Mặc Lâm

Những khó khăn trong giảng dạy Lý luận phê bình văn học

Photo courtesy of TS Nguyễn Thị Từ Huy
TS Nguyễn Thị Từ Huy
Con số các nhà phê bình văn học Việt Nam hiện đang hoạt động quá ít ỏi so với các nhà văn đang có mặt trên sân chơi chữ nghĩa.
Ít ỏi và thiếu chuyên môn là hai yếu điểm của giới phê bình văn học Việt Nam. Yếu điểm này đã dẫn tới tình trạng hỗn độn của
những bài viết trên báo chí và nhiều tác phẩm không có cơ hội đến được những cây viết phê bình chuyên nghiệp hầu mài giũa kỹ năng viết, hay cận cảnh những hạt sạn mà nhà phê bình nhặt ra hộ cho họ.
Người đọc bình thường thì dừng lại ở những tác phẩm hạng nhì và họ chưa bao giờ cảm thấy cần thiết đọc những bài tiểu luận xuất sắc viết về phê bình văn học nhằm nâng cao nhận thức thẩm mỹ trong văn học, cũng như làm quen với những câu chữ của giới chuyên môn này.

Lâu ngày, nhà văn và độc giả gần như quên hẳn con mắt thứ ba hết sức quan trọng này. Nhà văn cứ ung dung lập lại những sáo mòn, những lạc lỏng khó thấy dưới đôi mắt dễ dãi bao dung của chính mình, và cứ thế con đường văn học ngày một phẳng lì không một chút gợn sóng. Do độ phẳng ngày một cao hơn, con đường này dẫn rất nhanh tới một nền văn học không phê bình, có nghĩa là dòng văn học đang trở thành một chiều, đơn điệu và tự mình hài lòng lấy mình.

Trong môi trường đào tạo của đại học thì sao? Liệu nhà trường hôm nay có đủ lực để huấn luyện cho một tầng lớp sinh viên có rất nhiều nhiệt huyết muốn thâm nhập vào bộ môn Lý luận phê bình Văn học và xây dựng sự nghiệp của họ trong vùng đất vốn khô khan và còi cọc này?

Chúng tôi có cuộc phỏng vấn với TS Nguyễn Thị Từ Huy, đang giảng dạy tại Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường Đại học KHXH và NV – ĐHQG TP.HCM để biết thêm những khó khăn thuận lợi của bộ môn này đối với sinh viên ngày nay.

TS Nguyễn Thị Từ Huy trình luận án Tiến sĩ tại Đại học Paris 7 Denis Diderot ngành Văn học Pháp đương đại, với đề tài: Vérité et interprétation chez Alain Robbe-Grillet. Và sau đây là cuộc nói chuyện của chúng tôi với TS Nguyễn Thị Từ Huy.

Thiếu chương trình dịch thuật quy mô

 
Nhà phê bình văn học Đỗ Lai Thúy. Photo courtesy of Võ Tấn Cường's blog.

Mặc Lâm: Thưa bà, điều gì làm một giảng viên phụ trách giảng dạy phê bình lý luận văn học tại đại học Việt Nam băn khoăn nhất?

TS Nguyễn Thị Từ Huy: Điều làm chúng tôi băn khoăn nhất hiện nay là tình trạng thiếu tư liệu, đặc biệt là thiếu các tài liệu mang tính thời sự. Đối với giảng viên là như vậy, còn đối với sinh viên, thì khó khăn càng lớn hơn vì sách dịch thuộc lĩnh vực này rất ít, và nhìn chung trình độ ngoại ngữ của sinh viên Việt Nam không đủ để tiếp cận với văn bản gốc.

Đấy là lý do khiến tôi, và nhiều người khác, rất mong muốn có những chương trình dịch thuật hệ thống mang tầm chiến lược, được thực hiện ở quy mô quốc gia. Nếu không có những chương trình như vậy, nếu chỉ trông chờ vào nỗ lực riêng lẻ của từng cá nhân, thì không biết bao giờ chúng ta mới thoát khỏi tình trạng tụt hậu quá xa so với khu vực, chứ chưa nói là so với thế giới.

Mặc Lâm: Những tác giả lý luận phê bình nào của thế giới đang được giới thiệu cho sinh viên bộ môn lý luận phê bình văn học hiện nay?

TS Nguyễn Thị Từ Huy: Nhiều tác giả lý luận phê bình của thế giới đều đã được giới thiệu, tùy vào các mức độ khác nhau, trong một số chuyên đề dành cho sinh viên các cấp (ít nhất tình hình là như vậy ở nơi tôi đang làm việc hiện nay, nơi mà tôi biết rõ hơn là những nơi khác.)

Vấn đề là làm sao thúc đẩy việc dịch các công trình của họ ra tiếng Việt để tạo thuận lợi cho sinh viên trong học tập.

TS Nguyễn Thị Từ Huy

Các trường phái lý luận Marxit, các trường phái của Nga như chủ nghĩa hình thức, thi pháp học, được truyền bá rộng rãi trên toàn quốc. Tuy nhiên đối với phần lớn các tác giả đương đại quan trọng, chẳng hạn Derrida, Foucault, Deleuze… chỉ mới được giới thiệu ở mức độ khái quát và trong một vài trường đại học, vì các công trình của họ chưa được dịch, và cũng chưa có người thực sự nghiên cứu về các tác giả đó.

Nhờ những nỗ lực cá nhân của những người như Đỗ Lai Thúy, Nguyễn Thị Thanh Xuân… các nhà phân tâm học như Freud, Jung, Bachelard, được phân tích và giành được sự quan tâm của sinh viên. Các nhà thông diễn học như Gadamer, Jauss, Ricoeur, Eco, các nhà hậu hiện đại như Lyotard, Deleuze cũng đang được chú ý. Vấn đề là làm sao thúc đẩy việc dịch các công trình của họ ra tiếng Việt để tạo thuận lợi cho sinh viên trong học tập. Trong quá trình giảng dạy, tôi thấy, ở một bộ phận sinh viên, nhu cầu tiếp xúc với cái mới và cái khó rất lớn.

Tạo môi trường, điều kiện


Giáo sư Antoine Compagnon. Photo courtesy of laregledujeu.org.



Mặc Lâm: Là người có kinh nghiệm về nghiên cứu cũng như giảng dạy, theo bà thì để hình thành một nền lý luận phê bình đích thực đòi hỏi phải có những yếu tố nào?

TS Nguyễn Thị Từ Huy: Lý thuyết văn học hình thành ở những khu vực có sự phát triển mạnh về triết học. Vì lý thuyết văn học đòi hỏi kiểu tư duy trừu tượng, tư duy khái quát. Chúng ta đều biết rằng những nền văn hóa lớn (mà triết học là sản phẩm chứng tỏ sức mạnh của chúng) đều có khả năng sản sinh các nghệ sĩ lớn và các nhà lập thuyết. Tuy nhiên sự hình thành các lý thuyết còn được lý giải từ những góc độ khác.

Theo Antoine Compagnon, trong cuốn “Bản mệnh của lý thuyết”, bản chất của lý thuyết, sự thú vị của lý thuyết là ở chỗ nó đã tiến hành cuộc chiến chống lại những thói quen trong nghiên cứu, những khuynh hướng đã trở thành cố định, cũ mòn, mất sức sống trong nghiên cứu, vì thế mà sứ mệnh của nó là mang lại sức sống mới, đồng thời nó cũng kiên quyết kháng cự lại những thành kiến chống đối nó. Do đó sức mạnh của lý thuyết nằm ở sự dấn thân của nó, nằm ở khả năng bút chiến của nó.

Nó mang trong mình tính cách liều lĩnh của kẻ khám phá. Lý thuyết gia, về phương diện này, cũng giống như các nhà sáng tạo, họ là những kẻ phiêu lưu, khai phá những vùng đất mới, những không gian chưa biết tới. Với đặc tính này, lý thuyết hoàn toàn đối lập với sự chiết trung, sự thỏa hiệp. Điều đó giải thích tại sao lý thuyết khó có thể hình thành ở những cộng đồng, những môi trường bị bao bọc bởi bầu khí quyển của tinh thần chiết trung và thỏa hiệp, khó có thể hình thành ở những cộng đồng thiếu tính cách mạo hiểm và phiêu lưu, thiếu óc phê phán và sáng tạo.

Như vậy điều quan trọng không nằm ở cái mà ta không có trong truyền thống, mà quan trọng là phải tạo môi trường và điều kiện cho tất cả mọi năng lực tiềm tàng của người Việt Nam được bộc lộ.

TS Nguyễn Thị Từ Huy

Đặc tính của lý thuyết còn nằm ở sự “phẫn nộ chính đáng” (từ dùng của Compagnon) của nó, từ sự phẫn nộ đó mà hình thành nên các phương thức chiến đấu chống lại những diễn ngôn sáo mòn về văn chương. Quan điểm của Antoine Compagnon mà tôi vừa đề cập trên đây cũng trùng hợp với cách hình dung của Nietzsche về tư duy: “tư duy một cách tích cực có nghĩa là hành động một cách không hợp thời, nghĩa là, chống lại thời đại, và qua đó thậm chí tác động đến thời đại, có lợi cho tương lai”. Tôi dẫn lại theo ý của Deleuze.

Mặc Lâm: Thưa bà truyền thống triết học Tây Phương không được coi trọng và giảng dạy trong khuôn viên đại học của nước ta vậy làm sao sinh viên có thể thu lượm kiến thức căn bản của triết học hầu áp dụng vào lý luận Văn học?

TS Nguyễn Thị Từ Huy: Chúng ta không có truyền thống về triết học, không có truyền thống về lý thuyết. Chuyện đó hiển nhiên. Nhưng trường hợp Trần Đức Thảo cho thấy, trong chúng ta tiềm tàng những khả năng, những năng lực mà điều kiện xã hội không cho phép phát triển. Như vậy điều quan trọng không nằm ở cái mà ta không có trong truyền thống, mà quan trọng là phải tạo môi trường và điều kiện cho tất cả mọi năng lực tiềm tàng của người Việt Nam được bộc lộ. Các năng lực mà những Trần Đức Thảo, những Nguyễn Mạnh Tường đã chứng tỏ trong môi trường xã hội Pháp. Tiếc thay, sau đó đã tàn lụi trong điều kiện của chúng ta.

Tôi nghĩ bây giờ đã quá muộn để tiếp tục than phiền về việc thiếu vắng triết học, thiếu vắng lý thuyết gia và các nhà văn lớn. Tất cả chúng ta đều phải chịu trách nhiệm về việc đó. Chẳng lẽ lại bắt người Trung Quốc hay người Nhật Bản chịu trách nhiệm về sự thiếu vắng triết học và lý thuyết ở Việt Nam? Hay chẳng lẽ lại đổ cho thiên tai và chiến tranh cái lỗi đã không để cho triết học và lý thuyết đến với Việt Nam? Đã đến lúc phải thấy rằng không thể đổ lỗi cho bất kỳ ai khác ngoài chúng ta.

Mặc Lâm: Vậy theo bà thì cần phải làm gì để lấp cái hố khiếm khuyết về tư duy triết học này?

TS Nguyễn Thị Từ Huy: Cần phải làm gì đó để đặt nền móng cho sự thay đổi thực trạng. Cần phải dịch, giới thiệu các thành quả của triết học và lý luận văn học của thế giới. Và khi có tác phẩm dịch rồi, thì cần phải đọc và lĩnh hội chúng. Thay vì nghi kỵ và kìm hãm lẫn nhau, chúng ta cần phải hỗ trợ lẫn nhau để thực hiện công việc đặt nền móng này. Những người làm nghiên cứu hay dịch sách như chúng tôi chỉ muốn duy nhất một điều: giúp người Việt Nam tiếp cận với tài sản tinh thần, với sức mạnh trí tuệ của nhân loại được kết tinh trong sách. Nếu sử dụng tốt thì những sức mạnh ấy có thể biến thành những sức mạnh của chúng ta.

Cần đầu tư nghiên cứu




Nhà triết gia Pháp Michel Foucault. Photo courtesy of Wikipedia.



Mặc Lâm: Trong tình hình khó khăn như bà vừa nói thì khả năng phát triển lý thuyết văn học ở đại học Việt Nam hiện nay như thế nào? Đặc biệt là các nghiên cứu trong khuôn viên đại học của các học giả hay giáo sư chuyên ngành thưa bà?

TS Nguyễn Thị Từ Huy: Với điều kiện làm việc hiện tại ở đại học Việt Nam, các giảng viên rất khó chuyên tâm vào việc nghiên cứu, vì thế mà rất khó có thể trở thành chuyên gia. Tại sao nước Pháp có được một người như Michel Foucault? Ông đã làm việc trong điều kiện như thế nào? “Ông có mười hai giờ mỗi năm để trình bày trước công chúng ý nghĩa của công việc nghiên cứu mà ông tiến hành trong năm vừa qua.” (Xem cuốn Le courage de la vérité). Và tất nhiên là Foucault được trả lương xứng đáng để có thể tập trung toàn bộ thời gian vào việc nghiên cứu và giảng dạy. Và ông có quyền nghiên cứu bất cứ vấn đề gì, có quyền công bố tất cả các nghiên cứu của mình.

Công việc nghiên cứu muốn hiệu quả phải được tiến hành một cách liên tục bền bỉ, chỉ cần ngắt quãng một thời gian là mọi thứ sẽ trượt khỏi đường rầy, trí não sẽ mất thói quen tư duy, kiến thức sẽ lạc hậu. Sự đầu tư thời gian là điều kiện tối quan trọng trong hoạt động nghiên cứu.

Giảng viên đại học ở Việt Nam rất khó có thể tập trung hoàn toàn cho nghiên cứu. Họ phải chia sẻ thời gian và sức lực để làm nhiều việc khác, đôi khi không liên quan gì đến chuyên môn của họ, nếu không thì họ không thể tồn tại nổi, đừng nói gì đến việc nuôi con cái và có trách nhiệm với gia đình. Nghiên cứu bắt buộc phải trở thành một công việc thứ yếu. Nhiều người có lẽ cũng cảm thấy rất đau lòng, nhưng họ không có lựa chọn nào khác. Có lẽ chỉ trừ phi họ không phải ăn uống, không phải đi viện, không phải nuôi con…

Giảng viên đại học ở Việt Nam rất khó có thể tập trung hoàn toàn cho nghiên cứu. Họ phải chia sẻ thời gian và sức lực để làm nhiều việc khác, đôi khi không liên quan gì đến chuyên môn của họ, ...

TS Nguyễn Thị Từ Huy

Đối với một số ít người quyết tâm gắn bó với việc nghiên cứu, thì có thể gặp phải những vấn đề khác: họ không có đủ tài liệu, nhất là các tài liệu thời sự. Lương không đủ sống, làm sao có thể mua các tài liệu chủ yếu là bằng tiếng nước ngoài? Họ không có sự cọ xát về tư duy, ít có cơ hội đi sâu thảo luận thực sự về chuyên môn với các đồng nghiệp quốc tế.

Và cuối cùng, nếu như một số rất ít người giải quyết được các vấn đề trên, thì lại có những giới hạn mà họ không được phép vượt qua, có những vấn đề mà họ không được phép đề cập đến. Tư duy không được phép đẩy xa đến những giới hạn tối đa của nó. Các năng lực của tư duy sẽ mất nếu tư duy không liên tục tự vượt lên chính nó, không tự đẩy xa hơn cái giới hạn hiện tại của nó. Nói theo cách của Compagnon, không có môi trường cho lý thuyết phát triển.

Có thể thấy là trên đây tôi chỉ giới hạn ở các yếu tố khách quan. Nhưng các yếu tố khách quan này sẽ tác động không nhỏ tới các yếu tố chủ quan. Chẳng hạn chúng có thể góp phần quy định những tập quán sinh hoạt, những lề lối suy nghĩ, những cách thức làm việc. Tất cả những điều này ảnh hưởng tới việc có thể hay không thể hình thành nên các cộng đồng khoa học, và ảnh hưởng tới việc cá nhân những người làm nghiên cứu có thể hay không thể phát huy tối đa năng lực của mình, ảnh hưởng tới việc các năng lực của tư duy bị kìm hãm hay được phát triển.

Mặc Lâm: Xin cám ơn TS về cuộc nói chuyện ngày hôm nay.
Mặc Lâm

Không có nhận xét nào: