Mao Trạch Đông ngàn năm công tội
Chương 11
Chu Ân Lai bị tước
quyền lãnh đạo kinh tế
Nôn nóng muốn làm lãnh tụ cách
mạng thế giới, Mao Trạch Đông quyết tâm phát động phong trào Đại tiến vọt, làm
cho kinh tế nông nghiệp lạc hậu Trung Quốc xuất hiện “kỳ tích” trong thời gian
ngắn. Qua phong trào chống phái hữu, các đảng phái dân chủ và những người trí
thức đã bị áp chế, chẳng còn ai dám nói gì. Vấn đề hiện nay là làm thế nào
thống nhất tư tưởng và ý chí của cán bộ toàn đảng, từ trung ương tới cấp xã.
Nhưng Mao
vấp phải một trở ngại lớn là Chu Ân Lai và bộ máy chính quyền do ông
lãnh đạo. Thủ tướng Chu Ân Lai là người có tài kinh bang tế thế, nhà lãnh đạo,
tổ chức và quản lý kinh tế kiệt xuất. Ông chủ trương tôn trọng các qui luật
kinh tế lượng sức mà làm, cân bằng tổng hợp, vững bước đi lên được các Phó thủ
tướng Trần Vân, Lý Tiên Niệm, Bạc Nhất Ba… ủng hộ. Không áp chế những người
này, thì đừng mong gì thực hiện “Đại tiến vọt”.
Nửa đầu năm 1958. Mao liên tiếp
triệu tập các hội nghị Hàng Châu, Nam Nính, Thành Đô, Vũ Hán… rồi Đại hội 8 kỳ
2, với chủ đề phê phán những người phản đối làm liều chống bảo thủ hữu khuynh,
ép Chu Ân Lai kiểm điểm, gạt bỏ những ý kiến đúng đắn phù hợp qui luật kinh tế
khách quan của Chu, mở rộng đường thực hiện trong toàn đảng đường lối chủ nghĩa
xã hội không tưởng tả khuynh của Mao với đặc điểm làm liều. “Tội chứng” chủ yếu
đề phê phán Chu là báo cáo của ông tại Hội nghị Trung ương 2 khoá 8 tháng
11-1956.
Tại Hội nghị Nam Ninh ngày
16-1-1958, trước mặt mọi người, Mao bảo Chu: “Chẳng phải ông phản đối làm liều
đó sao? Tôi chống lại những ai phản đối làm liều”.
Tối 19-1, Chu Ân Lai kiểm điểm,
thừa nhận phản đối làm liều là sai lầm hoàn toàn đi ngược lại phương châm “xúc
tiến” của Mao, và xin nhận trách nhiệm chủ yếu đối với sai lầm trên.
Đến Hội nghị Thành Đô tháng
3-1958, Mao đưa ra khẩu hiệu “loại bỏ mê tín, giải phóng tư tưởng”, và đường
lối chung “Dốc hết lòng hăng hái, phấn đấu vươn lên hàng đầu xây dựng chủ nghĩa
xã hội nhiều, nhanh, tốt rẻ“. Mao nói rất nhiều về “tính đúng đắn và sự cần
thiết” của sùng bái cá nhân.
Đại hội 8 kỳ 2 họp từ 5 đến 23-5
tại Bắc Kinh. Về dự có 977 đại biểu chính thức, 389 khách mời, bao gồm một số
Bí thư Huyện uỷ và cấp tương đương, Bí thư Đảng uỷ các xí nghiệp lớn do các
tỉnh và thành phố trực thuộc lựa chọn. Mao Trạch Đông chủ trì, Lưu Thiếu Kỳ đọc
báo cáo công tác. Kỳ họp chính thức đưa ra đường lối chung, chính thức tuyên bố
khởi đầu phong trào “Đại tiến vọt”.
Chu Ân Lai hiểu rõ kiểm điểm
trong phạm vi lớn như thế có nghĩa là công khai tuyên bố từ chức Thủ tướng. Ông
quá hiểu Mao Trạch Đông, sau khi tiến vào Bắc Kinh, quan hệ đồng chí và chiến
hữu giữa ông và Mao đã chấm dứt, bắt đầu quan hệ vua tôi. Lệnh do Mao ban, công
việc do Chu làm, tuy dưới một người và trên vạn người, nhưng làm bạn với vua
như chơi với hổ, có thể bị hổ ăn thịt bất cứ lúc nào, nên ông cực kỳ thận
trọng. Trước mắt Chu có ba con đường. Toàn bộ nền kinh tế quốc dân đang lồng
lên như con ngựa hoang, có thể lượng trước những nguy hiểm, là thủ tướng ông
phải thuyết phục Mao, nhưng chưa chắc người ta đã hiểu ý tốt của mình, mà ông
rất có thể bị qui là đại biểu của đường lối cơ hội hữu khuynh, đại diện cho
phái hữu và giai cấp tư sản. Không thể đi theo con đường này. Con đường thứ hai
là từ chức Thủ tướng, không kiểm điểm trái với lòng mình để lịch sử chứng minh
ai đúng ai sai. Như vậy chẳng khác gì chơi bài ngửa với Mao Trạch Đông. Mao đã
dám chỉ con hươu bảo là con ngựa, đổi trắng thay đen, trong đảng cũng không
hiếm gì kẻ mưu toan xu nịnh, tâng bốc Mao để ngoi lên, như vậy mình sai sẽ bị
lật đổ mình đúng càng bị lật đổ nhanh hơn, Con đường cuối cùng là kiểrn điểm
trái với lòng mình, lấy Mao làm tiêu chuẩn đúng sai, theo sát Mao, giữ sự nhất
trí về đường lối và chính sách. Sau này nếu xảy ra rối loạn, Chu lại đứng ra
nhận trách nhiệm về mình, chấn chỉnh tình hình, đặt Mao ở tuyến hai “vĩnh viễn
đúng đắn”. Tư duy của Chu dừng lại ở điểm thứ ba này. Ông gọi thư ký riêng Phạm
Nhược Ngu đến đêm khuya thanh vắng, ông nói câu nào, thư ký ghi lại câu đó nói
rất chậm, có lúc mấy phút liền chẳng nói được câu nào. Bản kiểm điểm viết xong,
ông cân nhắc sửa từng câu một, rồi gửi Mao Trạch Đông và các uỷ viên thường
trực Bộ Chính trị. Qua mấy ngày, Mao gửi lại sau khi xoá bớt hoặc sửa cho nhẹ
đi một số câu chữ quá nặng, hạn chế tính chất của vấn đề trong phạm vi nhận
thức, hình như Mao không có ý định thay Thủ tướng. Chu hiểu rằng việc Mao ép
mình kiểm điểm lần này cũng như đã làm với Lưu Thiếu Kỳ tại Hội nghị Trung ương
4 khoá 7, bởi Mao cho rằng làm như vậy là tuyệt đối cần thiết để củng cố địa vị
lãnh tụ của ông ta, chỉ cần Lưu và Chu không đứng ra phản đối, thì toàn Đảng
chỉ có thể đi theo Mao.
Trong tâm trạng rất phức tạp, Chu
Ân Lai đã đọc bản kiểm điểm trước hội nghị. Ông thừa nhận sai lầm của mình là
nghiêm trọng, nguồn gốc tư tưởng là mắc bệnh chủ quan, siêu hình, giáo điều
kinh nghiệm. Ông ca ngợi Mao Trạch Đông đại diện cho chân lý, là người không
bao giờ mắc sai lầm, kêu gọi mọi người học tập tư tưởng, tác phong, phương pháp
làm việc, các tác phẩm và các chỉ thị của Mao. Ngày 25-5, theo đề nghị của Mao.
Hội nghị Trung ương 5 khoá 8 đã bầu Lâm Bưu làm Phó chủ tịch đảng, Kha Khánh
Thi, Lý Tỉnh Tuyền và Đàm Chấn Lâm làm uỷ viên Bộ Chính trị. Trong đảng lan
truyền tin Kha Khánh Thi (Bí thư Thành uỷ Thượng Hải) sẽ lên làm Thủ tướng. Chu
Ân Lai đệ đơn từ chức, Bành Đức Hoài cũng xin thôi chức Bộ trưởng quốc phòng.
Ngày 9-6-1958, Mao triệu tập cuộc họp Thường vụ Bộ chính trị thảo luận vấn đề
trên. Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức, Trần Vân, Đặng Tiểu Bình nhất trí giữ hai ông lại,
Hội nghị quyết định hai ông tiếp tục giữ cương vị công tác cũ.
Mao Trạch Đông biết rõ Chu Ân Lai
là người có lương tâm, mà dựa vào một thủ tướng có lương tâm thì không thể hoàn
thành nhiêm vụ lịch sử Đại tiến vọt. Khi ấy, Mao đã quyết tâm tước đoạt nông
dân tới mức tối đa, tập trung lương thực trong tay để chi viện cách mạng thế
giới, khiến ông ta trở thành lãnh tụ vĩ đại của Phong trào cộng sản quốc tế.
Mao phải đích thân ra tuyến một
chỉ đạo sản xuất công nông nghiệp, tổ chức và chỉ huy Đại tiến vọt. Không thể
cách chức Thủ tướng Chu, Mao liền thực thi nhiều động tác nhỏ để vô hiệu hoá
ông. Trước hết. Mao thành lập 5 tổ trực thuộc Bộ Chính trị và Ban Bí thư:
1. Tổ kinh tế-tài chính gồm 12
người, do Trần Vân làm Tổ trưởng, Đàm Chấn Lâm Tổ phó.
2. Tổ chính pháp 5 người, Bành
Chân làm Tổ trưởng.
3. Tổ Ngoại sự 6 người, Trần Nghị
làm Tổ trưởng.
4. Tổ Văn Giáo 10 người, Tổ
trưởng là Lục Định Nhất.
5. Tổ Khoa học 6 người, Tổ trưởng
là Nhiếp Vinh Trăn.
Khi thông báo vấn đề này, Mao đẩy
Chu từ vị trí thứ 3 xuống thứ 6. Như vậy Quốc vụ viện (Chính phủ) trở nên hữu
danh vô thực, vai trò của thủ tướng trở nên mờ nhạt, bị tước quyền lãnh đạo và
quyền quyết sách công việc chính trị, nhất là xây dựng kinh tế của đất nước.
Mao Trạch Đông trực tiếp chỉ huy 5 tổ trên, hình thành “Viện thiết kế chính
trị” do ông ta đứng đầu, lãnh đạo công cuộc xây dựng kinh tế, phát động phong
trào Đại tiến vọt và công xã nhân dân. Các nơi dồn dập phóng “vệ tinh” về sản
lượng lương thực và bông.
Chương 12
Mao: Chúng ta phải
thực hiện một số lý tưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng
Trong cao trào đua nhau “phóng vệ
tinh” ấy, tháng 8-1958, Mao tuần du ba tỉnh Hà Bắc, Hà Nam, Sơn Đông. Mỗi
chuyến đi như vậy, tuỳ theo nhu cầu, Mao cho mang theo rất nhiều sách, không
khác gì Khổng Tử dọn nhà. Vệ sĩ trưởng Lý Ngân Kiều đã cho đóng hai hòm gỗ lớn
để đựng sách mang theo, đến nơi ở, sách lại được bày ra, đảm bảo Mao có thể tìm
được ngay những cuốn cần đọc. Trong chuyến đi này, ngoài những bộ sử đang đọc
dở như “Tam quốc chí”, “Sở từ”, Mao
còn cho mang theo những cuốn sách về luyện kim và thổ nhưỡng.
Tại một số huyện ở ba tỉnh trên,
Mao đã nghe báo cáo về tình hình sản xuất và đời sống, xem viện dưỡng lão, nhà
trẻ, bếp ăn tập thề không mất tiền, những cánh đồng cao sản đạt năng suất mỗi
héc ta trên 187 tấn ngô, hoặc 300 tấn lúa, hoặc 1.500 đến 7.500 tấn khoai.
Huyện Từ Thuỷ tỉnh Hà Bắc, một huyện có 31 vạn dân đã đề ra mục tiêu “tiến lên
chủ nghĩa cộng sản trong ba năm”, vụ hè vừa thu hoạch được 45.000 tấn lương
thực, đã đề ra mục tiêu sản xuất 1,1 triệu tấn ngay trong vụ thu tiếp theo
(tăng gấp hơn 24 lần, bình quân đầu người 1,8 tấn), Mao tin vào tất cả những
báo cáo đó, thu hoạch chung của ông trong chuyến đi này là: vấn đề nông nghiệp
đã được giải quyết. Hơn thế nữa, ông bắt đầu một mối lo kéo dài mấy tháng liền:
“lương thực nhiều quá, làm thế nào đây?” Theo chỉ thị của Mao. Hội nghị Bộ
Chính trị mở rộng họp tại Bắc Đới Hà từ 17 đến 30-8-1958 thảo luận 17 vấn đề,
chủ yếu là công xã nhân dân về luyện thép. Phát biểu trong cuộc họp ngày 21,
Mao nói: “Chúng ta phải thực hiện một số lý tưởng của chủ nghĩa xã hội không
tưởng. Công xã nhân dân có mầm mống của chủ nghĩa cộng sản. Sản phẩm rất phong
phú, lương thực, bông… là của chung mọi người. Khoảng 10 năm nữa, có thể sản
phẩm hết sức phong phú, đạo đức vô cùng cao thượng, chúng ta có thể thực hiện
chủ nghĩa cộng sản về ăn, mặc, ở, ăn tại bếp tập thể không phải trả tiền là chủ
nghĩa cộng sản”.
Ngày 29-8, Hội nghị Bắc Đới Hà ra
nghị quyết về thành lập các công xã nhân dân nông thôn, “chiếc cầu đi tới thiên
đường cộng sản chủ nghĩa”. Cơ sở thành lập công xã nhân dân là hợp tác liên xã,
liên huyện, tổ chức quân sự hoá, hành động chiến đấu hoá, sinh hoạt tập thể
hoá, nâng cao hơn nữa giác ngộ cộng sản chủ nghĩa của 500 triệu nông dân. Qui
mô công xã nói chung 2.000 hộ là thích hợp, cũng có thể nhiều xã hợp nhất,
khoảng 7.000 hộ, thậm chí trên 20.000 hộ. Thành phần tổ chức là phát triển toàn
diện nông lâm ngư nghiệp, nghề phụ, chăn nuôi kết hợp
công-nông-thương-học-binh”. Điều lệ vắn tắt qui định: Các hợp tác xã hợp nhất
thành công xã phải nộp toàn bộ tài sản công hữu. Xã viên phải nộp lại đất phần
trăm, toàn bộ tư liệu sản xuất của xã viên thuộc sở hữu của công xã, song có
thể giữ lại một ít gia súc, gia cầm. Căn cứ vào nhu cầu, công xã có thể dỡ dần
nhà riêng của xã viên để lấy vật liệu sử dụng, nhà mới dựng thuộc sở hữu của
công xã, xã viên ở phải trả tiền thuê.
Phần quan trọng của điều lệ này
là nông dân bị tước đoạt hết ruộng đất, nhà cửa, gia súc, cây cối…, họ chỉ được
một cái: già trẻ, nam nữ, gái trai đều đến ăn tại bếp tập thể không phải trả
tiền.
Sau hội nghị trên, “cơn bão cộng
sản” tràn khắp vùng nông thôn Trung Quốc, chỉ trong vòng một tháng, Ban công
tác nông thôn đã tuyên bố công cuộc “Công xã hoá đã cơ bản hoàn thành, tại 22
tỉnh và thành phố trực thuộc, 85% đến 100% số hộ nông dân đã tham gia công xã,
còn lại 4 tỉnh sẽ cơ bản hoàn thành trước 1-10, tỉnh chậm nhất là Vân Nam cũng
cam kết hoàn thành vào cuối tháng 10”.
Mao chưa chuẩn bị đầy đủ về lý
luận để lãnh đạo kinh tế, và cũng thiếu kinh nghiệm thực tế trong lĩnh vực này,
nhưng lại không khiêm tốn, cho rằng mình biết tất cả, việc gì cũng làm được.
Khi sáng lập thể chế công xã nhân dân, Mao Trạch Đông suốt ngày chìm đắm trong
“Truyện Trương Lỗ”, “Sách đại đồng”, mà không đọc lấy một trang “Tư bản luận”,
do đó, ông ta mới có dũng khí đưa thể chế công xã ra trước lịch sử, coi đó là
sự phát triển mới của chủ nghĩa Mác ở Trung Quốc, gây cười cho thiên hạ mà
không biết. Bên bãi biển Bắc Đới Hà, Mao không hề biết rằng ông ta đã gây tai
hoạ lớn, mà vẫn tràn dầy niềm tin đối với “Đại tiến vọt” và “Công xã hoá”.
Trong bài đăng trên Nhân dân nhật
bao ngày 27-8-1958, Lưu Tây Thụy, cán bộ Văn phòng Trung ương Đảng được cử
xuống tìm hiểu tình hình huyện Thọ Trường, tỉnh Sơn Đông cho biết: Huyện uỷ đề
ra khẩu hiệu đảm bảo 15 tấn, cố gắng đạt 22,5 tấn một héc ta, nhưng thực tế
toàn huyện đang có phong trào thi đua mỗi héc ta sản xuất 750 tấn lương thực.
Cán bộ quần chúng nơi đây nói đến sản lượng cao mỗi héc-ta làm ra 150 tấn ngô,
750 tấn khoai một cách thản nhiên, loại xoàng cũng nêu nàng suất 60 tấn, chẳng
ai nói đến mục tiêu 15 tấn nữa.
Mao lo lương thực quá nhiều,
ngoài nuôi người và gia súc, chẳng biết để làm gì, ngày 19-11-1958, Mau phê
chuẩn báo cáo của Đàm Chấn Lâm quyết định giảm diện tích trồng lương thực từ
122 triệu xuống 100 triệu héc ta, kết quả các địa phương chấp hành, giảm 11,6
triệu héc ta, trong đó diện tích trồng lúa nước giảm 9,1%, tiểu mạch giảm 8,5%.
Hai ngày sau, tại Hội nghị Vũ Xương, Mao nêu vấn đề “quá độ lên chủ nghĩa cộng
sản”.
Chương 13
Phải kết họp giữa Các
Mác và Tần Thủy Hoàng
Năm 1958 phải nâng sản lượng thép
lên gấp 2 lần 1957, câu nói tuỳ tiện của Mao trong lúc tắm ấy đã làm cho toàn
bộ nền kinh tế quốc dân rối tung lên. Sản lượng thép Trung Quốc năm 1957 là
5,35 triệu tấn, tăng gấp 2 lần là 10,7 triệu tấn. Giữa tháng 8-1958 khi Hội
nghị Bắc Đới Hà ra quyết định cuối cùng về vấn đề này, cả nước mới sản xuất
được 4,5 triệu tẩn thép, hoàn toàn không thể sản xuất thêm 6,2 triệu tấn thép
trong 4 tháng rưỡi còn lại. Mao quá tin vào ý chí lãnh tụ của mình, hình như chỉ
cần ông ta quyết tâm vung tay lên, là nhân dân cả nước sẵn sàng đi vào nơi nước
sôi lửa bỏng, chẳng có việc gì là không làm nổi. Tại hội nghị trên, Mao nói:
“Phải chuyên chế. Không thể chỉ nói đến dân chủ. Phải kết hợp giữa Các Mác và
Tần Thuỷ Hoàng. Hoàn thành 11 triệu tấn thép là việc lớn liên quan đến lợi ích
của toàn dân, phải cố sống chết làm cho bằng được. Phải ra sức thu gom sắt phế
liệu, có thể tháo dỡ các đường sắt tạm thời không có giá trị kinh tế như đường
sắt Ninh Ba, đường sắt Giao Đông”.
Lẽ nào Mao Trạch Đông hoang đường
đến mức ra lệnh dỡ đường sắt làm phế liệu đúc thép, để gom đủ số lượng hoàn
thành nhiệm vụ “tăng gấp 2 lần”? Nhưng biên bản hội nghị ghi rành rành như vậy
đấy. Thực tế là Mao ngầm nói với cán bộ lãnh đạo trung ương và các tỉnh rằng
phải thực hiện chính sách bàn tay sắt, mệnh lệnh, cưỡng bức, phải hoàn thành
nhiệm vụ bằng bất cứ giá nào kể cả đưa các thanh ray đường sắt vào lò nấu thép.
Hội nghị bí thư phụ trách công
nghiệp các tỉnh và thành phố họp tại Bắc Đới Hà 7 ngày cuối tháng 8-1958, Bộ
trưởng luyện kim Vương Hạc Thọ giao chỉ tiêu cho các tỉnh, tổng cộng cả nước
trong 4 tháng cuối năm 1958 phải sản xuất 11,5 triệu tấn gang, 7 triệu tấn
thép. Tối 9-4, Ban Bí thư triệu tập hội nghị điện thoại các bí thư tỉnh uỷ,
thành uỷ trực thuộc; động viên “Đại tiến vọt” về gang thép. Tổng Bí thư Đặng
Tiểu Bình tránh mặt, giao cho Bành Chân và Đàm Chấn Lâm chủ trì cuộc họp này.
Bí thư thứ nhất Tỉnh uỷ Hà Nam hăng hái nhất, “Nhân dân nhật báo” đưa tin Hà
Nam trước 10-9 mỗi ngày sản xuất 780 tấn gang, nhưng đến 15-9 đã xây dựng được
45.000 lò luyện gang, huy động 3,6 triệu nông dân và 407.000 xe vận tải các
loại, một ngày sản xuất 18.693 tấn gang!
Thủ tướng Chu Ân Lai không tin
vào thông tin trên. Ông cử Cố Minh, thư ký phụ trách công nghiệp xuống tìm hiểu
tình hình. Cố Minh từng lưu học ở Nhật Bản, là người am hiểu sản xuất gang
thép. Ông xuống xã Tân Hương nơi báo cáo đã sản xuất mỗi ngày 102 tấn gang,
quan sát hiện trường sản xuất gặp gỡ cán bộ quần chúng, rồi mang theo sản phẩm
mẫu về báo cáo Chu:
- Thưa Thủ tướng, toàn là chuyện
dối trá. Ở Công ty gang thép Yên Sơn, muốn có một tấn gang, phải dùng ba bốn
tấn quặng sắt, hai ba tấn than cốc, cộng thêm vật liệu phụ trợ khác, tổng cộng
hơn 10 tấn. Một ngày làm ra 102 tấn thép phải vận chuyển trên 1.000 tấn nguyên
vật liệu, xã Tân Hương làm gì có khả năng ấy. Xin Thủ tướng xem, sản phẩm tốt
nhất là miếng gang xốp này đây.
Ông Chu cầm mẫu sản phẩm lên xem,
im lặng rất lâu.
Chu Ân Lai biết rõ chuyện sản
xuất gang thép ở Hà Nam là dối trá, nhưng lúc đó chưa thể nói gì. Thứ trưởng Bộ
Công nghiệp và Giao thông Cao Dương được lệnh dẫn một tổ công tác xuống tìm
hiểu tình hình luyện gang thép ở Hà Nam. Ông phát hiện sản lượng dối trá, chất
lượng kém, liền gửi thư lên Trung ương, nêu ý kiến riêng về cách làm phản khoa
học này.
Mao đọc báo cáo trên, đùng đùng
nổi giận, coi Cao Dương là phần tử cơ hội hữu khuynh, bắt đem theo cả vợ con đi
lưu đày ở Quí Châu. Thế là Mao bịt mồm tất cả cán bộ các cấp. Hồi đó cán bộ các
cấp có một câu “tự giải thoát”: “phải tính giá thành chính trị, đừng tính giá
thành kinh tế”. “Giá thành chính trị” là thể diện của Mao, “giá thành kinh tế”
là thiệt hại tài sản của nhân dân. Vì thể diện của lãnh tụ vĩ đại, Đảng cộng
sản và nhân dân Trung Quốc đã “phát cuồng”. Cuối tháng 7-1958, lực lượng lao
động trong ngành gang thép là vài chục vạn người, cuối tháng 8 tăng lên vài
triệu, cuối tháng 9 lên 50 triệu, đến cuối năm lên đến 90 triệu, cộng thêm lực
lượng chi viện trực tiếp và gián tiếp, số lao động đổ vào ngành gang thép lên
đến trên 100 triệu người.
Ngày 22-12-1958, Tân Hoa Xã công
bố cả năm đã sản xuất 11,08 triệu tấn thép, 13,69 triệu tấn gang, hoàn thành
vượt mức nhiệm vụ tăng gấp đôi sản lượng thép.
Những điều không công bố: trong
đó bao gồm 3,08 triệu tấn thép và 4,16 triệu tấn gang phế phẩm, hoàn toàn không
thể gia công sử dụng. Giá thị thường một tấn gang lúc đó là 150 NDT, gang làm
ra theo phương pháp thủ công giá thành 315 NDT. Nhà nước phải trợ giá 5 tỉ NDT.
Thiệt hại kinh tế trong ba năm
“Đại tiến vọt” là 120 tỉ NDT, tương đương khoản tiền vốn dùng cho 2 kế hoạch 5
năm của Trung Quốc hồi đó.
Năm 1958, Mao còn đề xướng thành
lập các nhà ăn tập thể, coi đó là biện pháp có hiệu quả để các công xã nhân dân
thực hiện tổ chức quân sự hoá, hành động chiến đấu hoá, sinh hoạt tập thể hoá,
là vấn đề then chốt để bồi dưỡng tinh thần tập thể và tư tưởng cộng sản chủ
nghĩa cho nông dân. Các nhà ăn tập thể ồ ạt ra đời, đến cuối năm 1959, nông
thôn cả nước đã lập được 3,9l triệu nhà ăn tập thể, có hơn 400 triệu người tham
gia, chiếm 72,6% số người trong các công xã, riêng Hà Nam lên tới 99%. Cơ sở để
Mao đưa ra chủ trương trên là lương thực quá nhiều, không biết dùng vào việc gì
nữa. Mao tuyên bố lương thực của Trung Quốc đủ dùng cho tất cả mọi người trên
trái đất.
Báo cáo của Đảng đoàn Bộ Nông
nghiệp gửi Bộ Chính trị ngày 25-8 viết: tổng sản lượng lương thực cả năm 1958
đạt trên 400 triệu tấn, gấp hơn 2 lần năm 1957. Tháng 10, tại Hội nghị hợp tác
nông nghiệp các tỉnh Đông Bắc và Tây Bắc, Đàm Chấn Lâm nhấn mạnh 400 triệu tấn
và khẳng định, có khả năng đạt 500 triệu tấn. Về sau mới biết sản lượng lương
thực năm 1958 chỉ có 200 triệu tấn.
Lúc đầu nhà ăn tập thể quả cũng
“tưng bừng” một thời, khẩu hiệu chung là “ăn thật no” và “không phải trả tiền”,
nhiều nơi đề ra “ăn no, ăn ngon, ăn sạch”, “mỗi bữa 4 món thức ăn”, thậm chí có
nơi tuyên bố phấn đấu một tháng 90 bữa ăn, không bữa nào món ăn trùng lặp,
ngang tiêu chuẩn bếp ăn của vua chúa Trung Quốc, có nơi coi nhà ăn tập thể là
khởi điểm để “tiến lên chủ nghĩa cộng sản trong vòng ba năm”.
Nhưng chẳng mấy chốc lương thực
thực phẩm cạn dần, từ thả sức ăn ngày ba bữa cơm chuyển sang ăn cháo, rồi cháo
loãng, rau dại. Lãnh đạo địa phương không dám giải tán nhà ăn tập thể vi sợ làm
sai chỉ thị của lãnh tụ vĩ đại, bị kết tội hữu khuynh, “đi con đường tư bản chủ
nghĩa”. Nông dân không thể bỏ nhà ăn tập thể vì toàn bộ khẩu phần lương thực
của họ do nhà ăn quản lý rồi, đành mỗi ngày hai lần đến nhận khẩu phần cháo
loãng. Nhà kinh tế học Tiết Mộ Kiều, Cục trưởng Thống kê hồi đó cho biết lãng
phí lương thực trong các nhà ăn tập thể lên tới 17,5 triệu tấn, tương đương 11%
số lương thực cung ứng cho nông thôn. Ngoài ra, khoảng 10% lương thực bị hư
hỏng ngoài đồng do không kịp thu hoạch, bởi phần lớn lao động khỏe mạnh đã bị
huy động đi làm gang thép. Huyện Tỉnh Nghiên (Tứ Xuyên) vào lúc thiếu lương
thực nghiêm trọng nhất năm 1959, bình quân mỗi người một ngày được phân phối
không đến 100 gam lương thực, cứ 8 người có một người chết đói. Nửa đầu năm
1959, đi thăm một số tỉnh, nguyên soái Chu Đức không tán thành nhà ăn tập thể.
Ông nói cần chia lương thực cho các hộ nông dân, cần giữ lại một chút chế độ tư
hữu cho nông dân làm nghề phụ, chăn nuôi. Ông nói với Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Đông
Đào Chú: “Hai việc lớn nhất năm 1958 là ồ ạt làm gang thép và công xã hoá đã gây
thiệt hại rất lớn cho nhà nước và cá nhân”. Ý kiến của Chu Đức được lưu truyền
rất nhanh trong cả nước. Mùa hè năm đó, Bí thư Tỉnh uỷ An Huy Trương Khái Phong
ra lệnh giải tán toàn bộ hơn 4.000 nhà ăn tập thể ở huyện Vô Vi. Sự kiện này
khiến Mao đùng đùng nổi giận. Trong bút phê báo cáo về vụ này. Mao viết:
“Trương Khải Phong đứng trên lập trường giai cấp tư sản, mưu toan phá hoại nền
chuyên chính vô sản, chia rẽ Đảng cộng sản”. Ý kiến trên còn ngầm phê phán Chu
Đức. Hai ngày sau tại cuộc họp Thường vụ Bộ Chính trị. Mao “lo ngại Chu Tổng tư
lệnh gây rối loạn”.
Nhưng Mao cũng đã sớm nhận ra nhà
ăn tập thể đang đứng trước nguy cơ nghiêm trọng. Tháng 2-1959, ông cử thư ký
riêng kiêm Phó văn phòng Trung ương Điền Gia Anh dẫn một tổ công tác xuống Tứ
Xuyên điều tra. Điền Gia Anh đã báo cáo với Mao thực trạng ông ta nghe mắt thấy
ở nông thôn trong chuyến đi này.
Tình hình các tỉnh dần dần trở
nên nghiêm trọng. Do thiếu lương thực, lao động quá sức, từ nửa cuối năm 1959,
vùng nông thôn đã xuất hiện tình trạng bệnh phù thũng và chết đói, nhiều người
bỏ nhà ra đi. Tỉnh uỷ Hà Bắc báo cáo toàn tỉnh có 44 huyện, 235 công xã đã phát
hiện gần 6 vạn người mắc bệnh phù thũng, trên 450 người đã chết. Nhưng Mao vẫn
đặt thể diện, uy tín của mình lên trên những hoạn nạn sống chết của mấy trăm
triệu nông dân, ngoan cố tiếp tục tổ chức các nhà ăn tập thể. Mao giấu báo cáo
của Tỉnh uỷ Hà Bắc, nhưng lại cho phân phát trong cả nước, báo cáo của Bí thư
Tỉnh uỷ Quí châu Chu Lâm miêu tả “80% số nhà ăn tập thể ở tỉnh này là vững chắc”
Lựa theo khẩu vị của Mao, Chu Lâm nhấn mạnh “nhà ăn tập thể là trận địa xã hội
chủ nghĩa phải giữ vững, để mất trận địa này, không thể củng cố công xã nhân
dân, cũng không thể giữ vững phong trào Đại tiến vọt”. Mao yêu cầu các nơi làm
theo Quý Châu.
Trước tình hình nghiêm trọng này,
tư tưởng chỉ đạo của Mao là “giữ vững thành thị, hy sinh nông thôn”. Mao hiểu
rõ chủ nghĩa xã hội không tưởng của ông ta đã gây hậu quả cực kỳ nghiêm trọng,
nếu thực sự cầu thị đánh giá “3 ngọn cờ hồng” (đường lối chung, đại tiến vọt,
công xã nhân dân) thì ông ta phải từ chức, để tạ lỗi với toàn đảng, toàn dân.
Mao suy nghi rất sâu xa. Phải
phát minh lý luận, tổ chức đội ngũ, để bào chữa cho sai lầm của mình. Ai bào
chữa cho sai lầm của Mao, người đó là chiến hữu thân thiết; ai chuẩn bị uốn nắn
đường lối sai lầm “tả khuynh”, người đó là kẻ thù không đội trời chung của ông
ta. Từ đó, đã khởi đầu những năm tháng nhiều biến động trong Đảng cộng sản
Trung Quốc.
Tân Tử Lăng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét