Sau bốn năm đàm phán, Hiệp định chấm dứt chiến tranh lập lại hòa
bình ở Việt Nam được ký kết ngày 27/1/1973 tại Paris giữa Hoa Kỳ, Cộng Sản Hà
Nội, Việt Nam Cộng Hòa và Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời (tức Việt Cộng). Hiệp
định dài khoảng 10 trang gồm:
Chương I- Chủ quyền, thống nhất; II- Chấm dứt chiến sự, rút quân;
III -Trao trả tù binh; IV- Hội đồng đồng hòa giải dân tộc; V- Thống nhất đất
nước hai miền, không bên nào được thôn tính bên nào; VI- Ủy ban liên hợp quân
sự; VII- Đối với Miên, Lào; VIII- Quan hệ VNDCCH và Mỹ, IX Những điều khoản
khác (Nguyễn Đức Phương, Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập từ trang 944 tới 954)
Trên thực tế chỉ có một số điểm chính hai bên đã thương thuyết như
sau.
-Mỹ rút quân
-Trao trả tù binh
-Lật đổ chế độ Nguyễn Văn Thiệu.
-Việc thành lập chính phủ Liên hiệp.
-Lập Hội đồng hòa giải dân tộc.
-Bắc Việt rút khỏi miền nam VN
Hiệp định ký kết ngày 27/1 cho thấy Mỹ rút quân khỏi Đông Dương hoàn
toàn, Hà Nội trả tù binh cho Mỹ và chịu nhượng bộ ba điểm chính mà họ đã đòi
hỏi suốt gần 4 năm: không đòi loại bỏ chính phủ Nguyễn văn Thiệu, không lập
chính phủ Liên hiệp, Hội đồng hòa giải dân tộc chỉ có hình thức, trên thực tế
không được thiết lập. Hoa Kỳ và miền nam phải nhượng bộ để quân đội BV được ở
lại. Cuối cùng các
phe tham gia hòa đàm đều có phần như tác giả Marvin Kalb, Bernard Kalb nhận xét
trong cuốn Kissinger, trang 421
“Nixon lấy lại được tù
binh, Thọ đòi được Mỹ rút, Thiệu vẫn cầm quyền, Chính phủ cách mạng lâm thời (tức VC) có tư cách chính trị
hợp pháp tại miền nam, mỗi người được một chút, nhưng không có ai đòi được hết
tất cả“
(Nixon
got the prisoners back, Tho got the Americans out, Thieu got to keep his hold
on power and the PRG got a degree of political legitimacy in South Vietnam.
Everybody got something, but nobody got everything)
Đã có nhiều bàn luận, tranh cãi quanh Hiệp
định ngưng bắn của truyền thông báo chí, các nhà học giả, các chính trị gia,
phe phái. Trước hết tôi xin nói tới những sự đánh giá cao thành quả của hành
pháp.
Ca tụng
Tác giả Larry Berman (1) có nói dư luận truyền thông báo chí ca ngợi Hiệp định
Paris của TT Nixon vừa được ký kết như.
Tờ Portland Press Herald viết “hòa bình danh dự” qua một “hòa bình thích
nghi”.
Holmes Alexander trên tờ Fort Worth
Star-Telegram viết “Chiến tranh của Nixon
thành Hòa bình của Nixon”.
Tờ Milwaukee Sentinel viết “Lòng can đảm, mưu trí, kiên nhẫn và lòng
cương quyết của Nixon đã được đền bù với Hiệp định chấm dứt chiến tranh Việt
Nam nhìn chung có vẻ tốt đẹp mà mọi bên đều mong đợi một cách hợp lý (all
things considered, appears to be about as good as all sides could reasonably
expect)”
Tờ Washington Post nói: “Ông đã vinh danh lời cam kết chấm dứt chiến tranh trong bốn năm một
cách phong phú, chúng ta biết ơn ông sâu xa”.
Tờ Boston Herald-Traveler viết: “Điều chắc chắc nó hơn hẳn sự đầu hàng hèn
hạ mà một số người Mỹ đã đòi hỏi hoặc muốn đám phán để ký kết…Người dân Mỹ thọ
ơn Ông Nixon vì ông đã từ chối bỏ rơi đồng minh hoặc thất hứa hay bỏ rơi tù
binh và đã thực hiện một Thỏa ước hứa hẹn một nền hòa bình lâu dài thực sự”.
Tờ Wall Street Journal nói: “Người ta có thể tranh cãi về đường lối của
ông nhưng không thể chối cãi sự kiện ông đã đem 550,000 người ra khỏi VN và tù
binh về nước mà không làm sụp đổ Chế độ Sài Gòn…Kẻ địch phải hiểu rõ rằng xương sống của con
người trong tòa Bạch Ốc này làm bằng thép đã mang lại Hiệp định trong khi những
con lang, sói kêu, hú…”
Tờ Cleveland Plain Dealer nói: “Cuối cùng ngưng bắn được cống hiến cho Ông
Nixon. Ván bài quốc tế của ông đã thanh toán hết mọi áp lực từ trong nước ra
ngoại quốc. Đây là giờ phút tươi đẹp nhất dành cho ông Tổng thống thứ ba mươi
bẩy của chúng ta”.
Haldeman, phu tá Tổng thống ghi trong nhật
ký, ngày 27/1/1973, Tổng thống cho biết các báo thiếu một chi tiết: Nixon là
con người cứng rắn, Kissinger khi ra Quốc hội đã không nói tới một điểm liên hệ
cá tính của con người cứng rắn tới cùng ấy. Kissinger đã không nói rằng nếu không
có lòng can đảm của Tổng thống chúng ta không có hòa bình. Căn bản của vấn đề ở
chỗ ông là người cô đơn trong tòa Bạch Ốc, ít được chính phủ ủng hộ, bị Thượng
viện và một số Dân biểu chống đối mạnh, bị phản ứng dữ dội của truyền thông và ý kiến các nhà lãnh đạo tinh
thần, tôn giáo, thương mại, giáo dục… nhưng được giới lao động ủng hộ, một mình
ông đã vượt qua hết. Sự khác biệt giữa thành quả của Tổng thống đã đạt được và
những người đối lập muốn đó là khác biệt giữa hòa bình danh dự và hòa bình giả
tạo bằng sự đầu hàng của Mỹ
Trong một bản tường trình về VN của Tòa
Bạch Ốc gửi các Dân biểu Quốc hội đã đưa ra những viễn tượng, xin sơ lược dưới
đây (2)
Trong bốn năm liền, Richard Nixon đã một
mình đứng tại Thủ đô trong khi những lớp trẻ đả đảo chính sách can thiệp vào
Đông Dương của ông. Trong bốn năm liền ông đã là nạn nhân của những kẻ xấu tấn
công. Truyền thông cấp tiến đánh phá ông Nixon, tấn công, cắt, đập ông tứ phía suốt ngày đêm. Cơ sở giới trí thức xử dụng sức mạnh vô
song của họ để gây ảnh hưởng tới ý thức của người dân. Quốc hội tấn công không
ngừng suốt những năm tháng ấy.
Không có ông Tổng thống nào bị quấy phá
liên tục bới những kẻ mà đúng lý ra phải quì gối mỗi đêm để cám ơn ông Trời
rằng họ không phải làm cùng cái quyết định mà Nixon đã làm.
Cùng đứng với Tổng thống trong những năm
ấy chỉ có một nhúm ký giả và một số tờ báo, hầu như họ ở ngoài Hoa Thịnh Đốn.
Nhưng cũng có những người can đảm ở Quôc hội đứng bên Tổng thống. Nhưng quan
trọng nhất là hằng triệu, hằng triệu những người thường dân Mỹ, Đám đông công
dân thầm lặng, những người này nhận định đất nước trải qua thời kỳ mà những tư
tưởng khuynh tả hằng ngày tuyên truyền chống Tổng thống Hoa Kỳ. Họ là những
người sắt đá có cá tính.
Chỉ trích
Truyền thông báo chí ca ngợi thành tích
của TT Nixon trong việc ký được Hiệp định cho thấy sự mong mỏi hòa bình của người
dân Mỹ, phần nhiều do những người ủng hộ Nixon. Tuy nhiên cũng có nhiều ý kiến đối
lập như dưới đây, những lời chỉ trích Hành pháp đã ký Hiệp định không thuận lợi,
thiệt hại cho miền nam hoặc đã kéo dài chiến tranh thiệt hại cho Hoa Kỳ. Tác
giả Walter Isaacson nói (3)
“Một
số vị phụ tá trong bộ tham mưu của Kissinger như Negroponte và (Tướng) Haig
tưởng là cuộc oanh tạc (cuối 1972) phải ký được một Hiệp định thuận lợi về cơ
bản để tống cổ Quân đội BV ra khỏi miền nam. Negroponte mỉa mai nói “Chúng ta
oanh tạc BV để bắt họ phải chấp nhận
nhượng bộ của ta” (We bombed the North Vietnamese into accepting our
concessions). Richard Holbrook, cựu trợ lý của Harriman sau thành phụ tá Bộ
trưởng ngoại giao đặc trách Á châu sự vụ lại coi Hiệp định chung cục như sự đầu
hàng. Ông nói “Cho quân đội BV ở lại miền Nam chỉ là sự bỏ chạy trá hình, chúng
ta có thể ký Hiệp định y như vậy bất cứ lúc nào sau khi ném bom năm 1968 (tức
31/10/1968)”
Walter Isaacson trích ý kiến một số vị phụ
tá của Kissinger rồi chính ông đã cho
thêm nhiều lời bàn như phải chăng Hiệp định đạt được tháng 1/1973 không hơn gì
Hiệp định có thể ký từ đầu năm 1969. Ông nói nếu vậy có đáng cho ta phải trả
cái giá cao hơn không? Hà Nội cho rằng Hiệp định 1973 về cơ bản người Mỹ đã
chấp nhận những điều khoản đã được BV đưa ra từ tháng 5/1969 mà họ gọi là
chương trình mười điểm.
Tác giả này cho rằng nếu so sánh chương
trình mười điểm của Hà nội (1969) với Hiệp định 1973 từng điểm một ta sẽ thấy
nó giống nhau từng chữ một. Nhưng chỉ có một điểm khác là Hiệp định 1973 thiều
điểm thứ năm trong chương trình 1969 của Hà Nội: CS đòi Chính phủ NV Thiệu phải
bị thay thế bằng chính phủ Liên hiệp do họ chấp nhận. Hà nội vẫn đòi điều này cho tới tháng mười 1972 mới chịu
nhượng bộ, một phần vì thua nặng và đã ăn đòn B-52 trong trận tổng tấn công
1972.
Nhưng
có đáng cho ta phải tiếp tục chiến tranh thêm bốn năm nữa mới ký được Hiệp định
để ông Thiệu giữ được quyền lực tại Sài Gòn ?
(But was it worth four more
years of war in odrder to get a cease-fire
that allowed Thieu to retain authority in Saigon?)
(4)
Walter chỉ trích Nixon đã làm chết thêm 20,552 lính Mỹ, xã hội bị
xáo trộn, chính quyền không còn được coi trọng, tai tiếng xấu cho Hoa kỳ tại
ngoại quốc, chiến tranh lan ra Miên, Lào. Cuối cùng Hiệp định chỉ kéo dài được hai năm, sau đó CS chiếm hết và Thiệu bỏ
chạy. Như thế mọi nỗ lực trở nên vô nghĩa mặc dù với lý do vì danh dự. Nixon và
Kissinger đều tin sắp có hòa bình và cùng thỏa thuận không loại bỏ Thiệu (He
agreed with Nixon that it should not involve abandoning the Thieu regime) (5)
Walter cho rằng để theo đuổi mục đích trên thì có cách tốt hơn. Thảo
luận với quốc hội Kissinger và Nixon có thể phác họa vị trí đàm phán yếu thế của
Hoa kỳ để lấy ủng hộ của người dân trong nước. Nhưng vì không lấy ủng hộ của
Quốc hội và người dân cho một chương trình rõ ràng, hai ông lại bị vướng vào chỗ cần bí mật, đe dọa BV,
áp lực họ…Rút quân thực ra chỉ để câu giờ trước sự sốt ruột của người dân.
Những trận oanh tạc càng gây xáo trộn trong nước hơn là đạt thắng lợi chiến
trường. Chính sách Kissinger và Nixon
dựa trên lừa gạt và bí mật hơn là tìm sự ủng hộ một cách dân chủ để sống còn.
Hai tác giả Marvin Kalb, Bernard Kalb (6) cũng chỉ trích Nixon,
Kissinger nhiều điểm về Hiệp định ngưng bắn. Ngày 11/9/1972 Kisinger tới Moscow
đàm luận với Tổng bí thư Brezhnev trước khi tới Paris. Kissinger ở Moscow bốn
ngày để thảo luận thương thuyết giữa việc Nga cần mua lúa mì, Mỹ cần chấm dứt
chiến tranh VN. Kissinger tới Moscow đúng lúc Brezhnev đang cần cứu trợ vì nạn
mất mùa, thiếu hụt lúa mì trầm trọng, may cho Nga sô TT Nixon lại không khai
thác tình trạng này của Nga. Nixon hy vọng Sô viết sẽ áp lực Hà Nội ký kết Hiệp
định ngưng bắn tại Paris, Kissinger đồng ý về điểm này, ông luôn nghĩ Hà nội chỉ là khách hàng của Nga hơn là đồng
minh xung kích độc lập.
Trong nội bộ tham mưu của Kissinger, các phụ tá của ông như Tướng
Haig, Negroponte lại cho rằng BV thay đổi chính sách, chịu nhượng bộ ngày
9/10/1972 (không đòi lật
đổ Thiệu, lập Chính phủ liên hiệp) không phải vì
áp lực của Sô viết mà do hậu quả liên tục của việc Mỹ ném bom và phong tỏa hải
cảng (năm 1972). Kissinger thì luôn tin vào sự phân tích quyền lực siêu cường,
tin lời hứa của Brezhnev rằng trong vài tuần nữa BV sẽ linh động. Đánh giá
Brezhnev dựa trên việc Lê Đức Thọ mới đây trước khi tới Paris đã dừng tại
Moscow. Chỉ ít ngày sau chính
phủ đã chấp thuận một thỏa ước thương mại lớn khác
thường để Nga mua ít nhất là 750 triệu đô la lúa mì của Mỹ do các công ty tư
xuất cảng trong ba năm.
Marvin Kalb và Bernard Kalb cho rằng Kissinger nhiệt tình với sự
thương thuyết mà không biết, không để ý tới tin tình báo về sứ mất mùa to tát
của Nga. Ngoài ra ông ta cũng không để ý đến việc các nhà buôn lúa mì tư nhân Mỹ
đã bán cho Nga khối lượng lúa mì là bao nhiêu để hậu quả là người Nga được lúa, bánh mì còn người Mỹ phải
chịu thiệt nặng. Cộng sản đã tỏ ra khôn
ngoan trong việc buôn bán với Tư bản, họ đã mua được một khối lượng lúa mì
khổng lồ với giá rẻ mạt, thấp hơn giá thị trường khi ấy rất nhiều. Cuối cùng
tiền thuế của người dân Mỹ đóng cho chính phủ đã được đem trợ cấp cho việc mua
lúa của Nga.
Ngoài ra việc xuất cảng lúa mì này đã khiến cho lúa mì trở nên khan hiếm ngoài thị trường Mỹ, giá bánh mì, thực
phẩm tăng vọt, sữa thịt cũng hối hả lên nhanh. Người tiêu thụ và cả nên kinh
tế Mỹ phải chịu hậu quả nặng vì Kissinger, Nixon đã không quan tâm tới hậu quả
kinh tế của việc thượng lượng. Họ chỉ nghĩ đến cái lợi chính trị mà không chịu
nhìn xa hơn thế. Trên đây là những ý kiến của
Marvin Kalb, Bernard Kalb chỉ trích Kissinger, Nixon “khôn nhà dại chợ” đã bán lúa mì cho Nga với giá rẻ mạt chỉ vì quá
sốt ruột trong việc ký kết Hiệp định Paris.
Kalb cũng nói về khuyết điểm của việc ký kết (7): Hiệp định ký kết
23-1-1973 (Kissinger ký tắt với Thọ ngày 23) xem ra không hơn gì bản dự thảo
hai bên định ký ngày 26-10-1972 trước đó đó đúng ba tháng mặc dù đã oanh tạc BV
ồ ạt tháng 12.
Kissinger đã cố xác nhận ba tháng này có giá trị, cần thiết, có lần
ông nói với Marvin Kalb và Bernard Kalb
như nó đã loại bỏ ý nghĩa mơ hồ về chính phủ Liên hiệp, sau đó đặc tính Quốc
gia của miền nam đã được thể hiện rõ ràng qua xác định của khu phi quân sự
(DMZ), cuối cùng lực lượng giám sát
quốc tế được củng cố, thủ tục , khi nào
ký Hiệp định đã được giải quyết, vấn đề ngôn ngữ đã được làm sáng tỏ. Bản liệt kê những lợi ích đòi được sau ba
tháng chiến tranh (từ tháng 10/72 tới tháng1/73) của Kissinger đã bị
vài chuyên viên theo dõi hòa đàm nghi ngờ.
Một viên chức nói “Cuộc oanh tạc vĩ đại không đạt tiến bộ gì mấy.
Cái mà B-52 làm được một chút tháng 1/73 thực ra chỉ là bản Dự thảo có từ tháng Mười và đó là tất cả những gì chúng ta
muốn”. Chỉ có một chút thay đổi ở Hiệp định sau cùng đã ký, sự khai thông thật
ra đã có từ tháng Mười. Một viên chức cho rằng khoảng thời gian này ta rất bối
rối, phải chăng ta đã ký Hiệp định tháng Giêng (1973) mà đáng lý ta đã ký từ
tháng Mười (1972). Hành pháp cho rằng trận oanh tạc (cuối 1972) đã khiến BV
phải bò lại bàn hội nghị ký kết những khoản do Mỹ yêu cầu. Nhưng viên chức trên
cho rằng trận oanh tạc dữ dội ấy chỉ để yểm trợ tâm lý và quân sự cho miền nam
VN, có mục đích tàn phá bộ máy chiến tranh BV cũng như răn đe Nga, Trung Cộng
hơn là đòi hỏi BV nhượng bộ tại bàn hội nghị.
Nhận xét
Để vấn đề được dễ hiểu hơn, tôi xin nhắc sơ tiến trình hòa đàm như
sau.
Từ 1969 BV đưa ra những điều khoản cứng rắn như mệnh lệnh cho Mỹ.
-Mỹ phải rút quân đơn phương
-Loại bỏ Nguyễn văn Thiệu.
-Lập chính phủ Liên hiệp.
-Cắt hết viện trợ cho VNCH.
Mãi cho tới tháng 10-1972 Hà Nội mới chịu nhượng bộ (có thể do Nga
áp lực, do ị thua nặng trận mùa hè 1972, biết Nixon sẽ tái đắc cử tháng
11-1972).
Trong giai đoạn này có hai chủ trương hòa đàm:
-Nixon và Kissinger không nhượng bộ Hà nội, cương quyết không đầu
hàng CS, hòa bình trong danh dự, không loại bỏ chính phủ Thiệu .
-Thành phần đối lập (opponents) như Quốc hội thù nghịch, phản chiến,
đảng Dân chủ… có chính sách trái ngược.
Đối lập chiếm đa số trong giai đoạn này, họ muốn ký Hiệp định sớm, nhượng bộ
BV, cắt viện trợ VNCH để đánh đổi hòa bình và tù binh Mỹ, sẵn sàng bỏ Đông
dương từ 1969 để rút khỏi cuộc chiến sa lầy.
Bốn điểm mà Hà nội đưa ra trên đây thực ra chỉ là đòi Mỹ và VNCH đầu
hàng không điều kiện, giao miền nam cho họ. Sở dĩ CS ngoan cố như vậy vì biết Nixon đang bị Quốc
hội, phong trào phản chiến chống đối, thúc ép ký sớm. TT Nixon cho biết (8) chính
đám biểu tình đã nối giáo cho giặc kéo dài chiến tranh. Nhìn chung Hành pháp
đang ở thế yếu trong đàm phán với CS.
Tháng 10-1972 Hà nội nhượng bộ gần hết những yêu sách cũ, không đòi lật đổ chính phủ
Thiệu, không Liên hiệp, lập Hội đồng hòa giải dân tộc hữu danh vô thực, không
đòi Mỹ cắt viện trợ miền Nam nhưng nhất quyết
không rút quân về Bắc. Mỹ và BV ký Dự thảo hiệp định ngày 9-10-1972, hai
bên dự định sẽ ký chính thức ngày 26-10. Ngày 19 Tiến sĩ Kissinger sang Sài Gòn
để tường trình về Dự thảo Hiệp định tin tưởng TT Thiệu sẽ chấp nhận nhưng bị Thiệu
và ban tham mưu chống đối dữ dội. Kissinger mới đầu dỗ ngon dỗ ngọt rồi hăm dọa
nhưng ông Thiệu vẫn bác bỏ Dự thảo. Ở Sài gòn được bốn hôm, Kissinger điện tín về tòa Bạch Ốc đề nghị ký riêng với BV
nhưng Nixon từ chối, ông không muốn ký trước bầu cử Tổng thống 7-11-1972 vì biết trước
sẽ tái đắc cử. Nixon khuyên Kissinger dừng ép Thiệu, hãy để cho ông ta thoải
mái.
Hiệp định đáng lý ký từ 26-10-1972 bị trở ngại vì bị VNCH bác bỏ và
Nixon cũng không muốn ký riêng với BV. Phái đoàn CS ngoan cố khiến Nixon phải
cho oanh tạc miền Bắc dữ dội cuối năm 1972, Hiệp định đã được ký kết đúng ba
tháng sau vào ngày 27-1-1973.
Những lời khen, ca tụng Nixon như trên cho thấy người dân đã khao
khát hòa bình từ lâu, dù là người ủng hộ cũng như chống Nixon đều đã quá chán
cuộc chiến sa lầy. Truyền thông ca ngợi TT Nixon vì ông đem lại hòa bình, lấy
tù binh, đem quân về nước mà không bỏ
rơi đồng minh, không lật đổ chính phủ Thiệu theo yêu cầu của Hà Nội mà Nixon
cho đó là sự đầu hàng hèn hạ (abject capitulation). Trái với đường lối của
Nixon, đảng Dân chủ, Quôc hội thù nghịch, phong trào phản chiến…chủ trương cắt viện trợ VNCH, lật đổ chính phủ Thiệu
theo đòi hỏi của Hà nội để sớm có hòa bình lấy tù binh về nước. Người ta ca
ngợi Nixon can đảm, một mình chống chọi biết bao mũi dùi tấn công của đối lập,
của Quốc hội thù nghịch, của phản chiến..
họ muốn chấm dứt chiến tranh ngay.
Nixon thắng lớn trong cuộc bầu cử Tổng thống ngày 7-11-1972, đạt 60.7% số phiếu phổ thông,
hơn đối thủ McGovern 18 triệu phiếu, đạt 520 phiếu cử tri đoàn (hơn 90%) vì
người ta thấy ông sắp mang lại hòa bình,
đó là hòa bình trong danh dự. Nhiệm kỳ 1969-1972 của Nixon diễn sự giằng co giữa Nixon, Kissinger và những người
Đối lập nhất là phong trào Phản chiến,
Quốc hội thù nghịch, người Mỹ gọi đây là cuộc chiến tại đất nhà.
Nixon nói (9)
“Những kẻ chống đối muốn
chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Tôi cũng làm thế. Nhưng họ không thấy sai trái ở
chỗ bỏ rơi người dân miền nam VN để chấm dứt cuộc chiến ngay Tôi thấy thật là
bất nhân khi ta để cho bọn độc tài Hà
nội dựng cơ sở tại Sài Gòn. Là Tổng thống, tôi có trách nhiệm phải làm cái gì
đúng cho đất nước”
Các sử gia kề trên chỉ trích
Nixon, Kissinger sau ba tháng chiến tranh, sau khi dội 20 ngàn tấn bom
xuống Hà Nội, Hải phòng cuối 1972 đã không đòi thêm được gì cả, bản Hiệp định
đúng ra phải ký từ tháng mười.
Sự thực trận oanh tạc từ 18 tới cuối tháng 12-1972 trước hết để kéo
BV lại bàn hội nghị, phái
đoàn BV bỏ hòa đàm từ 13-12 không trở lại. Họ
đánh hơi thấy phiên họp Quốc hội thượng
tuần tháng 1-1973 có thể sẽ ban hành
luật chấm dứt chiến tranh Đông Dương, cắt viện trợ VNCH để đổi lấy hòa bình và
tù binh Mỹ khi ấy chẳng cần họp hành vì Hòa đàm Paris sẽ đương nhiên bị dẹp.
Trận oanh tạc cuối 1972 cũng là để đánh phá hạ tầng cơ sở BV khiến họ suy
yếu.
Nixon nhanh tay xử dụng sức mạnh của B-52
mà Hà nội phải trở lại bàn hội nghị nếu không có thể thảm kịch sẽ sẩy ra: Quốc
hội ra luật chấm dứt chiến tranh, rút quân, cắt viện trợ VNCH… để đánh đổi lấy 580 người tù binh Mỹ. Hà nội
đã chịu thua trong canh bạc này, trận oanh tạc
long trời lở đất đã cứu được Đông Dương sụp đổ ít ra là trong lúc này.
“Trận
ném bom đã đạt mục đích quân sự, chúng ta đã đánh phá tan nát bộ máy chiến
tranh của Bắc Việt”(10)
Kissinger sang Sài Gòn từ 19 tới 23 tháng
Mười 1972 để thuyết phục ông Thiệu ký
Hiệp định nhưng như ta đã nói VNCH bác bỏ. Kissinger đánh điện về cho Nixon đề
nghị ký riêng với BV dự trù ngày 26-10 nhưng Nixon từ chối vì không muốn có
Hiệp định trước bầu cử, người ta sẽ cho là ông dùng Hiệp định để lấy phiếu,
thực ra theo thăm dò ông đã vượt rất xa McGovern.
Walter Isaacson không đồng ý với đường lối
đàm phán bí mật của Kissinger, Nixon như trên nhưng thực ra nếu công khai lại
dễ bị Quốc hội, người dân chống đối hơn nữa.
Theo Marvin Kalb, Bernard Kalb(11) Nixon không muốn ký Hiệp định mà không có
Thiệu, người bạn đồng minh, cũng không
muốn vội ký riêng với Thọ, kẻ địch. Như thế việc ký kết không thành tháng Mười
có lý do riêng, trận oanh tạc tháng 12-1972 cũng đã đạt kết quả mong muốn ngoài
việc khiến Hà Nội phải trở lại bàn hội nghị, đánh phá bộ máy chiến tranh của BV
và cảnh cáo cho Moscow, Bắc Kinh biết Mỹ sẽ hành động mạnh khi quyền lợi bị đe
dọa.
Như trên các phụ tá của Kissinger đã chỉ
trích cuộc oanh tạc BV dữ dội cuối năm
1972 nhưng vẫn không trục xuất được quân
đội BV ra khỏi miền nam, VNCH cũng đã cực lực phản đối thất bại này của Hiệp
định. Về điểm này Nixon đã có câu trả lời rõ ràng trong (12)
“Nhưng
có một vấn đề then chốt mà chúng ta không thể nào lay chuyển BV thay đổi lập
trường: Họ từ chối rút quân khỏi miền nam VN. Từ đầu chí cuối họ xác nhận đây
là nội chiến và từ chối nhìn nhận đóng quân ở miền nam. Hà Nội vì thế bác bỏ
yêu cầu của ta đòi họ rút quân lấy cớ họ không can thiệp vào cuộc chiến.
Chúng
tôi biết không thể nào buộc họ phải nhượng bộ điều này. Có một châm ngôn ngoại
giao là ta không thể thắng tại bàn hội nghị nếu cái mà ta không thắng ở trận
địa. Mặc dù VNCH đã đẩy lui địch trước mùa mưa. BV
Vẫn
còn chiếm một diện tích rộng dọc theo khu phi quân sự và tại cao nguyên. Chúng
tôi biết nếu đạt thỏa hiệp đòi BV trả lại đất cho VNCH thì họ sẽ không ký Hiệp
định. Nếu ta đòi BV rút quân bằng được sẽ không có Hiệp định”
Sau trận mùa hè đỏ lửa 1972, mặc dù BVbị
thảm bại, tàn quân của họ vẫn còn đóng tại vùng I và II. Sở dĩ Hà Nội không
chịu rút quân về Bắc phần vì họ đã nướng
một triệu người, nay chẳng lẽ không được gì, vả lại họ biết rõ Nixon đang bị
Quốc hội và phản chiến chống đối thúc ép kỳ Thỏa ước ngưng bắn để sớm có hòa
bình, người Mỹ đã quá sốt ruột.
Nixon
nói (13)
“Quốc
hội sẵn sang bỏ phiếu chấm dứt chiến tranh nếu ta không ký được Hiệp định…..
….Ngày
2/1/1973 Hạ viện Dân chủ bầu nội bộ với lệ 154 thuận và 75 chống để cắt hết viện
trợ mọi hoạt động quân sự ở Đông
dương vừa khi đã rút quân về nước và lấy
lại tù binh…. Hai ngày sau, bầu cử nội bộ Dân chủ Thượng viện cũng thông qua dự
luật tương tự với số phiếu 36 thuận-12 chống.
Chúng
ta bị bó buộc phải kết thúc thỏa hiệp chấm dứt chiến tranh tái lập hòa bình ở
Việt Nam, nó không hoàn toàn, có nhiều khuyết điểm. Tôi muốn thương thuyết một
Hiệp định tốt đẹp hơn nhưng chúng ta không thể chần chờ thêm để được những
khoản tốt hơn khi Quốc hội sắp ra luật chấm dứt chiến tranh có lợi cho Hà Nội.
Đó
không phải là giờ phút tốt đẹp nhất của ta, mà là giờ phút cuối cùng
(It was not our finest
hour- but it was the final hour)”
Larry Berman cũng nói như vậy(14) , đầu tháng 1-1973 Quốc hội dọa
cắt viện trợ Đông Dương để lấy tù binh, và rút quân. Quốc hội khóa 93 dự định họp ngày 3-1-1973.
Dự luật chấm dứt chiến tranh đang tiến hành. Cuối tháng 11-1972, Nixon đã bị các
vị chức sắc Quốc hội gồm John Stennis, Barry Goldwater và Gerald Ford … lưu ý
nếu miền nam VN gây trở ngại hòa đàm, Quốc hội sẽ ra luật đổi lấy tù binh bằng
rút hết quân, cắt viện trợ VNCH với tỷ lệ phiếu 2-1 tại Hạ Viện (15)
Thời điểm này, theo Nixon, Quốc hội Dân chủ tỏ ra rất khó chịu khi
hòa đàm bị trở ngại từ phía miền nam VN, họ đang đe dọa thỏa mãn yêu cầu của Hà
Nội: Cắt viện trợ VNCH, rút quân để đổi tù binh và ngưng bắn.
Nixon nói (16)
“Tôi biết rằng Hiệp định có nhiều khuyết điểm. Nhưng tôi nghĩ nhìn
chung cũng tốt đẹp. Và tôi biết rằng trong khi Quốc Hội đang phản đối ầm ĩ,
chúng ta không thể làm gì khác hơn thế”.
TT Nixon nói với Kissinger nếu không ký được Hiệp định Quốc hội ra
luật chấm dứt chiến tranh, đó là thảm kịch. khi ấy Hành pháp sẽ không thể giúp đồng minh
VN được. Nếu chần chờ để đòi thêm những khoản tốt hơn chỉ là già néo đứt dây,
có thể sẽ mất cả chì lẫn chài.
Nixon thuyết phục Thiệu việc
BV rút quân không quan trọng, đó chỉ là đám tàn quân CS tại những vủng dân cư thưa
thớt mà thực ra viện trợ tiếp tục của Quốc Hội cho miền nam VN và sự cho phép
cưỡng bách thi hành Hiệp định bằng B-52 mới là quan trọng. TT Nixon cho rằng
giấy mực cũa Hiệp định không quan trọng bằng bom đạn của B-52.
Nếu BV rút hết quân trong khi Quốc hội cắt viện trợ, không cho oanh
tạc trừng phạt vi phạm thì cũng vô ích, miền Nam sẽ sụp đổ vì không được cung cấp
tiếp liệu đạn dược.
Nixon nói (17)
“Sự
tồn tại của miền nam Việt Nam không phụ thuộc vào việc quân địch còn đóng tại
một số vùng dân cư thưa thớt. Nó phụ thuộc vào việc Nước Mỹ cưỡng bách thi hành
Hiệp định cùng với việc tiếp tục viện trợ và với sự đe doạ trừng trị bằng vũ
lực. Điều đó chỉ có được nếu Sài Gòn được Quốc Hội ủng hộ. Nếu chúng ta không
giải quyết cuộc chiến nhanh chóng, Quốc Hội có thể biểu quyết đạo luật chấm dứt
chiến tranh vào tháng Một (1973). Nếu Quốc hội kết luận rằng miền Nam Việt nam
gây trở ngại việc ký kết, việc này có thể khiến ta (Hành pháp) không giúp được
đồng minh (túc VNCH) nếu cần. Tuy nhiên tôi cũng để cho Thiệu có thời gian suy
nghĩ”
Tháng 11 và 12 năm 1972 ông Thiệu mở chiến
dịch lên án Kissinger và Hành pháp Mỹ đã bắt ép VNCH ký Hiệp ước bất bình đẳng
khi để cho BV còn đóng quân ở miền nam. Sự chống đối này chỉ là vô ích, đòi hỏi
những cái mà người ta không thể thỏa mãn được như đã nói trên. TT Nixon không
thể đòi Hà Nội rút quân vì Hành pháp đang ở thế yếu bị Phản chiến, Quốc hội thúc
ép ký gấp. Nếu hòa bình trở ngại Quốc hội sẽ ra tay, khi ấy sẽ là một thảm kịch
cho cả Đông Dương
Trả lời phỏng vấn của tờ báo Tây Đức Der
Spiegel vào năm 1979 tại hải ngoại, ông Thiệu cũng đã xác nhận sự thất bại
không phải do CSBV còn đóng quân tại miền nam mà vì không được Hoa Kỳ tiếp tục
viện trợ quân sự cũng như
sự yểm trợ hoả lực, có nghĩa là miền nam sụp đổ không phải do Hiệp định
Paris
Sau bốn năm đàm phán Nixon và Kissinger
chỉ có thể giúp chính quyền Nguyễn văn Thiệu còn tồn tại không bị lật đổ và
miền nam không bị liên hiệp, nhưng không thể đòi BV rút quân như đã nói.
Cuối cùng mỗi bên được một tí, nhưng riêng
Chính Phủ Cách mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam tục gọi là Việt Cộng
thì chẳng được tí gì cả ngoài cái bánh vẽ Hội đồng hòa giải dân tộc. Sự thực
Việt cộng cũng không có thực lực, họ bị nướng gần hết quân trong trận Mậu Thân
đầu năm 1968, sau này chỉ còn khoảng 20,000 người trang bị vũ khí nhẹ. Từ những
năm 1966, 1967 trở đi Mặt trận Giải Phóng đã bị CSBV sỏ mũi khi họ xâm nhập ồ ạt
miền Nam. Sau này người Mỹ mới biết việc đòi lật đổ Thiệu và lập chính phủ Liên
Hiệp là do Chính phủ cách mạng lâm thời (MTGP) yêu cầu BV đưa ra bàn hội nghị.
Sau khi bị nếm những trận oanh tạc long trời lở đất cuối 1972, BV phải loại bỏ
những yêu sách này.
CSBV chiếm được miền nam VN ngày 30-4-1975,
Chính phủ cách mạng lâm thời vội in truyền đơn Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam, Độc
Lập Tự Do Hạnh Phúc Trung Lập nhưng bị Hà Nội khiển trách và dẹp bỏ ngay để
thống nhất đất nước. Mặt trận giải phóng hay Chính phủ cách mạng lâm thời chẳng
là cái thá gì, chỉ là công cụ của BV.
Ngoài ra trong theo nhận định riêng của
Henry Kissinger trong hồi ký White House Years(18): Mỹ đã hai lần sai lầm lớn:
-Sau khi Hòa đàm tiến hành được 5 tháng,
Tổng thống Johnson đã nhượng bộ Hà Nội cho ngưng oanh tạc toàn diện BV cuối
tháng 10-1968.
-Từ 1969 tân Tổng thống Nixon cho rút quân
đơn phương để xoa dịu chống đối tại Mỹ và hy vọng Hà Nội đàm phán nghiêm chỉnh.
Nhưng cuối cùng Hà Nội vẫn ngoan cố không
chịu đàm phán và hai nhượng bộ lớn kể trên chỉ là vô ích, đúng lý ra phải oanh
tạc, đánh mạnh BV từ 1970, chúng là bọn thân lừa ưa nặng
Theo nhận định của Kissinger, Hà nội không
muốn hòa đàm, Hiệp định, hòa bình mà chỉ muốn dùng bạo lực tiếp tục xâm lăng.
Ông ta nói đúng, năm 1954 họ vờ lên án chính phủ Ngô Đình Diệm không thi hành
Hiệp định Genève thực hiện Tổng tuyển cử để có cớ xâm lược miền nam và bây giờ
tháng 1-1973 họ ký Hiệp định chỉ để chờ Mỹ rút hết, nghỉ ngơi rồi tiếp tục cuộc
chiến xâm lược.
Như trên tôi nói về hình thức của Hiệp
định còn thực chất của nó thì khác hẳn, Hiệp định Paris chỉ là một hình thức
cho vui, thực chất của vấn đề nằm ở chỗ:
-Đối với Mỹ đây là cách để rút ra khỏi
Đông dương sao cho êm đẹp, cho khỏi bị mất mặt.
-Đối với Hà Nội Hiệp định chỉ là nghỉ giải
lao để đánh tiếp, ngay sau khi ký Hiệp định, BV cho mở đường xa lộ Đông Trường
Sơn ngày đêm chuyển vận vũ khí vào Nam
chờ ngày tổng tấn công dứt điểm.
Trọng Đạt
Cước chú
(1) No Peace No Honor… các trang 235, 236, 238
(2) Trang 238, sách kể trên
(3) Trong Kissinger A Biography, trang 483.
(4) Sách nói trên trang 484.
(5) Sách nói trên trang 485
(6) Trong cuốn Kissinger (trang 345, 346, 347)
(7) Trang 421 sách kể trên: (What
did those three extra months of war accomplish - the three months between
October 26 and January 23, including the massive raids against the north in
December?)
(8) Trong No More Vietnams trang 127
(9) Sách kể trên trang 127
(10) No More Vietnams trang 158.
(11) Trong Kissinger trang 422 (He
did not want to sign an agreement without Thieu, an ally. He did not want to be
stampeded into an agreement by Tho, an enemy).
(12) No More Vietnams trang 152
(But one major issue we could not budge the North Vietnamese from their
positions: They refused to withdraw their forces from South Vietnam)
(13) Trang 1969-1970 sách kể trên
(14) No Peace No Honor… trang 221,
(15) Sách nói trên, trang 200.
(16) No More Vietnams trang 167 (But
I believed that on balance it was sound.
And I knew that, in light of the growing stridency of our opposition in
Congress, we had no alternative to signing it)
(17) Sách nói trên trang 155
(18) Chương 8, The Agony of Vietnam trang
276-311
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét