Hội chứng 30 tháng 4 - Phân tâm một cuộc
thất bại
(TL 268)
“...Hội chứng 30 tháng 4 đã
để lại nhiều di sản không bình thường trong sinh hoạt của cộng đồng người Việt
hải ngoại. Nhiều người cố tình biểu lộ tinh thần chống cộng cực đoan để che
giấu sự sợ hãi chế độ cộng sản trong lòng...”
Ba mươi tháng Tư năm 2012 (30/4/2012). Đây là lần thứ 37 cộng đồng người Việt hải ngoại miền Nam tổ chức kỷ niệm ngày Việt Nam Cộng Hòa lọt vào tay cộng sản. Năm tới sẽ là lần thứ 38, năm sau đó sẽ là lần thứ 39... Tuổi đời
của kỷ niệm
đau buồn này sẽ còn chồng chất theo những tháng năm kế tiếp.Ba mươi tháng Tư năm 2012 (30/4/2012). Đây là lần thứ 37 cộng đồng người Việt hải ngoại miền Nam tổ chức kỷ niệm ngày Việt Nam Cộng Hòa lọt vào tay cộng sản. Năm tới sẽ là lần thứ 38, năm sau đó sẽ là lần thứ 39... Tuổi đời
Kỷ niệm đến bao giờ ? Đó là một
dấu hỏi lớn, một cấm kỵ không ai dám tiên đoán và cũng không ai dám đặt ra.
Hiện tượng này rất đáng chú ý vì
không một dân tộc nào trên thế giới cố gắng kéo dài một kỷ niệm thất bại dai
dẳng như cộng đồng người Việt miền Nam hải ngoại.
Hội chứng 30 tháng 4
Sau mỗi trận động đất, một cơn
bão hay một tai nạn, những nạn nhân liền được các phái đoàn chuyên gia tâm lý
đến ủy lạo, thăm hỏi và tìm cách giúp đỡ. Cộng đồng người Việt tị nạn không có
may mắn đó. Ba mươi bảy (37) năm đã trôi qua, không một tổ chức hay cơ quan
thiện nguyện quốc tế nào thực hiện một cuộc nghiên cứu qui mô về tâm lý cộng
đồng người Việt tị nạn miền Nam sau ngày 30-4-1975 trên khắp thế giới.
Có một cái gì đó không bình
thường. Người ta nói nhiều đến hội chứng Việt Nam của binh sĩ Mỹ sau chiến
tranh, nhưng không ai nhắc tới hội chứng 30 tháng 4 của dân chúng miền Nam sau
ngày mất nước.
Biến cố 30/4/1975 đã xảy ra quá
nhanh và quá tàn nhẫn khiến nhiều người cho tới nay vẫn còn bàng hoàng. Trước
đó một tháng, không ai tin rằng với một lực lượng quân sự hơn một triệu rưỡi
người được trang bị đầy đủ lại có thể tan rã nhanh chóng đến thế. Những người
không chấp nhận thất bại này hoặc đã tự sát ngay tại chỗ, hoặc tìm đường tháo
chạy ra nước ngoài, một số ít rút vào rừng sâu tiếp tục kháng chiến và biến mất
sau đó. Đa số còn lại chấp nhận sống dưới chế độ mới với tất cả những hệ lụy
của phe bại trận. Thay vì xây dựng một đồng thuận chung để cùng nhau xây dựng
lại đất nước, chính quyền cộng sản đã ứng xử như một lực lượng chiếm đóng: tịch
biên tài sản, cầm tù và đày đọa những người thua cuộc. Chỉ sau khi không chịu
đựng nổi chính sách phân biệt đối xử của chính quyền cộng sản, hàng triệu người
đã bằng mọi giá tìm đường vượt biên.
Khi ra được nước ngoài, phản ứng
đầu tiên của những người tị nạn này là làm sống lại chế độ mà họ đã mất. Phản
ứng này là lẽ thường tình vì không gì sung sướng bằng được sống dưới chế độ mà
mình ưa thích. Nhưng ước muốn này không dừng ở đó, cộng đồng người Việt tị nạn
miền Nam thành thực muốn xây dựng lại chế độ miền Nam ngay tại nơi định cư, đặc
biệt là tại Mỹ, nơi có đông người Việt tị nạn. Đầu tiên là tại Cali, sau đó là
Texas, tại những nơi này khi vào khu phố Việt người ta có cảm tưởng như sống
lại không khí Sài Gòn ngày trước với những tiệm ăn, cửa hàng, quán nước, âm
nhạc và những con người của "một thời vàng son", với những vinh quang
cùng thói hư tật xấu.
Cái không bình thường là nếp sống này đến nay không hề thay đổi, tất cả những gì đã có từ 37 năm về trước ngày nay vẫn y như thế, từ lối suy nghĩ đến phong cách sống. Ai cũng biết phong cách này không thích hợp với nếp sống của quốc gia tiếp cư nhưng không ai buồn thay đổi. Đúng hơn là không dám thay đổi, vì thay đổi là đánh mất chính mình. Nội dung những bài viết sau ngày 30/4/1975 và những bài viết chống cộng hiện nay không có nhiều khác biệt, từ cách hành văn đến cách lý luận. Cá nhân hay hội đoàn nào có tư tưởng hay suy nghĩ trái ngược với những gì đã có từ 37 năm về trước sẽ rất khó được sống trong yên ổn với những đồng hương hoài cổ.
Cái không bình thường thứ hai là
không ai đặt lại vấn đề tại sao mất nước. Câu hỏi này đáng lẽ phải được nêu ra
ngay sau khi chính quyền miền Nam đầu hàng không điều kiện, khiến hàng triệu
người phải bỏ nước ra đi và hàng trăm ngàn người khác bị giam trong các trại tù
cải tạo. Nhìn lại những gì đã và đang diễn ra, những cựu viên chức lãnh đạo
Việt Nam Cộng Hòa, dân sự cũng như quân sự, vẫn ung dung sinh sống không những
bình thường mà còn sung túc hơn những đồng hương khác, vì đã đem theo được tất
cả những của cải quí. Những người này sống bên lề cộng đồng người Việt tị nạn,
tương lai của Việt Nam không phải mối quan tâm hàng đầu của họ. Không những
thế, tại nhiều nơi cộng đồng người Việt tị nạn còn hãnh diện hay nhiệt liệt
hoan nghênh mỗi khi có một cựu viên chức lãnh đạo miền Nam cũ đến viếng thăm.
Do đó có một cái gì giả dối khi nhắc tới ngày 30 tháng 4.
Cái không bình thường thứ ba là
để duy trì chế độ Việt Nam Cộng Hòa này tại hải ngoại, một khế ước bất thành
văn được mọi người chấp nhân là trước khi bắt đầu một sinh hoạt nào, dù là văn
hóa, xã hội hay từ thiện, mọi người phải đứng dậy hát quốc ca và chào quốc kỳ
Việt Nam Cộng Hòa. Ai không thi hành thì không được chấp nhận. Sự cưỡng chế này
đã khiến nhiều cộng đồng không muốn gắn bó với danh xưng "người
Việt", như người Việt gốc Hoa và gốc Khmer chẳng hạn. Nhiều người còn
không muốn nhắc tới hai chữ Việt Nam, nhiều người khác còn tìm cách thay tên
đổi họ để tan biến vào xã hội cưu mang. Sự thật này tuy có đau buồn nhưng đó là
trường hợp của những thành phần ưu tú của xã hội miền Nam cũ, những người đã
từng lãnh đạo đất nước.
Một cách không ngờ, hội chứng 30
tháng 4 trở thành hội chứng tị nạn cộng sản. Tại Hoa Kỳ, muốn được yên ổn làm
ăn và được mọi người chấp nhận, khi ra đường phố phải biểu lộ tinh thần chống
cộng thật cao, khi về nhà thì muốn làm gì thì làm, kể cả về Việt Nam khúm núm
trước các viên chức hải quan và công an khu vực để khoe khoang sự sung túc với
gia đình và được ăn chơi thỏa thích. Nói chung, phải sống giả dối để được yên
thân. Càng hung hăng chống cộng thì càng dễ được chấp nhận.
Yếu tố chống cộng quá áp đảo
trong các sinh hoạt khiến người ta quên đi những nạn nhân trực tiếp của cuộc
vượt biển khổng lồ: những phụ nữ bị cướp biển Thái Lan trấn lột và hãm hiếp dã
man. Những người may mắn đã chết ngay sau khi bị hãm hiếp, nhưng rất nhiều
người khác đã sống sót và vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay. Trong suốt 37 năm
qua, nỗi đau của những phụ nữ này vẫn còn nguyên vẹn. Họ chỉ biết cất giấu nỗi
đau và sự nhục nhã trong lòng, không dám thổ lộ cùng ai vì sợ tai tiếng không
thể lập gia đình nếu bị dư luận biết đến. Bao nhiêu người chống cộng hung hăng
chia sẻ nỗi đau và sự tủi nhục của những phụ nữ này? Đã có ai chất vấn chính
quyền Thái Lan về những tội ác này chưa?
Hội chứng 30 tháng 4 đã để lại
nhiều di sản không bình thường trong sinh hoạt của cộng đồng người Việt hải
ngoại. Nhiều người cố tình biểu lộ tinh thần chống cộng cực đoan để che giấu sự
sợ hãi chế độ cộng sản trong lòng. Đó là trường hợp của những người vừa thoát
khỏi những trại tù cộng sản theo chương trình HO và đang bắt cả một cộng đồng
làm con tin chỉ nhằm chứng minh mình là nạn nhân của chế độ cộng sản.
Phân tâm một cuộc thất
bại
Mỗi năm cứ đến dịp 30 tháng 4,
cộng đồng người Việt hải ngoại đọc không biết bao nhiêu là bài viết kỷ niệm một
thời vàng son và những bài học rút từ kinh nghiệm đau thương còn rỉ máu. Bài
viết này... là một nhánh cây, tuy có khác lạ, nhưng cũng chỉ là một hành động
góp củi về rừng trong khu rừng bài viết đó. Hội chứng 30 tháng 4 là chỗ đó. Có
một cái gì không bình thường trong mỗi chúng ta. Tâm trạng của cộng đồng người
Việt hải ngoại rất cần được phân tâm một cách đặc biệt, vì mỗi chúng ta đều có
liên quan.
Một hiện tượng rất dễ nhận thấy
là, mặc dù đều là nạn nhân cộng sản sau ngày 30 tháng 4, phản ứng của cộng đồng
người Việt tị nạn tại Bắc Mỹ, tại châu Âu và tại Úc rất là khác nhau. Tại Bắc
Mỹ và tại Úc, hai vùng đất chưa có người Việt nào tị nạn trước đó, cộng đồng
người Việt tị nạn dễ bị ảnh hưởng bởi những hứa hẹn phục quốc hay phục hận. Chỉ
riêng tại châu Âu, mặc dù vẫn tổ chức kỷ niệm ngày 30 tháng 4, nhưng cộng đồng
người Việt tị nạn tại đây thể hiện ôn hòa hơn, vì ngoài những người tị nạn
chống lại chế độ cộng sản tại Việt Nam còn có rất nhiều người khác vẫn tiếp tục
ủng hộ hoặc chịu hệ lụy hộ chiếu nhập cảnh của chế độ cộng sản. Nhưng cho dù tị
nạn bất cứ tại nơi đâu, tâm lý của mỗi người Việt tị nạn cần được phân tích sâu
rộng để được hiểu và tìm phương thức chữa trị.
Trước khi làm cuộc phân tâm
(psychanalyse), trước hết phải xác định những thành phần mẫu: những người tị
nạn ngay sau ngày 30/4/1975, những người tị nạn từ 1976 đến 1982, những người
tị nạn từ 1983 đến 1993 và những người tị nạn sau 1994.
Đợt tị nạn đầu tiên, khoảng
150.000 người, là trước và ngay sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, tất cả đều được
định cư tại Bắc Mỹ, đông nhất là tại Hoa Kỳ. Tuổi trung bình của lớp người này
hiện nay khoảng từ 60 đến 80 tuổi, đó những công chức và sĩ quan cao cấp của
chính quyền miền Nam cũ. Với số tài sản mang theo, đa số đã xây dựng cho gia
đình và con cái một chỗ đứng xứng đáng trong xã hội tiếp cư. Từ sau ngày 30
tháng 4 oái oăm đó, phần lớn những công chức và sĩ quan cao cấp này sống trong
im lặng và không tham gia vào bất cứ sinh hoạt nào của cộng đồng người Việt hải
ngoại. Số người trong lứa tuổi này ngày nay thưa dần với thời gian. Thất bại 30
tháng 4 do chính họ tạo ra, do đó không ai muốn nhắc tới. Chỉ một số rất ít, vì
tuổi già cô đơn, thỉnh thoảng xuất hiện vào những dịp hội hè để được mọi người
gọi tên với những chức vụ cũ, một số cụ già còn tham gia vào "chính phủ
Nguyễn Hữu Chánh" để giải trí vào lúc hoàng hôn. Phân tâm những cựu công
chức và sĩ quan cao cấp này không vinh quang gì cho cộng đồng người Việt vì
không ai còn quan tâm đến tương lai đất nước, một số còn muốn được về lại Việt
Nam để được chôn cất sau khi chết già.
Đợt tị nạn thứ hai, qui mô và
đông đảo nhất, là từ 1976 đến 1983. Phần lớn những người tị nạn trong đợt này
là người Việt gốc Hoa, họ bị xua đuổi trước và sau cuộc xung đột Việt-Trung năm
1979. Con số được ước tính khoảng 800 000 người tại miền Nam và 200 000 tại
miền Bắc mà phần lớn đi đường bộ vào các tỉnh Quảng Tây và Quảng Châu, chỉ một
số ít dùng thuyền đi từ Hải Phòng đến Hồng Kông, khoảng 80 000 người. Theo
những số liệu thống kê của các cơ quan nhân đạo quốc tế, khoảng 200.000 người
đã chết trên biển cả, phần lớn là người gốc Hoa vì chìm tàu. Đợt di tản này
chấm dứt vào mốc năm 1983 khi Hồng Kông đóng cửa tất cả các trại tị nạn, vì đã
xảy ra những cuộc xung đột giữa những thuyền nhân miền Nam và miền Bắc trong
các dịp kỷ niệm ngày quốc khánh. Người Hoa miền Bắc kỷ niệm ngày 2 tháng 9
trong khi người miền Nam làm lễ tuởng niệm ngày 30 tháng 4. Nếu cộng đồng người
tị nạn gốc Hoa này được phân tâm một cách sâu sắc, người ta sẽ thấy một sự vô
ơn đối với một đất nước đã từng cưu mang họ. Ngày nay không một người tị nạn
gốc Hoa nào nhận họ là người Việt cả, tất cả đều là người Hoa và đất nước của
họ là Trung Quốc hay Đài Loan. Ngược lại, họ sẵn sàng về lại quê quán cũ để làm
ăn và trục lợi.
Trong khi đó tại miền Nam, một số
gia đình khá giả cũng như gia đình những cựu viên chức và sĩ quan trung cấp còn
lại đã dựa theo đợt di tản của người Hoa vượt biên đến các trại tị nạn tại Mã
Lai và Indonesia, con số ước khoảng 100.000 người. Cũng trong đợt này, cuớp
biển Thái Lan đã cướp bóc và hãm hiếp rất nhiều phụ nữ Việt Nam trên biển cả.
Phân tâm những người tị nạn trong đợt này rất là cần thiết, vì chính họ mới là
nạn nhân trực tiếp của chế độ cộng sản: những người tị nạn chính trị. Thái độ
của những người này đối với ngày 30 tháng 4 rất khó xác định: đối với một số
người, 30 tháng 4 là một kỷ niệm buồn cần phải quên đi ; một số khác nhắc lại
ngày này để không quên một vết thương chưa lành trong ký ức.
Đợt tị nạn thứ ba, tuy lẻ tẻ
nhưng kéo dài từ 1984 đến ngày Hoa Kỳ thiết lập bang giao với Việt Nam năm
1993. Con số được ước tính khoảng 50.000 người, phần lớn là những người có
phương tiện để vượt biên: chủ tàu và những người mua bán bãi để vượt biên. Sự
thật đáng buồn là đa số những người này vượt biên vì lý do kinh tế hơn là chính
trị. Tin tức và hình ảnh thành công của những người tị nạn trước đó tại Bắc Mỹ
và Úc đã là động cơ thúc đẩy họ tiếp tục vượt biên mặc dù các trại tị nạn đã
đóng cửa, nhưng vì lý do nhân đạo một số quốc gia vẫn nhận họ vào định cư. Vấn
đề là ở chỗ đó. Vì không được cộng đồng người Việt tị nạn trước đó nhìn nhận họ
là những người vượt biên vì lý do chính trị, phản ứng của những người này trong
các dịp kỷ niệm ngày 30 tháng 4 rất là hung hăng và cực đoan : trình độ lý luận
rất là thấp kém và ngôn từ sử dụng rất là tục tằn khi muốn chụp mũ những người
không cùng chính kiến. Một điểm cần ghi nhận, vì không phải là những người tị
nạn chính trị chính thức, khi vừa được định cư là họ liền tìm cách về nước để
khoe khoang tiền của. Vì không phải là nạn nhân của chế độ cộng sản, những
người này trở thành miếng mồi ngon cho âm mưu lũng đoạn cộng đồng người Việt
hải ngoại của chính quyền cộng sản. Phần lớn những người tị nạn trong đợt này
đều có chân trong những tổ chức chống cộng cuội do tình báo cộng sản dựng lên.
Phân tâm những người này khá giản dị: cho dù nhân phẩm của họ có được tôn trọng
họ sẽ tiếp tục hợp tác với tình báo cộng sản để được về nước làm ăn hoặc ăn
chơi.
Đợt tị nạn sau cùng là những
người được Hoa Kỳ tiếp nhận trong chương trình tị nạn nhân đạo (humanity order).
Đây là những nạn nhân thực thụ của chế độ cộng sản, ngày nay phần lớn đều đã
đứng tuồi, họ chấp nhận ra nước ngoài để con cái và gia đình họ có cuộc sống
xứng đáng hơn trong nước. Phân tâm những người này rất hữu ích, vì họ vừa là
nạn nhân của chế độ cộng sản vừa là nạn nhân của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Tâm
trạng của những người này rất khó, vinh danh lá cờ vàng ba sọc đỏ là một cách
gián tiếp lên án những cấp lãnh đạo Việt Nam Cộng Hòa trước đó đã làm mất nước.
Đa số những người này không dám lên án những cấp chỉ huy đã từng bỏ rơi họ,
ngược lại họ hướng sự chống đối vào bất cứ người nào từ trong nước ra nước
ngoài, từ viên chức chính quyền đến thành phần nghệ sĩ. Sự chống đối của họ chỉ
nhằm xác nhận họ là nạn nhận của chế độ cộng sản mặc dù thủ phạm đầu tiên chính
là những cấp chỉ huy của họ.
Sau cuộc phân tâm vội vã này,
cộng đồng người Việt tại Bắc Mỹ và Úc tuy bề ngoài chống cộng hung hăng nhưng
trong chiều sâu lại hời hợt. Trong suốt 37 năm qua, với gần hai triệu rưỡi
người, phần lớn là những thành phần ưu tú của chế độ miền Nam cũ, không một
người nào nỗi bật để làm điểm hội tụ cho cộng đồng người Việt tị nạn, dù trong
sinh hoạt văn hóa, xã hội hay chính trị. Cá nhân từng người có thể rất tài
giỏi, nhưng chưa đủ chín muồi để hợp tác với người khác trong một mục tiêu
chung: xây dựng lại đất nước Việt Nam. Khuyết điểm duy nhất và cũng là chính
yếu nhất của cộng đồng người Việt tị nạn là không dám nhìn nhận chế độ Việt Nam
Cộng Hòa đã chết. Nhiều người còn ngây ngô kêu gọi các giới chức cao cấp trong
các chính quyền dân chủ địa phương nhìn nhận lá cờ vàng ba sọc đỏ là lá cờ của
Việt Nam. Hội chứng 30 tháng 4 do đó sẽ còn tiếp tục, nó chỉ chấm dứt khi mọi
người dám nhìn nhận sự thật này để xây dựng một tương lai mới cho cộng đồng.
Một yếu tố khác, tuy chỉ là thứ
yếu nhưng đã góp phần không nhỏ trong việc kéo dài hội chứng 30 tháng 4, đó là
những hội đoàn ái hữu cựu học sinh, sinh viên và đồng hương mỗi khi gặp lại
nhau thường chỉ để nhắc lại một thời son trẻ bị đánh mất. Chế độ Việt Nam Cộng
Hòa đã chấm dứt một cách quá đột ngột khiến những người trong lứa tuổi thanh
niên trong giai đoạn đó chưa thực hiện được những dự án của đời mình, kể cả
tình cảm. Nhắc lại ngày 30 tháng 4 là dịp để sống lại những giấc mơ bị tan vỡ
với bạn bè và với người yêu. Thời vàng son của mỗi người hình như dừng lại
trước ngày 30-4-1975. Rất ít ai trong lứa tuổi 55-65 hiện nay, nghĩa là 15-25
tuổi năm 1975, ưa thích những bản nhạc mới, tất cả chỉ muốn nghe lại những bản
nhạc của một thời học sinh hay sinh viên của mình.
Tinh thần hoài cố của cộng đồng
người Việt hải ngoại có thể nói rất là huyền thoại, vì không ai dám nhìn nhận
Việt Nam Cộng Hòa đã bại trận, một trang sử đã lật qua.
Có xứng đáng với thất bại
đó không?
Cho đến nay, cả thế giới chỉ nhỉn
nhận chiến thắng của phe cộng sản và không hề nhắc tới thất bại của nhận dân
miền Nam. Sự thật này không làm vừa lòng một ai nhưng đó là một sự thật: chế độ
Việt Nam Cộng Hòa xứng đáng với thất bại 30 tháng 4.
Nhận định đầu tiên là Mỹ bỏ rơi
chế độ Việt Nam Cộng Hòa nhưng không bỏ rơi dân chúng miền Nam như nhiều người
lầm tưởng, bằng chứng là cộng đồng người Việt tị nạn tại Mỹ đông đảo nhất với
hơn một triệu người sau 1975, ngày nay con số này đã tăng gấp ba. Người Mỹ can
thiệp vào Việt Nam với một sứ mệnh đặc biệt: cô lập, bao vây và phân tán lực
lượng quân sự Liên Xô, sứ mệnh đó đã hoàn tất sau 1972 khi tái lập được quan hệ
với Bắc Kinh và tách Trung Quốc ra khỏi quỹ đạo Liên Xô. Quà tặng cho sự trở
mặt này ít ai chú ý tới vào thời điểm đó là quần đảo Hoàng Sa. Hơn nữa kho đạn
khổng lồ sản xuất sau thế chiến II đã có nơi trút bỏ, chiến trường Việt Nam đã
là nơi thử nghiệm những loại vũ khí mới có tầm hủy diệt lớn trong mục đích đe
dọa Liên Xô, số tiền hàng trăm tỷ USD mà Hoa Kỳ đổ vào Việt Nam là trị giá của
kho vũ khí đó chứ không phải là số tiền họ giúp chế độ Việt Nam Cộng Hòa tồn
tại.
Nhận định thứ hai là chế độ Việt Nam Cộng Hòa không được tôn vinh. Sách báo, tài liệu và phim ảnh nói về cuộc chiến Việt Nam và ngày 30/4/1975 do người nước ngoài thực hiện không hề vinh danh sự dũng cảm của quân đội và nhân dân miền Nam, người ta chỉ thấy quân đội Hoa Kỳ và quân đội cộng sản đụng độ trực tiếp với nhau và dân chúng miền Bắc dũng cảm chống trả những đợt dội bom của Mỹ. Khi nói về chế độ miền Nam, người ta chỉ nhắc đến những khía cạnh tiêu cực: tướng lãnh bất tài, huênh hoang và tham nhũng, tệ nạn đĩ điếm tràn lan, trong khi dân chúng miền Nam chịu đựng nhiều gian khổ nhất: chạy nạn cộng sản, nhà cửa bị đốt phá, ám sát, khủng bố... nhưng không ai nhắc tới. Điều này cho thấy sự yếu kém về mặt tuyên truyền của chính quyền miền Nam, ngoài bộ phim "Chúng tôi muốn sống", không có một có gắng đầu tư đáng kể nào để vinh danh quân đội và nhân dân miền Nam trước cuộc xâm lăng của phe cộng sản miền Bắc. Thêm vào đó, chính quyền miền Nam thiếu vắng một đội ngũ cán bộ chính trị có tầm vóc, các chương trình huấn luyện cán bộ và sĩ quan chỉ đào tạo những cấp thừa hành chứ không phải những cấp lãnh đạo. Cho dù là công chức cao cấp hay tướng lãnh trong quân đội, tất cả chỉ là những người thừa hành. Do đó đối với người nước ngoài, kể cả Mỹ, chế độ miền Nam xứng đáng với thất bại 30 tháng 4 và lịch sử đã sang trang, sự thật này không thể đảo ngược. Sở dĩ các chính quyền phương Tây mở cửa đón nhận người tị nạn vì họ không nhẫn tâm nhìn cảnh hàng triệu người liều mạng vượt biển trốn chạy chính sách phân biệt đối xử của chế độ cộng sản chứ không phải vì muốn tái lập lại chế độ Việt Nam Cộng Hòa.
Nhận định thứ hai là chế độ Việt Nam Cộng Hòa không được tôn vinh. Sách báo, tài liệu và phim ảnh nói về cuộc chiến Việt Nam và ngày 30/4/1975 do người nước ngoài thực hiện không hề vinh danh sự dũng cảm của quân đội và nhân dân miền Nam, người ta chỉ thấy quân đội Hoa Kỳ và quân đội cộng sản đụng độ trực tiếp với nhau và dân chúng miền Bắc dũng cảm chống trả những đợt dội bom của Mỹ. Khi nói về chế độ miền Nam, người ta chỉ nhắc đến những khía cạnh tiêu cực: tướng lãnh bất tài, huênh hoang và tham nhũng, tệ nạn đĩ điếm tràn lan, trong khi dân chúng miền Nam chịu đựng nhiều gian khổ nhất: chạy nạn cộng sản, nhà cửa bị đốt phá, ám sát, khủng bố... nhưng không ai nhắc tới. Điều này cho thấy sự yếu kém về mặt tuyên truyền của chính quyền miền Nam, ngoài bộ phim "Chúng tôi muốn sống", không có một có gắng đầu tư đáng kể nào để vinh danh quân đội và nhân dân miền Nam trước cuộc xâm lăng của phe cộng sản miền Bắc. Thêm vào đó, chính quyền miền Nam thiếu vắng một đội ngũ cán bộ chính trị có tầm vóc, các chương trình huấn luyện cán bộ và sĩ quan chỉ đào tạo những cấp thừa hành chứ không phải những cấp lãnh đạo. Cho dù là công chức cao cấp hay tướng lãnh trong quân đội, tất cả chỉ là những người thừa hành. Do đó đối với người nước ngoài, kể cả Mỹ, chế độ miền Nam xứng đáng với thất bại 30 tháng 4 và lịch sử đã sang trang, sự thật này không thể đảo ngược. Sở dĩ các chính quyền phương Tây mở cửa đón nhận người tị nạn vì họ không nhẫn tâm nhìn cảnh hàng triệu người liều mạng vượt biển trốn chạy chính sách phân biệt đối xử của chế độ cộng sản chứ không phải vì muốn tái lập lại chế độ Việt Nam Cộng Hòa.
Nhận định thứ ba là Việt Nam Cộng
Hòa không còn nữa. Cộng đồng người Việt hải ngoại rất khó chấp nhận sự thật này
vì hội chứng 30 tháng 4 còn quá mạnh, những ý kiến hay sáng kiến ngoài khuôn
khổ Việt Nam Cộng Hòa đều bị phủ nhận. Ít ai biết rằng khi ký Hiệp định Paris
1972, số phận của miền Nam đã được định đoạt. Trong một trận bóng đá khi chỉ
còn giao đấu trên một nửa sân thì phe ở sân thi đấu chỉ có thể thua hoặc huề
chứ không thể nào thắng được, đó là trường hợp Việt Nam Cộng Hòa. Đó là chưa kể
sự hơn hẳn về phương pháp đấu tranh của phe cộng sản trong chính trị, họ chuẩn
bị người và phương tiện rất kỹ càng, tất cả các cơ quan đầu não của chính quyền
miền Nam đều bị xâm nhập bởi những cán bộ nằm vùng cộng sản. Cho tới nay tình
trạng này vẫn không thay đổi, bất cứ một hành động hay chuẩn bị nào ở trong
nước đều bị phá vỡ ngay từ trứng nước. Đấu tranh chính trị trong điều kiện hiện
nay phải hiểu là đấu tranh tình báo, không ý thức được thực tế này thì đừng dấn
thân vì chỉ gây thiệt hại cho những người ủng hộ. Một sự thật đau lòng khác là
các tổ chức đấu tranh có tên tuổi của người Việt hải ngoại đều bị xâm nhập. Nhiều
người vẫn tin rằng những cá nhân hay tổ chức nào lớn tiếng chửi bới cộng sản là
phe quốc gia.
Nhận định thứ tư là chính quyền
cộng sản đang có kế hoạch nắm giữ và khống chế hệ thống truyền thông của cộng
đồng người Việt tại hải ngoại, đúng theo tinh thần Nghị quyết 36/CP. Một số đài
phát thanh và đài truyền hình hiện nay đang bị xâm nhập và đang lần lượt nằm
trong tay những người từ trong nước sang, lý do là họ nói thông thạo tiếng Việt
hiện đại. Chiến dịch bôi nhọ những tờ báo có truyền thống chống cộng đang gặt
hái được nhiều kết quả tốt. Quan sát kỹ những người chống cộng cực đoan, người
ta sẽ thấy họ chỉ phản ứng mạnh mẽ trước bài viết gây đau đớn cho chế độ cộng
sản. Tình trạng này giống thời điểm từ năm 1972 khi miền Nam bắt buộc phải chấp
nhận đá bóng trên phần đất nửa sân còn lại của mình. Sự co cụm của cộng đồng
người Việt tại hải ngoại đang là mồi ngon cho những chiến dịch đánh phá của
cộng sản vì sự khù khờ chủ quan của những vị lãnh đạo cộng đồng: nhìn bạn hóa
thù, nhìn thù hóa bạn.
Đã đến lúc cộng đồng người Việt
tị nạn miền Nam can đảm làm lễ chôn cất ngày 30 tháng 4 trong ký ức. Khi 30
tháng 4 đã được yên mồ đẹp mả, cộng đồng người Việt hải ngoại mới thực sự vượt
khỏi sự giam hãm của quá khứ và có thể tiến vào tương lai một cách hùng dũng.
Quên là một quyết định rất khó nhưng bắt buộc, nếu muốn được giải thoát.
Nguyễn
Văn Huy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét