Kennedy Quyết Định Rút Khỏi Miền Nam
Năm
1961 chiến tranh bắt đầu lan rộng tại miền nam VN, Việt Cộng gia tăng lực lượng từ đầu năm 5,500 người tới
25,000 cuối năm 1961. Tổng thống Kennedy cho tăng quân số VNCH từ 170,000 lên
200,000 người, số cố vấn phụ trách huấn luyện gia tăng tới 3,200 người. Năm
1962 chính phủ Mỹ vội viện trợ cho quân đội VNCH ba đại đội trực thăng H-21, 16
phi cơ vận tải C-123, hai chi đoàn thiết giáp M-113 (1)…
Việt
Cộng bị bao vây tiêu diệt dần dần, quân đội VNCH nhờ chiến thuật, vũ khí mới đã
đạt thắng lợi năm 1962, quân phiến loạn bị mất tinh thần.
Năm sau1963, chính phủ Ngô Đình Diệm bị sa lầy vì vụ Phật giáo khởi đầu từ
giữa cho tới cuối năm 1963 thì hoàn toàn sụp đổ.
Từ giữa 1962 chính phủ Kennedy có mục đích rõ ràng chỉ gửi cố vấn sang huấn
luyện quân đội VNCH để tự bảo vệ đất nước họ (2), nghĩa là không gửi quân tác
chiến. Bộ trưởng quốc phòng McNamara cho biết ông đã đặt giới hạn cho thời gian
huấn luyện, nếu thành công thì phải rút. Ngày 23-7-1962 ông hỏi tướng Paul Harkins (3) tại Honolulu bao lâu ta có thể loại trừ hết VC, ông
tướng nói có lẽ một năm. McNamara nghĩ có lẽ ba năm sẽ trấn áp địch, cuối tháng
3-1963 ông hỏi ý kiến Sir Robert Thompson (chiến lược gia chống du kích) về
việc này, ông ta nói nếu bình định tiến bộ, có thể rút bớt 1,000 người, lúc này tổng cộng có
16,000 cố vấn tại miền nam VN.
Theo McNamara ngày 21-8-1963 , khoảng 2 giờ sáng, được sự đồng ý của
Diệm, Nhu cho lệnh tấn công các chùa chiền (with Diem’s approval, Nhu ordered
an elite military unit to raid the Buddhist pagoda..) (4), bắt giam mấy trăm sư
tăng. Bắt đầu từ mùa hè McNamara được tin ông Diệm giao cho Nhu tiếp xúc bí mật
với Hà nội, nhân cơ hội này De Gaulle kêu gọi VN thống nhất, trung lập.
McNamara cho rằng ông Diệm định tháu cáy Mỹ vì họ đang ép ông bớt đàn áp những
người chống đối. Tuần này những viên chức then chốt nắm quyết định về VN - Tổng
thống Kennedy, Dean Rusk, McGeorge Bundy, John McCone, McNamara – đều không ở
thủ đô Hoa Thịnh Đốn (5)
Ngày 24-8 những bản tường trình về sự bạo hành
từ VN tràn tới Washington . Các viên chức xử lý thường vụ tại trung ương cho đây
là cơ hội để lật đổ chế độ Diệm. Người Mỹ chuẩn bị làm đảo chính, McNamara cho
đây là một trong những quyết định nguy kịch nhất về VN dưới chính phủ Kennedy
và Johnson. Người khởi xướng là Roger Hilsman, ông ta thay thế Averell Harriman
trong chức vụ Phụ tá bộ trưởng ngoại giao đặc trách Viễn đông sự vụ, Hilsman và
các cộng sự viên cho rằng nếu còn Diệm ta không thể thắng (CS), vậy phải loại
bỏ ông ta (we could not win with Diem and, therefore, Diem should be removed)
Roger Hilsman bắt đầu soạn một công điện để
gửi cho Henry Cabot Lodge, Đại sứ mới nhậm chức tại Sài gòn, khởi đầu bằng sự
kết án Nhu xin sơ lược như sau (6)
Nhu lợi dụng thiết quân luật để tấn công các
chùa chiền (to smash pagodas), rõ ràng Nhu trở thành người cầm đầu
Chính phủ Mỹ không thể tha thứ cho tình trạng quyền hành rơi vào tay Nhu,
phải giúp Diệm loại bỏ Nhu và đồng bọn.
Nếu ông (tức Cabot Lodge) đã cố gắng hết mình
mà Diệm vẫn ngoan cố (Diem remains obdurate) và từ chối thì có thể loại bỏ ông.
Ta cũng cho các Tướng lãnh (Sài gòn) biết Mỹ sẽ cắt viện trợ trừ khi thả các sư
tăng bị bắt và loại bỏ vợ chồng Nhu. Chúng ta sẽ cho Diệm cơ hội thuận tiện để
loại bỏ Nhu nhưng nếu ông ta còn ngoan cố, bó buộc ta không thể ủng hộ Diệm.
Ông có thể nói cho các Tướng lãnh (VN) rằng chúng ta sẽ trực tiếp giúp họ giai
đoạn sau đảo chính. Thêm vào đó Đại sứ và các cộng sự của ông có thể tạm thời
nghiên cứu chi tiết kế hoạch thay Diệm nếu cần.
Hilsman soạn xong trình Averell Harriman, Thứ
trưởng ngoại giao (mới lên) chấp thuận. Công điện sau đó được gửi Kennedy (đang
nghỉ mát), ông ta nói có thể đồng ý nếu các cố vấn của ông đã thuận. Dean Rusk
(Bộ trưởng ngoại giao), được hỏi ý kiến và được biết Tổng thống đã đồng ý, Dean
cũng thuận nhưng không nhiệt tình lắm.
McNamara
chán nản vì chính phủ tại Sài Gòn gia tăng đàn áp nhưng không biết sẽ thay bằng
chính phủ như thế nào, có lẽ tốt nhất là thuyết phục ông Diệm thay đổi lập
trường, dọa cắt viện trợ có thể khiến ông từ bỏ đàn áp. Công điện đã được gửi
đi Sài Gòn.
Kennedy sau đó lấy làm tiếc đã gửi công điện,
coi đó là sai lầm, ông tưởng đã được McNamara, tướng Taylor .. .soạn và đồng ý nhưng thực ra chỉ là do
Harriman, Hilsman, Mike Forrestal … những người này ủng hộ đảo chính mạnh. Ngày
29-9-1963 tướng Maxwell Taylor và McNamara tới dinh Gia Long họp 3 giờ với ông
Diệm, sau có đãi tiệc, Lodge và tướng Harkins cũng tháp tùng. Ông Diệm nói hai tiếng
rưỡi về chính sách và diễn tiến cuộc chiến. McNamara nói Mỹ muốn giúp VN thắng
CS, chúng tôi lo âu về tình hình chính trị tại VN, tôi đề nghị ông chấm dứt đàn
áp vì sự xáo trộn sẽ ảnh hưởng xấu nỗ lực của Mỹ.
Ông Diệm bác bỏ cho rằng báo chí xuyên tạc về
chính phủ và gia đình ông khiến người Mỹ hiểu lầm về VN. McNamara nói mặc dù có
một số bài báo sai nhưng không thể phủ nhận sự khủng hoảng niềm tin vào chính
phủ Diệm tại VN cũng như tại Mỹ. Ông Diệm không đồng ý và trách những sinh viên
non trẻ vô trách nhiệm bị bắt mới rồi, ông chua chát bảo tôi có trách nhiệm về
vụ Phật giáo ấy là vì tôi quá tử tế với họ.
Taylor và McNamara về Hoa Thịnh Đốn tường
trình Tổng thống với sự giúp đỡ của Phụ tá bộ trưởng quốc phòng về vấn đề an
ninh quốc tế, bản văn gồm một số điểm chính.(8)
-Về
quân sự có nhiều tiến bộ
-Sài
Gòn căng thẳng về chính trị, chính phủ Diệm Nhu ngày càng mất lòng dân.
-Những
hành động đàn áp trong tương lai của Diệm Nhu có thể thay đổi tình hình quân sự
tốt đẹp hiện nay, một đường lối cai trị ôn hòa có thể làm dịu khủng hoảng chính
trị.
-Không
phải áp lực Mỹ sẽ làm Diệm Nhu ôn hòa, thật ra có thể khiến họ ương bướng.
-Viễn tượng thay đổi chính phủ có thể cải
thiện 50 – 50
Khuyến
cáo (một số điểm chính)
Hai người khuyên:
-Một chương trình thiết lập, huấn luyện người
VN có thể thay thế vai trò quân nhân Mỹ cuối 1965, có thể rút hết người Mỹ vào
lúc này.
-Song song với chương trình huấn luyện người
Việt nắm vai trò quân sự, Bộ quốc phòng sẽ thông báo một ngày rất gần chuẩn bị
rút 1,000 quân nhân Mỹ cuối năm 1963
-Ngưng viện trợ tài chính.
-Giữ những liên hệ đúng với viên chức cao cấp VNCH
-Quan sát tình hình coi xem Diệm có bớt đàn áp và tăng hiệu quả quân sự
không?
-Ta
không khuyến khích việc thay đổi chính phủ (VN)
Hai người nhấn mạnh không tin tưởng hành động
tổ chức đảo chính vào lúc này
Về Mỹ ngày 2-10-1963 , Taylor và McNamara thuyết trình cho Kennedy nghe
tại tòa Bạch ốc, chủ đề thảo luận chính là khuyên rút 1,000 cố vấn Mỹ.
“Thưa tổng thống, tôi nghĩ chúng ta phải tìm
cách rút ra khỏi địa bàn, và phải cho dân chúng biết thế”
Chiều hôm ấy Kennedy triệu tập Hội đồng an
ninh quốc gia để thảo luận về bản tường trình, ông nói chúng ta cần tìm cách
thuyết phục ông Diệm thay đổi không khí chính trị tại Sài Gòn, ông nhấn mạnh
chính phủ ta sau cùng nhất trí về VN, nay chúng ta có một chính sách và bản
tường trình được mọi người cùng duyệt.
Mọi
người đồng ý đó là cuộc chiến tại miền nam VN, chúng ta chỉ gửi cố vấn và giúp
họ chiến đấu, nếu họ không tự vệ được thì sẽ không thắng được cuộc chiến. Thảo
luận sôi nổi về lời khuyên của Bộ quốc phòng thông báo kế hoạch rút quân cuối
1965 bắt đầu bằng 1,000 người cuối 1963.
Cuộc thảo luận cho thấy không đồng nhất, một
số cho quân sự tiến triển tốt, huấn luyện tốt ta có thể rút; một số cho không
thấy chiến tranh tiến triển thuận lợi và không thấy quân đội VNCH được huấn
luyện tốt nhưng cũng đồng ý cho rút vì người miền nam VN huấn luyện được và ta
đã làm việc ở đó khá lâu, có kết quả; nhóm ba thể hiện ý kiến của đa số nói người
VN huấn luyện được và tin cuộc huấn luyện chưa đủ, cần tiếp tục thêm.
Kennedy chấp nhận cho rút 1,000 người cuối tháng
12-1963, ông không lý luận. Vì chương trình bị nhiều người chống đối và sợ họ có
thể cố gắng thuyết phục Kennedy đổi ý nên McNamara thúc Tổng thống thông báo
chính thức. Kennedy đồng ý nhưng không kèm theo câu vào cuối năm vì sợ nếu
thông báo mà không làm được trong ba tháng sẽ bị chỉ trích.
Kennedy đồng ý, sau phiên họp, tòa Bạch ốc đã
chính thức thông báo: Bộ trưởng quốc phòng McNamara và Tướng Maxwell Taylor tường trình cuối năm nay chương trình của Mỹ
huấn luyện cho người VN tiến triển tốt đẹp và 1,000 quân nhân Mỹ công tác tại
đây sẽ được hồi hương.
Sáng 5-10-1963 thảo luận về tường trình. Tổng thống Mỹ
chấp nhận đoạn nói về kế hoạch đảo chính. Bản tường trình viết “lúc này ta
không nên cổ võ thay đổi chính phủ (bênVN). Một chính sách khẩn để tìm và tiếp
xúc một lãnh đạo khác nếu có thể, Tổng thống chỉ thị gửi tới Sài Gòn qua đường
CIA.
Quyết dịnh của Kennedy: Mỹ chủ trương không
thay đổi chính phủ (VN). Ngày 25-10, trong môt điện khẩn gửi Mc George Bundy, Đại
sứ Cabot Lodge (từ VN) cho biết âm mưu các tướng VN đã tiến hành mạnh, chúng ta
không thể ngăn cản đảo chính, ông lý luận: ta có thể tin chính phủ sau sẽ không
thối nát như chính phủ hiện tại. Thay lời tổng thống, Mac phúc đáp Lodge: ta
hãy duyệt kế hoạch các tướng và làm cho họ nản chí vì khó thành công.
Bốn hôm sau trong một phiên họp với Kennedy,
McNamara nói về trong số các viên chức Mỹ ở Sài Gòn âm mưu làm đảo chính và
thấy tướng Harkins có thể không biết tòa Đại sứ và CIA làm gì. Theo ông này ủng
hộ đảo chính nghĩa là đặt tương lai miền nam VN vào tay những người chưa rõ ra
sao. Taylor đồng ý cho rằng nếu thành công nó sẽ ảnh
hưởng tới nỗ lực chiến tranh của Mỹ.
Lúc 6
giờ chiều họp tiếp, Kennedy không tin vào nhiệt tâm của Lodge về cuộc đảo chính
cũng như các tướng VN. Họp xong Bundy gửi điện cho Lodge tại VN và bảo ông này
đưa bức điện nói về âm mưu của các Tướng (VN) cho Tướng Harkins coi và hỏi ý
kiến ông ta.
Tướng Harkins phàn nàn Đại sứ Lodge dấu không
cho ông biết tin tức về đảo chính, Harkins chống đảo chính, không tin các tướng
lãnh VN. Ông nói chúng ta không thay ngựa nhanh như vậy mà phải thuyết phục cho
ngựa đổi hướng và thay đổi cách hành động.
Lodge
sợ chính phủ Mỹ phản đối cuộc đảo chính bèn đánh điện trả lời bầy tỏ chán nản:
“Chúng ta không có khả năng trì hoãn đảo chính”. McNamara và Bundy thắc mắc các
tướng VN có tiếp tục đảo chính không nếu họ biết Mỹ chống lại đảo chính. Bundy
đánh điện Lodge “Chúng tôi không chấp nhận lý do ‘ta không thể trì hoãn đảo
chính’. Chúng tôi tin ông phải hành động và thuyết phục các tướng ngưng hay
hoãn mọi kế hoạch chưa chắc đã thành công (tức kế hoạch đảo chính)”
Lodge định về Hoa thịnh Đốn ngày 1-11-1963 để tham khảo ý kiến. Trước khi lên máy bay
ông theo Đô đốc Felt vào viếng xã giao ông Diệm. Trước đó ông Diệm đã gửi thiệp
cho Lodge bảo ông này ở lại chừng mười năm phút sau khi Đô đốc Felt đã đi,
Lodge đồng ý. Sau đó ông đánh điện về Hoa Thịnh Đốn
“Khi
tôi đứng dậy định đi, ông ta (Diệm) nói: Ông làm ơn nói với Tổng thống Kennedy
rằng tôi là một đồng minh tốt và ngay thẳng, chẳng thà thẳng thắn giải quyết
vấn đề bây giờ hơn là nói về nó sau khi chúng tôi mất hết. Nói cho Tổng thống
Kennedy biết tôi coi những đề nghị này nghiêm chỉnh và muốn thi hành nó nhưng
chỉ có vấn đề thời gian thôi”
Lodge nhận xét
“Tôi
nghĩ đây là một bước tiến khác qua cuộc nói chuyện mà Diệm đã bắt đầu tại lần
gặp nhau ở Đà lạt hôm chủ nhật (27-10) (lời Lodge)
“Nêu Hoa kỳ muốn thương thuyết nhiều vấn đề.
Tôi nghĩ chúng tôi sẽ làm được.. thật vậy ông ta nói : Cứ nói cho tôi biết các ông
muốn gì, chúng tôi sẽ làm” (lời ông Diệm)
Tôi hy vọng chúng ta sẽ bàn tới nó ở Washington ” (lời Lodge) (9)
Bức
điện về Bộ ngoại giao lúc 9 giờ :18 phút sáng (giờ Washington) ngày 1-11-1963,
tới 9 giờ 37 phút sáng tới Tòa Bạch Ốc, tại đó McNamara và các cố vấn họp với Tổng
thống bàn về các biến cố ở Sài Gòn. Lúc đó thì đã quá trễ; cuộc đảo chính đã
bắt đầu.
Trưa hôm ấy tin anh em ông Diệm bị giết khiến Kennedy
xúc động mạnh.
Nhận định cuối cùng về VN trước công luận
của Kennedy trong một cuộc họp báo ngày 14-11 ông nói “Chúng ta có từ bỏ VN
không? Một chương trình quan trọng nhất, dĩ nhiên là an ninh của đất nước ta
nhưng chúng ta không muốn Hoa Kỳ đóng quân ở đó”
Trước đó trong một cuộc họp báo khác ông cho
biết mục tiêu của chúng ta là đưa người Mỹ về nước, để người miền nam VN giữ quyền tự trị, độc lập của họ, theo
ông miền nam VN phải tự bảo vệ đất nước
họ, Hoa Kỳ không thể chiến đấu cho họ
(The South Vietnamese must carry the war themselves, The United States
could not do it for them)
Ngày 22-11-1963 , Tổng thống Kennedy bị ám sát tại Dallas
Sang thời Johnson
Phó tổng thống L.B Johnson lên thay thế
Kennedy, tình hình chính trị miền nam ngày càng phức tạp và xáo trộn. Đúng ba
tháng sau cuộc đảo chính 1-11-1963, tướng Nguyễn Khánh lại đảo chính Dương Văn
Minh ngày 30-1-1964 (10), cuối tháng 10-1964, ông Trần Văn Hương được mời làm Thủ
tướng, nhưng chính phủ của ông chỉ tồn tại được đúng ba tháng. Năm 1964 là một
năm đầy hỗn loạn, đảo chính, tranh quyền, biểu tình, tuyệt thực…Trong khi CS ngày
càng gia tăng xâm nhập (11), Nga và Trung Cộng gia tăng viện trợ quân sự (12),
chương trình rút quân của Kennedy đã không thực hiện được mà Tổng thống mới còn
phải gửi thêm cố vấn lên 23,300 người tính tới cuối năm 1964 (13).
Ngày 1-12-1964, Tổng thống Johnson họp với các cố vấn tại tòa Bạch ốc,
tướng Maxwell Talor, Đại sứ ở Sài gòn về, phó tổng thống Humphrey.. VNCH bất
ổn, mất VN sẽ phá hỏng chính sách be bờ ngăn chận CS tại Đông nam Á.
Đại sứ Taylor trở lại Sài Gòn mang thông điệp của
Johnson cho các Tướng lãnh VN, Mỹ tiếp tục viện trợ, các tướng phải thôi chống
đối nhau và chống chính phủ, sự thực họ vẫn chống chính phủ dân sự, McNamara nghĩ
họ muốn nắm quyền. Trong một buổi họp
với các tướng VN ngày 20-12-1964, hôm mà các tướng này giải tán Thượng Hội Đồng
QG, Taylor có những lời lẽ nặng nề khiến các tướng VN gửi văn thư cho Quốc
trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ tướng Trần văn Hương yêu cầu trục xuất đại sứ
Taylor về Mỹ (14). Người Mỹ dọa cắt viện trợ, nhờ sự dàn xếp khéo léo của Thủ
tướng Trần Văn Hương vụ khủng hoảng đã được dàn xếp ổn thỏa.
McNamara cho biết các viên chức tòa Bạch Ốc ít
ai chịu chú ý tới điểm này vì sợ nó phá hỏng chính sách đắp đê ngăn chận CS của
Mỹ. Taylor ám chỉ ta theo một chương trình sao cho miền nam VN yêu cầu chúng ta
rút hoặc một tình trạng hỗn loạn khiến ta phải rút hết cố vấn, như vậy sẽ khiến
Hoa Kỳ tiết kiệm được xương máu. Rõ ràng rút bỏ là con đường ta phải chọn lựa,
nhưng ta đã không làm thế (15)
Gần cuối cuốn hồi ký In Retrospect của McNamara
(trang 320) ông cũng nói Hoa Kỳ có ba cơ
hội để rút bỏ VN: Từ cuối 1963 khi tình hình xáo trộn sau đảo chính hoặc cuối
1964, hay đầu 1965 khi miền nam VN xáo trộn về chính trị và yếu kém quân sự.
McNamara
sau này cho rằng cuộc chiến VN là sai lầm, đáng lý phải rút khỏi VN từ giữa
thập niên 60 để khỏi thiệt hại nhân mạng cho người Mỹ.
Sau khi
lên thay Kennedy, Tổng thống Johnson không thể rút quân vì tình hình chính trị
và quân sự ờ miền nam không ổn định. Johnson bắt đầu cho oanh tạc BV từ 2-3-1965 mục đích buộc Hà nội phải đàm phán ngưng
bắn nhưng ngược lại họ tăng cường xâm nhập và tấn công quân đội VNCH. Tháng
3-1965 theo yêu cầu của Tướng Westmoreland và Đô đốc Sharp, Johnson cho hai
tiểu đoàn TQLC tới VN để canh giữ phi trường, dần dần tình hình quân sự ngày
một xấu, tướng Westmoreland khẩn khỏan xin Tổng thống cho tăng thêm lực lượng.
Johnson rất lưỡng lự trước quyết định gửi quân
sang VN khi ấy Quốc hội người dân ủng hộ cuộc chiến ngăn chận CS tại Đông nam Á,
họ muốn ông không để mất miền nam, đồng thời tướng Tư lệnh yêu cầu khẩn thiết
cho tăng quân. Việc gửi quân cho dù cần thiết nhưng nó sẽ phá hỏng chương trình
phúc lợi xã hội (Great Society) của Johnson gồm nhân quyền, medicaire,
medicaid, trợ giúp giáo dục, chống nghèo….Nó có thể hủy hoại sự nghiệp chính
trị của ông. Nhưng cuối cùng Johnson đã đồng ý cho tăng quân vì nếu mất miền
nam, ông sẽ phải chịu trách nhiệm về sự hủy hoại chính sách đắp đê be bờ của
Mỹ. Trung bình một tháng năm 1965 tăng quân vào VN trên 10,000, tới cuối năm đã
lên tới 184,000, cho tới 1968 đã lên tới 530,000 người. Chiến tranh ngày càng
mở rộng, Mỹ tăng quân thì BV gia tăng xâm nhập y như truyện Sơn tinh Thủy tinh,
nước càng lên cao thì núi cũng lên cao.
Giữa năm 1965 nếu Mỹ không đem quân vào miền nam VN thì sẽ bị mất trong
vòng 6 tháng (16), trung bình một tuần ta mất một quận và môt tiểu đoàn. Những
năm 1966, 1967 tại miền nam có vài bài báo nêu vấn đề chủ quyền, chỉ trích
chỉnh phủ làm ngơ cho người Mỹ đem quân vào nước ta. Nay vẫn còn nhiều người
chê các tướng lãnh, chính phủ VNCH hồi giữa thập niên 60 đã không giữ được chủ
quyền, để cho Hoa kỳ ngang nhiên đem quân xâm nhập. Người mình hay ngủ mơ trên
mây xanh, sắp chết tới nơi mà vẫn nói chuyện chủ quyền.
Kết
luận
Kennedy
quyết định rút quân bắt đầu từ cuối 1963 vì cho rằng cuộc bình định miền nam đã
tiến triển tốt, VC đã bị đánh bại, đẩy lui. Kennedy và McNamara thiếu tin tình
báo cũng như không hiểu biết gì nhiều về CSVN. Thực tế đã chứng tỏ cuộc chiến
kéo dài tới mười năm chứ không phải sẽ chấm dứt cuối 1965 như Kennedy và
McNamara mơ tưởng.
Cho tới 1969 Nixon mới bắt đầu cho rút 60,900
quân, năm sau 1970 rút 140,600 người, năm 1971 rút 177,800 người, năm 1972 rút 132,600
người chỉ còn để lại hơn 20,000. Nhiều người Việt quốc gia lên án Nixon,
Kissinger rút quân, bắt ép VNCH ký hiệp định Paris bất bình đẳng khiến miền nam sụp đổ năm
1975.
Người Mỹ lại nói khác, tác giả Walter Isaacson
(17) chỉ trích Nixon đã không ký Hiệp định Paris từ 1969, rút bỏ miền nam sớm hơn thay vì
bốn năm nữa mới ký (1973). Cuộc chiến kéo dài thêm bốn năm làm chết thêm 20,000
người Mỹ. Nhận định này không phải riêng của Walter Isaacson mà phong trào phản
chiến, đảng đối lập, Quốc hội thù nghịch, truyền thông báo chí cũng nghĩ như
thế. Người ta oán trách Nixon đã không chịu bỏ rơi chế độ Thiệu sớm hơn 4 năm
và ký Hiệp định Paris từ năm 1969, để tiết kiệm xương
máu cho người Mỹ. Họ cho rằng Hoa Kỳ
không đáng phải hy sinh thêm 20 ngàn lính Mỹ để bảo vệ cho miền nam VN sống
thêm 4 năm nữa.
Cuối năm 1963, Kennedy, McNamara muốn rút khỏi
VN nhưng dù muốn cũng không làm được vì
Quốc hội và người dân không muốn thế, qua thăm dò đại đa số tin vào thuyết
Domino, mất miền nam Đông nam Á sẽ rơi vào tay CS. McNamara tiếc rẻ mãi, ông
nói Hoa kỳ đáng lý phải rút bỏ VN từ 1963, 1964, 1965 vì đó là cuộc chiến sai
lầm. Đây chỉ là một nhận định không tưởng vì tình hình lúc này không cho phép,
người dân và Quốc hội sẽ chống đối không để Johnson McNamara làm như vậy. Nhận
định này chỉ lả để bào chữa cho sự bất tài vô dụng của chính McNamara, người
đã được Quốc hội và nhân dân ủng hộ hết
mình, đã nắm trong tay hơn nửa triệu quân mà chẳng làm nên trò trống gì.
Những năm đầu thập niên 70, Nixon dù có muốn
giữ miền Nam VN, dù muốn ở lại miền Nam cũng không được, gió đã đổi chiều: người
dân, Quốc hội Mỹ đã quá chán chiến tranh Đông dương, họ chỉ muốn nó chấm dứt sớm
ngày nào hay ngày nấy. Những người kết án Nixon, Kissinger phản bội đồng minh cũng
nên để ý, người ta đã có kế hoạch, dự tính rút bỏ VN từ những năm 1963, 1964, 1965
và cà 1969 chứ không phải đợi tới năm 1973, 1975.
Trọng
Đạt
Chú thích
(1) Nguyễn Đức Phương, Chiến Tranh VN Toàn
Tập trang 20, 21.
(2) Robert S. McNamara, In Retrospect, The
Tragedy and Lessons of Vietnam (in 1995) trang 48
(3) Tư lệnh Bộ viện trợ quân sự Mỹ tại VN
(4) In Retrospect, trang 51
(5) Đi vacation, nghỉ mát, trang 52
(6) In Retrospect, trang 52.
(7) Đài VOA, BBC khoảng thời gian này nói
Nhu cầm đầu chính phủ Sài Gòn, đại sứ Trấn văn Chương tại Mỹ từ chức để phẩn
đối ông Diệm tuyên bố Ngô đình Nhu, con rể ông hiện cầm đầu chính phủ Sài Gòn
(8) In Retrospect trang 77
(9) In Retrospect, trang 82, 83
(10) Lâm Vĩnh Thế, VNCH 1963-1967, Những Năm Xáo Trộn, Chương ba
(trang30), Chương bốn (trang 52), Chương năm (trang 65.)
(11) Nixon, No More Vietnams trang 50:
trong năm 1964 chủ lực quân địch tăng từ 10,000 lên tới 30,000 người; phụ lực
quân địch tăng từ 30,000 lên 80,000 người.
(12) BBC Vietnamese.com. Viện trợ quốc tế
cho miền Bắc trong chiến tranh 10-5-2006 . Giai đoạn 1955-60: 45 ngàn tấn viện trợ
vũ khí, giai đoạn (1961-64) lên 70 ngàn tấn
(13) Chiến tranh VN toàn tập trang 886
(14) VNCH 1963-1967, Những Năm Xáo Trộn (trang
97, 98), In Retrospect trang 164
(15) In Retrospect trang 164: It is clear that disengagement was the course
we should have chosen. We did not
(16)
Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Trận Chiến Trong Mùa Lễ Phục Sinh 1972, trang 16,
17
(17)
Kissinger a Biography trang 484
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét