Việt Nam có một chính sách đối ngoại nào không
?
Lý do gì đã khiến lãnh đạo cộng sản Việt Nam chọn theo hẳn Trung
Quốc và thách thức Hoa Kỳ và ASEAN ? Và một cách công khai thay vì chỉ thỏa
hiệp ngầm ? Có thể là do Tập Cận Bình ép buộc vì ông ta đang cần một thắng lợi
ngoại giao để thực hiện những thay đổi nội bộ quan trọng, nhưng tại sao lãnh đạo
Việt Nam lại chấp nhận ? Hèn nhát hay khờ khạo ?
Ngoại giao Việt Nam tỏ ra đặc biệt sôi động trong hai tháng qua. Chủ
tịch nước đi Trung Quốc cuối tháng 6, một tuần sau đi Indonesia và một tháng
sau đi Mỹ. Những chuyến công du ở cấp nguyên thủ quốc gia chắc chắn là phải được
thỏa thuận từ lâu, sự dồn dập này nằm trong một kịch bản: Hà Nội biết trước rằng
họ cần trấn an các đối tác quốc tế quan trọng cũng như dư luận quốc nội sau những
thỏa hiệp rất nghiêm trọng với Trung Quốc.
Tại sao Indonesia và Hoa Kỳ lại là những nước
cần được thăm viếng ngay sau chuyến đi Trung Quốc ? Đó là vì hai nước này có tầm
quan trọng đặc biệt đối với Việt Nam.
Indonesia không phải là một nước phát triển
giàu mạnh, trao đổi kinh tế và văn hóa với Việt Nam không đáng kể nhưng lại là
nước có trọng lượng và tiếng nói áp đảo trong khối ASEAN vì dân số (gần một nửa
dân số ASEAN) và vị trí chiến lược (3/4 hàng hóa đường biển của thương mại quốc
tế đi ngang Indonesia).
Có thể nói ASEAN quan trọng đối với thế giới
chủ yếu vì Indonesia. Văn phòng ASEAN đặt ở Djakarta. Việt Nam cần ASEAN như một
không gian sinh tồn bắt buộc và vì ASEAN cũng là thị trường xuất khẩu thứ ba của
Việt Nam sau Hoa Kỳ và Châu Âu. ASEAN có lý do để lo ngại sau những gì mà ông
Trương Tấn Sang vừa thay mặt chính quyền Việt Nam thỏa thuận với Trung Quốc. Mục
tiêu chính của ASEAN là liên kết các nước Đông Nam Á để cùng đương đầu với áp lực
của Trung Quốc trong vùng.
Vậy mà Việt Nam đã thỏa thuận với Trung Quốc rằng
"Hai bên nhất trí tăng cường điều phối và phối hợp tại các diễn đàn đa
phương như Liên Hợp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới, Diễn đàn hợp tác kinh tế
châu Á - Thái Bình Dương, Diễn đàn hợp tác Á-Âu, Diễn đàn khu vực ASEAN, Hội
nghị cấp cao ASEAN và Trung Quốc, Hội nghị cấp cao ASEAN và Trung-Nhật-Hàn, Hội
nghị cấp cao Đông Á... (1). Thỏa
thuận này trên thực tế có nghĩa là từ nay Hà Nội sẽ nhận chỉ thị của Bắc Kinh
trong mọi quan hệ đối với ASEAN và các định chế chung quanh ASEAN; nó biến Việt
Nam thành nội ứng của Trung Quốc trong lòng ASEAN và một cách tự nhiên nó khiến
các thành viên ASEAN nhìn Việt Nam như một kẻ phản trắc. Trong dự tính của ban
lãnh đạo cộng sản Việt Nam ông Sang cần đi Indonesia ngay sau chuyến đi Bắc
Kinh vì ASEAN đang bị một cú sốc lớn.
Hoa Kỳ lại càng quan trọng hơn. Phải nói thẳng
nếu không có Hoa Kỳ thì Trung Quốc đã chiếm hết Biển Đông rồi. Hoa Kỳ là bảo đảm
cho hòa bình trên thế giới và trong vùng. Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu thuận
lợi nhất đem lại thặng dư thương mại hơn 15 tỷ cho Việt Nam trong năm 2012 và
quan hệ với Hoa Kỳ cũng quyết định quan hệ đối với Châu Âu, Nhật và các nước
dân chủ khác. Ngoại thương với Hoa Kỳ và các nước này chiếm sấp sỉ 80% ngoại
thương Việt Nam; điều này có nghĩa là nếu quan hệ với Hoa Kỳ vì một lý do nào
đó xấu đi thì quan hệ của Việt Nam với các nước dân chủ cũng sẽ giảm sút, kéo
theo những hậu quả năng nề, kể cả và trước hết về kinh tế.
Quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam dĩ nhiên là bị
thương tổn nặng sau những thỏa hiệp Trung - Việt vừa rồi. Từ hơn mười năm qua một
sự kiện quan trọng đã diễn ra, đó là Hoa Kỳ, Châu Âu và các nước dân chủ dần dần
nhìn Trung Quốc như một đe dọa. Không phải vì Trung Quốc tăng trưởng mạnh. Trước
đây Đức và Nhật đã tăng trưởng rất mạnh nhưng thế giới không hề lo âu mà còn
vui mừng. Lý do thực sự khiến Hoa Kỳ và các nước dân chủ lo ngại là vì, trái với
dự đoán và hy vọng của họ, Trung Quốc mạnh lên mà vẫn không chuyển hóa về dân
chủ, không những thế còn tăng cường sức mạnh quân sự, bênh vực các chế độ độc
tài và ngày càng tỏ ra hung hăng.
Một phong trào bài Hoa không chính thức nhưng
có thực đang hình thành trên khắp thế giới. Hầu như không có ngày nào không có
những phát giác về sự độc hại của hàng hóa Trung Quốc, về sự bất chấp những chuẩn
mực lao động và môi trường và về những vi phạm nhân quyền tại Trung Quốc; không
có tuần nào không có những nghiên cứu báo động cho thấy Trung Quốc sẽ qua mặt
Hoa Kỳ trong vòng hai thập niên, thậm chí ngay vào năm 2020. Phong trào bài Hoa
này đã là thành quả nổi bật nhất của giai đoạn Hồ Cẩm Đào và đã có tác dụng là
biến Trung Quốc thành một đe dọa cho thế giới.
Tại sao Hoa Kỳ chuyển trọng tâm chiến lược và
sức mạnh quân sự sang Thái Bình Dương nếu không phải là vì lo ngại Trung Quốc?
Trong một bối cảnh thế giới như thế việc Việt
Nam chấp nhận làm một chư hầu trọn vẹn của Trung Quốc, "thúc đẩy", "mở rộng",
"tăng cường" và"làm
sâu sắc thêm" mối
quan hệ đối với Trung Quốc vốn đã là một quan hệ lệ thuộc, cam kết "điều phối" và "phối
hợp" với Trung Quốc,
nói cách khác nhận mệnh lệnh của Trung Quốc, trong khối ASEAN và trong các quan
hệ đối với thế giới, kể cả tại Liên Hiệp Quốc, không thể không làm Hoa Kỳ bất
bình. Càng bất bình vì về mặt quân sự Hà Nội và Bắc Kinh cũng đã thỏa thuận sẽ "tăng cường trao đổi và điều
phối trong các vấn đề an ninh đa phương khu vực. Trao đổi nghiên cứu hình thức
mới, nội dung mới trong triển khai hợp tác quốc phòng, làm sâu sắc thêm hợp tác
giữa quân đội hai nước" (1).
Tất nhiên Hà Nội có nhu cầu phân bua. Nhưng
ông Sang và lãnh đạo Việt Nam còn gì để nói với Indonesia và Hoa Kỳ? Sự thực đã
quá rõ ràng qua tuyên bố chung Việt Nam - Trung Quốc. Có lẽ Hà Nội cũng muốn
bày tỏ thái độ hữu nghị đối với hai nước chiến lược này, làm như không có gì xẩy
ra. Tương tự như một cô gái tới gặp bạn trai sau khi vừa chính thức đính hôn và
cố làm như mọi sự vẫn như cũ. Giả dối và vô duyên. Cả Indonesia và Mỹ đều đã chứng
tỏ họ đã nhìn Hà Nội một cách khác. Ở cả hai nước ông chủ tịch nước Trương Tấn
Sang đã chỉ được tiếp đón một cách lạnh nhạt và rẻ rúng, ở mức độ tối thiểu cần
thiết. Cảm tưởng rõ rệt là họ không muốn gặp ông Sang và chỉ chấp nhận tiếp ông
bởi vì cuộc thăm viếng đã được thỏa thuận từ trước. Tại cả hai nước dù mang
theo một phái đoàn đông đảo ông Sang đã không ký kết được một hợp tác cụ thể
nào cả, ngoài một tuyên bố chung ước lệ nói đến tăng cường "hợp tác toàn
diện". Nhưng "hợp tác toàn diện" chỉ là một cụm từ rỗng nghĩa nếu
không được cụ thể hóa bằng những hiệp ước và hợp đồng rõ rệt. Việt Nam không thể
và cũng không cần hợp tác trên mọi mặt với Mỹ, thí dụ như dự án đưa người lên Hỏa
Tinh. Chúng ta chỉ cần hợp tác trên một số mặt thôi, điều quan trọng là hợp tác
đến mức độ nào.
Hai chuyến đi Indonesia và Mỹ của ông Sang đều
có cùng một kết quả là một con số không bẽ bàng. Một tuần lễ trước khi ông Sang
tới Mỹ ngân hàng US EXIM Bank, định chế tài trợ xuất khẩu của chính quyền Mỹ,
đã từ chối tài trợ cho dự án xây dựng nhà máy nhiệt điện Thái Bình trị giá 1,6
tỷ USD viện cớ nhà máy này gây ô nhiễm cho môi trường. Ô nhiễm có thể chỉ là lý
cớ, lý do thực sự có thể là Mỹ không muốn trợ giúp một chư hầu của Trung Quốc.
Người ta vẫn để ông Sang đến nhưng tiếp ông một cách rẻ rúng như một lượng
không đáng kể, nghe ông nói một cách lơ đãng, nhắc lại một cách ngắn gọn những
lập trường nguyên tắc rồi nhanh chóng chia tay vì Việt Nam không còn gì đáng
chú ý.
Tổng thống Obama cũng cho biết hai bên đã đề cập
tới việc Việt Nam xin gia nhập khối Hợp Tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP-Trans-Pacific
Partnership) và nói là sẽ có gắng giải quyết vấn đề này trong năm nay.
Cách giải quyết này rất có thể sẽ là một sự từ chối và như thế sẽ là một thiệt
hại lớn cho Việt Nam. TPP là tổ chức hợp tác kinh tế của một số nước Châu Á và
Châu Mỹ được thành lập năm 2006 với thỏa thuận ngay lập tức giảm ít nhất 90% và
trong tương lai xóa bỏ hoàn toàn hàng rào quan thuế. Gia nhập TPP mở ra cho Việt
Nam vô số cơ hội; ngay trước mắt quần áo và giầy dép Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ
và các nước TPP sẽ được giảm thuế một cách đáng kể, trong tương lai có thể
không còn phải trả thuế. Mỹ tuy chưa phải là thành viên nhưng lại có tiếng nói
quyết định trong việc thu nhận thành viên mới vì mọi thành viên TPP đều thân Mỹ
và cần Mỹ. Người ta có thể nghĩ TPP là một tổ chức ra đời do sáng kiến của Mỹ để
cô lập Trung Quốc, dù Mỹ không chính thức ra mặt.
Ngoài bốn nước sáng lập viên New Zealand,
Chili, Brunei, Singapore, còn tám nước đang xin gia nhập : Úc, Mã Lai, Peru,
Canada, Nhật, Mexico, Mỹ và Việt Nam; tất cả đều chắc chắn được chấp nhận trừ
Việt Nam. Chính phủ Mỹ đã từng lặp lại nhiều lần, kể cả qua lời đại sứ Mỹ tại
Việt Nam David Shear, rằng cải thiện tình trạng nhân quyền là điều kiện để Việt
Nam được chấp nhận vào TPP, nhưng tình trạng nhân quyền tại Việt Nam đã không cải
thiện mà còn tiếp tục xấu đi. Sự câu kết với Trung Quốc càng làm cho khả năng
Việt Nam gia nhập TPP nhỏ lại. Trừ khi có một đảo ngược chính sách ngoạn mục,
như hủy bỏ nghị định 72 và phóng thích một số đông đảo tù nhân chính trị, Việt
Nam không có hy vọng.
Chắc chắn chẳng bao lâu nữa ban lãnh đạo cộng
sản Việt Nam sẽ nhận ra rằng chính sách phục tùng toàn diện đối với Trung Quốc,
và do đó gián tiếp đứng vào thế kình địch với Hoa Kỳ và các nước dân chủ, gây
thiệt hại nhiều hơn họ tưởng.
Như đã nói ở trên, quan hệ hợp tác với Hoa Kỳ
đi song song và nhịp nhàng với quan hệ hợp tác với Châu Âu, Nhật và các nước
dân chủ khác. Các quan hệ này chỉ có thể xuống cấp từ nay với những hậu quả
nghiêm trọng. Việt Nam là một trong số một vài nước lệ thuộc ngoại thương nặng
nề nhất thế giới, hơn hẳn cả Trung Quốc. Tổng số xuất nhập khẩu của Việt Nam gần
bằng 200% GDP trong khi mức trung bình thế giới của tỷ lệ này chỉ là 50%. Đã thế
90% xuất khẩu của Việt Nam là sang các nước dân chủ. Ngoại thương của Việt Nam
và kinh tế Việt Nam nói chung sẽ ra sao trong những ngày sắp tới còn là một dấu
hỏi và một lo âu lớn. Cho đến nay Mỹ và Châu Âu vẫn làm như không biết rất nhiều
mặt hàng xuất khẩu mang nhãn Made
in Vietnam thực ra chỉ là
hàng Trung Quốc và Việt Nam hành xử như một trạm xuất khẩu của Trung Quốc. Sự dễ
dãi này còn tiếp tục bao lâu?
Trong thế đối đầu đang hình thành Việt Nam có
mọi lý do để dành ưu tiên cho quan hệ đối với Hoa Kỳ ngay cả nếu muốn giữ quan
hệ hữu nghị với Trung Quốc. Chúng ta có rất nhiều điều để học hỏi ở Hoa Kỳ và
các nước dân chủ phát triển, về khoa học và kỹ thuật cũng như về văn hóa, tổ chức
và phương pháp. Hoa Kỳ đã là thị trường lớn và thuận lợi nhất của chúng ta và
còn đầy hứa hẹn vì chúng ta chưa chiếm được 1% tổng số nhập khẩu của họ. Chúng
ta bán cho Hoa Kỳ và Châu Âu 40 tỷ USD hàng hóa mỗi năm, gấp bốn lần kim ngạch
xuất khẩu sang Trung Quốc, 80 tỷ USD nếu kể các nước dân chủ khác. Hoa Kỳ cũng
không dòm ngó đất đai và biển đảo của chúng ta mà còn có thể bảo vệ chúng ta
trước những âm mưu lấn chiếm từ bên ngoài. Quan hệ chặt chẽ với Hoa Kỳ không chỉ
giúp chúng ta tăng cường sự hợp tác đối với Châu Âu và các nước phát triển khác
mà còn là điều kiện để chúng ta có thể chung sống hòa bình với Trung Quốc.
Ngược lại chúng ta không có gì đáng kể để học
hỏi và chỉ có thể thiệt thòi trong quan hệ đối với Trung Quốc. Hai xã hôi đồng
dạng, chỉ khác nhau về mức độ. Những gì Trung Quốc có chúng ta đều có nhưng ở mức
độ ít hơn và thấp hơn, những gì chúng ta làm ra Trung Quốc đều làm được nhưng tốt
hơn và rẻ hơn. Quan hệ chỉ có thể thua thiệt. Một thí dụ cụ thể và đau nhức là
thâm thủng ngoại thương. Chúng ta thâm thủng nặng đối với Trung Quốc và dù cả
hai nước đều tuyên bố cần cân bằng cán cân thương mại, con số thâm thủng đã chỉ
tiếp tục tăng lên. Năm 2012 chúng ta thâm thủng 17 tỷ USD. Con số này sẽ là ít
nhất 22 tỷ năm 2013. Và quan hệ "đối tác chiến lược toàn diện" với
Trung Quốc đã không ngăn cản Trung Quốc tiếp tục lộng hành trên Biển Đông.
Vậy thì lý do gì đã khiến lãnh đạo cộng sản Việt
Nam chọn theo hẳn Trung Quốc và thách thức Hoa Kỳ và ASEAN? Và ngay cả nếu chọn
lựa một cách tai hại như thế thì cái gì đã khiến họ nói ra một cách công khai
trước dư luận Việt Nam và thế giới trong bản tuyến bố chung Việt Nam - Trung Quốc
thay vì chỉ thỏa hiệp ngầm ? Có thể là do Tập Cận Bình ép buộc vì ông ta đang cần
một thắng lợi ngoại giao để thực hiện những thay đổi nội bộ quan trọng, nhưng tại
sao lãnh đạo Việt Nam lại chấp nhận ? Hèn nhát hay khờ khạo ?
Lý do đầu tiên đã được nhắc lại nhiều lần là họ
đặt quyền lợi của đảng lên trên quyền lợi đất nước. Tiếp tục cầm quyền là ưu tư
lớn nhất của họ và những người lãnh đạo cộng sản Việt Nam dù xung đột với nhau
đến đâu cũng đều đồng ý là phải dựa vào Trung Quốc để giữ chế độ; đi với các nước
dân chủ thì phải chấp nhận dân chủ hóa và họ biết đảng cộng sản không có tương
lai trong một nước Việt Nam dân chủ. Điều này không cần bàn cãi thêm nữa. Chỉ cần
nói thêm rằng nó cũng là một di sản văn hóa của chủ nghĩa cộng sản. Trong chủ
nghĩa này không có quyền lợi quốc gia, chỉ có quyền lợi giai cấp. Ngày nay quyền
lợi giai cấp được thay thế bằng quyền lợi của những người cầm quyền.
Nhưng còn hai lý do quan trọng khác.
Lý do thứ nhất là Đảng Cộng Sản Việt Nam chưa
từng biết đến một chính sách đối ngoại đúng nghĩa. Ý thức hệ quyết định chính
sách đối ngoại và đồng minh, một khi ý thức hệ đã được chọn lựa thì các đồng
minh và kẻ thù cũng đã được chọn lựa (2). Cho tới thập niên 1980 ĐCSVN tự coi
là mũi nhọn tiến công của chủ nghĩa Mác-Lênin và dĩ nhiên coi mọi nước xã hội
chủ nghĩa là anh em, Hoa Kỳ và các nước dân chủ là thù địch. Bộ chính trị không
cần nghiên cứu về thế giới để tìm ra một chính sách đối ngoại, bởi vì đường lối
đối ngoại đã vạch sẵn rồi. Sau năm 1985 họ chọn "kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa" theo Trung Quốc và chính sách đối ngoại cũng đã
quyết định xong, đó là chính sách trao đổi kinh tế với các nước dân chủ nhưng
phủ nhận chế độ chính trị. Chính sách này cũng buộc họ phải coi các chế độ Cuba
và Triều Tiên là anh em trong khi Hoa Kỳ và các nước dân chủ là những nguy cơ
tiềm ẩn.
Lý do thứ hai là các cấp lãnh đạo cao nhất của
đảng cộng sản đều thiếu hẳn sự hiểu biết về thế giới. Trong tiệc chiêu đãi tại
bộ ngoại giao Hoa Kỳ ngày 25/7 vừa ông Trương Tấn Sang nói: "Sau hơn 25 năm thực hiện
công cuộc đổi mới, từ một nước kém phát triển, Việt Nam đã vươn lên trở thành một
nước có thu nhập trung bình với tốc độ tăng trưởng khá và đã đạt trước thời hạn
nhiều mục tiêu thiên niên kỷ". Việt
Nam có thu nhập trung bình ? Thu nhập trung bình trên thế giới là 10.000 USD
trên mỗi đầu người, tại Việt Nam con số này chỉ là 1.200 USD. Và Việt Nam đã đạt mục tiêu thiên niên kỷ nào ? Tại sao một nguyên thủ quốc gia
có thể nói một câu ngớ ngẩn như thế trước một cử tọa chọn lọc như thế ? Câu nói
này tiêu biểu cho trình độ hiểu biết về thế giới của những người lãnh đạo cộng
sản Việt Nam từ trước đến nay.
Đảng Cộng Sản Việt Nam và chế độ cộng sản Việt
Nam đã là những sản phẩm của sự thiếu hiểu biết và sự thiếu hiểu biết đã luôn
luôn hướng dẫn họ. Theo lời thuật của chính ông, Hồ Chí Minh đã khám phá ra chủ
nghĩa cộng sản sau khi đọc một bài báo, ông đã say mê như người mất trí mà
không biết rằng chủ nghĩa này đã bị cả lý luận lẫn thực tế phủ nhận từ lâu rồi.
Năm 1975 khi Đảng Cộng Sản Việt Nam tưng bừng áp đặt chủ nghĩa Mác-Lênin trên cả
nước và ca tụng nó như là một chủ nghĩa bách chiến bách thắng, đỉnh cao của trí
tuệ thì nó đã bị vất bỏ từ đúng một thế kỷ rồi sau đại hội Gotha tại Đức năm
1875, và 15 năm sau nó sẽ sụp đổ hoàn toàn. Đầu thập niên 1980 họ còn tin tưởng
vào thắng lợi không thể đảo ngược của Liên Xô để rồi ngay sau đó hoảng hốt nhìn
Liên Xô tan vỡ và quay sang đầu hàng Trung Quốc. Năm nay, 2013, giữa lúc Trung
Quốc sắp lâm vào khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng và có nguy cơ tan vỡ luôn họ
chọn lệ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc. Ngay cả nếu đảng cộng sản chỉ biết có
quyền lợi của mình thì đây cũng là một chọn lựa dại dột. Càng dại dột vì cả Việt
Nam lẫn thế giới đều đã thay đổi.
Như đã nói, mục đích của các chuyến đi
Indonesia và Hoa Kỳ của ông Trương Tấn Sang cũng là để trấn an dư luận Việt
Nam, trước hết là khối cán bộ đảng viên trẻ có học thức, rằng Việt Nam vẫn còn
quan hệ đa phương bình thường với nhiều nước, nhưng kết quả đã ngược hẳn. Năm
1985 khi họ đem Nguyễn Văn Linh lên cầm quyền để đầu hàng Trung Quốc thì sự đầu
hàng này được che đậy bởi chính sách "đổi mới". Dù sự đổi mới này chỉ
là cóp nhặt theo Trung Quốc nó cũng đã ít nhiều có tác dụng cởi trói và cải thiện
mức sống, vì thế đã làm mất cảnh giác. Năm nay sự thần phục Trung Quốc diễn ra
trong bối cảnh kinh tế suy sụp và đàn áp gia tăng, nó lập tức bị nhận diện và bị
lên án. Không phải là trong chế độ không có những người hiểu biết về thế giới.
Bộ ngoại giao Việt Nam có khá nhiều chuyên viên quốc tế, nhưng họ không có tiếng
nói.
Tuy vậy sự thiếu hiểu biết về thế giới không
phải là độc quyền của đảng cộng sản. Nó là đặc tính chung cố hữu của chính trị
nước ta. Triều Nguyễn giữa một buổi giao thời mãnh liệt và mặc dù những bài học
cay đắng liên tục vẫn chỉ biết cố bám vào một Trung Quốc đang bối rối và bất lực.
Chế độ Việt Nam Cộng Hòa trước đây dù sự sống còn tùy thuộc hoàn toàn ở Hoa Kỳ
cũng không có lấy một cơ quan nghiên cứu, theo dõi và tranh thủ chính sách của
Hoa Kỳ. Bao giờ cũng thế và dưới mọi chính quyền, chính sách đối ngoại của nước
ta luôn luôn được quyết định một cách tùy tiện bởi những người thiển cận nhưng
độc đoán, không biết và cũng không muốn biết về thế giới. Việt Nam chưa bao giờ
có chính sách đối ngoại đúng nghĩa. Đảng cộng sản chỉ làm đậm hơn và lố bịch
hơn một tâm lý ếch ngồi đáy giếng sẵn có.
Tương lai Việt Nam có lẽ sẽ không quá đen tối
vì một lý do ngoài dự tính của những người cầm quyền. Có nhiều dấu hiệu cho thấy
là chính Tập Cận Bình cũng đang tìm cách từ bỏ chính sách đối đầu của Hồ Cẩm
Đào để hòa dịu với Hoa Kỳ và các nước dân chủ. Như thế Trung Quốc sẽ bớt chèn
ép Việt Nam trên Biển Đông, dù chỉ là để không gây lo ngại cho Hoa Kỳ và các nước
ASEAN. Cũng rất có thể chính sự thay đổi tại Trung Quốc sẽ buộc Việt Nam phải hội
nhập vào thế giới dân chủ và chấp nhận dân chủ hóa.
Chúng ta có triển vọng thoát khỏi bế tắc,
nhưng cần rút ngay ra một bài học lịch sử. Đó là từ nay nhất định không chấp nhận
những người lãnh đạo thiếu văn hóa và tầm nhìn.
Nguyễn Gia Kiểng (8/2013)
1 ‒ Tuyên bố chung Việt Nam
- Trung Quốc sau chuyến công du của Trương Tấn Sang.
2 ‒ Chủ nghĩa thực tiễn và trường hợp Obama, Thông Luận số 245, tháng 3-2010
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét