Những khó khăn và sai lầm của Pháp
Chiến tranh toàn quốc
kháng chiến bùng nổ ngày 19-12-1946, những năm 1947, 1948 Việt Minh (VM) nói
chung yếu, họ rút vào những chiến khu tiêu thổ kháng chiến. Sang năm 1949 tình
hình thay đổi hẳn khi Trung Cộng chiếm trọn vẹn nước Tầu,
Việt Minh được đàn
anh giúp đỡ, huấn luyện, trang bị.. ngày một mạnh hơn lên. Tháng 10-1950 Việt
Minh đánh thắng trận Cao Bắc Lạng, Pháp bị thiệt hại 7,000 người, mất 13 đại
bác 105 ly, 125 súng cối, 480 quân xa, 3 chi đội thiết giáp, 940 đại liên,
1,200 trung liên và trên 8,000 súng trường (Bộ
Tổng tham mưu, Quân sử 4,trang 124). Trận đánh này đã làm rung động nước
Pháp, họ không ngờ Việt Minh đã lớn mạnh nhanh như thế.
Tướng De Lattre được cử
sang làm Tư lệnh Đông Dương từ tháng 12-1950 tới tháng 1-1952. Thời gian này
Việt Minh mở nhiều trận đánh lớn nhưng bị
De Lattre gây thiệt hại nặng như Vĩnh Yên (tháng 1-1951) chết 6,000
người, trận Mạo Khê (tháng 3, tháng 4-1951), trận Bờ sông Đáy (tháng 5, tháng
6-1951) (sách đã dẫn từ trang 125 tới 133). Đầu năm 1952 Mỹ viện trợ cho Pháp
200 máy bay chiến đấu, 300 đại bác, đạn dược .. Pháp gia tăng ngân sách từ 190
tỷ Phật Lăng năm 1950.. lên tới gần 400 tỷ năm 1952 (trang 49). De Lattre mất
tháng 1-1952, từ đó Việt Minh ngày càng mạnh hơn, chính phủ Pháp chán nản cuộc
chiến Đông Dương tốn kém, họ miễn cưỡng tiếp tục vì thể diện nhiều hơn là vì
quyền lợi.
Tháng 5-1953 Navarre được
cử sang làm Tư lệnh, sau khi bại trận Điện Biên Phủ tháng 5-1954 ông được triệu
về Pháp. Năm 1956 ông viết Agonie de
l’Indochine, Đông Dương Hấp Hối
để chứng minh sự thất bại do chính phủ Pháp không chỉ đạo cuộc chiến chứ không
phải tại quân đội. Trong khi Việt Minh ngày càng mạnh do quân viện dồi dào của
Trung Cộng, chính phủ Pháp không chịu chi phí thêm, chính sách chiến tranh rẻ
tiền (guerre au rabais, p.106) đã khiến Pháp thua trận. Cuối 1951 quân đoàn
Việt Minh đã lên tới 6 sư đoàn (trang 24), từ thời De Lattre cuối 1951 cho tới
tháng 6-1953 Pháp không tăng thêm quân trong khi Việt Minh ngày càng mạnh
Tình hình chính trị nước
Pháp khi Navarre sang Đông Dương không thuận lợi, không khí chính trị thờ ơ, đa
số bi quan, thiếu ý chí, chủ bại. Trong khi ấy về chính trị thì Việt Minh thực
sự là một nước, chính quyền trải rộng hơn một nửa Việt Nam. Họ hoạt động trong
những vùng Pháp không kiểm soát được bằng một tổ chức bí mật để lấy tiếp viện,
thu thuế, tuyển quân, lấy thóc gạo, muối, họ lấy được xe đạp để thồ, thuốc Tây,
pin để làm nổ mìn. Họ khác Pháp ở chỗ tham gia cuộc chiến trên mọi phương diện
chính trị, quân sự, xã hội…Họ chiến đấu toàn diện chứ không phải chỉ quân sự.
Phía người Pháp không
thống nhất về nhân sự, Việt Minh chỉ có một lãnh tụ Hồ chí Minh, một Tư lệnh Võ
nguyên giáp chỉ huy bẩy năm liền, Pháp có tới 19 chính phủ liên tiếp và năm Cao
Ủy và sáu Tư lệnh quân sự. Người Pháp không có sự liên tục về chính trị nhất là
đã sai lầm muốn đem chế độ thực dân lỗi thời trở lại (p.32)
Trong khi Việt Minh là một
khối kết hợp, năng động cương quyết đạt mục tiêu cuối cùng thì Pháp chia rẽ,
khuynh hướng mơ hồ và khác nhau. Pháp
dựa vào những nhận định xưa cũ, lớp già còn Việt Minh dựa vào những quan niệm
mới, tham vọng, những người trẻ.
Ngay giữa Mỹ và Pháp cũng
có nhiều quan điểm khác nhau, Mỹ giúp Pháp để ngăn chận sự bành trướng của CS
xuống Đông Nam Á nhưng muốn Pháp trả độc lập cho các nước Đông Dương. Pháp muốn
hạn chế độc lập các nước liên kết (Việt, Mên, Lào) và muốn giữ họ trong Liên
hiệp Pháp, các nước này lại chỉ muốn hoàn toàn độc lập, giữa Pháp và Việt, Mên,
Lào cũng không cùng quan điểm (p. 35)
Sinh hoạt hai bên hoàn
toàn khác nhau, Việt Minh hoạt động bí mật và lưu động trong rừng trong khi
Pháp giữa thành phố ăn chơi, tiếp tân sang trọng, phái đoàn ngoại giao.. báo
chí tiết lộ bí mật
Navarre nói về hình thức
đây là một cuộc chiến khác lạ không giống bất cứ cuộc chiến nào, nó không phải
là cái mà các sĩ quan cao cấp Mỹ và Pháp đã nghiên cứu, không giống chiến tranh
Âu châu, Triều Tiên. Nhiều cấp chỉ huy đã ra những quyết định về Đông Dương mà
chẳng hiểu gì cả, và đáng tiếc đã đưa tới những chính sách chính trị quân sự
tại Paris, Washington. Đó là cuộc chiến tranh không giới tuyến (guerre sans
front, p.38) khác hẳn cuộc chiến tranh cổ điển, chưa có trường võ bị nào nghiên
cứu kỹ. Nó kết hợp kháng chiến do khối đông đảo người dân yểm trợ và quân đội
chính qui chủ động cuộc chiến giống chiến tranh Tây Ban Nha, Mễ Tây Cơ..
Việt Minh có lợi thế lưu
động, uyển chuyển, trang bị nhẹ, chịu cực khổ, rầt đông, trang bị tối tân và có
lợi thế tuyển quân tại chỗ, biết địa hình, dựa vào dân. Từ 1950 Tướng Giáp đã
lên kế hoạch trước các nhà lãnh đạo Việt Minh về các giai đoạn cuộc chiến
Trước hết đánh du kích,
cướp súng địch, quấy phá, dành dân.
Kế đó mở trận dịa chiến
(guerre en surface), rồi từ 1952 đánh
lớn hơn.
Cuối cùng giai đoạn tổng
tấn công (offensive générale) giải phóng toàn cõi Đông Dương với điều kiện có
ưu thế quân sự, thuận lợi chính trị quốc tế và khủng hoảng nội bộ địch. Bộ tham
mưu Việt Minh cho rằng thời cơ sẽ tới vào năm 1955, 1956.
Quân đội VM uyển chuyển,
mạnh thích hợp với địa hình, những nguyên tắc của họ hoàn toàn khác với Tây
phương. Quân đội VM giống như hình tháp, đáy là dân quê dùng làm dân công tải
đạn, đào hầm, giao liên… lên trên là du kích vũ trang lựu đạn, súng cũ, ngày
làm ruộng, tối phá đường, gài mìn, phục kích, mỗi làng có một đạo quân du kích.
Sau đó họ tuyển du kích thành lập địa phương quân ớ phía trên trang bị súng tốt
hơn, đông hơn. Đỉnh của tháp là quân đội chính qui, họ tạo dựng một quân đoàn
ngày càng được Trung cộng trang bị tối tân, lưu động, trong chiến dịch 1952,
1953 họ có thể chủ động tấn công lớn trên trận địa Đông Dương.
Tổng cộng Việt Minh có 7
sư đoàn (đại đoàn) chính qui (304, 308, 312, 316, 320, 325) một sư đoàn không
tên hoạt động giữa Tourane (Đà nẵng) và mũi Varella (Mũi Diều), ngoài ra họ có
nhiều trung đoàn độc lập, toàn bộ lực lượng lên tới 9 sư đoàn . Thêm vào đó là
một sư đoàn vũ khí nặng pháo mặt đất và pháo phòng không, sức mạnh trội hơn
Pháp. Quân đội Việt Minh trẻ, chịu cực khổ được, nhiệt tình, căm thù địch sống
nhờ dân và cũng ép dân tham gia cuộc chiến. Trong khi ấy người Pháp không có kế
hoạch chung cho cuộc chiến, mỗi ông Tư lệnh có một kế hoạch riêng nên không
thống nhất, liên tục.
Trên bản đồ (trang 37) cho
thấy Việt Minh kiểm soát gần hết lãnh thổ VN từ 1953, tại miền Bắc Pháp chỉ còn
kiểm soát được vùng châu thổ sông Hồng
và một số tỉnh như Hà đông, Hà Nội, Hải
Dương, Hải Phòng, Nam Định, Ninh Bình, Lai Châu, Nasan. Miền Trung chỉ còn một
giải đất ven biển, nhỏ hẹp và các tỉnh Huế, Tourane (Đà nẵng). Cao nguyên (tức
Vùng 2 sau này) chỉ có Kontum, Pleiku, An Khê, Ban Mê Thuột, Đà Lạt, miền duyên
hải chỉ có Nha Trang. Tại miền Nam Pháp kiểm soát được một diện tích bằng Vùng
3 sau này, nhưng vùng Cà mâu do VM kiểm soát.
Những vùng Pháp kiểm soát
bị chính qui, địa phương quân VM quấy phá mất an ninh, chủ lực quân VM có 60
ngàn ở Bắc kỳ, 25 ngàn ở miền Trung, 40 ngàn ở miền nam, 6 ngàn ở Lào, 8 ngàn ở
Miên . Pháp phải đóng vô số đồn bót để canh giữ đường sắt, kho hàng phi trường.
Đa số quân Pháp tương đương với 5 sư đoàn trấn giữ hàng ngàn đồn bót. Theo
Navarre (p.47) VM có tới 9 sư đoàn trong khi Pháp chỉ có tương đương khoảng 3
sư doàn gồm 7 đoàn lưu động và 8 tiểu đoàn nhẩy dù. Pháp chỉ hoạt động nhỏ, VM
hoạt động lớn vô cùng, ông nói lợi thế mà Pháp để cho VM trong việc tổ chức
quân đoàn, về chiến lược đó là sự sai lầm thiếu sót lớn của Pháp. Người Pháp đã
xử dụng viện trợ Mỹ cho một cuộc chiến khác lạ, họ chưa bao giờ nghĩ tới những
phương tiện để đáp ứng với cuộc chiến đặc biệt này. Về vũ khí Navarre cho rằng
Pháp thiếu nhân lực, thiếu tuyển quân, về trang bị chậm hơn VM, họ được võ
trang những vũ khí nhẹ tự động rất hữu hiệu trong những trận đánh gần, họ hơn
Pháp. Pháp bất động và phân tán, không có những quân đoàn chiến đấu đương đầu
với với những quân đoàn VM, nguyên do ở sự chỉ đạo từ mẫu quốc.
VM giữ bí mật tin tức,
phòng nhì không khai thác được mấy, những tin hạng nhì cũng khó lấy (p.52).
Pháp không biết gì về những kế hoạch dài của tham mưu cao cấp VM, cũng chẳng
hay biết gì về sự viện trợ tăng vọt của Trung Cộng cho VM. Tuy nhiên có thể
biết ở mức dộ trung gian như chuyển quân cấp trung đoàn, sư đoàn và chỉ tránh
được những bất ngờ chiến thuật, VM cho người rình rập lấy tin tức của Pháp. Họ
ở trong rừng, linh động còn Pháp thì lộ liễu với xe cam nhông, máy móc nặng,
đóng quân, công khai VM dễ quan sát đối phương.
Pháp khó thực hiện chiến
lược bất ngờ khi cần bí mật, mọi tăng quân hay tăng viện đều bị VM biết trước
khi tới Đông Dương, đôi khi VM còn biết cả kế hoạch Pháp đang bàn do sơ ý khi
trình về Paris. Cách lấy tin của VM rất nhiều, những cuộc nói chuyện sơ ý trong
văn phòng, nơi công cộng, giao công văn…sẽ cho VM biết trước hết. Họ cũng lấy
được những nguồn tin quan trọng từ báo chí. Nhất là sau chiến tranh Triều tiên
nhiều ký giả Mỹ tới, họ làm những tin giật gân không cần trung thực, nhiều
người không có lương tâm, rất may tin của họ đưa ra sai bét vì dốt nát. Tư lệnh
không có thẩm quyến với báo chí, VM cũng lấy được nhiều tin rất quan trọng do
rò rỉ từ chính quyền Pháp.
Việc tuyển mộ cho Quân đội
quốc gia VN bắt đầu từ 1950 nhưng chưa thể thay thế quân Pháp cả về phẩm lẫn
lượng, chính phủ QGVN không cưỡng bách nghĩa vụ quân sự. Năm 1953 Tướng Nguyễn
Văn Hinh TMT quân đội QG qua Paris mới bắt đầu nhưng đã trễ, ông đề nghị lập
thêm nhiều tiểu đoàn VN và được chính phủ Pháp chấp thuận trên nguyên tắc
Navarre nói Pháp đánh giá
thấp VM vế chính trị, quân sự, ảnh hưởng với dân, tinh thần động lực, khả năng
quân sự của cấp chỉ huy cao hơn ta tưởng. Y chí địch rất cao, mục đích rõ, động
cơ vĩ đại và nhất trí hành động trong chiến tranh còn Pháp thì mất niềm tin, do
dự, hoàn toàn thiếu hòa hợp chính trị. Một sự liên minh các nước có quyền lợi
khác nhau hay trái ngược nhau gồm Mỹ, Việt, Mên, Lào không rõ ràng về mục đích
và về những phương tiện để đạt tới. Mục đích ban đầu của Pháp (1945) là chiếm
lại thuộc địa nay không còn và tiếp tục chiến đấu không có mục đích rõ ràng.
Phía VM đó là cuộc chiến
tranh nhân dân, người dân tích cực vì ý thức hệ hay bị bó buộc, phía Pháp cuộc
chiến không hợp lòng dân, quần chúng không tha thiết, VM là đạo quân nhẹ nhàng
lưu động, ngày càng thắng. Pháp có mạnh
hơn nhưng nặng nề không thích hợp điều kiện vật chất, con người. VM lợi thế có
những quân đoàn thích hợp những chiến dịch lớn, hầu như gấp ba Pháp, bề lâu bề
dài Pháp khó theo kịp. VM được tiếp tế mạnh, người Pháp tiếp tế từ hai nước Mỹ,
Pháp xa xôi, viện trợ đêu nhưng kế hoạch tỉ mỉ cứng ngắc. Trung Cộng phía sau
VM cung cấp hạn chế nhưng có khả năng ồ ạt nếu cần.
Chính phủ Pháp tại mẫu
quốc không định nghĩa mục đích cuộc chiến mà chỉ tìm cách rút ra khỉ cuộc chiến
sa lầy (sortir de la guerre p.69), trang 71 Navarre cũng nói các bộ trưởng
trong chính phủ chỉ muốn tìm lối thoát
ra khỏi ngõ cụt Đông Dương. Cũng theo ông từ khi Tướng De Lattre mất năm
1952, ngày này qua ngày khác cuộc chiến chỉ tiến hành theo kinh nghiệm, không
có kế hoạch dài hạn ngay cả trong tổ chức trang bị các lực lượng và chiến dịch.
Hành quân không có kế hoạch gì, chính phủ chỉ quan tâm tới chuyện rút ra. Theo
ông trong thế giới CS các nhà chính trị có đọc binh thư Clausewitz, còn ở
phương Tây như Pháp các nhà chính trị dốt quân sự, thiếu hiểu biết về phương
diện này không đủ như đòi hỏi.
Hoa Kỳ bắt đầu viện trộ cho Pháp từ 1950,
tài khóa 1951-1952 Mỹ viện trợ cho Pháp 330 triệu tức 20% chi phí chiến tranh
Đông Dương, tài khóa 1953-54 tăng lên 785 triệu tức 41% chi phí (Wikipedia
France Guerre d’indochine). Năm 1950
viện trợ Mỹ chỉ có 10 triệu, năm 1954 lên tới 1,063 tỷ chiếm 78% toàn bộ chi
phí (The Pentagon Papers Volume 1, Chapter 2). Mỹ ngày một gánh vác nhiều
hơn khiến họ ảnh hưởng đến Pháp và quan hệ với Việt, Mên, Lào nhiều hơn. Cùng
là đồng minh nhưng Mỹ đối nghịch với Pháp, giúp Pháp về vật chất nhưng chống
dối Pháp về tinh thần, dùng Pháp như quân tốt trong ván cờ chống CS. Mỹ luôn ép
Pháp phải trả độc lập hoàn toàn cho Đông Dương thay vì đưa họ vào Liên Hiệp
Pháp. Giữa Pháp-Mỹ có sự chia rẽ ngấm ngầm, viện trợ Mỹ tăng khiến ảnh hưởng
Pháp tới quân các nước Liên kết Việt Mên lào giảm nhanh
Navarre nói về tình trạng
thiếu sĩ quan tại Đông Dương, mẫu quốc cần phải gửi thêm 3,000 sĩ quan và một
số lớn hạ sĩ quan, giao cho quân đội đảm đương một cuộc chiến giá rẻ nước Pháp
sẽ thua trận (p.106). Chính phủ có nhiệm vụ nâng cao tinh thần trong nước và
quân đội nhưng các chính phủ liên tiếp đã không hoàn thành nhiệm vụ này. Từ
tháng 7-1953 một biến cố ảnh hưởng xấu tới tình hình Đông Dương: Triều tiên
đình chiến đã khiến dân Pháp hy vọng hòa bình tới nhanh. Nhiệm vụ chính phủ là
chuyển hy vọng thành sự thật, tránh khủng hoảng thinh thần. Chính phủ chẳng làm
gì cả, từ mùa hè 1953 không những chính phủ để phong trào chống chiến tranh
Đông Dương ngày càng lên cao cho tới khi có Hội nghị Genève mà một số thành
viên của chính phủ cũng tham gia phong trào (p.110). Những tổ chức vô trách
nhiệm như “Phong trào nhân quyền”, “Hội nghị cho hòa bình Đông Dương”, nó qui
tụ bọn chủ bại (defaitisme) phổ biến những tin tức làm mất tinh thần và một đảng
có nhiều thành viên trong chính phủ đã chính thức kiên nghị đòi hòa bình. Chế
độ dân chủ thoái hóa sinh ra thế.
Trầm trọng hơn thế những
chính trị gia có trách nhiệm, những ông chủ tịch những đảng tự gọi là Quốc gia
hay thành viên chính phủ đã công khai nói phải thương thuyết với địch. Nhất là
báo chí từ tháng 7-1953 cho tới tháng 4-1954 đã phát ngôn những lời tuyên bố
khi ta đang trong tình trạng chiến tranh, họ phạm tội làm mất tinh thần Quốc
gia và Quân đội. Trong khi ấy báo chí, đài phát thanh Việt Minh kêu gọi tiếp
tục trường kỳ kháng chiến, họ theo dõi Pháp và tiếp xúc với bọn chủ bại tìm hòa
bình của Tây phương. Ngày 30-11-1953 họ cho đăng trên báo Thụy Điển Expressen
lời kêu gọi hòa bình của Hồ chí Minh, VM tìm cách phá hoại Pháp ngay trong lòng
nước Pháp.
Chính phủ chán nản, chia
rẽ, bất lực trước khúc quành quan trọng này. Bộ trưởng thuộc địa cho đây là tin
quan trọng. Sự kiện này đã đã tạo lộn xộn sâu xa trong hàng ngũ Pháp và phong
trào chủ bại ngày càng gia tăng trong khi đó tại các nước liên kết (Việt, Mên,
Lào) niềm tin vào pháp cũng như tinh thần chiến dấu ngày càng phai nhạt.
Nhiệm vụ của chính phủ
một nước trong tình trạng chiến tranh là ngăn chặn phản bội bằng mọi phương
tiện kể cả những biện pháp tối đa để chống bọn đâm sau lưng chiến sĩ. Các chính
phủ trước chiến tranh Đông Dương (tức1946) đều hoàn thành tốt nhiệm vụ đó. Từ
đầu cuộc chiến sự phản bội của đảng CS Pháp và các nhóm phụ thuộc đã không bị
các chính phủ nào ngăn cản. Họ đã làm suy yêu tinh thần quốc gia, sỉ nhục đất
nước (p.112, 113), khuyến khích lính không tuân lệnh, phá hoại ngầm trong các
xưởng quốc phòng, vận chuyển, truyền tin cho địch.
Tháng 8-1952 Bộ trưởng
quốc phòng M. Pleven khám phá ra CS Pháp ra lệnh cho các đảng viên cấp dưới cố
gắng làm cho quân Pháp bại trận, hàng loạt chống sản xuất vũ khí đạn dược và
vận chuyển, làm cho đạo quân viễn chinh tan rã. Tháng 10-1952 tòa án quân sự đề
nghị bỏ quyền bất khả xâm phạm các đại biểu dân cử CS.. một năm sau Quốc hội
bác đề nghị này vì đã coi CS là một đảng hợp pháp.
Chính phủ không phản ứng
gì đối với vở hài kịch này nó là động cơ làm mất tinh thần quân đội. Về sự kiện
tin tức rò rỉ cho thấy chính phủ tỏ ra bất lực trong việc chống phản bội, đó
chính là một màng lưới gián điệp ngay giữa cơ quan chính thức, một bộ máy chống
chính phủ, chống chế độ. Quốc gia đã biết sự thật là CS len lỏi tất cả các bộ
máy chính phủ, những liên hệ mờ ám giữa cuộc chiến của các nhân viên sứ quán
với nhân viên địch. Những chuyện nói ba hoa trong các cơ quan cao cấp đầu não chính
phủ. Những cơ quan nắm giữ bí mật đã hoàn toàn thiếu thận trọng, rò rỉ tin tức
cho Việt Minh bằng nhiều đường nhờ dễ dãi, tòng phạm của những cơ quan cao cấp.
Một cựu chiến binh Đông Dương tuyên bố quân Pháp dù chiến đấu ở đâu cũng sẽ bị
đâm sau lưng (p.114)
Tại sao sự thực lại không
được đưa ra ánh sáng vì nó được che dấu, tất cả các chính phủ kế tiếp nhau đều
biết và đã che dấu bưng bít. Các bộ trưởng can thiệp, bênh vực những người lầm
lỗi, áp lực công tố viên, quan tòa nhân chứng, dấu diếm che đây tài liệu nhất
là rút bỏ thẩm quyền tòa án quân sự về những vụ rò rỉ lớn. Ngày 30-7-1953 tuần
báo France Observateur đang bài “Trận chiến nghi ngờ”, nội dung nói đúng như Ủy
ban quốc phòng đã nói sáu ngày trước về vấn đế bảo vệ Lào, đó là kế hoạch Navarre.
Đầu tháng 8-1953 nó xuất hiện ở Sài Gòn như một thông tin cho địch. Những tin
tức quí giá nhất đã cho địch biết kế hoạch của ta. Bài báo là cách thông tin
chính xác cho cấp chỉ huy Việt Minh, theo Navarre bài báo đóng vai trò lớn
trong cuộc tấn công Lào của VM, là một thông tin quan trọng cho quyết định của
VM. Một năm sau vụ rò rỉ tờ France
Observateur bị đem ra ánh sáng, dư luận báo chí bênh vực cho tờ này, chính phủ
bưng bít ngăn chận tòa án truy tố những người có trách nhiệm tiết lộ bí mật,
tách vụ tờ báo khỏi trách nhiệm rò rỉ và hoãn xử các ký giả này
Sự chỉ đạo cuộc chiến của
chính phủ không có gì, cuộc chiến không có mục đích, không có chính trị, tinh
thần quân đội không được bảo đảm, không được cung cấp đầy đủ sĩ quan, thiếu chủ
lực quân, bị đâm sau lưng. Hội nghị Genève khiến Việt Minh phát động trận đánh
lớn (1954)
Trong khi Việt Minh và
Trung Cộng sát cánh nhau thì Mỹ và Pháp chia rẽ, Pháp muốn tổ chức những đơn vị
VN từ từ nhưng Mỹ muốn nhanh hơn. Người Mỹ muốn Pháp học hỏi cuộc chiến Triều
tiên nhưng Navarre cho rằng hai cuộc chiến hoàn toàn khác nhau về địa thế, hình
thức, Pháp không chấp nhận đề nghị Mỹ vì như thế là để Mỹ thay thế Pháp. Kế
hoạch Việt Nam hóa chiến tranh đã trễ và gặp trở ngại, chính phủ VN không đủ
khả năng bảo đảm tuyển quân. Những lời kêu gọi nhập ngũ mới đầu có kết quả tốt
nhưng từ tháng 2-1954 nghe tin có Hội Nghị Genève, số bất phục tùng, trốn tránh
lên cao tới 90%, đào ngũ gia tăng, việc đào tạo sĩ quan nhiều thất vọng. Việt
minh tuyền cán bộ, sĩ quan tại miền quê rồi huấn luyện thành chiến sĩ trong khi
chính phủ Quốc gia tuyển sĩ quan trong giới khá giả bằng thi tuyển. Từ sau
tháng 2-1954 quân đội VN bị tan vỡ phần vì lo ngại Việt Minh thắng, phần vì
tuyên truyền địch khiến quân đội VN bị tổn hại. Việc tuyển quân bị ngưng, đào
ngũ nhiều, các đơn vị bất phục tùng, chửi mắng sĩ quan Pháp.
Người Mỹ vào Việt Nam
Năm 1954, hiệp định
Genève chia đôi đất nước, một phần lớn quân đội viễn chinh rút về Pháp, phần
còn lại vào nam cùng chính phủ Quốc gia. Năm 1955, tại miền nam VN, ông Ngô
đình Diệm thành lập nền Đệ Nhất Cộng Hòa. Trong hai năm 1955, 1956 miền Bắc do
áp lực của Nga sô, Trung Cộng phát động phong trào cải cách ruộng đất, bắn giết
và chôn sống hằng trăm nghìn địa chủ. Năm sau họ mới rảnh tay phát động cuộc
Nam tiến về đồng bằng phì nhiêu. Miền Bắc từ vĩ tuyến 17 trở lên đất chật dân
đông, bị tàn phá sau tám năm khói lữa, dồng ruộng khô cằn, trước đây thiếu lúa
gạo phải tiếp tế từ miền nam. Cuộc Nam tiến nay là vấn đề sinh tử của Bắc Việt,
sống chết cũng phải chiếm cho được vựa lúa miền nam.
Như Navarre đã nói ở
trên, những năm1952, 1953, 1954 Việt Minh mạnh hơn và đã đánh bại quân Pháp. Từ
1957 tới cuối thập niên 50, miền Bắc nếu xua quân sẽ nuốt chửng miền nam nhưng
họ chưa dám đánh công khai, chỉ phát động du kích chiến. Cũng giống cuộc chiến
tám năm khói lửa kể trên, mới đầu họ hết đánh du kích, quấy phá, dần dần mở
trận địa chiến đánh lớn hơn, và giai đoạn cuối cùng tổng tấn công nuốt trọn
miền Nam.
Năm 1957, du kích bắt đầu
giết trường ấp, xã trưởng bằng mã tấu, từ 1959 đến 1961 số nạn nhân bị CS giết
từ 1,200 đến 4,000 người mỗi năm. Cuối 1960 BV cho thành lập Mặt trận Giải
Phóng Miền nam. Mới đầu VC chỉ có khoảng hơn mười ngàn du kích sau tăng dần do
xâm nhập và tuyển quân tại địa phương. Chiến tranh mở rộng hơn trước, Kiến Hoà
bị tấn công đầu tiên, ngày 19-9-1961 hai tiểu đoàn VC tấn công Phước Thành,
chiếm tỉnh trọn ngày, giết Tỉnh trường, Phó tỉnh trưởng và 10 công chức, mười
bẩy ngàn CSBV đã xâm nhập miền nam (Chánh
Đạo, Việt Nam Niên Biểu trang 228, 229). Một tháng sau, ngày 18-10-1961 ông
Diệm ban hành tình trạng tổ quốc lâm nguy.
Lực lượng VC gia tăng
nhanh từ 5,500 người đầu năm 1961 đến đến 25,000 cuối năm 1961. Theo tiết lộ
của Viện Lịch sử quân sự CSVN (BBCVietnamese.com 10-5-2006) : Giai đoạn
1955-60 CS quốc tế đã viện trợ cho BV
trên 49 ngàn tấn hàng trong đó 90% là vũ khí.
Trước tình hình CS gia tăng áp lực, tổng thống Kennedy cho gia tăng quân
số VNCH từ 170 ngàn người lên 200 ngàn
người cuối năm 1961, tăng cố vấn quân sự lên 3,200 người, viện trợ 2 chi đoàn
thiết giáp M-113, ba đại đội trực thăng , 16 phi cơ vận tải C-123.. Nhờ viện
trợ quân sự của Hoa Kỳ chính phủ đã bình định được miền Nam trong năm 1962 (Nguyễn đức Phương, Chiến Tranh VN toàn Tập, trang 20, 21). Sau cuộc đảo
chánh cuối năm 1963, lợi dụng tình hình miền nam VN nhiễu nhương BV gia tăng
xâm nhập, chuyển vũ khí đánh phá mạnh hơn, CS quốc tế tăng viện trợ lên trên 70
ngàn tấn vũ khí giai đoạn 1961-1964. Đầu tháng 8 nhân vụ tầu Maddox bị tấn công,
Quốc hội Mỹ chấp thuận nghị quyết Vịnh
Bắc Việt trao toàn quyền hành động quân sự cho tổng thống Johnson.
Ngày 1-11-64 VC pháo kích
phi trường Biên Hòa phá hủy 5 oanh tạc cơ B-57 và làm hư hại 8 chiếc khác. Cuối
năm 1964 VC tấn công chiếm làng Bình Giả, Sư đoàn 9 VC (do 2 trung đoàn 271,
271 hợp thành) chận đánh quân tiếp viện . CS đã đánh lên cấp trung đoàn, thay
thế chiến thuật đánh rồi rút bằng đánh chiếm giữ trong nhiều ngày, tháng
12-1964 một trung đoàn BV xâm nhập Pleiku. BV gia tăng xâm nhập, họ đưa thêm
nhiều đơn vị chính qui đánh phá khắp nơi, giữa năm 1965 trung bình một tuần
VNCH mất một quận, nếu Mỹ không đổ quân vào miền Nam sẽ mất trong vòng 6 tháng
(Ngô Quang Trưởng, Trận Chiến Trong Mùa
Lễ Phục Sinh 1972, trang 16, 17).
Năm 1965, thời kỳ cao
điểm của thuyết Domino, nếu mất Việt Nam, các nước trong vùng Đông Nam Á sẽ mất
theo, được 78% người dân Mỹ và Quốc hội
ủng hộ (Nguồn answer.com) , TT
Johnson đem đại binh vào giúp miền nam. Cuối năm 1963 quân Mỹ tại VN là 16,500
người, cuối năm 1964 tăng lên 21,350 người, nhưng tới giữa năm 1965 tăng lên
khoảng 50,000 người, cho tới cuối năm tăng lên 184,000. Người Mỹ coi năm 1965
là lúc họ can thiệp vào Đông Dương, từ 1965 chiến dịch lùng và diệt địch
(Search and Destroy) ra đời. Cuộc chiến ngày càng leo thang, BV tiếp tục xâm
nhập cường độ chiến tranh gia tăng. Hành pháp xin tăng quân, được Quốc hội chấp
thuận năm 1966 tăng lên 385,000 và 1967 lên 485,600 năm 1968 lên cao điểm 536,100 người. Đầu năm 1966 BV
gửi thêm quân xâm nhập, Mỹ và các nước đồng minh Đại Hàn, Úc , Tân Tây Lan,
Thái Lan… cũng tăng thêm quân nhưng Mỹ là chủ lực , các nước khác chỉ có tính
cách tượng trưng để hỗ trợ cho chính nghĩa bảo vệ đồng minh của Mỹ.
Sau khi người Mỹ đổ bộ
vào VN, Cộng quân bị đẩy lui, quân đội VNCH lấy lại thăng bằng. TT Johnson giao
phó cho McNamara, bộ trưởng quốc phòng toàn quyền về kế hoạch quân sự tại Đông
dương giai đoạn này. Đường lối của McNamara và Johnson chỉ là chiến tranh hạn
chế và gây hao mòn. Theo Nixon (No More
Vietnams, p.86,87) từ 1965 tới 1968, chiến dịch oanh tạc BV của TT Johnson
có mục đích chính trị hơn là quân sự, ông không ngăn chận quân BV xâm lược mà
để nâng cao tinh thần VNCH cũng như gây thiệt hại cho sự xâm nhập của BV. Các
cố vấn dân sự của ông đưa ra chiến lược leo thang chiến tranh và kêu gọi Hà
Nội đàm phán. Mới đầu oanh tạc cầm
chừng, sau tăng cường thêm, Nixon cho đó chỉ là sự ngây thơ tin rằng CS sẽ phải
vào bàn hội nghị vì sợ đất nước bị tàn phá. Những mục tiêu oanh tạc do chính
Johnson và McNamara lựa chọn vì sợ đụng chạm tới Nga, Trung Cộng. Phi công chỉ
được oanh tạc đường xá, cầu cống, đường xe lửa, nhà máy điện, trại lính, kho
hàng, phải tránh xa biên giới Trung Cộng, xa Hà Nội ba mươi dặm, cách xa Hải
Phòng mười dặm.
Trang 82 Nixon nói trong
những năm này, người Mỹ theo đuổi hai chiến lược có nhiều thiếu sót. Tại miền
nam ta đánh hao mòn địch nhưng không ngăn chận đường xâm nhập của địch tại Mên,
Lào. Tại miền Bắc chúng ta áp lực họ bằng oanh tạc leo thang để dụ cho họ vào
bàn hội nghị. Thật ra ta không thể dỗ dành họ Hồ từ bỏ cuộc chiến mà cần bắt
buộc ông ta từ bỏ nó. Từ tháng giêng 1965 tới tháng 12-1967, Cộng quân thiệt
hại 344,000 người trong đó 179,000 bị giết tại mặt trận. Mặc dù tổn thất dữ dội
như vậy nhưng lực lượng CS tại miền nam
đã gia tăng từ 181, 000 người tháng 12-1964 tới 262,000 người tháng
12-1967. Trong ba năm ấy (1965-67) quân đội BV và số tuyển thêm ở miền Nam đã
cung cấp cho họ hơn 400,000 quân tăng cường. Theo thống kê dân số hàng năm tại
miền bắc VN có 120,000 thanh niên tới tuổi nhập ngũ. Như thế ta không thể thắng
nổi cuộc chiến nếu đường mòn Hồ chí Minh vẫn là tuyến xâm nhập của địch, nếu ta
không có kế hoạch nào ngăn chận họ.
Vì thất bại trong việc
ngăn chận xâm nhập và phá bủy các căn cứ hậu cần CSBV bên kia biên giới Miên,
Lào và phía trên vĩ tuyến 17 mà Johnson-McNamara đã để cho địch mở trận tổng
tấn công Tết Mậu Thân. BV và VC bị thảm bại, tính tới tháng tháng 3-1968 VC bị
bắn hạ tổng cộng 58,372 người, gấp 11 lần phía VNCH, có 9,461 tên bị bắt làm tù
binh .Trong số 84,000 cán binh được đưa vào trận Tổng công kích chỉ còn 16,000
chạy thoát. Mặc dù thảm bại nhưng BV đã coi như thắng cuộc, trận Mậu Thân đã
quyết định vận mang của Đông Dương. Số người ủng hộ chiến tranh tụt thang nganh
chóng, trào phản chiến lên cao, cuộc chiến tại đất nhà, war at home đã khiến
cho người Mỹ phải tính chuyện rút bỏ Đông Dương.
Về biến cố này TT Nixon
nói
“Khi một ông Tổng thống Mỹ đưa quân đi
tham chiến thì một cái đồng hồ định giờ vô hình bắt đầu chạy. Ông ta có một
khoảng thời hạn nhất định để chiến thắng trước khi người dân mệt mỏi vì nó.
Tháng hai năm 1968, Tổng thống Johnson đã hết thời hạn của ông”
(No
More Vietnams trang 88)
Người dân đã dành cho
Johnson-McNamara thời hạn bốn năm từ 1965-68
để chiến thắng CS nay thời hạn đã hết, chính phủ đã thất bại, người dân
quá mệt mỏi đòi chính phủ phải ra khỏi cuộc chiến.
Năm sau 1969, Nixon thắng
cử, Cộng Hòa thay thế Dân Chủ để thực
hiện Việt Nam hóa chiến tranh, tìm hòa
bình trong danh dự, rút bỏ Đông Dương. TT Nixon và Phụ tá Kissinger lúc này
không tiếp tục cuộc chiến mà lo hốt đống rác vĩ đại do Johnson-McNamara để lại.
Muốn rút quân phải làm suy yếu BV, đánh vào hậu cần địch ngõ hầu VNCH không bị
sụp đổ và Nixon đã giúp VNCH mở cuộc hành quân sang Miên từ 29-4 cho tới
22-7-1970 đã ruồng bố được 40 ngàn quân CS, giết được trên 10 ngàn cán binh
tịch thu được nhiều vũ khí. Năm sau vào ngày
8-2-1971 mở hành quân Lam Sơn sang Hạ Lào, trong những ngày tháng đầu
phá hủy được nhiều quân xa, giết được trên 10 ngàn Cộng quân nhưng sau địch kéo
tới rất đông khoảng 5 sư đoàn, gấp ba lần phía VNCH nên phải rút chạy, bị thiệt
hại khoảng ba ngàn người.
Khi TT Nixon giúp miền
nam mở hai cuộc hành quân thì phong tráo chống chiến tranh nổi lên dữ dội, bạo
động lan ra toàn quốc. Từ cuối 1965 tới cuối 1966 số người ủng hộ cuộc chiến
giảm từ 61% xuống còn 51%, từ đầu 1967 tới cuối 1967 giảm từ 52% xuống còn 45%,
từ đầu 1968 tới tháng 10-1968 giảm từ 42% xuống còn 37%, từ đầu 1969 tới tháng
10-1969 giảm từ 39% xuống 32%, từ đầu 1970 tới giữa 1971 giảm từ 33% xuống còn
28% (Wikipedia: Opposition to the US
involvement in the Vietnam war).
Tuy thế hai cuộc hành
quân đã làm chậm lại cuộc tấn công qui mô của BV khoảng một năm. Chương trình
Việt Nam hóa chiến tranh được thực hiện tốt đẹp, tuy nhiên vì hỏa lực do Mỹ
cung cấp còn yếu nên VNCH vẫn phải dựa vào yểm trợ của không lực Mỹ như trong
trận mùa hè đỏ lửa từ tháng 3-1972 cho tới tháng 10-1972.
Trận oanh tạc linebacker
bằng B-52 từ tháng 5-1972 tới tháng 10-1972 để yểm trợ cho VNCH đã tiêu diệt
hàng trăm ngàn cán binh BV, phá hủy khoảng 700 chiến xa địch. Trận Linerbacker
II tiếp theo dịp Giáng sinh năm 1972 đã buộc CSBV trở lại bàn hội nghị. Hiệp
định Paris được ký kết ngày 27-1-1973 không được hoàn hảo lắm, Quốc hội áp lực
Hành pháp phải ký sớm, BV vẫn còn được đóng quân ở miền nam nhưng VNCH không bị
liên hiệp.
Nixon tái đắc cử nhiệm kỳ
hai 1972-1976, thắng lớn với 95% phiếu cử tri đoàn (520), 60% phiếu phổ thông ,
sau Hiệp định một năm, Quốc hội Dân chủ phản chiến cắt giảm viện trợ VNCH 50%
mỗi năm. Đảng nọ phá đảng kia, không được ăn thì đạp đổ, Dân Chủ thất bại nhục
nhã trong cuộc bầu cử Tổng thống 1972 đã ép Nixon phải từ chức tháng 8-1974 qua
vụ tai tiếng Watergate. Dân chủ lại
chiếm đại đa số Quốc hội trong kỳ bầu cử tháng 11-1974, 67% Hạ viện và
60% Thượng viện, họ cắt hết nguồn quân viện khiến miền nam VN sụp đổ trong vòng
chưa đầy hai tháng.
Nhận xét và kết luận
Như đã nói trên, người Mỹ
đã can thiệp gián tiếp vào VN và Đông Dương từ 1950 bằng viện trợ quân sự cho
Pháp, sau Hiệp định Genève 1954 khi người Pháp ra đi, họ tiếp tục can thiệp
bằng viện trợ cho chính phủ VNCH tại miền Nam để thành lập tiền đồn chống CS.
Trên thực tế như ta đã biết CSBV nhờ quân viện dồi dào của Nga, Trung cộng đã
thắng quân Pháp năm 1954, họ là mối đe
dọa cho miền nam vì có một lực lượng quân sự mạnh. Năm 1965 nếu Mỹ không đổ
quân vào VN thì đã mất trong sáu tháng, năm này đánh dấu sự can thiệp trực tiếp
của Mỹ vào VN. Người Mỹ hầu như không quan tâm tới kinh nghiệm của Pháp qua
cuộc chiến 1946-1954 vì nghĩ rằng hỏa
lực hùng hậu của họ mạnh hơn Pháp nhiều sẽ bình định miền nam và chiến thắng
địch trong thời gian ngắn
Tuy thế những khó khăn,
sai lầm của Mỹ cũng chẳng khác gì Pháp trong cuộc chiến với cùng một kẻ địch.
Như Navarre đã nói trên phía CS luôn thống nhất về nhân sự, phía Tây phương như
Pháp mỗi Tư lệnh có chính sách riêng. Nay ta thấy phía Mỹ mỗi chính phủ, mỗi
đảng có đường lối riêng, Dân chủ điều khiển cuộc chiến từ 1964-1968, Cộng Hòa
tiếp tục từ 1969-1975. CS kết hợp, Mỹ chia rẽ, mặc dù Nga và Trung Cộng xung
đột nhưng khối CS quốc tế vẫn tiếp tục viện trợ dồi dào cho BV tới cùng, Mỹ
chán nản chia rẽ, cắt giảm quân viện bỏ rơi đồng minh
Phía CS theo đuổi mục
đích bền bỉ, Lénine nói “Con đường đã
đặt ra là phải đi tới cùng” (Staline, Những
nguyên lý căn bản của chủ nghĩa Lê Nin), người Mỹ sau bốn năm (1965-1968)
đã tỏ ra chán nản họ biểu tình chống chiến tranh mạnh sau trận Mậu Thân. Nội bộ
chính phủ đã có chia rẽ, các Tướng lãnh không phục McNamara, ông ta chỉ là một
doanh gia không có kiến thức gì về quân sự nhưng lại nắm quyền hạn quá lớn về
chiến lược trong cuộc chiến Đông Dương. Theo Navarre, các nhà lãnh đạo chính
trị CS có nghiên cứu quân sự và hiểu biết về chiến lược trong khi các chính khách
Tây phương dốt quân sự. Những năm giữa thập niên 60, tại Hoa Kỳ, nhà chính trị
lên kế hoạch chiến lược quân sự trong khi tại VNCH các tướng lãnh làm chính
trị.
Cũng như cuộc chiến tranh
8 năm khói lửa kể trên, CS bảo mật rất kỹ, như trận Mậu thân 1968 họ đưa được
một lực lượng rất lớn vào các thành phố mà không bị lộ trong khi cuộc hành quân
Lam Sơn của Mỹ và VNCH sang Hạ Lào năm 1971có bị tiết lộ bí mật.
Navarre nhận định cuộc
chiến Đông Dương lần thứ nhất rất khác lạ với chiến tranh châu Âu và Triều
Tiên, nó là cuộc chiến tranh không giới tuyến trong khi Pháp vẫn áp dụng chiến
tranh qui ước. Khi Mỹ đưa đại binh vào để bình định miền nam cũng giống như
Pháp trước đây, họ chỉ dựa vào qui ước và hỏa lực mạnh mà không nghiên cứu
nhiều về trận địa.
Navarre nói một trong
những nguyên do thất bại là khối viện trợ quân sự lớn lao của Trung cộng cho
Việt Minh trong khi chính phủ Pháp tiến hành cuộc chiến với giá rẻ. Người Mỹ đã
đánh giá thấp viện trợ của khối CS quốc tế cho Hà nội và nghĩ rằng hỏa lực áp
đảo của Hoa Kỳ sẽ đem lại thắng lợi. Sau này thực tế đã cho thấy súng đạn của
Nga, Trung Cộng và các nước xã hội chủ nghĩa cung cấp cho Hà Nội vượt trội hơn
quân viện của Mỹ cho VNCH như trong trận mùa hè đỏ lửa năm 1972, miền nam vẫn
phải dựa vào yểm trợ của không quân Mỹ nhất là B-52. Thập niên 70, Ngũ giác đài
nhìn nhận phòng không của BV mạnh nhất thế giới hồi ấy, trong trận oanh tạc
Giáng sinh 1972, Hà Nội đã phóng hơn một ngàn hỏa tiễn địa không, bắn rơi 27
máy bay trong đó có 15 B-52
Cuộc chiến 1946-1954 của
Pháp như Navarre đã diễn tả là một sai lầm lớn về chiến thuật vì chỉ phòng thủ,
Lénine đã nói “Phòng ngự là con đường chết của vũ trang khởi nghĩa, chủ động
tiến công tiêu diệt địch”. McNamara chỉ cho oanh tạc và đánh giới hạn, không cho
đánh qua hậu cần địch bên kia biên giới Miên, Lào hoặc trên vĩ tuyến 17, không
thể nào thắng được CS. Tháng 4-1969 Tướng Westmoreland, cựu Tổng Tư lênh quân
đội Mỹ tại VN và Ðô đốc Sharp cựu tổng tư lệnh Mỹ tại Thái bình dương công bố
bản phúc trình 347 trang về cuộc chiến Việt Nam trong 4 năm chỉ huy. Các Tướng
nhấn mạnh sự bó tay của Bộ tư lệnh Mỹ trước chính sách chiến tranh hạn chế của
TT Johnson và sự cấm đánh qua Mên và Lào.
Johnson - McNamara thất
bại không ngăn chận được sự xâm nhập của CSBV, không thắng được cuộc chiến vì
chỉ lo phòng thủ, tự vệ. Nixon năm 1970 cho đánh qua hậu cần địch ở Miên thành
công và năm sau cho đánh qua Lào thắng lợi lúc đầu nhưng sau phải rút chạy, cả
hai cuộc hành quân (theo Nixon) có làm chậm lại kế hoạch đánh lớn của địch
khoảng một năm. Nixon rất khó soay sở so với Johnson vì phong trào phản chiến
đã lên rất cao, nhiều bạo động.
Navarre đã đề cập những
khó khăn thất bại về chính trị tại Pháp do tuyên truyền địch và nhất là bọn chủ
bại, bọn tìm hòa bình, đâm sau lưng chiến sĩ…chỉ tìm cách rút ra khỏi cuộc
chiến. Người Mỹ không những đã vấp phải thất bại y như thế nhưng còn bị nặng
hơn gấp bội lần, nó đã làm đảo lộn mọi kế hoạch quân sự chính trị của Mỹ.
Johnson-McNamara đã quá sơ hở, quá dễ dãi để các ký giả, phóng viên chiến
trường sang Việt Nam quay phim chụp hình, về nước cho loan truyền phổ biến rộng
rãi, nhất là những phim diễn tả mặt trận sôi động, cảnh chết người, nhà cháy..
để khích động phản chiến lên cao. Chính phủ không hề có sự kiểm duyệt đối với truyền
thông báo chí, từ 1966 hơn 90% các gia đình Mỹ có TV, nó đã đem tin tức, hình
ảnh chiến sự ghê rợn tới quảng đại quần chúng khiến cho phong trào chống chiến
tranh tại Mỹ bùng nổ và lớn mạnh.
Nay nhiều người cho rằng
chính truyền thông nhất là TV đã khơi dậy sự chống đối chiến tranh trong dân
chúng qua những hình ảnh, bản tin tức của họ như trận tổng tấn công Tết Mậu
Thân mà truyền hình báo chí đã đóng vai chính. Trong khi phía CS không hề thay
đổi mục tiêu xâm lược thì cũng như Pháp trước đây, Mỹ đã chia rẽ trầm trọng nội
bộ, xã hội phân hóa, người dân chống chủ trương của chính phủ, hai đảng chia rẽ phá lẫn nhau, ngay như Mỹ và VNCH
cũng đã có nhiếu bất đồng ý kiến. Cả Mỹ lẫn Pháp đều đã không đánh được giặc
chia rẽ, đó là nguồn gốc cơ bản đưa cuộc chiến tới thất bại.
Navarre đã nói về những
sai lầm, thất bại trong Việt Nam hóa chiến tranh, vì quá trễ và và sự do dự của
chính phủ, người Mỹ để tới 1969 mới thực hiện VN hóa chiến tranh mà đúng ra
phải làm từ 1965 khi mới đem quân vào
VN. Sự hiện diện của người Mỹ một phần làm mất chính nghĩa, và điều quan trọng
là số tổn thất nhân mạng ngày một lên cao đẩy mạnh phong trào phản chiến, từ
1965 cho tới 1968 tổng cộng có trên 35 ngàn lính Mỹ bị thiệt mạng kể cả tại mặt
trận và vì những lý do khác. Ông Cao Văn Viên nói (Những ngày cuối của VNCH trang 19) VNCH vẫn phài nhờ vào yểm trợ
của Không lực Mỹ như trong trận mùa hè đỏ lửa 1972, đó là nhược điểm của VN hóa
chiến tranh. Sự thực cho thấy người Mỹ đã không viện trợ quân sự đầy đủ cho
VNCH như CS quốc tế đã làm với miền Bắc. Ngoài ra sự can thiệp công khai ồ ạt
của Mỹ đã khiến Tây phương, nhất là Pháp chống lại cuộc chiến của Mỹ.
Người Pháp và Mỹ cùng gặp
một kẻ địch nghèo đói, chuyên đánh thí quân để đạt mục đích. CS sẵn sàng đánh
tới cùng để thúc đẩy chia rẽ nội bộ đối phương và đã thành công, họ khai thác
tối đa chiến lược “Chén sành chơi chén kiểu” để làm cho đối phương chán nản. Sự
thất bại của McNamara về quân sự trong bốn năm 1965 -1968 đã đưa tới thất bại
về chính trị, đấy phản chiến lên cao. Mặc dù Mỹ đã gây tổn thất trầm trọng cho
BV gấp 10 hoặc 15 lần so với thiệt hại của mình nhưng CS vẫn tiếp tục thí quân
để gây chia rẽ trong nội bộ Mỹ và thúc đẩy người dân chống chiến tranh.
CS đã khai thác tối đa sự
chia rẽ nội bộ của đối phương qua hai cuộc chiến và nhất là đối với Mỹ. Mọi
người đều biết hiện tượng đảng nọ phá đảng kia, không được ăn thì đạp đổ. Thua
đau trong cuộc bầu cử Tỗng thống năm 1972, Dân Chủ nhờ nắm Quốc hội đã vô hiệu
hóa mọi chính sách của đảng đối lập về cuộc chiến VN đưa tới sụp đổ toàn diện.
CS đã nắm được cái yếu
của của đối phương, của các nước dân chủ tự do là luôn chia rẽ, điển hình nhất
là tại Mỹ, chia rẽ giữa người dân, giữa hai đảng, giữa Hành pháp và Lập pháp,
giữa bảo thủ và tiến bộ…Họ thừa cơ nước đục thả câu để tạo thuận lợi đạt mục
đích. Người Pháp phải rút khỏi Đông Dương vì bại trận tại Điện Biên Phủ, người
Mỹ cuối cùng cũng rút nhưng họ nói không thua trận mà là rút bỏ. Cho dù giải
thích thế nào thì cũng phải coi đó là một sự thất bại.
Cũng có người Mỹ nói (Wikipedia) hình ảnh chiếc xe tăng T-54 ủi
sập cánh cửa dinh Độc Lập ngày 30-4-1975 tượng trưng cho mãi mãi cho sự
thất bại của Hoa Kỳ trong công cuộc ngăn
chặn CS tại VN. Mặc dù Mỹ đã tiêu diệt được một triệu tên địch nhưng vẫn bị coi
là thất bại. Sự chia rẽ nội bộ đã khiến cho Mỹ phải chấp nhận thất bại trước kẻ
địch cố đám ăn xôi giành chiến thắng
Mặc
dù bại trận nhưng Pháp rút khỏi Đông Dương trong trật tự và danh dự. Họ đã tạo
cơ hội cho người dân muốn tìm tự do, những người theo Pháp, làm việc với Pháp,
được vào nam trong thời hạn ba trăm ngày để tránh bị trả thù, và đã có gần một
triệu người di cư vào nam năm 1954. Người Pháp đã tìm được một lối thoát hợp
tình huống cho những người không chấp nhận CS Việt Minh hà khắc.
Người Mỹ thường nói họ tìm hòa bình, ra đi
trong danh dự nhưng trên thực tế cuộc rút lui bỏ chạy khỏi Nam Vang và Sài Gòn
của họ tháng tư 1975 thật ra lại tồi tệ hơn Pháp rất nhiều. Những người cộng
tác với Mỹ bị bỏ lại rơi vào tay địch, bị trả thù, hãm hại, giam cầm lâu dài
trong các trại tập trung. Các ông Đại sứ cuốn cờ tháo chạy vào giờ thứ 25 tại
Miên, VNCH khiến người ta có cảm tưởng
như họ không quan tâm gì tới danh dự của một siêu cường.
Đi
theo vết xe đổ của người Pháp, người Mỹ đồng thời đã để lại những tì vết không
mấy đẹp đẽ trước lịch sử loài người.
Trọng Đạt
Henri Navarre: Agonie de l’Indochine, Paris,
Librairie Plon, Les petis-fils de Plon et nourrit, 1956.
Richard Nixon: No More Vietnams, Arbor House, New York 1985
Bộ Tổng Tham Mưu, Quân sử 4, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa Trong Giai
Đoạn Thành Hình 1972, Đại Nam Tái bản
Cao Văn viên: Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hoà, bản dịch của
Nguyễn kỳ Phong, Vietnambibliography 2003
Chánh Đạo, Việt Nam Niên Biểu 1945-1975, Văn Hóa 2000.
Ngô Quang Trưởng: Trận Chiến Trong Mùa Phục Sinh Năm 1972, Trung Tâm
Quân Sử Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, bản dịch của Kiều Công Cự, xuất bản 2007
Staline, Những nguyên lý căn bản của chủ nghĩa Lê Nin, Sài Gòn 1976
Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng
Văn 2001.
Robert s. McNamara: In Retrospect, The Tragedy and Lessons of
Vietnam
First Vintage Books edition, New York 1996
Nguyễn Kỳ Phong: Vũng Lầy Của Bạch Ốc, Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt
Nam 1945-1975, Tiếng Quê Hương 2006
Henry Kissinger: Years of Renewal- Simon & Schuster 1999
Wikipedia: Opposition to the US involvement in the Vietnam war
www.answers.com/topic/domino-theory
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét