Phan Đức Minh |
Tình hình
tổng quát :
Ngày 6 - 1 - 1975 :
Tỉnh Phước Long và Thị Xã Phước Bình, cách Sài Gòn 60 dặm về phiá
Bắc, rơi vào tay quân cộng sản Bắc Việt. Sau vụ "Mùa Hè
đỏ lửa" ở vùng địa đầu giới tuyến Quảng Trị, năm 1972 thì Phước Bình là
Thị Trấn đầu tiên của Nam Việt Nam bị quân cộng sản đánh chiếm. Không Quân Việt
Nam Cộng Hoà thiệt hại 20 máy bay trong công cuộc bảo vệ Tỉnh Phước Long. Nhiều
máy bay bị bắn hạ bằng hoả tiễn SA-7 của Liên Sô (The South Vietnamese Air Force loses 20 planes defending the province,
many to SA-7 missiles made by the Soviet
Union ).
Sự thiếu phản ứng quân sự của Hoa Kỳ càng xúi giục cộng sản
làm tới vì các chiến lược gia của cộng sản biết rằng đã đến lúc Hoa Kỳ phải rời
bỏ Việt Nam .
Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam Lê Duẫn và Bộ Chính Trị của Đảng cộng sản
quyết định tăng cường các cuộc tấn công trên toàn lãnh thổ Nam Việt Nam để
phát động một cuộc Tổng nổi dậy vào năm 1976. Cộng sản chỉ dám mong điều đó vào
năm 1976 mà thôi.
*
Ngày 28-1-1975 :
Tổng Thống Hoa Kỳ, Gerald Ford , yêu cầu Quốc Hội tăng them quân
viện cho Nam Việt Nam và Kampuchia với ngân khoản 522 triệu
Mỹ Kim vì lúc này Tổng Thống Ford được biết quân cộng sản Bắc việt đã có mặt
tại Nam Việt Nam tới mức 289.000 người. Xe tăng, trọng pháo, hoả lực phòng
không, do Liên Sô và Trung Quốc chi viện rất hùng hậu. Để giữ vững "Một
tiền đồn chống cộng" ở Đông Nam Á Châu thì ngân khoản 522 triệu đô la có
là bao ? Thế mà cũng không xong. Người ta đã muốn bỏ đi cho rồi.
* Ngày
5-2-1975
: Đại Tướng Bắc Việt Văn Tiến Dũng vào Nam để
chỉ huy quân đội cộng sản.
* Ngày
10-3-1975 :
Quân Bắc Việt, với những Sư Đoàn thiện chiến , phương tiện chiến tranh
hiện đại cuả Liên Sô và Trung Quốc , tấn công Ban Mê
Thuột từ ngày 10-3. Ba ngày sau, quân cộng sản tràn ngập thị trấn này,
trong khi những trận đánh lớn khác bùng nổ trên mặt trận Cao Nguyên Trung
Phần.
*
Ngày 14 - 3 - 1975 : Sau khi họp bàn với một số Tướng Lãnh
và nhân vật thân cận (?),
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút quân, bỏ vùng cao
nguyên Trung Phần và các Tỉnh phiá Bắc của Nam Việt Nam .
Các Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn 2, Phạm Văn Phú, và Quân Đoàn I, Ngô Quang Trưởng,
ngỡ ngàng, sửng sốt, không biết tại sao lại bỏ những vùng đất quan trọng, cửa
ngõ, quyết định sự sống chết của Nam Việt Nam vào lúc này, chưa đánh nhau chi
cả, trong khi các lực lượng chiến đấu của 2 Quân Đoàn ( Army Corps ) Việt Nam
Cộng Hoà rất hùng mạnh, sẵn sàng đọ sức với quân đội cộng sản. Mất Ban Mê Thuột
đâu có nghiã là phải mất luôn cả Quân Khu I và Quân Khu 2 ! Ông Thiệu làm như
thế để gây áp lực với chính phủ Mỹ: phải quyết tâm tăng cường viện trợ mọi mặt
cho Nam Việt Nam ,
nếu không thì " Tiền đồn chống cộng ở Đông Nam Á Châu cuả Mỹ " là Nam
Việt Nam sẽ
xụp đổ. Ông Thiệu khờ khạo quá trời quá đất ! Tại sao? - Bởi vì
người Mỹ đã tìm cách tháo lui khỏi cái " Vũng lầy Việt Nam" để
ra đi một cách ít phũ phàng, ít mất mặt chừng nào hay chừng đó , sau khi
ông Cố Vấn An Ninh Quốc Gia của Tổng Thống Mỹ, Henry Kissinger đã cố dọn đường, mở lối cho Tổng Thống Richard
Nixon sang Trung Cộng năn nỉ với Mao Trạch Đông vào năm 1972 , qua sự
giàn xếp của Tổng Thống Hồi Quốc Yahya Khan. Mao Trạch Đông với sức mạnh đàn
anh, từng viện trợ, cố vấn tích cực cho cộng sản Hà Nội, đã ép cộng sản Hà Nội
bớt ương ngạnh, ngưng chơi trội và bắt bí Mỹ ở Hội Nghị Paris, diễn ra tại
Salle de Conférence Kléber. Trong vụ này, Mỹ được tí chút lợi lộc là ký được
cái "Hiệp Định Ngưng Bắn - Agreement
of Cease-Fire " để tháo lui có văn bản đàng hoàng, mà phe cộng sản coi
như mớ giấy lộn, chẳng có giá trị gì cả, để tránh cái cảnh quân Mỹ phải tháo
lui bỏ chạy tán loạn, vô tổ chức,nhưng trong đó Mỹ phải bấm bụng làm lơ, không
được nói năng chi tới cái chuyện quân Bắc Việt đã vào Nam cả mấy chục Sư Đoàn (
Divisions) rồi. Tội vạ đổ lên đầu
người bạn đồng minh Việt Nam Cộng Hoà hết cả. .Phái đoàn Việt Nam Cộng Hoà phản
đối mấy cũng hoài hơi mà thôi vì " Xếp " đã chơi đòn " tháu cáy
" rồi thì ráng mà chịu cho quen. Dân nhược tiểu chơi với anh bạn khổng lồ là
vậy! Việc Mỹ làm cú đi đêm ( Furtive
Conspiracy ) liên kết với Trung Cộng để chống Liên Sô thì kể như 2 bên cùng
có lợi, nhưng riêng phần Trung Cộng thì lời to : Trung Cộng nhẩy vào ngồi cái
ghế " Hội viên thường trực - Permanent
Member " cuả Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, với quyền phủ quyết (
Veto ) đáng giá cả…tỉ tĩ Mỹ Kim, đá văng Ông Quốc Dân Đảng Trung Hoa ra Đài
Loan, mặc dầu Trung Cộng đánh thắng và kiểm soát lục địa Trung Hoa từ năm
1949. Thêm cái lợi nữa là chính quyền Nixon phải lén lút, dấu
diếm bán vũ khí tối tân cho Trung Cộng để chống Liên Sô mà không được cho
ai biết hết, nhất là Liên Sô, kể cả Quốc Hội, Dân Chúng và Báo Chí Mỹ nữa. Đó!
Mỹ dã tìm cách tháo lui bằng mọi giá, với thế bị đánh bại rồi thì Ông Thiệu có
bỏ 2 Quân Khu 1 và 2, chớ Ông Thiệu có bỏ luôn cả Quân Khu 3, Quân Khu 4 và
Biệt Khu Thủ Đô, bỏ hết miền Nam Việt Nam chăng nưã thì Mỹ cũng chẳng bao giờ
dại dột quay đầu trở lại để cứu Nam Việt Nam nữa. Nếu nói là cứu thì cứu hết
sức từ 1965 đến 1973, với 58 ngàn quân nhân Mỹ hy sinh, mấy ngàn người mất
tích, hàng trăm ngàn bị thương, hàng triệu người đau khổ, mất mát, mà đâu có
cứu nổi ! Nay trong lúc đã tan hàng, bỏ chạy thì còn cứu cái nỗi gì nữa đây?
Rút mau chừng nào hay chùng đó! Ông Thiệu phải biết chớ! Dù cách nào đi nữa,
Ông Thiệu ra lệnh bỏ 2 Quân Khu, bắt 2 Quân Đoàn phải bỏ chạy khi chưa đánh
nhau với ai cả thì: làm rối loạn hàng ngũ quân đội và dân chúng, làm mất nước
mà không chiến đấu, không kháng cự gì cả là tội to tầy trời của Ông Thiệu !
Lịch sử cận đại Việt Nam
không thể bỏ qua chỗ này! Đại quân cộng sản đã từng chiếm đóng thành phố Huế
trong dịp Tết Mậu Thân 1968, đã từng đánh chiếm Quảng Trị và kiểm soát hoàn
toàn Thị Trấn An Lộc trong Mùa Hè đỏ lửa 1972 mà có Quân Khu nào bị mất, phải
bỏ chạy đâu ? Trái lại, Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đã phản công một cách vô
cùng anh dũng, để giành lại những địa điểm chiến lược đã rơi vào tay giặc. Thế
thì tại sao mới mất có Ban Mê Thuột mà phải bỏ Quân Khu I, trong khi Danh
Tướng Ngô Quang Trưởng cuả Muà hè Đỏ Lửa 1972, từng được thế giới biết đến và
kính phục, luôn luôn nắm vững tình hình Quân Khu của Ông, trong khi Tướng Phạm
Văn Phú, Tư Lệnh Quân Khu 2, phải lớn tiếng cự lại Tổng Thống Thiệu trong hệ
thống liên lạc Vô tuyến Siêu Tần Số, dù Ông biết rằng làm như thế là có thể mất
lon, phải ra trước Toà Án Quân Sự Mặt Trận. Tướng Phú đang sẵn sàng chờ địch
tiến đánh Pleiku, vì Tướng Phú biết rằng : đánh thì chưa chắc đã chết, nhưng tự
dưng bỏ chạy thì chắc chắn cả lính lẫn dân đều phải chết bi thảm trong cảnh hỗn
loạn, dưới những làn mưa bão pháo binh, hoả tiễn cuả cộng sản, tự do hoành hành
mà không gặp sức chống trả. Năm ngày sau, khi quân đội và dân chúng đang tháo
chạy một cách thê thảm, hỗn loạn thì Ông Thiệu lại ra lệnh cho Tướng Ngô Quang
Trung
Tướng
Ngô Quang
Trưởng Trưởng là phải
" Tử thủ thành phố Huế " ( … five
days later, Thieu orders Hue held at all costs…).
Ông Thiệu vốn được chính giới coi là khôn ngoan, mưu mô, xảo quyệt từ ngày còn
là Đại Tá Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh, tham gia đảo chính lật đổ Ông Diệm năm
1963, rồi lên làm Trung Tướng Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, rồi lên làm
Tổng Thống Việt Nam, Đệ Nhị Cộng Hoà, nhiệm kỳ I, kỳ 2, rồi còn định vận động
Quốc Hội sửa đổi Hiến Pháp để Ông làm luôn Tổng Thống keo thứ 3 nưã, mà sao lúc
này Ông Thiệu lại khờ khạo đến mức độ… nhiều người, nhất là nhiều Sĩ Quan trong
quân đội phải lắc đầu, thở dài ngao ngán cho vận mạng đất nước Việt Nam… Ông
Thiệu ra lệnh bỏ 2 Quân Khu, không đánh đấm chi cả, trong khi 2 Quân Đoàn Việt
Nam Cộng Hoà đang trong tư thế sẵn sàng chờ địch để thêm một lần nữa cho cộng
sản học lại những bài học Mậu Thân 1968 và Mùa Hè Đỏ Lửa 1972. Tướng Ngô Quang
Trưởng trả lời là : không thể nào làm được việc đó vì trước đó 5 ngày, Ông
Thiệu đã hạ lệnh rút bỏ Quân Khu I.( có
Huế trong đó ) quân đội và cả triệu dân chúng hỗn loạn rút chạy suốt 5 ngày
rồi, làm sao mà trở lại vị trí cũ, tổ chức, phối trí lực lượng để mà " tử
thủ ! " Ông Thiệu là Tướng Lãnh, là Tổng Thống, Tổng Tư Lệnh quân
đội mà không biết việc đó hay sao?
* Ngày
24 - 3 - 1975 : Thấy tình thế thuận lợi, cộng sản Hà Nội quyết định
chính thức mở màn Chiến dịch Hồ Chí Minh. Hà Nội giao cho Tướng Văn Tiến Dũng một "
Thời khoá biểu " phải kịp thời đánh chiếm hoàn toàn Nam Việt Nam trước khi
mùa mưa bắt đầu vào tháng 5. Muốn vậy, quân Bắc Việt phải vào chiếm Sài Gòn
chậm nhất là tuần lễ cuối cùng của tháng 4, trước khi quân đội miền Nam có thể
tái phối trí lực lượng hầu bảo vệ Sài Gòn và Quân Khu 4 ở miền Tây.
* Ngày
25 - 3 - 1975 : Ông Thiệu ra lệnh bỏ thành phố Huế. Trong có
mấy ngày mà ra lệnh bỏ Quân Khu 1, có Huế trong đó, rồi lại ra lệnh Tử thủ Huế,
rồi lại ra lệnh bỏ Huế ! Đúng là khùng điên hạng nặng ! Vào lúc này, dân chúng
đông tới hàng triệu người. Họ không quên cảnh cộng sản tàn sát tập thể dân
chúng cũng như viên chức chính quyền, nhân vật Đảng Phái vào dịp Tết Mậu Thân-
1968 - nên đã kéo nhau tràn xuống thành phố Đà Nẵng, lúc đó đang bị quân cộng
sản tấn công từ xa bằng hoả tiễn 122 ly cuả Trung Cộng và đại bác 130 ly cuả
Liên Sô. Ông Thiệu còn ra lệnh: Không giữ được Huế thì cũng phải cố mà giữ lấy
vùng duyên hải Đà Nẵng, coi như vị trí chiến lược làm đầu cầu cho quân đội Mỹ
đổ bộ lên, một khi chính quyền Mỹ quyết định trở lại cứu vớt Việt Nam Cộng Hòa,
đương đầu với cuộc xâm lăng đại quy mô của cộng sản. Trời Đất quỷ thần ơi! Tới
lúc này mà Ông Thiệu còn hy vọng Mỹ trở lại cứu Việt Nam Cộng Hòa thì trên thế
gian này, Lãnh Tụ Quốc Gia, Tổng Tư Lệnh Quân Đội chỉ có Ông là một mà
thôi ! Không thể có kẻ thứ 2 kiểu như thế ở cõi đời này ! Ông Thiệu là
Tổng Thống, “chơi“ với Mỹ, đồng minh thân thiết của Mỹ, lãnh tụ “ Tiền đồn
chống cộng “ của Mỹ tại Đông Nam Á Châu mà Ông Thiệu đâu có biết gì về Mỹ :
ngày 29 - 6 - 1973 Hạ Viện Hoa Kỳ đã biểu quyết dự luật cấm các hoạt động quân
sự của Hoa kỳ trên toàn lãnh thổ Đông Nam Á Châu. Dự luật này được lưỡng
viện Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua ngày 21 – 9 – 1973. Kế theo đó, ngày 12 -10 -
1973, lưỡng Viện lại thông qua dự luật hạn chế quyền của Tổng Thống Mỹ trong
việc đưa quân đội Hoa Kỳ ra ngoại quốc ( sau
bài học sa lầy cay đắng tại Việt Nam ).
Ông Thiệu lúc này loạng quạng, quáng gà là đúng thôi vì Ông không biết gì về
người bạn dồng minh và cũng chẳng biết gì về công việc phải làm của mình nữa...
* Ngày
29 - 3 - 1975: Cộng sản chiếm
thành phố Đà Nẵng, đang rối loạn, mà chẳng tốn 1 viên đạn nào. Dân chúng tìm
mọi cách thoát khỏi vùng này bằng mọi giá, chấp nhận chết chóc, đau đớn chia
lìa trong máu và nước mắt… Kẻ viết bài này kẹt lại Đà Nẵng, rồi đi tù cải tạo
hơn 12 năm vì trước đó phi đạo Đà Nẵng bị hỏa tiễn Trung Cộng cầy nát, không sử
dụng được nữa, trực thăng không có, tầu Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa từ
trong Nam
Trại
tù cải tạo kéo ra bãi biển
Mỹ Khê, Quận 3 Đà Nẵng cứu nạn, nhưng đủ thứ người trốn chạy cộng sản giành
nhau leo lên tầu bằng đủ mọi cách đã gây nên cảnh kinh hoàng, người già, trẻ
con rơi xuống biển như những chíếc lá mùa thu. Kẻ này phải vỗ vai Đại Úy Từ
Khánh Sinh, Quản Đốc Quân Lao Đà Nẵng, cựu Đại Đội Trưởng nhẩy dù : “Không đi
bằng cách này được! Mấy đứa trẻ này sẽ chết hết ! “ Đại Úy Sinh kiếm được tay
Nghĩa Quân, đàn em, hắn lôi cái thuyền nhỏ xíu dìm dưới nước lên và tính chuyện
ra khơi, lên tầu Mỹ. Ngay tức khắc, hàng chục mũi súng AK của du kích địa
phương đã chĩa vào cái thuyền : thuyền ra
là bắn tất cả ngay ! Cả 2 chúng tôi cùng đi tù cải tạo với nhau nơi rừng
sâu, núi thẳm ghê người! Điều an ủi cho kẻ này là trước đó chỉ non một ngày,
nhân danh Sĩ Quan cấp chức cao nhất của 2 Tòa Án Quân Sự Mặt Trận Quân Khu I và
Toà án Quân Sự Thường Trực Đà Nẵng còn có mặt, tôi đã ra lệnh phóng thích tất
cả hơn 1 ngàn quân phạm, bất kể Sĩ Quan hay Binh Sĩ, tiểu hay đại hình, xếp
hàng, cứ 10 người một chạy ra khỏi Quân Lao, về lo chuyện gia đình trước họa
cộng sản đang tràn đến... Ai cũng có thân nhân, gia đình, ai cũng là người cả !
* Ngày
6 đến 15 - 4 - 1975 : 2 Trung Đoàn thuộc Sư Đoàn 2 Bộ
Binh V.N. Cộng Hòa cùng với 1 Lữ Đoàn
nhẩy dù được đổ xuống phi trường Phan Rang vào ngày 6 để hy vọng đánh trận phản
công. Cộng sản thấy hơi khó ăn vì ngán quân nhẩy dù nên để cho tình hình yên
tĩnh 3 ngày. Thế là Lữ Đoàn nhẩy dù được bốc đi Xuân Lộc là nơi đang có trận
đánh lớn giữa Sư Đoàn 18 Bộ Binh VN Cộng Hoà dưới quyền chỉ huy cuả Tướng Lê
Minh Đảo với 2 Sư Đoàn quân Bắc Việt. Thay thế cho Lữ Đoàn nhẩy dù thiện chiến,
người ta đưa tới đó 1 đơn vị Biệt Động Quân. Lập tức quân cộng sản cho xe tăng
T-54 của Liên Sô ào ạt tiến vào, chọc thủng phòng tuyến Phan Rang và chiếm đóng
vùng này không khó khăn.
* Ngày
7 - 4 - 1975 : Lê Đức Thọ, Ủy viên Bộ Chính Trị cộng
sản Hà Nội, tới Tổng Hành Dinh quân cộng sản ở Miền Nam, đóng tại Lộc Ninh để
xem xét tình hình và quyết định kế hoạch cho giai đoạn chót cuả cuộc đánh chiếm
miền Nam. Lúc này, cộng sản đã kiểm soát được 2/3 lãnh thổ Nam Việt Nam .
·
Ngày 8 đến 21 -
4 -1975 : Sư Đoàn 18 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà
do Tướng Lê Minh
Đảo chỉ huy, chống
giữ oanh liệt trước sức tấn công vũ bão cuả 2 Sư Đoàn cộng sản nhằm tiến chiếm
Sài Gòn bằng cách phá vỡ phòng tuyến cuối cùng này. Một Trung Đoàn thuộc Sư
Đoàn 5 Bộ Binh và Lữ Đoàn nhẩy dù từ Phan Rang được đưa vào tăng viện. Tướng
cộng sản Văn Tiến Dũng phải tung vào mặt trận này 2 Sư Đoàn nữa là 4 Sư Đoàn
tất cả để hòng dứt điểm càng sớm càng tốt. Đánh chiếm miền Nam mùa xuân
năm 1975, đây là mặt trận duy nhất quân cộng sản gặp sức chiến đấu dũng mãnh,
oanh liệt cuả quân đội VN Cộng Hoà, cộng sản phải dùng số quân 4 đánh 1, trong
lúc thế mạnh mọi mặt đang ở phía chính họ. Tướng Homer Smith, tùy viên Quốc
Phòng Mỹ tại Sài Gòn, ngày 13, đã gửi 1 bức điện văn cho Tướng George S. Brown,
Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu Hoa Kỳ ca ngợi ý chí và tinh thần chiến đấu
can đảm, dũng mãnh tuyệt vời của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, dù những bất lợi
đang đè nặng tên vai họ. Tướng Smith, sau khi theo dõi cuộc chiến đấu tại Xuân
Lộc, đã nói : “ Sự dũng cảm và chiến đấu
anh hùng của quân chính phủ Miền Nam , kể cả Địa Phương Quân Tỉnh Long Khánh
đã chứng tỏ họ chiến đấu giỏi hơn đối phương của họ rất nhiều...”
Nếu Ông Nguyễn Văn Thiệu không ra lệnh bỏ 2 Quân Khu 1 và 2 ngay từ lúc chưa
đánh nhau chi cả thì quân đội miền Nam Việt Nam sẽ có biết bao nhiêu trận đánh
oanh liệt như thế này, và nếu chính quyền Mỹ không cố ý bỏ chạy khỏi Việt Nam
thì làm sao cộng sản chiếm nổi Nam Việt Nam một cách dễ dàng như đã xẩy ra ?
Cuối cùng phòng tuyến Xuân Lộc chỉ rơi vào tay quân cộng sản, đông và hỏa lực
mạnh gấp 4 lần, vào ngày 21 - 4 - 1975, khi Tướng Tư Lệnh Quân Khu 3 Việt Nam Cộng
Hoà không muốn hy sinh 1 Sư Đoàn 18 Bộ
Binh anh dũng, thiện chiến trong hoàn cảnh bất lợi về tất cả mọi mặt nên đã ra
lệnh cho Sư Đoàn này rút khỏi phòng tuyến đang trấn giữ.
* Ngày
21 đến 25 - 4 - 1975 : Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu bị
áp lực từ nhiều phía phải tuyên bố từ chức, chuyển giao quyền hành cho Phó tổng
Thống Nguyễn Văn Hương để ra ngoại
quốc, đem theo những gì Ông đã lo liệu từ trước cho cuộc
sống ở nước ngoài, bỏ lại đằng sau: Quê Hương, Chiến Hữu và Đồng Bào của Ông,
là những gì thiêng liêng mà Ông đã từng long trọng tuyên đọc lời thề khi nhậm
chức Tổng Thống, cũng như trong các dịp Quốc Lễ là sẽ sống chết bảo vệ
đến hơi thở cuối cùng.
* Ngày
23 - 4 - 1975: Tại Hoa kỳ, Tổng Thống Ford ( Gerald Rudolph
Ford – Tổng thống thứ 38 – Ông Tổng Thống duy nhất của Hoa Kỳ làm Tổng Thống
mà không hề được dân chúng, cử tri bầu vào chức vụ Tổng
Thống hay Phó Tổng Thống, dù là chỉ 1 phiếu ) nói " Chiến tranh Việt Nam kể như chấm dứt”.Dư
luận
hiểu rằng "Chính quyền Mỹ lúc đó đã buông tay và… chạy
làng" bằng mọi giá,
T.Thống
Ford trong khi Liên Sô và
Trung Cộng hồ hởi, phấn khởi là đã hoàn thành nhiệm vụ
"
Dứt điểm tiền đồn chống cộng cuả Mỹ tại Á Châu ".
* Ngày 28 - 4 -
1975 : Bị áp lực nặng nề cũng từ nhiều phiá, Tổng
Thống Trần Văn Hương phải trao quyền hành cho Tướng 4 sao Dương Văn Minh, người
đã đóng vai chính trong vụ đảo chính lật đổ ông Ngô Đình Diệm tháng 11
năm 1963, để cho chính quyền Mỹ đổ quân tác chiến vào Nam Việt Nam ( 1965 ) và
lãnh đạo cuộc chiến tranh ở đây theo kiểu "chiến tranh nhà giầu cuả Mỹ " nhưng hoàn toàn vô hiệu đối với
kiểu "chiến tranh nhân dân -
People's War " không có mục tiêu, không trận tuyến, lẫn lộn với nhân
dân của cộng sản. Tướng Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống theo đúng với sự sắp
xếp cuả Hà Nội, qua trung gian cuả người em ruột Dương Văn Nhựt, Sĩ Quan cao
cấp cuả cộng sản, đã
Dân chúng chen chúc xin di tản ở Tòa
Đại Sứ Mỹ tại SG tháng 4-75
có liên lạc với Dương
Văn Minh từ hồi Tướng Minh được Ông Diệm cho thăng Trung Tướng sau khi Tướng
Minh đánh tan các lực lượng giáo phái vũ trang ở miền Tây. Chuyện đó bại lộ.
Tướng Minh, vì có công trạng, và Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ, người bà con,
cùng quê quán xin cho, nên được 2 Ông Diệm, Nhu tha tội, chỉ bị mất chức cầm
quân, ngồi ghế Tổng Thanh Tra hữu danh nhưng vô thực. Tổng Thống Dương Văn Minh
luôn luôn phải nhận lệnh qua điện thoại với Ông Thích Trí Quang, một nhân vật
trong hàng lãnh đạo tôn giáo, người gốc Bắc Việt, đã được cộng sản sử dụng vào
vị trí “ chuyên viên tôn giáo vận từ năm
1946 “.từ hồi chiến tranh Việt-Pháp, đã bị quân đội Pháp bắt 2 lần vì tình
nghi hoạt động cho Việt Minh cộng sản, người đã lãnh đạo dân chúng đấu tranh
tôn giáo lật đổ Ông Ngô Đình Diệm (…
Thich Tri Quang, a politically sophisticated Monk of North Vietnamese origin,
twice arrested by French on suspicion of Vietminh connections , stirs the
people against Ngo Dinh Diem… ), đấu tranh tôn giáo chống chính quyền
Thiệu - Kỳ - Có, hồi 1966 ở Miền Trung Việt Nam, nhưng cuối cùng bị
Tướng Không Quân Nguyễn Cao Kỳ, với cương vi Thủ Tướng, cùng 1 tôn giáo với
Ông, cho quân đội và quân cảnh từ trong Nam ra dẹp tan, bắt Ông Thích Trí Quang
cùng nhóm thân cận, nhốt lại, dẹp yên chuyện đấu tranh rối loạn lung tung, làm
nát bét xã hội miền Nam, hoàn toàn chỉ có lợi cho cộng sản.
* Tướng Dương Văn Minh, một Tướng đánh giặc
giỏi nhưng hoàn toàn không biết gì về chính trị, lại nhẩy ra làm Tổng Thổng
trong giai đoạn nước sắp mất, với 1 cổ 2 tròng, nhận lệnh từ 2 nơi ( Cả ông Thích
Trí Quang lẫn đại diện cộng sản Hà Nội đều hứa hẹn với Ông những điều tốt
đẹp) thì làm được cái gì đây? Ông Minh làm Tổng Thống chỉ làm được có mỗi
một việc: Theo lệnh của cộng sản, đã chiếm xong dinh Độc Lập, lên tiếng tuyên
bố « đầu hàng vô điều kiện" mà thôi. Ôi ! Giây phút sót sa, đau đớn cho
biết bao nhiêu tâm hồn, nhất là những người quốc gia đã bao năm quyết tâm chống
cộng sản Hà Nội để giữ vững Nam Việt Nam . Kẻ
viết bài này ( một
Phật tử ) cùng
nhóm Sĩ Quan thân thiết xung quanh, hai tay ôm lấy mặt, nén chặt trong lòng,
trong tim cho nỗi… oán hận, đau sót khỏi bật ra, trong lúc đang bị tạm giam tại
trại tập trung Vĩnh-Điện, Quảng Nam cùng với hàng chục ngàn người trong hoàn
cảnh tan hàng, thua trận, bị cầm tù một cách đau buồn và tủi nhục…
Năm 1951, với tuổi
20, đang đi kháng chiến chống Pháp, mình bị Tây bắt ở Huyện Tiên Hưng, Thái
Bình lần thứ 2 ( nhưng lần này là cố ý
rời bỏ hàng ngũ kháng chiến do cộng sản
lãnh đạo, mà không làm liên lụy đến thân nhân, gia đình, nhất là người anh ruột
ở vị trí khá cao, luôn luôn dành thì giờ, tâm trí để che chở cho tôi ) đem
về tập trung ở sân vận động tĩnh Thái Bình 1 tháng, rồi đưa về giam ở Nhà Máy
Rượu, thành phố Nam - Định mà có sao đâu, coi là chuyện thường vì đấu tranh cho
đại cuộc là như thế, không thấy đau buồn tủi nhục bằng hơn 20 năm chống
Cộng
sản vào dinh Độc Lập
cộng, bị cộng sản cầm tù, đưa đi cải tạo, phải theo lệnh bộ
đội cộng sản dí súng vào sau lưng, bắt phải vỗ tay hoan hô khi nghe Dương Văn
Minh, qua hệ thống truyền thanh, tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.
Thế là nước mất, nhà tan, đau buồn, uất hận vì... mất hết !
mất hết ! mất cả thể xác lẫn tâm hồn...
* Xin trở lại: rạng sáng Ngày 30 tháng 4, quân
cộng sản tiến vào Sài Gòn, vẫn còn gặp vài ổ kháng cự lẻ tẻ. Xe tăng cộng sản
hung hăng ủi xập cổng Dinh Độc Lập để quân cộng sản tiến vào. Dương Văn
Minh cứ yên trí theo bài bản đã nhận được từ "cấp trên" qua điện thoại, ra đón tiếp quân "giải phóng " và sau đó " xin bàn giao
chính quyền".
Viên Đại Tá chỉ huy quân cộng sản lúc đó quát vào mặt Dương Văn minh "Các
Anh còn cái gì nữa vào lúc này mà đòi bàn giao ? Chỉ có chấp nhận đầu
Tướng
Minh hàng vô điều
kiện mà thôi ! " Đại Tá cộng sản Bùi Tín ( sau đã bỏ đi Pháp), lúc đó đóng vai Chính Ủy bên cạnh viên
Đại Tá Chỉ huy quân giải phóng, vào Dinh Độc Lập. Bùi Tín khôn ngoan, nhỏ nhẹ
hơn nên nói " Chúng tôi chấp nhận
việc đầu hàng của các Ông. Các Ông không có chi phải sợ cả. Người Mỹ là kẻ xâm
lăng đã bị đánh bại. Nếu các bạn là những người yêu nước thì hãy coi giờ phút
này là niềm vui chung của dân tộc, và trên đất nước của chúng ta, chiến tranh
đã chấm dứt!" Buổi sáng hôm đó, cộng sản bắt Dương Văn Minh tuyên bố
đầu hàng trước quân cộng sản. Chiến tranh đã chấm dứt, đất nước đã thống
nhất nhưng dân chúng miền Nam không vui mừng, sung sướng, hạnh phúc mà
lại xô nhau chạy đi mọi ngả, tìm cách thoát chạy khỏi chính quê hương, đất nước
của mình để tránh họa cộng sản, bất kể mọi gian nguy, bị giết chóc, cướp bóc,
hải tặc hãm hiếp, quăng xác xuống biển… Chính quyền mới truy lùng,
tiêu diệt, bắt bớ những kẻ đã phục vụ cho chế độ cũ, nhân vật Đảng Phái chính
trị, tống họ vào những trại tập trung cải tạo ở các vùng rừng núi âm u, hiểm
hóc, cách biệt hẳn với xã hội loài người. Nam Bộ là cái túi đựng người quá đông
đảo mà lại không có rừng núi thích hợp cho việc thiết lập các trại cải tạo, vừa
an toàn lại có lợi nhiều cho nên cộng sản mới phải đưa số đông " kẻ thù " của họ ra Bắc, tống lên
các trại cải tạo vùng Thượng Du Bắc Việt.
* Cán bộ cộng sản từ lớn đến nhỏ, ngơ ngáo
nhìn Sài Gòn và Nam Việt Nam
trong cảnh xác sơ, buồn thảm nhưng vẫn không làm mất, không che dấu được sự
phồn thịnh, phát triển quá cao so với “thiên
đàng hay địa ngục Bắc Bộ “. Cộng sản lớn nhỏ thi nhau vơ vét tài sản của kẻ
bỏ chạy, của nhân dân Miền Nam "tay
sai Mỹ Ngụy " đem về Bắc như những chiến lợi phẩm cuả 1 cuộc chiến
thắng. Sau này, có cơ hội tiếp xúc với người thân, ruột thit ở Hải Phòng, Hà Nội, Bắc Việt Nam, từng giữ
chức
vụ chính trị và quân sự khá quan trọng trong bộ máy chính quyền cộng
sản thời gian này, kẻ viết được biết vài điều quan trọng : - Hồi còn chính sách
Tố cộng, Ấp Chiến Lược, xây dựng nông thôn và chính sách Chiêu hồi, Ngô Đình Diệm
và Ngô Đình Nhu đã gây cho Hà Nội rất nhiều khó khăn, trở ngại, nhất là các cơ sở hoạt động tại miền Nam. - Lúc
không quân Mỹ và miền Nam dội bom miền Bắc một cách ác liệt, kinh hoàng thì tinh
thần nhân dân, cán bộ, viên chức chính quyền, bộ đội rất hoang mang, xao động,
có thể nói là : nếu sự dội bom khủng khiếp kinh hoàng đó cứ tiếp diễn chừng nưả
tháng nưã thôi thì không biết miền Bắc này sẽ ra sao, chiến tranh đi tới đâu, vấn
đề đưa chiến tranh giải phóng vào miền Nam kết thúc ra sao…Về sau, nghe báo, đài
ở Hà Nội, người ta mới biết : Mỹ và lãnh đạo Trung Quốc đã dàn xếp với nhau để
quân Mỹ tháo lui an toàn, có văn bản, còn Trung Quốc đạt nhiều thắng lợi về chính
trị, ngoại giao, mua được nhiều vũ khí hiện đại và quân dụng khoa học, tối tân
cuả Mỹ và chiến tranh giải phóng miền Nam vẫn tiến hành tốt đẹp, cho nên Mỹ phải
ngưng cuộc oanh tạc long trời, lở đất, làm tê liệt mọi hoạt động cuả gần như toàn
thể miền Bắc… - Mật lệnh của cộng sản Hà Nội lúc đó có những điểm rất kinh khủng:
bắt nhốt hết mọi kẻ có khả năng chống cự,
nổi dậy sau này, tịch thâu mọi loại vũ khí có tầm sát hại tập thể hay cá nhân,
khi có dấu hiệu hay mầm mống biến động thì tất cả những kẻ ít nguy hiểm nhất
cũng phải tập trung cải tạo. Vì thế khi Trung Cộng tràn vào đánh phá 6 Tỉnh
miền Bắc Việt Nam ngày 27 tháng 2 – 1979 để “dậy cho cộng sản Hà Nội 1 bài
học“ thì ngay ngày hôm sau, tất cả mọi Sĩ Quan đã giải ngủ lâu hay mau,
không đi cải tạo sau 30 - 4 - 1975, cũng phải nhốt đầu lại hết ), cán bộ, nhất
là công an phải tìm cách dụ dỗ vợ con, làm áp lực để phá tan các gia đình sĩ
quan đã đi cải tạo để lấy hết, vét hết, không cho lực lượng sĩ quan khi trở về,
còn có thể làm chi được nữa, chỉ còn lo miếng cơm ăn cũng không nổi ...Thân
phận cuả một Đất Nước nhỏ bé đã có “Ngàn
năm nô lệ giặc Tầu - Trăm năm nô lệ giặc Tây " nhưng cũng có 900 năm
độc lập, tự chủ, sau trận đánh thắng lẫy lừng của Ngô Quyền trên sông Bạch
Đằng, đánh bại đạo quân xâm lược khổng lồ cuả nhà Nam Hán, lúc này lại như thế
đó !
* Đất nước Việt Nam
cuối cùng chỉ là bãi chiến trường để 2 phe đối nghịch ý thức hệ quốc tế, tiêu
thụ vũ khí chiến tranh và thử nghiệm chính sách cuả mình: 1 bên là chính sách
ngăn chặn (
Containment Policy ) của Mỹ chống lại
Chủ nghiã bành trướng ( Expansionism )
của phong trào cộng sản quốc tế. Sự việc này thực ra đã được nhìn thấy truớc và
ra sức ngăn chặn rõ ràng từ năm 1960 không cho Nam Việt Nam rơi vào hoàn cảnh
đó: Ngô
Đình Diệm và Ngô Đình Nhu,. hai nhân vật này đã chặt
cụt ít nhất cũng 1 tay cuả cộng sản bằng chính
sách Toàn dân tố cộng, chính sách Chiêu hồi, Ấp chiến lược vv…, bị những
người thân cận chung quanh lợi dụng uy thế để kiếm danh kiếm lợi, làm hỏng kế
hoạch chống cộng có sách lược hiệu quả ( Effective
Policy & Strategy ) hẳn hoi, đã bị sức ép, mưu hại từ phía người bạn
đồng minh khổng lồ, lúc đó bị giới tài
phiệt ( Financial Oligarchy) khuynh đảo, chủ trương buôn bán chiến tranh,
tìm cách loại trừ bằng sức mạnh quân đội và tôn giáo của chính Miền Nam Việt
Nam. Chính người than,
ruột thịt cuả kẻ viết ở Hải Phòng và Hà Nội , trong lúc gặp nhau khi ăn, lúc ngủ
tiện việc chuyện trò, đã cho cho biết rõ
ràng như vậy…
* Có bao giờ những nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dám nghĩ rằng: Một ngày
nào đó Hoa Kỳ phải chịu sự thua trận đầu tiên, theo Quân Sử Hoa Kỳ, với
cái giá quá cao, thê thảm như vậy không ? Thê thảm đến nỗi Đại Sứ Hoa Kỳ tại
Sài Gòn, Graham Martin, suýt nữa thì không kịp ôm lá cờ "Bách chiến bách
thắng" chui vào phi cơ trực thăng để tháo chạy hay không ? Thật là đau đớn
! Tuy nhiên, ở đây kẻ viết cũng xin nói lên lời ghi ơn ông Đại Sứ Martin đã
cương quyết và khéo léo chống lại kế hoạch của Hoa Thịnh Đốn muốn di tản 6 - 7
ngàn người Mỹ, bị kẹt lại ở Sài Gòn vào lúc quân cộng sản đã chuẩn bị vào làm
chủ vùng đất này, theo phương cách: đưa Thủy Quân Lục Chiến Mỹ vào Sài Gòn giữ
vòng đai an ninh quanh khu vực Tòa Đại Sứ để phi cơ trực thăng từ Hạm Đội Thái
Bình Dương liên tục bốc người Mỹ và một số nhân viên làm việc cho Tòa Đại Sứ và
các cơ sở phụ thuộc của Mỹ mà thôi, không cho dân chúng Sài Gòn, Nam Việt Nam
dính ké vào vụ di tản kinh hoàng này. Ông Đại Sứ khôn ngoan và ít nhiều nhân
đạo Martin đã chống lại quyết định của Hoa thịnh Đốn với lý luận : Sĩ Quan, quân lính Nam Việt Nam còn đông đảo
tại Sài Gòn và vùng phụ cận với tâm trạng tức giận lẫn bàng hoàng, họ còn
đủ các loại vũ khí lớn nhỏ trong tay. Nếu người Mỹ di tản theo cách ích kỷ và
tàn nhẫn đó thì những chiếc trực thăng cất cánh bay lên lập tức sẽ bị bắn hạ
như trái cây chín rụng và cuộc chiến đẫm máu, tàn khốc giữa những chiến binh
Nam Việt Nam và thủy quân lục chiến Mỹ bắt buộc phải xẩy ra, Sài Gòn và dân
chúng vô tội sẽ lãnh nhiều hậu quả không cách nào lường trước được.
Giới
truyền thông cuả Mỹ, trước và sau ngày Miền Nam xụp đổ, đa số đã sa vào mê hồn
trận của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản, bị ảnh hưởng của phong trào phản chiến do
Đảng Cộng sản Mỹ ( tuy là yếu kém ) chủ
trương và lãnh đạo, đánh giá Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa qua hình ảnh những ngày
rút quân, bỏ chạy tán loạn do lệnh của ông Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Báo
chí và nhiều nhân vật chính quyền Mỹ bị mặc cảm lần đầu tiên thua trận, bỏ
cuộc, chạy làng thảm hại cho nên đã không tiếc lời đổ hết
mọi tội lên đầu Quân Đội VN Cộng Hòa là thiếu tinh thần chiến đấu. Họ
đâu có biết Quân Đội VN Cộng Hòa chiến đấu trong hoàn cảnh khắc nghiệt ra sao,
chiến đấu không ngưng nghỉ, phương tiện thiếu thốn chớ đâu có được chiến đấu
trong hoàn cảnh "nhà giầu" như quân đội Mỹ ở Việt Nam lúc đó, được
bảo vệ, yểm trợ một cách gần như tuyệt đối. Họ đâu có biết chính quyền của Ông
Johnson ở Hoa Thịnh Đốn đổ quân vào Việt nam, hòng tiêu diệt cộng sản ở đây
trong vòng 3 năm, nhưng lại làm cái việc kỳ quái, mà chỉ có giới tài phiệt Mỹ
mới hiểu được là "… Johnson's
administration made agreements to sell or give the Soviet Union and her commuinist
satellites hundreds of millions of dollars worth of food, electronics
computers, chemical plants, oil refinery equipment, airborne radar apparatus,
jet aircraft engines, machine tools
for an $800-million auto assembly plant and military rifles…"
Đó! Bán hoặc cho cộng sản Liên Sô và các nước cộng sản chư hầu thực phẩm, máy
điện toán, dụng cụ, hoá chất, động cơ máy bay phản lực, máy Radar, nhà máy chế
tạo xe cộ, súng đạn, để rồi tất cả những thứ đó lại đổ lên quân cảng Hải Phòng,
đem vào chiến trường Miền Nam để giết lính Mỹ và Việt Nam Cộng Hoà! Chỉ có Trời
mới hiểu nổi !
Ở đây, kẻ viết chỉ
muốn nói lên một điều: Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa nói chung, đã chiến đấu rất
anh dũng, kiên cường, bất chấp mọi trở ngại, khó khăn, thiếu thốn. Miền Nam xụp
đổ, nhiều Tướng Lãnh: Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn
Hai, Lê Văn Hưng vv... và nhiều Sĩ Quan cao cấp khác, đã tự sát trong khung
cảnh vô cùng oanh liệt, chưa từng có trong quân đội 1 quốc gia nào trên thế
giới, họ không chịu đầu hàng hay để bị bắt làm tù binh, hàng triệu quân nhân,
viên chức chính phủ, nhân vật Đảng Phái chính trị bị nhốt vào các trại tù cải
tạo khổng lồ nơi rừng thiêng, nước độc, dân chúng ồ ạt bỏ nước ra đi, bỏ hết
tài sản, không kể sống chết, thảm hoạ kinh hoàng trên biển cả vv… là những vấn
đề vượt quá khả năng và tầm tay cuả người Việt Miền Nam chúng
ta. Chỉ có các Đấng thiêng liêng, chỉ có Lịch Sử mới hiểu được mà thôi !
Điều đáng mừng cho chúng ta là càng ngày, dân chúng Hoa Kỳ cũng như thế
giới loài người càng hiểu ra sự thật của cuộc chiến tranh Việt Nam, một Bài Học
Đắt Giá , quý báu cho người Việt Nam, cho siêu cường quốc Hoa Kỳ
và tất cả các quốc gia nhược tiểu khác trên thế giới: Nước nhỏ yếu mà
chỉ trông cậy, giao vận mạng dân tộc mình vào tay một nước lớn mạnh khác lo hộ
hoàn toàn thì nhiều chuyện nguy hiểm bắt buộc sẽ phải đến. Nước lớn, dù là Đệ
Nhất Siêu Cường Quốc mà thiếu chung thủy, coi thường Đồng Minh, bạn bè, phản
bội dễ dàng những người đã từng sống chết với mình trên cùng một chiến tuyến,
coi thường Liên Hiệp Quốc là cơ quan quốc tế có thẩm quyền cao nhất để giải
quyết những khó khăn, tháo gỡ những rắc rối, tranh chấp điên khùng của loài
người ngày nay có nhiều tham lam, ích kỷ, ưa dùng bạo lực, ít biết đến giá trị
của hòa bình... thì không được đồng minh, bạn bè chân thành kính nể, rồi không
lúc này thì cũng lúc khác sẽ bị những thế lực thù địch khác, mà tất nhiên có
nhiều kẻ thù lớn nhỏ, tìm cơ hội đánh cho những đòn chí mạng, thảm khốc, kinh
hoàng, loài người xưa nay chưa từng thấy, chưa dám nghĩ đến, nhất là trong một
thế giới ngày nay khoa học, kinh tế, vũ khí chiến tranh, quyền lợi, tôn giáo
xung đột, phát triển mau hơn, mạnh hơn so với mức độ hòa giải, tuy có,
nhưng khó khăn và chậm chạp. Cho đến gần đây, tháng 3 -2006, một số các nhân
vật chính trị, các Giáo Sư Sử Học, Chính Trị Học mới tụ họp nhau lại ở Boston
để tìm ra phần nào những sai lầm, thiếu
sót của chính quyền Mỹ trong cuộc chiến Việt Nam, như đã nói sơ lược ở trên,
trong khuôn khổ hạn hẹp của một bài báo, không phải là 1 cuốn sách, hầu cải
thiện tình trạng bế tắc, hiểm nghèo, sa lầy của cuộc chiến tranh tại Iraq giữa
1 Siêu Cường Quốc ( Superpower ) hàng
đầu của thế giới loài người với 1 quốc gia nhỏ bé, tầm thường, đã bị thương
nặng trong cuộc chinh phạt thần tốc ( lighting-speed expedition ) của lực lượng
Đồng Minh, Dân Chủ, Tư Do mà chính yếu là Hoa Kỳ, vào năm 1991.
Chúng ta có quyền hi vọng ở tương lai: thế hệ trẻ Việt Nam, những người yêu
nước trong cũng như ngoài nước, với trình độ kiến thức, hiểu biết rộng rãi về
" Tiến trình cuả nhân loại - Process
of Human Society " , hiểu biết về khoa học, kỹ thuật, nhất là với niềm
tự hào cuả một Dân tộc tuy nhỏ bé, gần như suốt đời này qua đời khác, luôn luôn
bị xâm lăng, thống trị dã man, tàn bạo, nhưng không bao giờ đánh mất Niềm Tin
vào Tổ Quốc, từng có những trang sử oanh liệt cuả Ngô Quyền, Lê Lợi, Lý Thường
Kiệt, Trần Hưng Đạo, Quang Trung Nguyễn Huệ vv… sẽ mãi mãi muôn đời có mặt
trong Cộng Đồng Thế Giới Tự Do, Tiến bộ và thật sự Văn Minh.
Henry Kissinger thú nhận :
Lỗi lầm trong cuộc chiến Việt Nam là do người Mỹ gây ra –
Ngày 2 Tháng 10 Năm 2010
(AP) - Tiến Sĩ Henry
Kissinger, từng giữ các chức vụ cố vấn an ninh quốc gia và Ngoại Trưởng
Hoa Kỳ dưới thời Tổng Thống Richard Nixon, là nhân vật nòng cốt trong chính
sách của Washington vào những năm cuối của cuộc chiến Việt Nam, tuyên bố rằng những
lỗi lầm trong cuộc chiến ấy là do chính người Mỹ gây ra. Ông Kissinger đưa ra nhận định
này tại hội thảo về chiến lược và lịch sử cận đại của Hoa Kỳ tổ chức hôm thứ Tư
29-9-2010 tại trụ sở Bộ
Ngoại Giao Hoa Kỳ ở thủ đô Washington . Theo ông thì
người Mỹ muốn thương thuyết hầu chấm dứt cuộc chiến đó, nhưng phía Hà Nội thì
nhất định phải đạt chiến thắng. Cộng Sản Việt Nam ấp ủ, tiến hành
mục tiêu đó để thống nhất hai miền Nam Bắc từ khi họ đánh đuổi người Pháp ra
khỏi Đông Dương vào năm 1954. Trước khi cuộc chiến Việt Nam kết thúc hồi năm
1975, ông Kissinger cũng ca ngợi phía Hà Nội là khôn khéo nên đã thành công
trong việc đàm phán với Mỹ. Tuy nhiên qua những lời nhận lỗi cho rằng thất bại hoàn
toàn về phía Hoa Kỳ, ông đã làm lu mờ những chiến công mà từ phía đối
thủ Bắc Việt, luôn cho đó là một chiến thắng “thần thánh” giải phóng Miền Nam,
thống nhất đất nước về một mối.
Phan Đức Minh
Một
số tài liệu tham khảo :
* The Death of a Nation. - John A. Stormer. - Liberty Bell
Press. - Missouri -
1978.
The World Almanac of The Vietnam War -John
S. Bowman (General Editor). - Bison Books Corp, NewYork.-1985
* Vietnam -
The History & The Tactics.- Ashley Brown & Adrian Gilbert.-
Orbis Publishing Limited, London -
1982.
* Kennedy. - Theodore Sorensen. - Harper & Row . New
York - 1965.
* New Standard Encyclopedia .-. Standard Educational
Corporation. Chicago –
1981.
* Henry Kissinger’s Diplomacy. - Simon & Schuster
.- New York ,
1994.
* A Book of U.S.
Presidents - George Sullivan - Scholastic Incorporation, New
York - 1984.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét