phối trí ở vùng Một xảy ra không phải vì áp lực
của Cộng quân, mà vì tinh thần chiến đấu của quân ta không còn nữa. Trong những
ngày cuối cùng ở Vùng I, vị tư lệnh Quân đoàn không chỉ đối phó với những khó
khăn về quân sự, ông còn bận tâm với vấn đề tỵ nạn. Và khi chánh quyền trung
ương bắt tay vào giải quyết vấn đề tỵ nạn thì đã quá trễ. Như chúng ta thấy, vấn
đề tị nạn làm đảo lộn tất cả kế hoạch quân sự của Vùng I.”
(Cao Văn Viên. Những Ngày
Cuối Của VNCH, trang 184,185.)
Chúng ta thấy ông Cao văn Viên có nhiều
mâu thuẫn, ông cho biết lực lượng địch tới hơn 8 sư đoàn (trang 160), gấp hai lần VNCH, ta không thể cầm cự lâu dài
được, coi trên bản đồ ngày 19/3 (trang 166) ta chỉ còn kiểm soát được chưa tới
1/3 diện tích Quân khu I. Trong khi tại phía Bắc QK I phải rút từ Huế về Đà
Nẵng, các tỉnh phía Nam Quân khu (Quảng Ngãi, Quảng Tín) đều phải hối hả rút về
Chu Lai vì bị BV tấn công dữ dội mà ông
lại nói không phải vì áp lực địch. Chẳng lẽ sự tấn công ồ ạt theo thế gọng kìm
trên đánh xuống dưới đánh lên của BV không phải là áp lực gây hỗn loạn cho quân
dân miền nam.
Tác giả Nguyễn Đức Phương (Sách đã dẫn
trang 762, 763, 764) cho rằng Quân khu I thất thủ dễ dàng không có một lực
lượng nào được tổ chức để đánh trì hoãn khi lui binh, theo ông có 4 nguyên nhân
chính.
-Lực lượng Cộng Sản tại Quân khu I trội hơn
nhiều so với sự phân tán mỏng của ta. Kế họach lui binh về các cứ điểm Huế, Đà
Nẵng, Chu Lai có thể đúng tuy nhiên
TTThiệu chỉ chấp nhận lui binh cho đến giờ phút chót. Đến khi đã quá muộn ông
lệnh cho Tướng Trưởng chỉ rút Sư đoàn TQLC còn tất cả bộ binh, thiết giáp, pháo
binh đều bỏ lại, không có một kế hoạch nào để phối hợp Hải Lục Không quân trong
trường hợp lui binh, hoàn toàn không có một sự tiên liệu nào.
-Ông Thiệu sai lầm trầm trọng khi cho rút
Sư đoàn Dù về Vùng III quá nhanh, TQLC được đưa vào tay thế các vị trí của Nhẩy
Dù khiến cho dân chúng hốt hoảng đổ dồn về Đà nẵng gây ra hỗn loạn. Đã phát
thanh lời kêu gọi tử thủ Huế củaTổng thống sau lại cho lệnh bỏ Huế khiến dân chúng hoang mang mất tin tưởng vào chính
phủ và quân đội, binh sĩ cũng mất tinh thần, hốt hoảng khi trông thấy trước
nguy cơ sụp đổ như đã diễn ra tại Vùng II.
-Chiến tranh tâm lý có lẽ là nguyên nhân
quyết định sự thất thủ Quân khu 1, tin đồn cắt đất nhường cho CS dồn dập từ
Vùng II, nay Huế bỏ ngỏ khiến cho dân quân càng tin là đúng, dân di tản náo
loạn cả lên, quân nhân bỏ hàng ngũ để tìm kiếm gia đình khiến cho đơn vị rã ngũ
nhanh chóng.
-Hệ thống chỉ huy của Bộ Tư lệnh Quân đoàn
I đã không chu toàn trách nhiệm trong giai đoạn khó khăn của cuộc lui binh,
thiếu khả năng vô trách nhiệm là nguyên nhân chính khiến cho kế hoạch lui binh
không thể thực hiện được. Vị Tư lệnh Quân đoàn thiếu khả năng điều động một bộ
tham mưu hỗn hợp như Phạm Huấn đã viết.
Cũng theo Nguyễn Đức Phương nhiều sĩ quan
cao cấp của Quân đoàn I mất tinh thần đào ngũ bỏ chạy, thiếu cấp chỉ huy các
đơn vị lần lượt tan hàng, Cộng quân chiếm được đất mà không phải giao tranh.
Phạm Huấn nhân định rằng các Tướng Việt Nam gặp trở ngại khi lãnh
đạo đất nước cũng như chỉ huy mặt trận.
“Một viên
chức cao cấp của Mỹ, sau này đã phát biểu về cuộc rút quân tại Huế và Đà Nẵng:
‘Tướng lãnh
của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, hầu như không ai có đủ kinh nghiệm, để tự mình
có thể chỉ huy một cuộc hành quân qui mô với nhiều đại đơn vị trên chiến
trường!’.
Sự sụp đổ
mau chóng của Quân Đoàn I, vỏn vẹn trong 9 ngày, sau quyết định rút bỏ Huế lần
thứ hai ngày 20-3-1975, đã làm kinh ngạc mọi giới. Những người ngưỡng mộ và
kính phục Tướng Ngô Quang Trưởng đều nghĩ rằng, sự thảm bại này là hậu quả của
quyết định sai lầm, trong chiến lược “Đầu bé Đít to’ của Tổng Thống Nguyễn Văn
Thiệu.
Nhưng theo
thời gian, những bí mật được tiết lộ, Tướng Trưởng cũng là người phải chịu
trách nhiệm nặng nề nhất đối với những đau thương, kinh hoàng trong hai cuộc
rút quân tồi tệ, thê thảm từ Huế và Đà Nẵng”
(Sách đã dẫn, trang 103, 104.)
Cuộc triệt thoái tại hai quân khu đều đã
sẩy ra những biểu hiện tiêu cực của nhiều sĩ quan cao cấp bỏ đơn vị chạy, cả
một quân khu khu không có ai chịu trách nhiệm.
“Kể từ
ngày 15-3-1975, hệ thống chỉ huy tại Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn I của
Tướng Lâm Quang
Thi và các Tư Lệnh Mặt trận
2 chiến trường Quảng Trị, Thừa Thiên đã không còn giữ đúng với trách nhiệm,
quyền hành và vai trò của mình nữa. Không một Tướng Lãnh, một giới chức Quân sự
cao cấp nào dám nhận trách nhiệm khi cần ban hành những quyết định quan trọng.
Trung tá Đào Trọng Vượng, Liên Đoàn Trường Liên Đoàn 14 Biệt Động Quân nói
rằng: ‘Họ lặn hết. Tất cả những lệnh đều do các Sỹ quan Phòng Nhì, Phòng ba,
cấp Thiếu Tá chuyển lại’.
Liên Đoàn
14 Biệt Động Quân từ Quảng Ngãi ra thay thế Lữ Đoàn 369 Thủy Quân Lục Chiến,
phòng thủ tuyến đầu Vùng Giới Tuyến. Lực lượng Liên Đoàn 14 Biệt Động Quân với
quân số 100 phần trăm, và Pháo Đội đại bác 105 ly khoảng 1500 người, từ ngày
đầu tiên, cho đến ngày rút quân 23-3-1975, gần hai tuần lễ, không nhận được bất
cứ một lệnh chính thức nào của Bộ Tư Lệnh Tiền Phương Quân Đoàn I, hoặc Sư Đoàn
Thủy Quân Lục Chiến”
(Phạm Huấn sách đã dẫn, trang 41.)
Nguyễn Đức Phương cùng một nhận xét như
trên.
“Theo lời của Đại tá Nguyễn Huy Lợi thuộc
Biệt Khu Thủ đô thì một số sĩ quan thuộc Quân đoàn I chạy thoát được về Sài Gòn
cho biết tình trạng của quân đoàn như sau ‘Cấp tiểu đoàn không biết họ phải làm
gì. Trung đoàn trưởng của họ đã đi mất và chính họ không biết phải đi đâu
và không ai chỉ thị cho họ biết những gì
phải làm. Sau quá nhiều chán nản tuyệt vọng, không một ai chịu trách nhiệm cho
cả quân khu”
(Chiến
Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 764, 765)
Tướng Nguyễn Cao
K ỳ cũng cho rằng việc cấp chỉ huy bỏ đơn vị chạy trước là một nguyên nhân
đưa tới sụp đổ Quân đoàn I, theo ông tại đây cấp chỉ huy không quân nhiều người
đã lên trực thăng bay về phía Nam bỏ cấp dưới ở lại.
Sự thực khó thể chối cãi được là áp lực và
hỏa lực vô giới hạn của BV đã khiến quân đội VNCH phải rút bỏ nhiều tỉnh, quận
để co cụm lại lập phòng tuyến mới nên càng bị mất tinh thần. Các cấp chỉ huy
không thấy một tia ánh sáng nào, ngay cả TT Thiệu cũng đã mất tinh thần rối trí
chứ đừng nói các cấp thuộc hạ. Biết là tình thế không thể cứu vãn nổi nên nhiều
người đành phải chọn kế “tẩu vi thượng sách”.
Theo ý kiến Tướng Toàn (trang 405, Những Sự Thật Chiến Tranh Việt Nam
1954-1975), mặt trận Trị Thiên bỏ ngỏ vì TT Thiệu đã chủ trương rút bỏ
những vùng rừng núi ít dân để bảo vệ những vùng trù phú. QK I chỉ giữ tới Đà
Nẵng. Đó là một quyết định tai hại là nguyên nhân chính đưa tới thảm kịch như
trên. Trang 407 ông nói đài BBC bình luận miền nam VN có thể sẽ chia cắt ngang
từ vĩ tuyến 13, miền nam khó có thể tồn tại được, nguồn tin đã thúc đẩy quân
dân hối hả chạy về phương nam. Quân đoàn
II bị thảm bại trên đường triệt thoái cũng đã ảnh hưởng nặng đế tinh thần QK I.
Sáng ngày 20/3, TT Thiệu đã tuyên bố tử thủ Huế đến chiều lại cho lệnh rút bỏ
khiến người dân không ai còn tin tưởng vào chính phủ.
Phải nói đài BBC tuyên truyền xuyên tạc với
mục đích phá hoại hơn là loan tin cũng là một trong những nguyên nhân chính đưa
tới thảm cảnh hỗn loạn, tháo chạy tại miền Trung.
Nội dung bài viết có nhiều điểm trái ngược
với các tài liệu, sách vở nói về cuộc Triệt thoái này. Mở đầu bài viết nói.
“Ngày 13
tháng 3 năm 1975, được lệnh vào Sài Gòn họp. Tôi vào đến Sài Gòn nhưng với sự
ngạc nhiên là chỉ có mình tôi vào gặp tổng thống và thủ tướng (Trần Thiện
Khiêm) mà thôi. Ngoài tôi ra không có ai khác. Thường lệ, khi được lệnh về Sài
Gòn họp thì đều có đầu đủ mặt các vị tư lệnh quân đoàn và tư lệnh các quân binh
binh chủng khác. Lần này thì chỉ một mình tôi thôi”
Theo ông Cao Văn Viên , Phạm Huấn, Nguyễn Đức Phương và cả ý kiến của Thiếu Tướng Hoàng Lạc, Tư lệnh phó Quân khu I thì trong các
buổi họp Hội Đồng An Ninh Quốc Gia tại dinh Độc Lập ngày 11/3, ngày 13/3 và
19-3 do ông Thiệu chủ tọa như đã nói trên đều có mặt Đại Tướng Cao Văn Viên , Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, Trung Tư ớng Đặng Văn quang, riêng buổi họp ngày 19-3 thì có
thêm Phó Tổng thống Trần Văn Hương. Tổng thống Thiệu không hề gặp riêng một
Tướng nào, không nghe thấy một tài liệu nào nói như vậy. Về ngày 13/3 nêu trên,
Tướng Hoàng Lạc, phó Tư lệnh Quân khu 1 cho biết Tướng Trưởng được
mời về Sài Gòn trình bầy trước Hội đồng an ninh Quốc gia, các tài liệu của
BộTTM, của Phạm Huấn, Nguyễn Đức Phương cũng đều nói như vậy.
Bài viết nói tiếp
“Nhưng khi
tổng thống Thiệu cho biết ý định của ông ta là phải rút bỏ Quân đoàn 1 ngay hôm
nay thì tôi mới vỡ lẽ, cay đắng, và uất ức vì lệnh ra quá đột ngột ngoài sức
tưởng tượng và ngoài ước muốn của tôi…..
… Tôi trình
bầy cặn kẽ những ý kiến cũng như những dự định của tôi lên tổng thống nhưng
không được chấp thuận. Lệnh bất di bất dịch là: Phải rút khỏi Quân Đoàn 1 càng
sớm càng hay….
Lệnh của
tổng thống Thiệu yêu cầu tôi rút khỏi Quân Đoàn 1 vào ngày 13 tháng 3, và rút
Quân Đoàn 2 vào ngày 14 tháng 3. Ông Thiệu cho biết là rút hết về Phú Yên, lấy
Quốc Lộ 22 làm ranh giới. Việt nam sẽ thu gọn sẽ chạy dài từ Phú Yến đến Hà
Tiên”
Theo Tướng Cao Văn Viên , Tướng Hoàng Lạc, tác giả Nguyễn Đức Phương... trong
phiên họp ngày 13/3 TT Thiệu chỉ mới lệnh cho Tướng Trưởng rút Sư đoàn Dù về
Sài Gòn và báo cáo tình hình Quân sự của Vùng I, không nghe nói ông Thiệu cho
lệnh rút bỏ Quân đoàn I ngay hôm 13/3 như trong bài của Tướng Trưởng. Theo ông Cao Văn Viên.
“Buổi họp ở
Dinh Độc Lập vào ngày 13 tháng 3, 1975 đã được thuật lại rõ ràng ở trên. Trong
dịp đó tổng thống Thiệu đã cho hai vị tư lệnh quân đoàn I và III (tướng Trưởng
và tướng Toàn) biết ý định sắp xếp lại lãnh thổ VNCH sao cho phù hợp với sự cắt
giảm viện trợ quân sự. Tuy nhiên tổng thống Thiệu chưa cho lệnh rút quân ở bất
cứ nơi nào lúc đó, trừ việc bỏ An Lộc ở vùng III. Buổi họp ở Cam Ranh ngày 14
tháng 3 sảy ra sau khi Ban Mê Thuột mất, và tại Cam Ranh tổng thống Thiệu ra
lệnh tái phối trí lực lượng của quân đoàn II để chiếm lại Ban Mê Thuột”
(Những Ngày Cuối Của VNCH trang 162)
Theo như
Nguyễn Đức Phương đã nói ở trên Tổng thống Thiệu chỉ chấp nhận lui binh
vào giờ phút chót. Ngày 13/3 ông Thiệu chỉ thị cho Tướng Trưởng trả Sư đoàn Dù
về Sài Gòn và tái phố trí lực lượng tại Quân khu I chứ chưa hề cho lệnh rút bỏ
bất cứ một tỉnh nào. Cho đến ngày 20/3 khi tình hình Huế khẩn trương ông lệnh
cho Tướng Trưởng tùy cơ ứng biến, có thể rút về bảo vệ Đà Nẵng nếu tình hình
đòi hỏi.
Trong một cuộc nói chuyện với một nhà báo
tại Hải ngoại, cựu Trung Tư ớng Ngô Quang Trưởng cho
rằng những bài nói về ông, khen cũng như chê có nhiều điều không đúng và ông
không thích báo chí nói đến mình, như vậy bài trên đây có thể chưa chắc đã nói
đúng ý của vị cựu Tư lệnh Quân khu.
Trong cuộc phỏng vấn của ông Lâm L ễ Trinh, Tướng Cao Văn Viên đã kết luận.
“Xin đừng
xem những lời của tôi là lịch sử. Mỗi người giải thích sự thật theo lối riêng,
như trong phim ‘Rashomon’. Một trăm nhân chứng, một trăm sự thật. Định kiến làm
cho lịch sử sai lệch. Tôi chỉ tâm tình với lòng thành. Hãy để cho hậu thế lượng
định và phán xét”
(Lâm L ễ Trinh, Về Nguồn,
trang 276.)
Xem như thế sự
thật chỉ là tương đối. Cũng trong bài phỏng vấn này, theo ông Cao Văn Viên , Tướng Trưởng cho biết Bộ tổng tham mưu không tăng viện
theo lời yêu cầu của Quân khu I. Tướng Viên cho điều này không đúng vì ông đã
tăng cường cho Tướng Trưởng cả hai Sư đoàn tổng trừ bị Dù và TQLC rồi. Bộ Quốc
phòng Mỹ trả nhuận bút cho các Tướng lãnh lưu vong Việt Nam để viết tài liệu về
chiến tranh Đông Dương. Trong một phiên họp thu thập dữ kiện cho Mỹ, Tướng
Trưởng phát biểu sở dĩ thất bại là do lãnh đạo kém, chính phủ Trung ương thiếu
nhân tài. Tướng Đồng Văn Khuyên, Trần Đình Thọ bênh vực cho Bộ TTM tranh luận
trả lời ông Trưởng: Bộ Tham mưu đã yểm trợ hết mình cho Quân khu I, hai Sư đoàn
Tổng trừ bị Dù và TQLC đều đã được tăng phái cho Quân đoàn I.
Như chúng ta đã
biết năm 1972 cũng tại chiến trường Trị Thiên, hồi ấy VNCH có đầy đủ tiếp liệu
đạn dược, được yểm trợ hùng hậu của không quân chiến thuật và pháo binh mà còn
phải có yểm trợ của B-52. Tình hình tháng 3/1975 hoả lực VNCH bị cắt
giảm 70%, áp lực và hoả lực BV lại mạnh hơn 1972 nhiều. Cái khó nó bó cái khôn,
lãnh thổ quá rộng, lực lượng tổng trừ bị không còn. Ngoài ra TT Thiệu cũng
không muốn giữ miền Trung nhưng tinh thần buổi họp ngày 11/3/1975 tại dinh Độc
Lập. Cuộc lui binh của Quân đoàn I cũng chịu chung số phận với cuộc triệt thoái
Cao nguyên chỉ là hành quân phá sản đã làm sụp đổ toàn bộ Quân khu khiến cho
VNCH mất hơn một nửa các lực lượng tinh nhuệ.
VNCH mất khoảng
450 xe tăng , trên 400 khẩu đại bác, đạn dược, quân trang quân dụng coi như mất
hết, phần đất còn lại của miền nam không thể nào tồn tại được nếu không có yểm
trợ của B-52.
Dân tỵ nạn và di tản
Theo ông Cao văn Viên
vị Tư lệnh Quân khu I trong khi đương đầu với địch ông còn phải quan tâm giải
quyết vấn đề tỵ nạn đang trầm trọng (Những
Ngày Cuối của VNCH từ trang 174-185) Khi Kontum, Pleiku mất người dân lo sợ
chính quyền cắt đất nhường cho Cộng sản , hàng chục nghìn người đổ dồn về Đà
Nẵng mua vé máy bay vào Sài Gòn, hôm 14/3 các Lữ đoàn Dù được điều động để về
Sài Gòn khiến dân chúng hốt hoảng kéo nhau về Đà Nẵng. Ngày 19/3 Thủ Tướng Khiêm ra Đà Nẵng giải
quyết vấn đề tỵ nạn, Thủ tướng cho thành lập Ủy ban Liên bộ để lo giúp dân tỵ
nạn Quân khu để binh sĩ yên tâm chiến đấu. Thủ Tướng hứa sẽ tăng nhiều tầu chở
dân di tản và giúp đồng bào tỵ nạn. Trong khi ấy tại địa phương các đoàn thể,
hội từ thiện, phú thương… đóng góp vào cuộc cứu trợ hiệu quả hơn của Trung ương
nhưng vấn đề tỵ nạn vượt quá khả năng của họ.
Từ ngày 17/3
đường Quốc lộ Một tràn ngập người và xe
cộ, tại các bến cảng, tầu chở quân như quân dụng cho chiến trường Huế Đà Nẵng
bị dân và lính ép phải chở họ rời bến, giới phụ trách bến tầu phải thuyết phục
họ mãi. Ngày 21/3 BV cắt đường Quốc lộ I, dân tỵ nạn bèn đi về miệt biển, tầu
bè được mướn hay bị cướp để chạy loạn nhưng không đủ. Ngày 23/3 tầu Trường
Thanh do Bộ tổng tham mưu mướn chở được hơn 5,000 người. Huế bỏ ngỏ đếm 25/3,
dân quân rút theo bờ biển về Đà Nẵng. Tam Kỳ mất 24 /3, Chu Lai di tản ngày 26/3, dân Quảng Ngãi, Quảng Tín chạy về Đà
Nẵng. Ngày 26/3 Tướng Trưởng gửi Tướng Hoàng Lạc Tư lệnh phó QK I về Sài Gòn
trình Tổng thống và Thủ Tướng giải quyết ngay vấn đề tỵ nạn vì thành phố sắp rơi
vào tình trạng hỗn loạn khiến Đã Nẵng sẽ tự sụp đổ không cần Việt Cộng tấn
công. Lưu thông trong thành phố ứ đọng, dân số trước đấy chỉ có 300,000 nay có
tới hơn một triệu, cướp của giết người giữa ban ngày.
Ngày 27/3 chuyến
phi cơ dân sự đầu tiên mướn của Mỹ đáp xuống Đà Nẵng nhưng mỗi khi có máy bay
xuống hỗn loạn diễn ra dữ dội. Các chuyến bay dân sự phải đình chỉ, giới hữu
trách cho thay bằng 4 máy bay C-130, nhưng hỗn loạn liên tục nên 4 chiếc này
chỉ cất cánh được một lần vào ngày 29/3. Bến tầu cũng hỗn loạn, các tầu thả neo
ngoài khơi Đà Nẵng, dân dùng thuyền bè từ bờ ra tầu, mỗi tầu được chừng 10 ngàn
thì nhổ neo về Cam Ranh, Vũng Tầu, Phú
Quốc..
Việt Cộng pháo
kích tấn công Đà Nẵng mạnh vào đêm 28 /3, dân chúng tiếp tục tìm đường lánh nạn
bằng thuyền bè dưới những trận mưa pháo của địch, nhiều người chết chìm khi lội
từ bờ ra tầu. Bộ TTM đề nghị Phó thủ tướng Phan Quang Đán trưng dụng 13 tầu thương thuyền để chở dân tỵ nạn và kêu
gọi các nước đồng minh giúp chở dân ra khỏi vùng giao tranh . Các nước hưởng
ứng lời kêu gọi nhưng không thể gửi tầu tới ngay được trong khi tình hình ngày
một thê thảm. Với con số người tỵ nạn quá đông cuộc di tản không thực hiện được
như ý muốn, dân tỵ nạn tràn ngập các trại
ở Vùng III và Phú Quốc.
Tướng Viên nói
khi chính quyền bắt tay vào giải quyết vấn đề tỵ nạn thì đã quá trễ, nó đã làm
đảo lộn kế hoạch quân sự của Vùng I. Người dân bị ám ảnh của quá khứ, họ quá sợ
hãi khi nhớ lại cuộc tàn sát tập thể của
CS tại Huế hồi Mậu Thân 1968 cũng như tại Đại lộ Kinh hoàng Quảng trị năm 1972
để rồi hối hả bồng bế nhau chạy về phương nam.
Cuộc di tản náo
loạn khiến cho binh sĩ hoang mang không còn tinh thần chiến đấu đã là một trong
những nguyên nhân chính yếu đưa tới sụp đổ cho cả Quân khu. Thầy Mạnh Tử nói
Thiên thời bất như Địa lợi, Địa lợi bất như Nhân hòa. Khi kẻ địch cất quân đánh
nước ta là chúng có Thiên thời, nước ta có hào sâu, thành cao là ta có Địa lợi,
nhưng khi quân địch đến, quân ta quăng gươm giáo chạy là ta không có Nhân hòa.
Trọng Đạt
Tài liệu tham khảo :
Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập,
1963-1975, Làng Văn 2001.
Nguyễn Đức Phương: Những Trận Đánh Lịch Sử Trong Chiến
tranh Việt Nam 1963-1975, Đại Nam 2001.
Phạm Huấn: Những Uất Hận Trong Trận Chiến Mất Nước 1975,
Cali 1988.
Phạm Huấn: Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, Cali 1987
Ngô Quang Trưởng : Tại Sao Tôi Bỏ Quân Đoàn I, do Lê Bá Chư ghi chép, (Lịch Sử Ngàn Người Viết) Sài Gòn Nhỏ Dallas ngày
26-1-2007.
Nguyễn Tiến Hưng: Khi Đồng Minh Tháo Chạy, Hứa Chấn Minh
xuất bản 2005.
Nguyễn Văn Toàn, Lê Bá Khi ếu, Nguyễn Văn: Những Sự Thật Chiến Tranh Việt Nam
1954-1975
Trần Văn Nhựt: Cuộc Chiến Dang Dở, nhà xuất bản An Lộc,
2003.
Hoàng Lạc, Hà Mai Vi ệt: Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới,
Texas 1991.
Văn Tiến Dũng: Đại Thắng Mùa Xuân, nhà xuất bản QĐND Hà
Nội, tái bản lần thứ tư, 2003
Henry Kissinger: Years
of Renewal- Simon & Schuster 1999
Marilyn B. young, John
J. Fitzgerald, A.Tom Grunfeld: The Vietnam War, A History In Documents – Oxford
University press 2002.
Thiếu Tướng Lê Quang Lư ỡng: Thiên Thần Mũ Đỏ, Ai Còn, Ai Mất. Người Việt
Dallas 7-10-2005.
Lewis Sorley: Lịch Sử
Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, Trần Đỗ Cung dịch, Người Việt Dallas 22-11-2006.
Nguyễn Văn Châu: Nhớ Về
Quân Đoàn I, Sài Gòn Nhỏ Dallas 25-8-2006.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét