Khái Hưng |
Khái
Hưng tên thật là Trần Khánh Giư, sinh năm 1896 tại Cổ Am, Vĩnh Bảo Hải Dương,
thuộc thành phần gia đình quan lại, con cụ Tuần phủ Phú Thọ, bố vợ là Tổng đốc
Bắc Ninh, anh ruột nhà văn Trần Tiêu. Khái Hưng theo học trường Tây Albert
Sarraut, đậu tú tài ban cổ điển, ông cũng uyên thâm Hán học, ông tham gia hoạt
động cách mạng giành độc lập 1940. Năm sau 1941, các đảng viên Đại Việt Dân
Chính như Khái Hưng, Hoàng Đạo bị Pháp bắt giam tại nhà lao Vụ Bản thuộc tỉnh
Hòa Bình, đó là một vùng nước độc. Năm 1943 ông được tha, bị quản thúc tại Hà
Nội.
Nhật đầu hàng đồng minh tháng 8 năm 1945. Các nhà cách mạng lưu vong bên
Tầu kéo về nước, Khái Hưng và Nguyễn Tường Bách giữ nhiệm vụ tuyên truyền cho
Việt Nam Quốc Dân Đảng. Việt Minh cướp chính quyền ngày 19 tháng 8 năm 1945,
sau khi thành lập chính phủ liên hiệp, họ bất ngờ tấn công các trụ sở Quốc Dân
Đảng, tiêu diệt các thành phần Quốc Gia.Xuân Diệu, Thế Lữ, Khái Hưng 1938 |
Pháp
tấn công Hà Nội, Khái Hưng tản cư về làng Lịch Diệp quê vợ, bị Việt Minh bắt
đưa đi thủ tiêu nửa đêm 21-1-1947, tức giao thừa Tết Nguyên đán Đinh H ợi. Trong hai năm 1945, 1946 ông sáng
tác một số truyện ngắn và kịch đăng trên tuần báo Chính Nghĩa. Năm 1966 ông
Nguyễn Thạch Kiên đã cho xuất bản các tác phẩm ấy tại Sài Gòn và năm 1997 tại
California, Hoa K ỳ nhân dịp
kỷ niệm năm mươi năm Khái Hưng bị Việt Minh thủ tiêu, Nguyễn Thạch Kiên đã cho in lại trong một bộ
sách hai tập lấy tên Kỷ Vật Đầu Tay Và Cuối Cùng, nhà xuất bản Phượng Hoàng.
Đây
là những truyện ngắn và những vở kịch cuối cùng của Khái Hưng, của Tự Lực Văn
Đoàn. Bốn cây viết chính của văn đoàn gồm Khái Hưng, Nhất linh, Thạch Lam,
Hoàng đạo. Nhưng lúc này chỉ còn một mình Khái Hưng, Thạch Lam chết bệnh năm
1943, Nhất Linh, Hoàng Đạo lưu vong sang Tầu, Khái Hưng sáng tác một mình.
KHÁI HƯNG |
KHÁI HƯNG |
Những
tác phẩm cuối cùng của ông cũng là những áng văn tuyệt tác của một cây bút già
dặn, những tâm tư của một nhà cách mạng chân chính trước cảnh cốt nhục tương
tàn của cuộc chiến Quốc-Cộng đang diễn
ra. Các truyện ngắn gồm: Bóng Giai Nhân, Lời Nguyền, Hổ, Tây Xông Nhà, Quan
Công Xứ, Nhung, Khói Hương, Người Anh Hùng, Tiếng Người Xưa và ba vở kịch: Câu
Chuyện Văn Chương, Khúc Tiêu Ai Oán, Dưới Ánh Trăng. Vì phạm vi giới hạn chúng
tôi xin được đề cập một số truyện chọn lọc.
BÓNG GIAI NHÂN |
Xin
sơ lược
“Trên một chiếc ô tô chở chính trị phạm lên
Vụ Bản, Khanh một tù nhân nhớ lại những chuyện cũ tại trại giam sở Liêm Phóng:
Phòng giam hôi hám, tối tăm, chàng đi bộ cùng các bạn tù tới nhà ga, những lời
kêu khóc của thân nhân đi tiễn. Nhưng một kỷ niệm mà hắn khó quên lóe lên trong
ký ức: Bóng giai nhân, một bạn gái bị giam ở xà lim bên cạnh trong thời gian
hai mươi bốn tiếng đồng hồ “Sà lim 18’’, tên của giai nhân, cả trại đều ghi nhớ
nàng bị giải đi đâu không biết.
Thế rồi một buổi sáng người ta dẫn vào một
lô tù mới, trong đó có một thiếu nữ ăn mặc quê mùa rách rưới. Khanh và mọi
người hỏi lính gác được biết cô gái bị giam ở đây nay là lần thứ ba. Lần thứ
nhất cô là nữ học sinh tân thời, lần thứ hai cô giả trai, và lần này cô giả nhà
quê. Tội của cô là “ làm cách mạng”’, từ lúc ấy thiếu nữ chiếm hết lòng sùng
kính của trại giam.
“Sà lim 18’’là một cô bé nhỏ nhắn xinh xắn,
cặp mắt sáng, môi tươi, mặt trái soan, nước da nhỏ mịn. Anh em tới tấp chạy lại
để ngó qua lỗ cửa hỏi thăm tin tức, thiếu nữ tươi cười yên lặng. Lần trước nàng
đã trốn trại sau bị bắt lại, các anh em cách mệnh cho quà bánh, nàng đã ôn tồn
nói chuyện với mọi người. Khanh hay đến thăm nàng, chàng tưởng mình được nàng
lưu ý nhất. Bóng giai nhân chỉ chỉ thoáng hiện nơi trại giam như tia nắng hé ra
giữa khoảng trời mây đen. Khanh thở dài nghĩ thầm ước gì ta gặp nàng lần nữa
rồi bị tù chung thân cũng cam! .
Đó chỉ là chuyện hồi tưởng, xe đã tới Vụ
Bản, tại đây chiều chiều nhìn dẫy Hoành Sơn chàng ta mơ mộng tới hình ảnh bất
diệt của giai nhân không bao giờ trở lại. Trại giam cho phép một cô gái gánh
hàng tạp hóa vào sân trại bán, Khanh nhìn cô bán hàng mơ tưởng tới bóng giai
nhân “
Bằng
lối hành văn bay bướm, điêu luyện, Khái Hưng đã tạo lên một bầu không khí thật
lãng mạn trong một đề tài chính trị, cách mệnh. Một giai nhân xinh đẹp, người
nhỏ bé, đôi mắt sáng, cặp môi tươi, mặt trái soan mà các anh em tù thường gọi
là ‘Sà Lim 18’ ,
nhưng nàng còn đẹp tuyệt vời hơn nữa vì nàng làm cách mạng cứu quốc vào tù ra
khám ba lần, đã được sự sùng kính của toàn thể trại giam.
Khái
Hưng tạo nên một chàng cách mạng dạt dào tình cảm, ông cũng tạo nên một không
khí lãng mạn tuyệt vời. Chàng cách mạng chăm chỉ đến thăm giai nhân, tặng quà
bánh và tưởng là được nàng lưu ý nhất! giữa cảnh núi đồi trùng điệp chàng cứ
ngồi thẩn thơ mỗi chiều để gửi lòng yêu tới tận phương xa, mơ màng nghĩ tới
người gặp gỡ trong những ngày ngắn ngủi và không bao giờ quên được nàng, đó là
hình ảnh bất diệt của giai nhân không bao giờ trở lại, Khái Hưng kết luận.
“Rồi đây, những lúc cách mệnh tha thiết gắt
gao lên tiếng gọi, y sẽ cảm thấy lòng tự
tin, lên đường xông pha trong gian khổ với bóng giai nhân huyền ảo gặp gỡ giữa
cảnh lao tù”.
LỜI NGUYỀN |
Xin
sơ lược
“Đồn Vụ Bản chót vót trên ngọn đồi cao.
Khanh , tù nhân chính trị, một hôm ra
suối lấy nước, gặp người lính kèn, hắn ta bảo ‘Phải , một lời nguyền! !
Trong đám dân kinh bên phố, lính bên đồn,
anh em tù chính trị trong trại thỉnh thoảng lại có người giã từ cõi nhân gian
về miền cực lạc. Khanh cảm thấy sự việc như có liên quan đến lời nguyền ghê gớm
của người xưa. Một hôm người lính kể lại cho chàng chuyện ấy.
Đồn Vụ Bản là một trong những đồn binh kiên
cố theo chương trình thống trị, nó án ngữ đường Nho Quan – Ninh Bình, nó cũng
có thể kiểm soát hành động của những ông quan lang có oai quyền. Vì vậy viên
quản mà người Pháp cho về coi đồn là người thật hách. Trước đây có một ông quản
tên Tăng, được giữ chức trưởng đồn, ông hách dịch bệ vệ, nằm giường Hồng Kông,
ăn cơm tây. Mỗi lần sang phố ông đeo huy chương đầy ngực. Tay cầm roi da, dắt
chó tây to kếch sù. Tụi trẻ thường bảo:
-Quan Quản!
Quan là chúa tể vùng này: Nào thu thuế chợ,
thuế đò, thuế thân. Dần dần thành ‘quan đồn’
và thành ‘cụ lớn’. Bao nhiêu người lễ lạc quà cáp cho cụ. Nhậm chức mới
hai tháng, Cụ Lớn lấy cô nàng hầu người Kinh, con thương gia và hai nàng hầu
người Mường nữa.
Quan thường ‘nổ’ với mọi người là Quan và và
Bà Lớn đều là con nhà thế gia đại tộc, cụ thân sinh ra Quan và Bà Lớn toàn là
Tổng đốc, Tuần Phủ cả! . Có lần ông Quản
bịa ra một lô truyện tả cái gia thế nhà mình: Cụ Cố, quan lớn về hưu thích chè
tầu, tổ tôm, còn Bà Lớn trông coi mấy trăm mẫu ruộng!
Thế rồi một buổi sáng, một ông già tóc hoa
râm và người đàn bà trạc ngoài ba mươi. Cả hai đều quê mùa cục mịch: ông lão
quần nâu sắn đến đầu gối, người đàn bà mặc áo tứ thân mầu nâu, váy chồi đen. Họ
hỏi đường sang đồn, qua phà, sang sông, leo dốc, lên đồi. Khi tới nơi cuối dốc,
người lính canh quát:
- Hai người nhà quê hỏi ai?
- Chúng tôi vào thăm ông Quản!
- Vào hầu quan có việc gì?
- Bẩm chúng tôi là người nhà!
Người
lính cho người vào trình quan rồi hỏi.
- Có họ hàng thế nào với quan?
- Ông cụ sinh ra quan và vợ quan!
Lúc ấy ông Quản đứng trong sân bảo:
- Đuổi cổ chúng nó ra!
Nhân
lúc cổng đồn mở, ông cụ và người đàn bà xông vào sân kêu:
- Tăng, Anh Tăng!
Ông
Quản quát mắng:
- Đồ nhà quê! bay đâu tống cổ chúng nó ra!
Bọn
lính tống cổ hai người ra. Ông lão và con dâu lẳng lặng ra về, đến bờ sông bên
giòng nước chảy ào ào, ông lão thốt lời thề nguyền độc địa:
“Từ nay đứa nào còn lên đây thăm chồng con
thì chết như thế này”.
Rồi
ông nhảy xuống sông tự tử. Từ đó lời nguyền vẫn thiêng lắm, những ai lên đây
thăm chồng, thăm con về ốm đau nặng rồi chết”
Một
ông quản lỡ lời ‘nổ zăng miểng’ với mọi người về gia thế nhà mình, cháy nhà ra
mặt chuột, khi ông cụ và mẹ đĩ lên thăm thì xấu hổ sai lính đuổi không nhận là
bà con.
Theo
ông Trần Ngọc, trong cuốn Kỷ Vật Đầu Tay Và Cuối Cùng, Khái Hưng viết truyện
này để diễn tả cái chủ trương ‘vô gia đình’ của những người độc quyền yêu nước,
từ chối bà con ruột thịt, và như vậy tác giả đã nguyền không bao giờ còn liên
hệ với các ‘đồng chóe’ vô gia đình vô tổ quốc ấy.
Một
truyện ngắn gọn đơn sơ mang mầu sắc huyền bí ghê rợn, ý nghĩa thật là sâu sắc,
nó thể hiện cái phi nhân bản của những người tự cho là vị tha yêu nước. Độc giả
như thấy hiện ra một vùng rừng thiêng nước độc với một lời nguyền ghê gớm.
HỔ |
Xin
sơ lược
“Bảy Hai, người lính gác trên chòi cao một
trại tù. Hắn đã hai lần đánh mõ tre đáp lại tiếng khánh sắt cầm canh bên đồn. Hắn buồn ngủ muốn ríu mắt mà không dám
ngủ vì sợ đội Giới phạt. Đội Giới thù ghét Bảy hai vì một truyện nhỏ tại sòng
bài tối qua.
Tối nay, dưới ánh trăng mờ, Bảy Hai ngắm
cảnh để quên đi giấc ngủ, hắn chợp mắt được vài phút rồi choàng tỉnh, linh tính
báo cho biết có chuyện gì ghê gớm. Hắn trông thấy một vật gì như con bò đang
tiến về phía mình , tới lưng chừng đồi nó dừng lại rẽ sang phía nam, một lúc
sau nó tiến về phía Bảy Hai, hắn nhận rõ đó là con hổ lực lưỡng, to béo
đang từ từ tiến lại. Bẩy Hai hồn vía lên
mây xanh không dám động tịnh. Con hổ lực lưỡng tới chân thang chòi dừng lại rồi
nằm xuống, Bảy Hai không dám cựa quậy, hắn chỉ sợ nó vùng dậy chồm lên đạp đổ
cột chân chòi gác làm thịt mình, hắn
định bắn mà không dám, chỉ sợ trật hay bắn bị thương nó thì vô cùng nguy hiểm,
hắn biết rằng nó chỉ chống lại người, tấn công người khi có ý định giết nó.
Tiếng khánh bên đồn và tiếng mõ tre các chòi
canh vang lên, Bảy không dám đánh, hắn nghĩ nếu mai có bị phạt cũng ráng chịu
vì nếu gây tiếng động bây giờ là toi mạng. Không nghe thấy tiếng mõ của Bẩy,
Đội Giới bèn lại chòi canh của hắn để rình bắt quả tang Bẩy ngủ gục trong canh
gác để phạt trả thù. Bẩy Hai bắt đầu lo cho tính mạng của Đội Giới, hắn vụt
quên mối thù để nghĩ tới tai họa do một loài khác tàn ác gây ra. Lòng nhân đạo
tự nhiên sống dậy, hắn nghĩ tới cách cứu mạng một người, tiếng chân người nghe
lạo xạo, con hổ vẫn nằm im lìm. Bẩy Hai hoảng hốt thét lớn.
-Đứng lại, có hổ đấy! có hổ! con hổ chạy
biến mất, người cũng chạy biến đi”
Khái
Hưng lấy truyện người gác tù (lính Tây) có tình thương đồng bào để ám chỉ tình
thương của người quốc gia đối với kẻ thù khi tai họa sảy ra. Dù là người mình
thù ghét, ta vẫn có thể quên đi mối hận để cứu họ vì tình đồng loại, cái mà ông
gọi là lòng trắc ẩn, tình nhân đạo.
“Mối thù y vụt quên để chỉ nghĩ tới tai nạn
xảy đến cho kẻ đồng loại do một loài khác, một loài tàn ác gây lên. Lòng trắc
ẩn, tình nhân đạo đến với y một cách tự nhiên, một cách ngẫu nhiên .Y không lý
luận nữa, không cân nhắc nữa , chỉ tìm cách cứu sống một con người thoát khỏi
nanh vuốt một con vật”.
Thánh
Ghandi đã nói chúng ta có thể chiến thắng bằng tình thương.
NHUNG |
NHUNG
Xin sơ lược.
Sinh là con trai của bà Đồ, một thanh niên
hư hỏng, rượu chè, cờ bạc. Là con một ông Cử, chị em bà đều lấy chồng con nhà
nho, nhưng chị bà lấy ông Thượng Nguyễn đỗ đạt làm quan, còn chồng bà chỉ là
ông đồ nghèo kiết. Chị bà có giúp bà nhiều phen, nhận nuôi Sinh cho cùng đi học
với con mình, rồi chồng bà chết, chị bà chết, ông Thượng Nguyễn (anh rể) lấy vợ
khác, bà vợ này có con gái tên Nhung. Ông Thượng bạc đãi Sinh nên anh bỏ về với
mẹ, đã hai mươi tuổi, anh học không hay, nghề không có, cờ bạc phá của, khiến
gia đình ngày càng thiếu hụt.
Sinh oán thù ông Thượng và gia đình ông. Hồi
chị của mẹ hắn ( bà Cả Thượng) còn sống, bà coi hắn như con, mua sắm đủ thứ, và
nay bị đối xử bạc bẽo, hắn cho là hai mẹ con Nhung gây lên rồi oán ghét gia
đình ông Thượng, hắn oán ghét tất cả xã hội quan lại, hào phú, trưởng giả, hắn
tìm ra đủ tội lỗi đê tiện, xấu xa. Sinh có quan niệm về xã hội loài người: Loài
người chia làm hai giai cấp: Giai cấp nhiều quyền lợi và giai cấp không có
quyền lợi. Hắn nghĩ tới cách giải quyết vấn đề cho những người ở giai cấp thua
thiệt; hắn lười biếng, hư hỏng nhưng chỉ muốn cải tạo xã hội, hắn cương quyết
phá hoại phe địch, hắn đi nói xấu bọn nhà giầu như ông Thượng, người đã nuôi
hắn, cho hắn nếm mùi phú quí rồi ném hắn xuống đất đen cho thấm thía chênh lệch
bất công, hắn tuyên truyền bôi nhọ bọn phú hào rằng chúng đã xây đắp hạnh phúc
trên xương máu quần chúng.
Khi ấy xẩy ra vụ cướp nhà ông Thượng Nguyễn,
người ta đoán chắc Sinh có dính líu vụ này vì dinh cơ kiên cố rộng rãi ấy nếu
không có người thuộc đường như Sinh chỉ lối thì cướp không thể vào được. Sinh
bị bắt, người làng vui cười, họ cho là hắn đáng tội vì hắn căm thù gia đình ông
Thượng ghê gớm. Hôm cướp vào nhà, ông bà Thư ợng đi vắng, người nhà chạy trốn thoát, duy
chỉ có Nhung bị bắt. Về sau bọn cướp bị quan nha bắt, người ta kêu Nhung đến
nhận diện chúng. Nàng nhận diện hết mọi tên trừ Sinh , có người nghĩ Sinh vô
tội, có người cho là Nhung thương hại hắn vì chính bọn cướp cũng khai Sinh là
đồng lõa.
Vụ cướp bẵng đi một thời gian, người ta lại
bàn tán đến chuyện mới sảy ra: Sinh tự tử trong buồng để lại bức thư tuyệt mệnh
gửi Nhung.
B..ngày 1940.
Em Nhung.
Đây là một bức thư dài dòng văn tự, Sinh cho
biết mẹ hắn là em bà Thư ợng
cả (mẹ Nhung là bà hai) không phải là gì Nhung, hắn và nàng không có họ hàng
với nhau, ví thử có lấy Nhung làm vợ cũng không sao. Từ ngày được thả về, trí
óc hắn rối ren, nay quyết định chết nên rất bình tĩnh, khi Nhung nhận thư này
Sinh đã là cái xác không hồn.
Lúc thì hắn xưng anh, lúc thì hắn xưng em,
. . hắn gửi lời vĩnh biệt, lời tạ lỗi vì
đã xúc phạm Nhung trong cái đêm lịch sử ấy, Sinh thú tội với Nhung ví như một
tín đồ Thiên Chúa xưng tội để trút gánh nặng trong lòng, hắn nói tội dắt cướp
vào nhà bác và làm nhục một thiếu nữ chưa đáng kể. Hắn thú một tội tầy trời:
thuở nhỏ được hai bác dậy dỗ nuôi nấng, sống trong cảnh giầu sang không bao giờ
Sinh thương người nghèo, có một điều mà
Nhung không ngờ là hắn yêu Nhung thầm lén bao lâu nay. Nhung thì lãnh đạm, mẹ
Nhung khinh rẻ hắn (bà này là bà hai, không bà con với Sinh) bởi thế hắn bỏ về
ở với bà cụ, từ chỗ tư thù cá nhân biến thành thù chung của cả xã hội bị bóc
lột, Sinh chỉ ao ước được trả thù cho giai cấp bị hất hủi như hắn.
Chủ ý của Sinh là giết hai bác, làm ô nhục
Nhung, tình yêu trong lòng hắn vẫn còn, khi bị bắt giam Sinh đã hối hận trước
khi Nhung nhận diện, hắn nghĩ tại sao Nhung không để cho hắn chịu hình phạt lại
cứu vớt hắn ra khỏi ngục thất làm chi, đối với Nhung hắn đời đời là tên khốn
nạn và tự khép mình vào án tử hình”
KHÁI HƯNG |
KHÁI HƯNG |
Bằng
một truyện tình bi thảm, lãng mạn tuyệt vời, Khái Hưng đã diễn tả cái thô bạo
bất nhân của đấu tranh giai cấp và hận thù giai cấp. Đấu tranh giai cấp không
phải là một lối thoát để giải quyết bất công xã hội mà chỉ là biểu hiện của thú
tính con người để trả thù đời bằng bạo lực đê hèn. Sinh một tên vô lại, cặn bã của
xã hội, từ hận thù cá nhân đưa tới hận thù xã hội, hắn đã dùng thủ đoạn tàn bạo
để giải quyết hận thù xã hội. Đó chỉ là phá hoại xã hội chứ không phải xây dựng
cho xã hội tốt đẹp hơn lên, nhưng Sinh còn biết xấu hổ về cái hành động đê hèn
của mình.
Đề
tài của Khái Hưng trong các tác phẩm cuối cùng của ông thường xoay quanh trại
tù Vụ Bản, đó là những áng văn tuyệt tác cuối cùng của một nhà cách mạng đáng
kính, một chiến sĩ quốc gia yêu nước, những áng văn đã đóng góp rất nhiều cho
nền văn học mới nước nhà.
* Trọng Đạt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét