Lịch Sử Của Chùa Báo Thiên, Nhà Thờ Lớn Hà Nội Vá Tòa Khâm Sứ.
Lý Khôi Việt
Trung Hoa là một nước lớn, với rất nhiều công trình vĩ đại, như Vạn Lý Trường Thành, dài 5.000 cây số, như Tử Cấm Thành có 9.999 phòng, nên người Hoa thấy nước Việt ta chỉ là một nước nhỏ và không có cái gì vĩ đại để ca ngợi. Thế nhưng từ ngàn năm trước Trung Hoa đã nói đến An Nam Tứ Đại Khí, đó là bốn công trình Phật giáo tại Việt Nam, mà công trình lớn nhất, vĩ đại nhất là tháp Báo Thiên, được xây năm 1057 dưới đời Lý Thánh Tông, trên bờ hồ Lục Thủy ở về phía Đông Nam kinh thành Thăng Long, mà hiện nay là nhà thờ lớn Hà Nội và tòa Khâm Sứ.
Tháp này vốn là tháp "Đại Thắng Tử Thiên Bảo Tháp" của chùa Sùng Khánh Báo Thiên, sau nhân gian quen gọi tắt là tháp Báo Thiên. Cả chùa Báo Thiên và tháp Báo Thiên đều vào loại cực lớn, riêng tháp Báo Thiên là một công trình nghệ thuật kỳ vĩ. Tháp cao vài chục trượng (80 mét) gồm 12 tầng, trong tháp trang trí nhiều tượng bằng đá rất tinh xảo. Tháp đã cao lại xây trên một gò đất nên càng thêm cao. Từ xa mấy chục cây số, người ta đã thấy đỉnh tháp Báo Thiên cao vút mây trời. Tháp hùng tráng, vĩ đại như vậy nên chùa Báo Thiên đương nhiên cũng nguy nga, tráng lệ. Có thể nói tháp và chùa Báo Thiên là di sản văn hóa tối thượng của quốc gia Đại Việt ta. Nhân gian có một câu hát ca ngợi tháp Báo Thiên: "Mênh mong biển lúa xanh rờn. Tháp cao sừng sững trăng vờn bóng cau. Một vùng phong cảnh trước sau. Bức tranh thiên cổ, đựơm màu giang sơn". Nhà thơ Pham Sư Mạnh đời Trần cũng ca ngợi tháp Báo Thiên: "Trấn áp đông tây cũng đế kỳ. Khung nhiên nhất tháp độc nguy nguy". Sơn hà bất động kinh thiên bút. Kim cổ nam ma lập địa chùy. Phong bãi chung linh thời ứng đáp. Tinh di đăng chúc dạ quang huy. Ngã lai dục tủy đề thi bút. Quản lãnh xuân giang tác nghiễn trì. (Trấn áp đông tây, giữ đế kỳ. Một mình cao ngất tháp uy nghi. Chống trời cột trụ non sông vững. Sừng sững ngàn năm một đỉnh chùy. Chuông khánh gió đưa vang đối đáp. Đèn sao đêm đến rực quang huy. Đến đây những muốn lưu danh tính. Mài mực sông xuân viết ngẫu thi, (dịch bởi Vô Ngã Phạm Khắc Hoài, trong Thơ Văn Lý Trần, trích từ Nguyễn An Tiêm, Hà Nội: Từ Chùa Báo Thiên Tới Nhà Thờ Lớn, tạp chí Khởi Hành, số 122, tháng 12.2006, thuvienhoasen.org). Tháp và chùa Báo Thiên quả thật là một quốc bảo linh thiêng và tuyệt đẹp của nước Đại Việt ta.
Kiến Trúc Chùa Báo Thiên |
Thế nhưng năm 1883, thực dân Pháp và giám mục Pháp Puginier, qua những quan chức Việt Nam tay sai, mà đứng đầu là một giáo dân Thiên chúa giáo, là tổng đốc Nguyễn Hữu Độ, đã cưỡng chiếm và phá huỷ chùa Báo Thiên để xây nhà thờ Joseph mà nay gọi là nhà thờ Lớn Hà Nội. Trong khuôn viên của chùa Báo Thiên cũng có xây thêm tòa Khâm sứ, tức trụ sở của vị khâm sứ đại diên cho quốc gia Vatican (Riêng tháp Báo Thiên nguyên thủy thì đã bị giặc Tàu phá hủy khi chúng sang xâm chiếm nước ta vào năm 1426). Sách Từ Điển Đường Phố Hà Nội của Đại Học Hà Nội xuất bản viết rõ: "Nền nhà thờ hiện nay nguyên là nền đất chùa Báo Thiên rất nổi tiếng, ở đây còn có một tháp gọi là tháp Báo Thiên".
Công sứ Pháp thời đó là Bonnal đã tường thuật sự cướp đoạt chùa Báo Thiên, một đệ nhất quốc tự đời Lý Trần, một đệ nhất danh lam của Hà Nội, như sau: "San bằng cái chùa và tịch thu miếng đất thật không có gì dễ bằng trong thời chiếm đóng..., tuy nhiên công bình mà nói, tôi cảm thấy ít nhiều ái ngại khi phạm một sự lạm quyền kiểu đó, nên thấy nên nhờ ông tổng đốc Nguyễn Hữu Độ. Ông rất tâm đầu ý hợp với giám mục (Puginier) và muốn làm vừa lòng ngài cũng như tôi vậy". (André Masson, The Transformation of Hanoi 1873-1888, Madison, 1983, trích từ Vụ "tòa khâm": Lương Tâm C ầu Nguyện? trong phattuvietnam.net và giaodiemonline.com). France Mangin, trong bài viết về Viện Viễn Đông Bác Cổ Pháp với các di tích lịch sử Thăng Long viết rằng : "nhờ sự giúp đỡ của tổng đốc Nguyễn Hữu Độ mà những trở ngại trong việc phá dỡ ngôi chùa Báo Thiên đã được giải quyết nhanh chóng... Tiếp đó lô đất (chùa Báo Thiên) đã được cho không Đoàn Truyền Giáo, và (công sứ) Bonnal đã hài lòng giao cho vị giám mục (Puginier) giấy tờ chính thức xác nhận quyền sở hữu lô đất" (chùa Báo Thiên). Giám mục Puginier mở cuộc xổ số lấy tiền xây ngôi nhà thờ trên nền chùa Báo Thiên và hoàn thành ngôi nhà thờ năm 1886: đó là Nhà Thờ Lớn hiện nay tại Hà Nội. Nhà Thờ Lớn Hà Nội được khánh thành ngày 24.12.1886 (Nguyễn An Tiêm, đã trích dẫn ở trên).
Vâng lịnh quan thầy Pháp, Việt gian Nguyễn Hữu Độ đã dùng phù phép ma giáo sau đây để ăn cướp lô đất rộng lớn, ở vị trị tuyệt đẹp, mà giám mục Puginier đang thèn muốn : "Thoạt tiên, ông cho điều nghiên xem có ai là hậu duệ của người sáng lập ra chùa, đã chết từ hai thế kỷ trước, và lẽ dĩ nhiên, không tìm ra ai. Thứ đến, ông chỉ thị cho các công dân lãnh đạo trong phường, được chọn lựa có vẻ như là do sự may rủi giữa các người Công giáo, đến thẩm lượng mức kiên cố của ngôi chùa, họ không ngần xác quyết rằng ngôi chùa đã mục nát có thể sập gây nguy hiểm cho người qua lại. Bây giờ mọi chuyện đã đâu vào đấy, san bằng ngôi chùa và tịch thu miếng đất (André Masson, The Transformation of Hà Nội, 1873-1888, Madison,WI: Center for Southeast Asian Studies, University of Wisconsin-Madison, 1983, t 51, NQT, trích từ Trương Công Khanh , Những Bài Học Ứng Xử Cần Thiết, Talawas).
Ở đây, tác giả André Masson có sự lầm lẫn nhỏ là người sáng lập ra ngôi chùa vào năm 1057 là vua Lý Thánh Tông, đã chết từ tám thế kỷ trước, chứ không phải từ hai thế kỷ trước. Tất cả tài sản của nhà Phật, từ chùa, tháp, chuông trống, tượng vv... đều được gọi là tài sản tam bảo, không ai có thể đem cho, mua bán, trao đổi, đặc biệt là những ngôi chùa do vua lập ra đều là những quốc tự, tức là những ngôi chùa các quốc gia, hay nói theo danh từ ngày nay, là những di sản tâm linh và văn hóa của quốc gia, không thể nào bị cướp đoạt, đập phá và đem giao cho một tôn giáo khác. Còn những ngôi chùa khác, do tăng, ni hay Phật tử lập ra thì đó không phải là tài sản riêng của các cá nhân đó, mà là tài sản chung vừa là của Phật giáo, vừa là của cộng đồng dân cư tại nơi tọa lạc của ngôi chùa, như một ngôi chùa tọa lạc trong một làng thì đó là công sản của ngôi làng đó, không ai có thể mua bán, hay cướp đoạt. Nên nhân gian có câu: "Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt". Trong lịch sử gần 2.000 năm của Phật giáo Việt Nam chưa bao giờ có trường hợp một ngôi chùa bị tuyên bố vô chủ, rồi bị phá hủy và đem giao cho một tôn giáo khác. Việc này chỉ xẩy ra trong thời đất nước bị xâm lăng, chiến đóng bởi thực dân Pháp.
Nhưng ngôi chùa Báo Thiên vào năm 1883 có thật sự là vô chủ và mục nát như đánh giá của những người muốn ăn cướp lô đất của chùa hay không? "Sách Đại Nam Thông Nhất Chí thời Nguyễn cho biết trong Thăng Long Bát Cảnh còn ghi tám bài thơ vịnh cảnh Thăng Long, trong dó có một bài thơ của một người Thanh sang nước ta, cảm tác khi nghe tiếng chuông của chùa Báo Thiên "Báo Thiên hiểu chung (Chuông sớm chùa Báo Thiên). Và vào lúc đó còn có tên gọi phố Báo Thiên, bán vải thâm và dù xanh. Hơn nữa vào thời vua Tự Đức, Tổng đốc Tôn Th ất Bật cũng đã có sửa sang lại chùa. Theo tác giả Nguyễn Đại Đồng, vào triều Thiệu Trị thứ 7 (1847) Hòa thượng Phúc Điền (1784-1863) về trụ trì chùa Báo Thiên. Trong Kế đăng lục in năm Tự Đức thứ 12 (1857) viết: "Lúc đó tại chùa Báo Thiên đang khắc ván bộ Phật Tổ thống kỷ của Trung Qu ốc. Sau khi Hòa thượng Phúc Điền qua đời, chùa Báo Thiên vẫn còn lại cho đến ngày thực dân Pháp chiếm thành Hà Nội lần 2 năm 1882” (theo tạp chí Văn Hóa Phật giáo, Trương Công Khanh , bài đã dẫn).
Chùa Báo Thiên được trùng tu bởi vị Tổng đốc của Hà Nội và là nơi khắc những bản kinh, sách Phật giáo thì đó là những bằng chứng cho thấy tầm vóc quy mô của ngôi chùa, không những về kích thước, mà còn về các Phật sự, trước khi bị thực dân và cố đạo Tây Puginier cướp đoạt. Những tội ác xúc phạm nặng nề những gì linh thiêng nhất của người Việt Nam, mà thực dân Pháp cũng chùng tay không dám làm, thì các cố đạo thực dân và những kẻ Việt gian tay sai, với tình thần tôn giáo cuồng tín, đã thực hiện, không phải với lòng hổ thẹn, mà với sự hãnh diện. Trong một lá thư viết trước khi chết gởi toàn quyền và khâm sứ Pháp, Việt gian Nguyễn Hữu Độ, kẻ đã trực tiếp giúp giám mục Puginier ăn cướp và phá hủy chùa Báo Thiên, đã trân tráo tri ân thực dân Pháp: "Chính phủ Pháp vĩ đại đã không lìa bỏ chúng tôi... và tôi đã được ân trạch giao tiếp với những viên chức cao cấp để giải quyết các vấn đề quốc gia. Nếu nước tôi có được như ngày nay đó là nhờ lòng nhân đức của chính phủ Pháp... Than ôi, tôi không thể nào bày tỏ tất cả lòng tri ân nồng nhiệt và chân thành của tôi đối với chính phủ Pháp" (Thế Kỷ 21, số 172, tháng 8-2003, trích từ Vụ "tòa khâm" như trên, phattuvietnam.net).
Như vậy, một sự thật lịch sử được khẳng định là Phật Giáo Việt Nam là chủ nhân liên tục của chùa Báo Thiên, và tháp Báo Thiên suốt 826 năm, tính từ khi được xây dựng năm 1057 đến khi bị thực dân Pháp và Vatican cưỡng chiếm và phá hủy năm 1883. Với lịch sử hiện diện, như là một ngôi chùa lớn nhất, trong lòng kinh thành Thăng Long suốt 826 năm, chùa Báo Thiên đương nhiên là di sản văn hóa hàng đầu của quốc gia Việt Nam.
Tang vật của vụ phá chùa, cướp đât quy mô.
Tất cả các tài liệu chứng minh chùa Báo Thiên là tài sản của Phật giáo, có lịch sự gần 900 năm, và bị phá hủy, cướp đoạt để xây nhà thờ Lớn Hà Nội đều là những tài liệu xuất phá từ ngoài Phật giáo, như các chính sử do các nhà nho viết ra, như là các cuốn sách do các nhà truyền giáo và các nhà nghiên cứu ngoại quốc viết ra, như là các cuốn sách về sử Việt Nam cận đại do những nhà nghiên cứu ở Hà Nội viết ra, cho nên những bằng chứng lịch sử này là khách quan, trung thực. Nếu có ai còn hồ nghi thì xin hãy đến để thấy một tang vật của vụ ăn cướp quy mô này tại ngay tòa Giám mục, hay là nhà thờ Lớn Hà Nội, số 40 phố Nhà Chung, nằm trong khuôn viên của chùa Báo Thiên, đó là chiếc giếng đá cổ chạm hình hoa sen có niên đại 951 năm. Sau khi bộ trưởng ngoại giao Vatican ra lịnh cho Giám mục Ngô Quang Kiệt chấm dứt tranh đấu đòi lại tòa Khâm sứ, cũng nằm trong khuôn viên chùa Báo Thiên của Phật giáo, thì ông đã tuân lịnh và giáo dân đã đem cây thánh giá bằng sắt tây cao khoảng bốn mét mà họ đã dựng lên trước tòa Khâm sứ cũ về lại trong khuôn viên của tòa giám mục và đem dựng lên đằng sau miệng giếng đá cỗ, rồi họ đốt lên khoảng 50 cây nến có nhiều màu sắc khác nhau, ánh nến sáng rực làm nổi bật hình các hoa sen được khắc chạm vào giếng đó, và hình ảnh này được truyền đi khắp nơi. Nhờ đó mà các nhà nghiên cứu Phật giáo mới khám phá đó là giếng đá của chùa Báo Thiên, có niên đại cổ nhất của Việt Nam, gần 1.000 năm. Tạp chí Văn Hóa Phật giáo cho biết: "Đây là một giếng cổ khá to bằng đá nguyên khối. Nó hiện lên trước mắt tròn trịa như một cái đỉnh, quanh chân chạm khắc hoa văn hình hai lớp cánh sen lồng vào nhau tuyệt đẹp. Chiếc giếng đá này có ba đặc điểm: thứ nhất, nó nằm trong khuôn viên của đệ nhất danh lam thắng cảnh đời Lý là chùa Báo Thiên. Theo sử liệu, có thể đoán rằng cách giếng đá không xa là bảo tháp 12 tầng, với chóp bằng đồng, vốn là một trong bốn "Đại Nam tứ khí" thời xưa. Thứ hai, về mặt tạo hình mỹ thuật và chất liệu, đó là một giếng đá độc đáo của Thăng Long còn sót lại tới nay... Giếng đá cổ có bệ hình vuông với mỗi cạnh đo bằng 1,5 mét. Từ bệ lên tới miệng cao 0,60 mét vòng bụng chỗ giếng phình ra rộng tới 1 mét. Thứ ba, ngoài nội dung di tích, giếng đó còn là một chứng tích của những giai đọan lịch sử sóng gió. Vì như đã nói, cổ tự Báo Thiên là đệ nhất danh lam của kinh thành, song tời thế kỷ 15, bị quân Minh chiếm phá và đập tháp để lấy vật liệu chống đỡ sức tiến công của đại quân Bình Định Vương Lê L ợi. Đến đời Lê, chùa được trùng tu. Cuối thế kỷ 18, chùa trở nên đổ nát vì chiến sự, rồi được phục hồi lại dưới triều Nguyễn. Thời Pháp lại bị phá lần nữa, mà theo nhà sử học Trần Huy Liệu, đó là "sự phá hoại đáng kể đầu tiên của thực dân Pháp ở Hà Nội"... Cổ giếng là một khối đá tròn, tạo dáng thắt cổ bồng như lư hương, miệng giếng hơi bóp vào, phần thân dưới phình ra, chạm hoa hình cánh sen hai lớp. Cổ giếng đặt khít khao trên một bệ đá tám cạnh nguyên khối... có chạm hoa văn rồng, mây, hoa lá… Giếng đá cổ độc đáo của chùa Báo Thiên ai cũng phải thừa nhận nó đạt đến trình độ kỹ thuật lẫn nghệ thuật rất cao, chưa có cái nào khác sánh bằng. Sở dĩ như thế vì đây là giếng đá của ngôi quốc tự danh tiếng bậc nhất kinh đô. Chùa, tháp Báo Thiên là đỉnh cao của mỹ thuật kiến trúc Phật giáo. Theo sử sách ghi chép, ngôi chùa này đặc biệt có rất nhiều tự khí, tượng thờ bằng đá to lớn, tuyệt đẹp. Cổ giếng là một khối đá tròn, tạo dáng thắt cổ bồng như lư hương. Miệng giếng hơi bóp vào, phần thân dưới phình ra, chạm hoa hình cánh sen hai lớp. Cổ giếng đặt khít khao trên một bệ đá tám cạnh nguyên khối... có chạm hoa văn rồng, mây, hoa lá..... Trở lại vấn đề, năm 1883, thành Hà nội bị thực dân Pháp đánh chiếm, sau đó giám mục Puginier cấu kết với công sứ Bonnal và gian thần Nguyễn Hữu Độ chiếm đoạt chùa Báo thiên để kiến tạo nhà thờ chính tòa Hà Nội. Từ đó một biểu tượng văn hóa của kinh đô Thăng Long, niềm hãnh diện chung của dân tộc Việt dần dần bị quên lãng. Trải qua gần 1.000 năm, biết bao biến động lịch sử, ngoại xâm nội chiến, cuồng tín hận thù mà giếng đá Báo Thiên vẫn tồn tại, thật là điều kỳ diệu. Nó xứng đáng được vinh danh là cái giếng đá cổ xưa nhất, đẹp nhất và hoàn chỉnh nhất để làm biểu tượng văn hóa, lịch sử của vùng đất thiêng Thăng Long - Hà Nội. Đó chính là "của tin" còn lại của cả dân tộc, chẳng của riêng ai" (Vụ Đòi Tòa Khâm: câu chuyện về chiếc giếng cổ, phattuvietnam.net).
Diện mạo chùa, tháp Báo Thiên khi bị cố đạo Puginier phá hủy và cướp đoạt.
Ngày 20 tháng 11 năm 1873, Francis Garnier đem quân tấn công thành Hà Nội lần thứ nhất, thành thất thủ, tổng đốc Hà Nội là Nguyễn Tri Phương bị bắt và đã tuyệt thực để chết trong danh dự, khi đó giám mục Puginier, với tư cách là thông dịch viên và cố vấn cho Francis Garnier, đã đến đóng bản doanh ở chùa Báo Thiên, nghĩa là ngay từ thửa đó, khu đất chùa Báo Thiên đã ở trong tầm nhắm của vị cố đạo thực dân này. Gần 10 năm sau, ngày 25 tháng 4 năm 1882, Henri Rivière đem quân đánh Hà Nội lần thứ nhì, thành thất thủ, tổng đốc Hà Nội là Hoàng Diệu tử trận. Khi đó giám mục Puginier tiếp tục đóng vai trò thông dịch viên và cố vấn cho quân xâm lăng. Năm sau ông phá hủy chùa Báo Thiên và cướp đất của ngôi chùa này. Năm 1884, vua Tự Đức công nhân sự đô hộ của thực dân Pháp, cùng năm đó, Puginier cho xây một nhà thờ St Joseph trên lô đất chùa Báo Thiên, mà ngày nay la nhà thớ Lớn Hà Nội. Trong cảnh binh lửa, dường như không ai có cơ hội để chụp hình ảnh của ngôi chùa này trước khi bị đập phá. Tuy nhiên, vài năm sau đó, hình ảnh cổng tam quan của một ngôi chùa sát bên cạnh chùa Báo Thiên, là chùa Báo Ân, hay còn gọi là chùa Liên Trì, đã được chụp lại bởi bác sĩ Ch.E.Hocquard vào khoảng năm 1884-1885 (có thể xem ở thuvienhoasen). Ngôi chùa này cũng bị thực dân Pháp phá hủy vài năm sau đó để xây bưu diện Hà nội, dù rằng hình ảnh chụp được trước khi bị phá hủy là một cảnh chùa uy nghi, rộng lớn và tuyệt đẹp. Dựa vào hình của chùa Báo Ân, ta có thể khẳng định chùa Báo Thiên trước khi bi Puginier phá hủy cũng là một ngôi chùa uy nghi, rộng lớn và tuyệt đẹp, nếu không hơn thì cũng không thua gì chùa Báo Ân.
Cho tạm dễ hiểu, ta tạm so sánh chùa Báo Ân bị Tây phá hủy để xây nhà bưu điện Hà Nội chỉ lớn cỡ chùa Xá Lợi trong khi đó chùa Báo Thiên bị giám mục Puginier phá huy để xây nhà thờ lớn Hà Nội tương đương cỡ chùa Vĩnh Nghiêm, ở Sài Gòn, rộng lớn hơn, nguy nga tráng lệ hơn. Tội phá và cướp đất của một ngôi chùa nhỏ hay trung bình đương nhiên nhẹ hơn tội phá và cướp đất của một ngôi chùa lớn, được coi như di sản văn hóa hàng đầu của quốc gia Việt Nam.
Sau đây tôi chứng minh không những chùa Báo Thiên lớn hơn chùa Báo Ân, mà đó còn là ngôi chùa lớn nhất Hà Nội, và lớn nhất nước Việt Nam trong thời Lý Trần. Nếu Đế Thiêng Đế Thích của Cao Miên là công trình Phật giáo lớn nhất và là biểu tượng văn hóa, tâm linh của xứ này, thì chùa Báo Thiên cũng có một vai trò tương tự. Nếu Đế Thiêng Đế Thích bị phá hủy và cướp đoạt để xây một nhà thờ Thiên Chúa giáo La Mã thì không biết người dân Cao Miên nghĩ thế nào?
- Theo chính sử, thì chùa và tháp Báo Thiên được vua Lý Thánh Tông cho xây năm Long Thụy Thái Bình thứ tư (1057). Được xây bởi đương kim hoàng đế nên đương nhiên đây là một ngôi quốc tự rất lớn.
- Chùa và tháp thường đi đôi với nhau, nên tháp Báo Thiên cao 80 mẻt, một công trình kiến trúc cao nhất nước Việt Nam, và là một công trình kiến trúc đứng đầu "An Nam Tứ Đại Khí" như sự ca ngợi của Trung Hoa , thì chùa Báo Thiên nếu không phải là ngôi chùa lớn nhất, thì cũng là một trong vài ba ngôi chùa lớn nhất nước Việt Nam. Chùa Báo Ân không hề được nhắc đến với sự trân trọng và ca ngợi như thế, nên đương nhiên là nhỏ hơn.
- Vua Lý Thánh Tông phát ra 12.000 cân đồng để đúc chuông chùa Báo Thiên. Đây là đại hồng chung lớn nhất nước Việt Nam. Chuông chùa và tầm cỡ của ngôi chùa thường tương ứng với nhau nên chùa Báo Thiên có thể được xem là ngôi chùa vĩ đại nhất của Việt Nam, có giá trị như một quốc bảo văn hóa và tâm linh của Việt Nam, ít nhất là trong thời đại Phật giáo Lý Trần. Chùa Báo Ân, tuy có cổng tam quốc rất đẹp, có thể là một trong những cổng tam quan đẹp nhất nước Việt Nam, nhưng đó chỉ là một ngôi chùa lớn bình thường, không thể so sánh của chùa Báo Thiên.
- Lễ Hội chùa Báo Thiên, trong tháng giêng là một trong những lễ hội lớn nhất của Thăng Long - Hà Nội. Người Phật tử đầu năm, ngày tết đều đi chùa, và họ thường chọn những ngôi đại già lam để cầu nguyện trong dịp năm mới. Chùa Báo Thiên chắc hẳn là một đại già lam lớn nhất Hà Nội, có khuôn viên rộng lớn nên thu hút nhiều nhất sự thăm viếng của nhiều người, từ đó hình thành lễ hội chùa Báo Thiên truyền thống, kéo dài từ vua Lý Thánh Tông đến khi chùa Báo Thiên bị phá hủy năm 1883. Chùa Báo Ân không có một vị trí văn hóa nổi bật qua suốt gần chín thế kỷ như thế.
Tất cả những tội ác bị phơi bày, phát hiện trước lịch sử và công luận thường chỉ là bề nổi của một tảng băng chìm. Những cái gì chưa được biết đến còn ghê gớm, khủng khiếp hơn rất nhiều. Vì chủ thể phạm tội đã phá hủy, thủ tiêu tang chứng, hay vì thời gian làm cho phai mờ, hay vì những nạn nhân đã bị giết hại không cơ hội lên tiếng, hay vì một số ít người là chứng nhân vì sợ hãi đã im lặng. Nhất là đối với Vatican, một tôn giáo có lịch sử truyền đạo bằng chiến tranh và bạo lực suốt gần 20 thế kỷ vừa qua. Và luôn che dấu những tội ác của mình dưới những chiêu bài cao cả, thánh thiện. Những tội ác của Vatican đối với nhân loại tuy đã có hàng ngàn cuốn sách được xuất bản, nhất là bằng Anh ngữ, nhưng vẫn chưa nói lên hết tầm cỡ rộng lớn toàn câu, suốt gần hai ngàn năm và đối với hàng trăm triệu nạn nhân, và hàng ngàn cơ sở, thờ phụng của các tôn giáo khác.
Đất nước Việt Nam và Phật giáo Việt Nam là nạn nhân của âm mưu xâm lăng chiếm đóng bằng quân sự và bằng Công giáo, cấu kết chặt chẽ giữa thực dân Pháp và các nhà truyền giáo Pháp. Mà giám mục Puginier* là khuôn mặt tiêu biểu và nổi bậc nhất. Và vụ chùa Báo Thiên, nhà thờ lớn Hà Nội và tòa khâm sứ là một trường hợp điển hình nhất.
Tháp Báo Thiên nguyên thủy cao 80 mét, một di sản văn hóa vĩ đại của Việt Nam, một quốc bảo tối thượng của nước Đại Việt trong thời Lý Trần đã bị giặc Tàu phá hủy năm 1426. Có người muốn chứng minh là giám mục Puginier, và rộng hơn là Vatican và Công giáo Việt Nam, không có phá hủy tháp Báo Thiên, vì nó đã không còn tồn tại trong năm 1883. Tuy nhiên, nếu có tác giả nào viết tháp Báo Thiên bị phá năm 1883 bởi giám mục Puginier thì cũng không có gì sai, vì sau khi tháp nguyên thủy bị phá hủy, người đã xây lại tháp khác, nhỏ hơn rất nhiều. Cảnh chùa, tháp bị hư hỏng, đổ nát và được trùng ta vô số lần trong lịch sử rất lâu đời của Phật giáo Việt Nam là chuyện phổ biến. Cho nên chùa và tháp Báo Thiên đã được tổng đốc Tôn Th ất Dật trùng tu vào thời vua Tự Dức thì đương nhiên vào năm 1883, tháp tại chùa Báo Thiên vẫn còn và cũng bị phá hủy như chùa Báo Thiên. Trên khu đất của chùa Báo Thiên đã hiện diện tháp Báo Thiên (nguyên thủy) suốt gần 400 năm thời đại Lý Trần, cũng như trên khu đất này của Phật giáo, về sau, đã có xây thêm một tòa nhà mà người ta gọi là tòa khâm sứ. Có người đã dùng một số tài liệu lịch sử để chứng minh tháp Báo Thiên đã bị phá hủy từ lâu, để biện minh rằng Thiên Chúa giáo La Mã đã không phá hủy tháp Báo Thiên. Đây là sự biện minh không cần thiết, vì bản cáo trạng không cáo buộc Vatican, Hội Thừa Sai Pháp và chủ thể kế thừa là Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã phá hủy tháp Báo Thiên. Nêu vấn đề tháp Báo Thiên để làm lạc hướng của cuộc tranh luận về CHÙA BÁO THIÊN VÀ KHU ĐẤT CỦA CHÙA BÁO THIÊN, mà hiện nay là nhà thờ lớn Hà Nội và tòa khâm sứ.
Tháp Báo Thiên còn hay mất vào năm 1883, thì vẫn không thay đổi sự thật lịch sử là giám mục Puginier, hay nói rộng hơn là thực dân Pháp, Vatican và chính quyền tay sai của thực dân, đã cướp đoạt, phá hủy chùa Báo Thiên, một trong những ngôi chùa lớn nhất cùa Việt Nam, và là một trong những di sản văn hóa hàng đầu của quốc gia Việt Nam để cướp đất của chùa Báo Thiên, tức là đất của Phật giáo Việt Nam, để xây trên đó nhà thờ lớn Hà Nội.
Vấn đề đặt ra ở đây là - sự chiếm đoạt chùa Báo Thiên của giám mục Puginier vào năm 1883, với sự hổ trợ của thực dân Pháp, trong thời gian Việt Nam bị thực dân Pháp độ hộ, có giá trị pháp lý gì không? - Và công lý và luật pháp của một nước Việt Nam độc lập, văn minh, phải xét xử và quyết định như thế nào đối với sự cưỡng chiếm phi pháp và bất công chùa Báo Thiên của Phật Giáo, đồng thời cũng là cưỡng chiếm một di sản văn hóa vĩ đại, hùng tráng cấp quốc gia của dân tộc Việt Nam?
CÔNG LÝ VÀ LUẬT PHÁP ĐỐI VỚI TRƯỜNG HỢP CHÙA BÁO THIÊN, NHÀ THỜ LỚN HÀ NỘI VÀ TÒA KHÂM SỨ
Việt Nam không phải là nước vô chủ. Từ hàng ngàn năm nay, người Việt đã là chủ nhân trên lãnh thổ Việt Nam. Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng vào đầu thế kỷ thứ nhất và tuyên ngôn độc lập "Nam quốc sơn hà Nam đế cư" trong thế kỷ 11 cùng nhiều cuộc đấu tranh kiên cường để bảo vệ độc lập và giành lại độc lập của Việt Nam trong suốt hơn 2.000 năm qua đã khẳng định chân lý này. Sự xâm lăng và chiếm đóng Việt Nam của thực dân Pháp, kể từ đầu thập niên 1860, đến năm 1954, cùng mọi sự thủ đắc bất cứ bất động sản có chủ nào, do sự đe dọa, hay xử dụng võ lực, hay dùng mưu mô, thủ đọan, dựa trên sự cấu kết với thực dân Pháp, đều là bất hợp pháp.
Công lý tối thiểu, một khi nước nhà đã giành lại được độc lập, là ban hành một đạo luật tuyên bố những sự chiếm hữu như thế là bất hợp pháp, và tịch thu và hoàn trả lại những bất động sản này cho người chủ nhân thật sự trước khi bị thực dân Pháp và tay sai cướp đoạt một cách bất công và phi pháp.
Chùa Báo Thiên là một tài sản của Phật giáo Việt Nam, không những thế còn là một di sản văn hóa và tâm linh linh thiêng, vào hàng bật nhất, của quốc gia Việt Nam. Phật giáo Việt Nam đã làm chủ bất động sản này một cách liên tục trong suốt 826 năm. Việc hoàn trả lại cho Phật giáo chùa Báo Thiên là thực thi công lý tối thiểu cho Phật giáo của một quốc gia Việt Nam có chủ quyền, có công lý và có luật pháp nghiêm minh.
Không những Giáo hội Công giáo Việt Nam và chính quyền Việt Nam, phải hoàn trả lại khu bất động sản, trong đó hiện nay là nhà thờ Lớn Hà Nội và tòa Khâm sứ, mà Giáo hội Công giáo Việt Nam còn phải bồi thừơng cho Phật giáo về những thiệt hại phát sinh từ sự chiếm đoạt và đập phá chùa Báo Thiên vào năm 1883, và những thiệt hại khác do Phật giáo bị tướt đoạt một cách bất công và phi pháp quyền làm chủ và quyền xử dụng chùa Báo Thiên trong suốt 125 năm qua.
Việc này, từ khi nước nhà độc lập từ năm 1945 đến nay, chưa hề có.
Giáo hội Công giáo Việt Nam hiện nay là người thừa kế của Hội Thừa Sai Pháp, cả hai đều là một tổ chức tôn giáo phụ thuộc vào Vatican và thay nhau đại diện cho Thiên Chúa giáo La Mã trên lãnh thổ Việt Nam. Nguyên tắc căn bản của luật thừa kế, áp dụng cho cá nhân, đoàn thể và quốc gia, đồng thời cũng áp dụng trong luật quốc tế và trong luật của các nước, là chủ thể thừa kế được hưởng những quyền lợi, là thừa hưởng những tài sản, và đồng thời phải có trách nhiệm là phải gánh chịu những nợ nần của chủ thể đã qua đời hay không còn tồn tại. Trong luật gọi là những tích sản và những tiêu sản.
Chủ thể thừa kể không thể chỉ nhận lãnh những tích sản, và chối bỏ không nhận lãnh những tiêu sản. Giáo hội Công giáo Việt Nam đã và đang thừa hưởng hầu như trọn vẹn tất cả tài sản, nhất là những bất động sản, của Hội Thừa Sai Pháp, cụ thể nhất là hiện nay Giáo hội này đang thừa hưởng một nhà thờ, gọi là nhà thờ Lớn, và cũng đang đòi hỏi một cơ sở khác, gọi là tòa Khâm Sứ, trên lô đất mà suốt 826 năm thuộc về chùa Báo Thiên của Phật giáo Việt Nam. Nên giáo hội này cũng phải chịu trách nhiệm đối với sự cướp đoạt bất công và phi pháp chùa Báo Thiên năm 1883 của giám mục Puginier thuộc Hội Thừa Sai Pháp, với sự cấu kết của thực dân xâm lăng và những kẻ Việt gian tay sai. Kẻ cướp đất chùa Báo Thiên năm 1883 là giám mục Puginier, ông này mấy năm sau đó, đế đáp lại món quà mà thực dân Pháp đã ban thưởng cho ông là lô đất của chủa Báo Thiên, nơi có vị trí đẹp vào bậc nhất Hà Nội, nên đã huy động, qua một linh mục Việt gian tay sai là Trần Lục, đem 5.000 giáo dân Việt Nam, cùng với quân Pháp tấn công chiến lũy Ba Đình của anh hùng dân tộc Đinh Công Tráng. Ba Đình thất thủ, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam sụp đổ. Trước đó, tổng đốc thành Hà Nội, và cũng là anh hùng dân tộc Nguyễn Tri Phương, sau khi thành Hà Nội thất thủ và bị giặc Pháp bắt giữ, đã nhịn ăn để chết vì nước, trước khi mất, ông đã mắng vào mặt tên giám mục Puginier đến giở trò đạo đức giả để dụ hàng ông : "Hẳn rằng ông đã hài lòng lắm, vì nhờ sự tiếp tay của ông, và những mưu kế của ông mà lũ ăn cướp người Pháp đã cướp mất xứ Nam Kỳ của chúng tôi, và rồi chúng sẽ còn cướp nốt xứ Bắc kỳ nữa" (Le Tonkin, Paris, 1888).
Giám mục thực dân Puginier đã ca ngợi giáo dân Việt Nam tiếp tay đắc lực cho sự xâm lăng, chiếm đóng suốt gần 100 năm của thực dân Pháp trên quê hương chúng ta như sau: "Không có giáo dân Việt Nam hổ trợ thì Pháp như con cua bị bẻ gãy càng, không có cách nào có thể xâm chiếm nổi Việt Nam" (André Masson, sách đã dẫn). Puginier đang ca ngợi các tín đồ phản quốc của ông, và đồng thời cũng đang ca ngợi chính mình, vì ông là người lãnh đạo họ trong suốt thời gian lịch sử ăn cướp ô nhục này, vừa tàn phá, cướp nước Việt Nam, và vừa phá hủy, cướp đất chùa Báo Thiên. Nhưng lời tự ca ngợi này, trước công lý lịch sử, lại chính là lợi nhận tội chân thành nhất, đầy đủ nhất, chính xác nhất của Vatican, của các đoàn truyền đạo Thiên Chúa giáo La Mã và của Công giáo Việt Nam đối với đất nước và nhân dân Việt Nam.
Tuy chùa Báo Thiên đã bị cướp đoạt một cách bất công, phi pháp trong suốt 125 năm qua bởi giám muc thực dân Puginier thuộc Hội Thừa Sai Pháp, và tiếp tục bị chiếm đoạt một cách bất công, phi pháp, bởi kẻ thửa kế của Hội Thừa Sai Pháp là Giáo hội Công giáo Việt Nam. Nhưng điều này không có nghĩa là công lý sẽ không có ngày được thực thi trên quê hương Việt Nam.
Giáo Hoàng John Paul II đã thú nhận bảy núi tội lỗi của đạo Thiên Chúa giáo La Mã trong 2.000 năm qua đối với nhân lọai, trong đó có tội đi truyền đạo bằng bạo lực. Trên con đường truyền đạo bằng máu và nước mắt này Vatican, Hội Thừa Sai Pháp và những chủ thể thừa kế tại các quốc gia địa phương đã cướp dựt, chiếm đoạt bất công, phi pháp rất nhiều bất động sản của các tôn giáo khác, đây cũng là những di sản văn hóa của các dân tộc mà Vatican muốn hủy diệt để xóa bỏ bản sắc văn hóa đặc thù của các dân tộc hầu dễ dàng nô lệ hóa nhân dân các nước, nhất là ở châu Mỹ La tinh, châu Phi và châu Á. Việt Nam là một bằng chứng điển hình, nổi bật nhất. Và chùa Báo Thiên, nhà thờ Lớn Hà Nội, và tòa Khâm sứ là một lời tố cáo những núi tội lỗi đối với Phật giáo và dân tộc Việt Nam của Vatican, của Hội Thừa Sai Pháp và của Giáo Hội Công giáo Việt Nam một cách sống động, hùng hồn nhất.
Hôm nay công lý lịch sử đang lên tiếng. Sẽ có một ngày công lý pháp luật sẽ được thi hành. Chùa Báo Thiên, bị giặc Tây phá hủy từ năm 1883, và tháp Báo Thiên, bị giặc Tàu phá hủy từ năm 1426, sẽ vươn cao trên bầu trời Thăng Long như trong thời đại Lý Trần vinh quang.
Lễ hội chùa Báo Thiên, một trong những lễ hội lớn nhất tại kinh thành Thăng Long, sẽ trở về như đã trở về mỗi năm trong tháng giêng, ngày Tết, suốt 826 năm từ thời vua Lý Thánh Tông năm 1057 đến năm 1883, năm giáo sĩ thực dân Puginier phá hủy chùa Báo Thiên cổ kinh, linh thiêng và khi đó vẫn còn nguy nga, bề thế, như là ngôi chùa lớn nhất kinh thành Thăng Long.
Sẽ có một ngày, tiếng đại hồng chung 12.000 cân của chùa Báo Thiên sẽ vang dội cả kinh thành Thăng Long. Và ngày đó mới xứng đáng là ngày kỷ niệm Một Ngàn Năm Thăng Long, Một Ngàn Năm Rồng Bay.
Chính sử ghi rằng năm 1057 vua Lý Thánh Tông đã phát 12.000 cân đồng để đúc chuông chùa Báo Thiên. Kích thước của chuông chùa thường tương ứng với kích thước của ngôi chùa. Chùa Thiên Mụ tại Huế có đại hồng chung nặng hơn 3.000 cân, và đây là một ngôi chùa lớn nhất, tráng lệ nhất miền Trung khi được trùng tu trong thời chúa Nguyễn Phúc Chu. Chuông chùa Báo Thiên nặng và lớn gấp bốn lần chuông chùa Linh Mụ thì ta có thể ước đoán là chùa Báo Thiên nguyên khởi, khi được xây dưới thời vua Lý Thánh Tông, lớn lao, hùng tráng gấp vài ba lần chùa Linh Mụ, nghĩa là đây là ngôi chùa lớn nhất của Việt Nam trong thời hưng thịnh nhất của Việt Nam, thời Lý Trần từ đầu thế kỷ 11 đến cuối thế kỷ 14.
Sau khi đánh đuổi quân Minh, vua Lê L ợi đã đến hồ Lục Thủy trả lại gươm thần cho rùa thần, từ đó nhân dân gọi hồ Lục Thủy là hồ Hoàn Kiếm. Khi đó tháp Báo Thiên đã không còn, giặc Minh vừa phá tháp để làm công sự, trước khi chúng đầu hàng rút chạy về Tàu. Khi đó chuông chùa Báo Thiên cũng không còn, vì giặc Minh đã nấu chuông lấy đồng làm binh khí. Cũng từ đó thời đại quân chủ Phật giáo Lý Trần vẻ vang suốt bốn thế kỷ đã không còn, và đất nước bắt đầu thời đại quân chủ Nho giáo. Và Việt Nam bắt đầu chu kỳ suy tàn, tan rã, yếu hèn, sa đọa và tủi nhục.
Chủ đạo văn hóa, chính trị truyền thống, trên nền tảng từ bi, bao dung, khai phóng cúa đạo Phật cần phải được phục hưng đế Việt Nam có được một kỷ nguyên dựng nước mới, một cuộc cách mạng phát triển mới, và bắt đầu 1.000 năm Rồng Việt chuyển mình tung bay.
Lý Khôi Việt
(Câu Lạc Bộ Phật Giáo Thăng Long)
Phần II: Chương Ba:
Cuộc Viễn Chinh Của Garnier
Nội Chiến và Chính Sách Của Philastre
2/- CAI TRỊ CÁC VÙNG BỊ CHIẾM :
Theo kế hoạch đã soạn sẵn với đô đốc của y trước khi lên đường, Garnier phải thực hiện bất ngờ và kết thúc mộng ước mà các kẻ truyền đạo Bắc kỳ nuôi dưỡng từ lâu : Lập một kẻ mạo xưng con cháu nhà Lê lên ngôi ở “nước” Bắc kỳ độc lập.[11]Bằng lời nói, bằng tuyên ngôn, bằng bích chương, Garnier đã cho dân chúng Bắc kỳ biết ý định đó ngay sau hôm y đến Hà Nội. Sau khi chiếm thành trì của thủ đô này, y được lệnh phải chú tâm nghiêm chỉnh đến kế hoạch đó. Dupré viết cho y : “Vậy ông cần phải nổ lực tìm kiếm để biết những kẻ muốn lên làm vua ở Bắc kỳ, uy tín của chúng, giá trị cùng mức độ được lòng dân ở mỗi người, để có thể công bố, nếu chúng buộc phải đi đến biện pháp cực đoan nầy, ai may mắn nhất để quy tụ đa số dân chúng theo mình.”[12]
Dupré trình bày ý kiến đó cho Bộ trưởng trong văn thư ngày 1-12-1873 :
“Tôi hết sức tiếc, nếu mặc kệ cho các cố gắng kiên nhẩn của tôi, những lời yêu cầu khẩn thiết mà lần này chính phủ vẫn không nghe, tôi bị buộc dùng các biện pháp để bảo đảm độc lập của Bắc kỳ. Thưa ngài Bộ trưởng, các biện pháp đó là lời tuyên bố chủ quyền của một người trong dòng họ bị cướp ngôi mà hiện vẫn giữ được sự ủng hộ của một sồ lớn người trong xứ, theo lời yêu cầu của tôi, vị Tổng đốc lưỡng Quãng đã cho rút quân ra khỏi xứ này, muốn phục hưng triều đó lại, và muốn nước Pháp bảo đảm, che chỡ cho vị vua mà Pháp đặt lên ngôi. Tôi tin tưởng rằng giải pháp hiện đang được ông Garnier khuyên thực hành này, rất được các giám mục ham thích, sẽ không gây bối rối gì cho chúng ta, cũng không tạo nên khó khăn gì trong việc bảo hộ triều đình Huế, với lý do đó, hẳn ngài đồng ý.”[13]
Vì thế, người ta ra công tìm kiếm các ông Hoàng nổi tiếng nhà Lê được dân Bắc kỳ yêu kính và quy tụ được dân chúng quanh họ. Bị tiêm nhập lời tuyên truyền của các kẻ truyền đạo, Garnier và đồng bọn tin rằng giải pháp nầy nhất định thực hiện được, sẽ giúp cho người Pháp làm chủ hoàn toàn xứ Bắc kỳ. Thư sau đây của Harmand gửi thiếu tá Esmer đã phản ảnh niềm tin chất phát đó, Viên y sỉ được bổ nhiệm làm công sứ Nam định viết : “Nếu tôi có tiếng nói trong các cuộc thảo luận, tôi sẽ tìm lại sự phối hợp mà ngay từ đầu tôi thấy là tuyệt hảo, rất khôn khéo, có thể thực hiện được đầy đủ bằng các phương tiện hạn chế của tôi. Tôi muốn nói đến dòng họ nhà Lê. Theo tin tức mà tôi thu lượm được, dòng họ này, như ông đã biết đã trị vì gần 4 thế kỷ ở vương quốc Bắc kỳ, đã bị vua Gia Long tài ba đánh đổ, nhưng vẫn còn rất được lòng ở đây . Tại Nam Định, dân chúng mong muốn và tin rằng chúng ta đến đây để phục hưng nó. Vì người ta tin là điều người ta muốn, niềm hy vọng nầy là một triệu chứng rất quan trọng. Tôi gần như tin chắc rằng tại vùng Tam Đoài, Roan Quế, đa số các lãnh tụ Văn Thân bị ông Garnier treo giá cái đầu rất cao và hiện giờ vẫn còn quy tụ rất nhiều khí giới, binh sĩ, sẽ theo về với chúng ta ngay khi cờ chúng ta cắm để đánh dấu và tuyên bố nước Pháp bảo vệ nhà Lê . Ngay từ bây giờ, tôi gần như nhúng tay vào việc thúc hối cả toàn tỉnh nổi dậy chống lại vương quốc An Nam .
Có lẽ Vua Tự Đức sẽ sợ hãi đến nổi không dám chiến tranh. Việc của ông là đào cho ra một người họ Lê gần như chính thống và đặt lên ngôi của ông cha y một cách long trọng.
Ông vua do chúng ta chỉ định đó, mọi việc đều nhờ chúng ta, không phải là tay sai dễ bảo của chúng ta sao ? V
ới một số quân trú phòng nhỏ bé, ít tốn kém, chúng ta sẽ làm chủ hoàn toàn xứ Bắc kỳ. Về điều nầy, chúng ta chỉ tổ chức rập khuôn nền bảo hộ của Anh ở Ấn Độ và tránh những lỗi lầm hằng ngày của chúng ta ở Cambodge. Còn xứ An Nam , chúng ta không có gì để bận tâm, phải sợ hãi, sẽ chết vì hao mòn, vì đau khổ. Tôi tin rằng chúng ta sẽ thực sự phụng sự nước Pháp.”[14]
Nhưng các ông Hoàng nhà Lê mà các kẻ truyền đạo hết lòng tán dương về việc được lòng dân đó, có thực có hay không ? Khi Garnier yêu cầu Giám mục Puginier tìm cho một người, y hết sức ngạc nhiên khi nghe ông này khuyên nên bỏ dự định đó đi. Lý do thật đơn giản, các ông Hoàng đó chỉ có trong chuyện hoang đường mà các kẻ truyền đạo bịa đặc ra.
Bốn mươi năm về sau, Jules Harmand mà chúng ta vừa trích bức thư trên, đã tiết lộ cho một người viết sử về vấn đề ly kỳ này, y nói với CH.B.Maybon :
“ Quả tình, có thể vì chịu ảnh hưởng về các biến chuyển của cuộc chiến tranh lạ thường mà chúng tôi có ít thời giờ suy nghĩ này và cũng do ý kiến của các nhà truyền đạo, tôi đã tưởng là đã sử dụng hữu ích trong nhất thời các con cháu nhà Lê. (tôi có một người “tướng” Thiên chúa là Lê văn Ba trong đám quân nhỏ bé của tôi ở Nam Định, ông ta đã giúp tôi được nhiều việc, Đó là một người rất can đảm). Nhưng tôi đã không chậm trể mà nhận rằng sự tin tưởng đó sai lầm. Không có lợi lộc gì khi sử dụng các kẻ hoặc ít hoặc nhiều mang huyết thống nhà Lê, và nếu có dùng được, tôi tin rằng đó là một lỗi lầm to lớn mà hậu quả chắc phải đè nặng lên việc làm của chúng ta.”[15]
Thiếu một “ông Hoàng” để lập một nước Bắc kỳ độc lập, Garnier bắt buộc phải lập nền cai trị Pháp, Y chiêu mộ các toán quân bổ sung (theo linh mục Louvet có đến 20.000 người) và bổ nhiệm các công chức dân sự. Các quan lại bèn chạy trốn trước quân đội Pháp hoặc tỏ thái độ thù nghịch, các sĩ quan Pháp đưa ra những lời kêu gọi và “vung vải tiền bạc”[16] để kiếm người thay thế cho những người bỏ trốn. Một đám đông gồm những kẻ chống đối chạy xô lại. Phần đông là các nhà nho đói khát, các đầu đảng trộm cướp và các tín đồ Thiên Chúa giáo, nhất là họ tin giờ phục thù đã điểm. Còn đám gọi là binh sĩ, thì theo lời thú nhận của Balézeaux và Harmand chỉ là đám ô hợp, rách rưới không vũ khí, việc họ có mặt trong thành chỉ làm bực mình và gây phiền phức cho người Pháp mà thôi.
Danh sách công chức dân sự và quân sự mà Garnier bổ nhiệm chỉ riêng cho Hà Nội thôi cũng đã đến tập dầy. Giám mục Puginier giúp đỡ cho Garnier trong việc bổ nhiệm vội vã nầy mà thep Balézeaux “rất cần phải thanh lọc lại.”[17]
Các thư sau đây của Harmand gửi cho Garnier và thiếu tá hải qiân Testard du Cosquer, chỉ huy tàu “Décrès” cho chúng ta biết thứ “công chức” và “lính” mà người Pháp dùng trong khi chiếm đóng đó là gì.
“Suốt ngày tôi tiếp những người tự xin điều khiển các binh lính mà họ tụ tập thành từng toán 100, 150, ..v.v.. họ đều được các cha xứ gởi gấm, nhưng ta cố phản ứng, không mích lòng một ai, chống đối lại khuynh hướng tràn ngập của các tín đồ Thiên Chúa, đó
là việc mà vị Thống đốc biết rất kỷ”(thư gửi Garnier ngày 16-12-1873.[18]
Cho đến bây giờ tôi bận rộn đến nổi chưa có thể ra khỏi túp lều để đi tuần tra- chắc là tối mới đi được. Từ sáng đến tối, một hàng người đã quy tụ được một ít người đó, nối tiếp đến xin võ trang, xin cấp phiếu nhận tiền, khí giới, gạo..v.v..và v.v…. Những người xin làm tri phủ, tri huyện không nhiều. Dù ngài thúc dục, tôi sợ rằng quá vội vã chúng ta sẽ làm sai, bổ nhiệm những kẻ hư đốn mà dân chúng không ưa thích, cũng cần phải nể vì tình cảm tôn giáo tế nhị. Có lẽ không khôn ngoan gì hơn khi bổ nhiệm, lúc nầy, các người chỉ huy quân sự đồng thời lại kéo dài thời gian để lựa chọn các viên chức hành chánh, dĩ nhiên, những ai mà tôi không sợ khi bổ nhiệm, sẽ được bổ ngay. Tôi muốn có ý kiến ngài về điều đó, tôi hết sức tiếc là ở quá xa ngài, sự thiếu kinh nghiệm trong tình thế như thế này đè nặng tôi và lúc nào tôi cũng sợ lỡ bước.”[19] Tôi vẫn cứ tiếp khách mãi : Họ nối đuôi nhau trước túp lều tôi từ 7 giờ sang cho đến tối, tôi phải tiếp mãi những người đến khiếu nại hay xin xỏ, kẻ thì đến xin được giúp đỡ và che chỡ, kẻ thì tụ tập được một số người, rồi đến xin khí giới để trang bị và bằng cấp để chỉ huy, sau rốt có kẻ, và đây là số đông, đến xin giúp việc như thư ký, công chức đủ hạng, cũng xin được đặc ân bổ làm tri phủ, tri huyện. Tất cả hình như hầu hết là tín đồ Thiên chúa giáo. một phần ở tỉnh tiếp giáp là Ninh Bình do các linh mục cử sang. Trong những trường hợp khó khăn, những tín đồ Thiên Chúa tỏ ra tham lam trơ trẽn, cũng như thiếu dè dặt và đầy ích kỷ ! Vì
quyền lợi của họ, tôi luôn luôn tìm cách làm dịu bớt phong trào. Trong phạm vi có thể được, tôi muốn bổ nhiệm người lương hơn là người giáo, có thể theo cả tỷ lệ số dân giáo và lương nữa, trước hết là không gây nên bất mãn tự nhiên trong xứ, ngoài ra lại vì người Công giáo bị gạt ra khỏi chánh quyền An Nam, không rành việc, hết sức mới mẽ trong việc hành chánh, hơn nữa họ ít biết chữ, gần như đều phát xuất từ giai cấp hạ đẳng , đó là những lý do đụng chạm mạnh đến tập quán An Nam. Vì tôi hiện phải lo vấn đề, tôi phải thành thật trình bày, không thiên vị gì ai . Chắc chắn là tín đồ Thiên Chúa đã giúp tôi rất nhiều việc quan trọng, nhất là họ làm cho việc mà ông Garnier giao cho tôi được dễ dàng. Họ xem việc chúng ta đến đây như là đánh dấu cho giờ phục thù và trả đũa, về phần họ, những nhà truyền giáo, ngay từ đầu, đã đưa ra những lệnh nghiêm nhặt, nhưng sau đó họ bị tràn ngập. Mỗi ngày tôi nhắc đến 10 lần “Các ông có nghĩ rằng chúng tôi đến đây để gây một cuộc chiến tranh tôn giáo không ? Chúng tôi đến đây với mục đích thuần tuý thương mại : Dù các ông có là giáo, là lương, là trung quốc, đều không quan trọng. Không nghi ngờ gì, chúng tôi rất sung sướng được giúp đỡ cho con chiên và chúng tôi hứa ủng hộ những kẻ bị ức hiếp. Nhưng xin các ông đừng lầm: Nếu chúng tôi đặt các người Thiên Chúa vào những chức vị quan trọng, đó là vì quyền lợi của xứ này, và nền hòa bình chung, mà chức vụ đó không thể bỏ trống và chúng tôi có sẵn các con chiên dưới tay, Nhưng nếu các quan lại cũ đến với chúng tôi, chúng tôi sẽ sung sướng chứng tỏ cảm tình và lòng yêu thích công lý của chúng tôi. Tôi nói thêm, không phải mọi người Pháp đều theo đạo Thiên Chúa , lý lẽ nầy khiến họ hết sức ngạc nhiên” (thư gửi Testard du Cosquer, 16-1-1874)[20]
Tóm lại, Các quan đều xa lánh, những tín đồ Gia tô và những kẻ bị xứ sở đào thải, những tên trôm cướp, tham lam mà một chính phủ bình thường có khép trong vòng trật tự đã nhào đến, Tín đồ Thiên Chúa, nhờ khí giới của Tây mà trở nên mạnh hơn, đã làm nhục tàn tệ đồng bào phi Thiên Chúa của họ. Đó là một sự hổn loạn không thể tả được mà sự cướp bóc đã thêm máu và lửa vào.
3/- GARNIER VÀ CÁC GIÁM MỤC:
Những giám mục Pháp, đặc biệt là Giám mục Puginier đã nồng nhiệt giúp đỡ Garnier.
Ngay khi đến Bắc kỳ, tên này đã gởi cho giám mục Puginier qua trung gian phái bộ
Dominicain Tây Ban Nha ở Hải Dương, một bức thư, trong đó viên trưởng phái đoàn Pháp trình bày các lý do chính thức của công tác và ý muốn thiết tha được nghe lời khuyên bảo của Giám mục, y viết : “…Tôi lật đật liên lạc với đại nhân mà kinh nghiệm chắc sẽ giúp tôi được nhiều …tôi mạn phép xin được nói thêm là một trong các bổn phận của tôi là nghe và nghiên cứu kỷ lưởng những khiếu nại chính đáng mà phái bộ ở Bắc kỳ có thể nêu lên chống lại chính quyền An Nam . Mục đích chính yếu của Đô đốc mà ngài quyết tâm đạt cho bằng được mọi cách là bình định vùng đất đẹp đẽ giàu có này, phải mở cửa buôn bán với nước ngoài, nhưng ngài vẫn đứng bên ngoài tôn giáo, tự hạn chế trong vấn đề chính trị, nhưng không dững dưng mà không thỏa mãn hoàn toàn một tín ngưỡng hiện có rất nhiều người theo ở Bắc kỳ…”[21]
Là một kẻ chủ trương điên cuồng việc chiếm Bắc kỳ, Giám mục Hà Nội, liền vội biểu lộ sự nồng nhiệt của mình trong trong thư sau đây gửi cho Đô đốc Dupré :
“Vừa đến Bắc kỳ ông Garnier liền trao bức thư mà Ngài đã có lòng gửi cho tôi, yêu cầu lại gặp ông ấy, và ông cũng yêu cầu tôi sắp đặt cho các quan An Nam mời ông lại. Hai ngày sau, khi ông đến, chúng tôi nói chuyện thật lâu với nhau ba lần khiến giúp tôi hiểu được ý kiến và mong ước của ngài. Tôi tin là có thể bảo đảm rằng Ngài sẽ gặp ở tôi các nhà truyền đạo, ở các con chiên, và tôi dám nói rằng , ở ngay các phần tử không đạo nữa, một sự giúp đỡ rộng rãi cho việc thực hiện ý muốn của Ngài. Ông Gernier đã biết được chút ít ý kiến và nguyện vọng dân chúng, ông ấy sẽ hân hạnh trình bày cho Ngài rõ. Phần tôi, thưa Ngài Đô đốc, xin ngài cho phép tôi gửi đến lời thỉnh cầu sau đây, cũng là lời thỉnh cầu của tất cả những người từ nay ở dưới sự che chỡ của Ngài. Thế lực của Pháp vừa mới lan rộng ra Bắc kỳ một cách hết sức đặc biệt, chúng tôi mong ước là luôn luôn mạnh và lâu bền. Chính phủ Pháp khi chấp nhận các nguyện vọng rất chính đáng đó, tôi hy vọng như thế, sẽ sớm gặt hái được kết quả của những hy sinh đó”[22]
Còn Giám mục Gauthier, ông ta dặn Garnier đề phòng các lời hứa hẹn thiện chí của triếu đình Huế và nhấn mạnh là y nên dùng sức mạnh vì đó là giải pháp duy nhất có thể đưa đến những gì quan trọng. Ông ta viết cho Garnier : “ Tin Ngài đến đã làm chúng tôi hết sức vui sướng và hy vọng một tương lai tốt đẹp cho dân tộc khốn nạn đáng được lưu tâm này, họ đã kéo dài một đời sống khốn khổ do sự ngu ngốc của những người cai trị họ. Trong thư mà Ngài Đô đốc vui lòng viết cho tôi, hình như Ngài Đô đốc tin rằng triều đình Huế có thể mang lại cho Ngài Đô đốc những bảo đảm đầy đủ, đầy thiện chí , phần tôi, được kinh nghiệm dạy cho tôi có thể xác nhận cái triều đình đó không có tí thiện chí nào, và sức mạnh, chỉ có sức mạnh mới đưa nó vào được và giữ lại được trong con đường bổn phận. Ngoài ra, Tự Đức không manh như người ta tưởng đâu, vì ông Dupuis với phương tiện rất đổi yếu ớt đã có thể khiến ông ta đi van nài ngài Đô đốc . tôi hy vọng và sung sướng được gặp Ngài và làm cho Ngài tất cả những gì làm được.”[23]
Thái độ của những nhà truyền giáo Tây Ban Nha [24] thì ngược lại. Họ tỏ ra lịch sự với người Pháp, nhưng không che dấu sự chống đối việc dùng vũ lực mà họ cho là có tai hại cho quyền lợi tôn giáo . Thái độ “hòa bình “ nầy, Giám mục Colomer, đại diện Tòa thánh ở Đông Bắc kỳ đã trình bày cho Đđ Dupré như sau : “…Ngài có mỹ ý cho tôi biết mục đích phái bộ của Đại úy Garnier. Tôi rất sung sướng nhận được tin đó và thiết tha mong Đại úy hoàn thành sứ mệnh trong hòa bình và hạnh phúc. Cùng mục đích, tôi tình nguyện làm tất cả những gì phù hợp với tính chất và hoàn cảnh của tôi , vì tôi tin rằng đạo Thiên chúa, và nói chung cả xứ này, sẽ được lợi nhiều khi êm thắm mở cửa cho thương mại và văn minh thiên Chúa Âu Châu vào.
Tôi không có điều gì hối tiếc khi hoặc vì thiếu sự thận trọng của triều đình Huế , hoặc vì bất cứ lý do nào khác, mà quý ngài dùng đến võ lực.
Trong trường hợp đó…xin ngài cho phép tôi được nói ngay trong lúc này là sứ mệnh của chúng tôi, sứ mệnh hòa bình, và lý do độc nhất khiến chúng tôi ở trong vương quốc An Nam là giảng đạo Thiên Chúa, không dính líu gì đến các vấn đề chính trị, bổn phận chúng tôi là duy trì chặt chẽ trong giới hạn của mục tiêu đó để không làm tổn hại đến quyền lợi tôn giáo.”[25]
Giám mục cũng lấy lại các ý kiến đó trong thư gửi Garnier ngày 18-11. Sau khi xác nhân lại với viên sĩ quan Pháp và với “ngài Đô đốc” những thiện cảm “đối với các đứa con cao quý của nước Pháp” và sự thỏa thuận hợp tác “trong việc dùng đạo Thiên Chúa Châu Âu để khai hóa vương quốc An Nam này trong giới hạn của chúc vụ thiêng liêng”, ông ta bày tỏ “một sự dè dặt để trong trường hợp va chạm bất ngờ đau khổ giữa hai quốc gia chúng ta, mọi người hãy biết rằng cho rằng dù thế nào tôi cũng không thể làm hại chức vụ thiêng liêng vì các lý do rõ ràng chính trị.”[26]
Chúng ta thấy khác với thời kỳ Bonard, những người truyền giáo Tây Ban Nha, năm 1873, rõ ràng chống đối lại một cuộc can thiệp võ trang ở Bắc kỳ, điều đó thật dễ hiểu :
Về phương diện chính trị, Tây Ban Nha không có lợi gì, vì họ vắng mặt ; Về mặt tôn giáo, một sự can thiệp như thế sẽ có thể làm hỏng tình trạng hòa bình mà họ đang sống, cùng những liên lạc tốt đẹp mà họ có được với nhà cầm quyền Việt Nam kể từ khi có hiệp ước 1862. Vì thế, những người truyền giáo Tây Ban Nha vừa thường xuyên giúp sĩ quan Pháp, lại cũng luôn luôn yêu cầu họ vui lòng để pháo bộ truyền giáo của mình đứng ngoài mọi tranh chấp chính trị và nhất là mọi hành động hiếu chiến.
Sau khi chiếm Hà Nội, Garnier yêu cầu Giám mục Colomer và các tín hữu Tây Ban Nha cho y rõ thái độ của nhà cầm quyền Hải Dương, Quãng Yên, Bắc Ninh cũng như cho y biết trước những biện pháp thù nghịch có thể có của nhà cầm quyền chống lại y hay chống lại các nhà buôn nước ngoài. Y nói, những tin tức đó cho phép y “thực hiện hiệu nghiệm hơn, chắc chắn hơn sự bảo vệ” mà y có nghĩa vụ đối với họ.[27]
Giám mục Colomer, trong khi cảm tạ viên sĩ quan Pháp về việc che chỡ đặc biệt mà viên sĩ quan này tin là cần đem lại cho phái bộ Tây Ban Nha trong trường hợp có thể xảy ra biến cố đe dọa sinh mạng hay làm tổn hại sứ mạng của nó. Giám mục lại cho u biết rằng “cho đến bây giờ nhờ Thượng đế, chúng tôi khá yên ổn và không sợ tí nào về sự yên ổn đó có thể bị phá hoại.”[28]
Nhưng Garnier bị các linh mục Pháp thúc đẩy, lao mình vào việc xâm chiếm vùng đồng bằng và đưa chiến tranh vào các vùng do Giám mục Tây Ban Nha truyền đạo.
Thư sau đây của Gm Colomer gửi Garnier sau khi Gia Lâm bị chiếm đóng được trích dẫn nguyên văn vì nó cho thấy ba điểm chính yếu : Trước hết, những người truyền giáo Tây Ban Nha không tán thành việc xâm lăng thực dân của một nước không phải nước họ ; thứ hai, trái với luận điệu tuyên truyền của những người truyền giáo Pháp, đạo Thiên Chúa cùng các người phụng sự nó được chính quyền Việt Nam coi trọng, đối xử tử tế và rất kính nể ; Thứ ba, gian ý trong vụ Bắc kỳ là thuộc về phía người Pháp chứ không phải về phía người Việt Nam như các người truyền đạo và các sử gia thực dân xác nhận.
“ Thưa Ông,
Đối tượng của thư này không gì khác hơn là nói với ông rằng bổn phận của tôi là duy trì hòa bình tôn giáo trong địa hạt tôi, và tôi thấy nó hiện đang bị xáo trộn khi mà theo lệnh của ông, người ta đem thực hiện các kế hoạch trong các tỉnh mà quyền lãnh đạo tôn giáo đã được giao phó cho tôi, tôi không thể làm điều gì khác hơn là xin ông chú ý cho điểm này để tránh những hậu quả không hay.
Vì chức vụ của tôi, tôi không có nghĩa vụ đặc biêt nào khác đối với các tỉnh ở phía bên này sông Hà Nội, ông nên cố nghe theo những gì tôi trình bày trong thư này khi mà tâm trí tôi không can dự gì vào những biến cố xảy ra ở thủ đô này.
Trước hết, tôi nói rằng hòa bình tôn giáo bị quấy phá không phải bởi các quan An Nam mà bởi những lý do khác, nên tôi muốn ông lưu tâm đến. Trước khi chứng minh lời xác nhận ấy, tôi xin lưu ý ông rằng từ khi hai nước đồng minh Pháp và Tây Ban Nha, ký các hiệp ước hòa bình với Vương quốc An Nam, các nhà truyền giáo Tây Ban Nha đã sống hòa hợp hoàn toàn với các quan An Nam, và trong nhiều dịp, họ cũng đã biểu lộ cãm tình đối với đạo Thiên Chúa và các người của chúng tôi cũng ngang với các nhà cầm quyền ở các nước Châu Âu. Nếu có một vài ngoại lệ nào, chỉ cấn kêu gọi đến các nhà chức trách cao cấp của vương quốc là đủ để sửa chửa lại ngay. Ngoài ra. Tôi biết rằng, các quan ở các tỉnh này luôn luôn lo (thích thú nữa) đãi đằng xứng đáng những người châu Âu có mặt trong tỉnh thành họ như các giám mục Gauthier, ông Senez và nhiều người Pháp khác đã chứng kiến khi đến thăm các tỉnh thành này vào tháng 11 năm ngoái. Tôi không hề nghi ngờ rằng họ sẽ không đối xử như thế với ông và các bạn khả kính của ông nếu các ông có một thái độ hòa bình trong bất cứ tỉnh lỵ nào có các phái bộ Tây Ban Nha. Rủi thay, biến cố Hà Nội xảy ra đúng lúc các quan ở những tỉnh đó sẵn sàng đón tiếp các ông (ông và bạn bè ông) sẽ khoản đãi thân mật và vinh dự.
Sự “đột kích” bất ngờ vào Hà Nội và bức thư nghiêm khắc (lời trách mắng) mà ông gởi cho họ, làm cho họ sửng sốt và hết sức bối rối, một biến cố quá quan trọng (trác tuyệt) như thế, chỉ có thể gieo rắc thêm nghi ngờ trong tâm trí đa số người trong bọn họ.
Thưa ông, chúng ta hãy thành thực, điều đó thực là tự nhiên ở những ai có một ý cỏn con lòng yêu nước.
Vì sợ một kết quả khác và căn cứ vào lời của vị sĩ quan mà ông phái đến tôi lúc này, qua trung gian các thầy giảng, tôi cố gắng trấn tỉnh lại linh hồn (tâm trí) các nhà cầm quyền An Nam, nói với họ là nếu họ cư xử tốt, hành động hòa bình đối với người Âu, họ không có việc gì phải lo sợ, biến cố Hà Nội là một ngoại lệ và nhất thời, nó chỉ liên hệ đến các quan ở tỉnh thành đó, nghĩ khác đi là làm nhục tinh thần hiệp sĩ của người Pháp; vì thế, tôi khuyến khich họ cố giữ thái độ hòa bình như trước, và nhân danh danh dự Châu Âu, tôi hứa với họ là người Pháp không làm họ phải lo sợ, và không vi phạm quyền lợi quốc gia của họ nếu chính họ không khiêu khích, Vì thế, tinh thần các quan yên tỉnh lại, các quan cai trị tỉnh Bắc Ninh chỉ yêu cầu tôi tin cho ông biết rằng các chuẩn bị của họ là để đánh những kẻ làm loạn người Trung hoa và người An Nam nổi dậy trong những tỉnh, chứ không nhằm chống lại người Âu nếu người Âu đến tỉnh thành, họ sẽ hết lòng đón tiếp. Lo lắng cho hòa bình, bình yên cho các tín đồ mới theo, lo lắng cho danh dự Châu Âu, tôi nuôi hy vọng rằng không có đụng độ nào xảy ra tại phần đất của các nhà truyền giáo Tây Ban Nha, thì đúng ngay ngày tôi tin ông biết về thái độ tốt đẹp của các quan tại những tỉnh ở đây đối với người Âu, tôi lấy làm buồn khi biết người Au đã dùng sức mạnh để chiếm Gia Lâm thuộc tỉnh Bắc Ninh cách chổ tôi ở không xa, sau đó tôi rất buồn khi biết tỉnh thành phía Đông cũng bị chiếm.
Dù tôi cố gắng tìm hiểu, vẫn không ai đưa ra được lý do nào thỏa mãn cả. Thưa ông Chỉ huy trưởng, các hành động thù nghịch chống lại dân bản xứ đó, tự chúng đã đầy ý nghĩa và vì tôi sợ chúng mở màn cho những biến cố quan trọng hơn, tôi xin được tự do trình bày với ông là các hành động ấy đã làm hạ giá trị trầm trọng tôn giáo, tính chất và danh tiếng Châu Âu ở xứ nầy. Từ nay tôi còn được tín nhiệm gì và còn mặt mủi nào trước các vị quan ấy vì đã nói với họ tin vào lời nói người Âu và đừng lo lắng gì nếu tự họ không sinh chuyện, người An Nam sẽ nghĩ gì về những Giám mục truyền đạo và các người Âu khác khi thấy họ hành động khinh xuất như thế ? Họ phải nghi ngờ tất cả, không phân biệt người nào, nước nào, và họ nhớ đến các sự bách hại (như đã bắt đầu tái diễn, nhất là ở tầng lớp dân thường) chống lại tôn giáo mà chúng ta rao giảng cũng như chống lại người Âu và các con chiên An Nam. Thưa ông Chỉ huy trưởng, tôi sẽ quên tính chất thiêng liêng của tôi nếu trong những trường hợp khó khăn này, nếu tôi không có thái độ nghiêm trọng trình bày cho ông thấy những điều bất lợi thực thụ mang lại cho đạo Gia Tô, nếu ông vẫn tiếp tục hành động như thế. Xin ông tha thứ cho về việc tôi nói với ông một cách thẳng thắng, thân mật như thế, vì tôi không hề có một ý nghĩ nào muốn xúc phạm đến ông. Chúa đã tách rời tôi ra khỏi một ý định như thế, chỉ có nghĩa vụ mà chức vụ giám mục trong ngày tấn phong đã định cho tôi là phải làm việc thiện cùng tạo nên danh dự, tiếng tăm cho đạo giáo, và cãm tình của tôi đối với đứa con cao quý của nước Pháp, tôi hằng cầu mong sự thịnh vượng đó, chỉ có những điều này mới là động cơ cho những lời yêu cầu của tôi. Và để cho ông không còn nghi ngờ về những sự trong sạch của tôi trong việc muốn làm điều thiện chung, để ông tin những tình cảm của tôi đối với ông. Nếu ông cảm thấy thuận tiện, tôi hết sức sung sướng được bàn bạc lâu dài với ông trong một cuộc thảo luận có cả giám mục Puginier hoặc bất cứ một nhà truyền giáo người Pháp nào để làm sáng tỏ mọi điểm. Điều này không thể nói hết trong một lá th
Thưa ông Chỉ huy trưởng, tôi phải nói thêm vào những điều đã nói, là nếu với tư cách Giám mục tôi phải hành động theo lời chỉ dẫn của tôn giáo, với tư cách dân Tây Ban Nha, tôi không thể nhìn một cách dững dưng và bằng đôi mắt thanh thản khi quyền lợi tổ quốc tôi bị va chạm và nhìn nước Tây Ban Nha bị làm nhục, không nghi ngờ gì nữa, điều đó sẽ xảy ra nếu…chiếm đoạt các tỉnh đó mà không một lý do nào cả và không bảo toàn các quyền quốc tế khác cũng như quyền những phái bộ truyền giáo Tây Ban Nha ở Bắc kỳ
Tôi cũng muốn nói với ông về cách thức các ông làm nhục nếu những đều người ta kể lại với tôi là đúng, đất nước đau khổ và yếu đuối này bằng tàu chạy hơi nước mà các ông đem vào các tỉnh thành, khi đáng lẽ ra nên dành lại cho một cơ hội thuận tiện hơn.
Thưa ông Chỉ huy trưởng, tôi cảm thấy hết sức đau đớn khi phải nói một cách cương quyết như thế với một người đại diện nước Pháp, những việc tốt lành của tôn giáo, lòng lo lắng cho hòa bình và hòa hợp tốt đẹp, danh tiếng của Châu Âu và sự thịnh vượng của những tín đồ thân mến mới theo buộc tôi phải nói như thế.
Thưa ông Chỉ huy trưởng, đó là những tình cảm của tôi, dù bất cứ việc gì xảy ra, tôi vẫn tnậ tâm với ngài.”[29]
Viết sai tiếng việt, thư sau đây của một người truyền giáo Tây Ban Nha khác, Giám mục Riano Hoa còn diễn đạt đúng hơn thư trên, nỗi giận giữ của các linh mục Tây Ban Nha trước việc làm của Pháp :
“Tôi đã cho người tìm hiểu nơi đó, tôi biết rõ ràng vì mục đích gì mà tàu bè Pháp ra đằng ngoàì. Lòng tôi đau đớn, tối tăm và buồn bã khi hay tin Hà Nội,v.v.. bị chiếm. Ban đầu tôi không tin về các tin khác thường này, tôi không hiểu những lý do (nguyên văn: mâu thuẫn và thù nghịch )[30] các luật của đời sống nhưng sau cuộc điều tra tỉ mỉ về các lý do đó dù tôi không tin (sic) tôi nhận thất rằng nước Pháp có ý định chinh phục toàn thể đàng ngoài và có thể toàn quốc nữa. Vì thế, với tư cách Giám mục, toi thương xót cho bầy cừu của tôi và nhân danh đạo Thiên Chúa mà nước Pháp đang làm tổn thương, nhân danh nước Tây Ban Nha mà nước Pháp đang không kính nể và tỏ ra rất khinh bỉ, với tư cách người Tây Ban Nha tôi lên tiếng phản đối và trình bày bằng tất cả tấm lòng, bằng tất cả sức lực của tôi trước nước An Nam, trước các nước Châu Âu, các bất công, bất chính của Pháp. Nhân danh đạo Thiên Chúa, nhân danh nước An Nam và nhân danh nước Tây Ban Nha cũng như các nước Châu Âu, tôi yêu cầu nếu hiện giờ ông không thể phục hồi lại tình trạng cũ và chấm dứt mọi hành động thù nghịch thì ít nhất ông cũng để nguyên vẹn các tỉnh, phủ, huyện, tổng, làng, xóm mà Đức Thánh cha đã chỉ định cho các Giám mục và các nhà truyền giáo Tây Ban Nha rao giảng.
Tôi không muốn phá rầy ông, nhưng đã đến lúc tôi phải nói, nếu lúc nầy mà tôi im lặng là tôi thiếu sót trong bổn phận mình vì nếu bây giờ mà tôi làm thinh là tôi hành động trái lương tâm của mình.”[31]
Sau khi chiếm các thành ở bờ trái sông Hồng, người ta tìm cách lôi kéo các người truyền giáo Tây Ban Nha, những người này vẫn vừa giúp đỡ quân xâm lăng, vừa miển cưỡng chấp nhận các biến cố. Những báo cáo của Balny d’Avricourt, viên chỉ huy quân sự Hải Dương, xác nhận điểm này. Viên sĩ quan này không biết tí gì về tỉnh ấy và cũng không có kinh nghiệm chính trị, hành chánh đã yêu cầu Giám mục Colomer đến ngay để làm trung gian giữa y và tuần phủ Hải Dương vũng như làm cố vấn cho y về việc tổ chức lại tỉnh này. Giám mục Tây Ban Nha làm thỏa mãn lòng ước muốn của tên xâm lược nhưng không che dấu sự lạnh nhạt.[32]
Nhưng cũng nên nói rõ, với các giám mục Tây Ban Nha khác, sự thù nghịch kém rõ ràng hơn, ít nhất thì cũng ở bề ngoài và một người trong họ, Giàm mục Cézon cho thấy hết sức sẵn sàng giúp đỡ người Pháp “trong những việc quan trọng mà tôi không thễ lẫn tránh.”[33]
Tóm lại, thái độ những người truyền giáo Tây Ban Nha đã do hai điểm lo lắng ấn định ; lo cứu vãn được chừng nào hay chừng đó sự bình yên trong giáo khu của mình và lo giữ gìn không để bị ô danh trước mắt nhà cầm quyền và dân chúng Việt Nam . Nhờ sự de dặt đó họ đã thành công khá nhiều trong việc giữ cho địa phận họ tránh được thảm họa nội chiến làm đẫm máu ở các tỉnh hữu ngạn thuộc quyền Giám mục Pháp
(còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét