Tổng Thống Thiệu Triệt Thoái Quân Đoàn
Hai
Gần đây trong một cuộc
tiếp xúc riêng với cựu Đại Tá Lê Kh ắc Lý,
Tham mưu trưởng Quân đoàn 2, Đại tá cho tôi biết đã có rất nhiều
người hỏi ông:
“Có phải TT Thiệu rút bỏ
Quân đoàn 2 tại Pleiku giữa tháng 3-1975, giả vờ thua chạy để tháu cáy Mỹ, khiến cho Mỹ sót ruột phải
nhẩy vào?”
Cách đây khoảng nửa
năm, trong một lần tiếp xúc khác Đại tá có nói
ông nghi ngờ TT Thiệu rút bỏ Cao nguyên để tháu cáy Mỹ nhưng thất bại
và ông có gợi ý tôi viết về chủ đề này.
Đại Tá Lê Kh ắc Lý nói ông đã tốt nghiệp Trường Cao Ðẳng Quốc Phòng khóa 4 năm 1972 và đã đi học ở Mỹ nhiều lần,
lớp học cao nhất là "Trường Ðại Học Chỉ Huy và Tham Mưu Lục Quân Hoa K ỳ" tại Fort Leavenworth, Kansas (US
Army Command and General Staff College). Chính tại trường Chỉ Huy và Tham Mưu
Command and General Staff College này, ông đã học nguyên tắc chiến thuật
(tactical) căn bản ngoài chiến trường là luôn luôn chiếm giữ "high
ground" (vùng cao) để chế ngự các vùng đất chung quanh. Nhưng khi giảng,
"thầy" cũng có nói nguyên tắc này cũng áp dụng cho "chiến
lược" (strategy) nữa. Trong trường hợp Quân đoàn 2 của ta hồi 1975, ông
nghĩ là đúng với nguyên tắc này. Ông cho rằng
quyết định bỏ cao nguyên của ông Thiệu là sai lầm. Rôi từ vùng đất thấp
là vùng duyên hải sẽ đánh ngược lên để
gọi là "tái chiếm Ban Mê Thuột" là chuyện quá khó nếu không nói là
"không tưởng.
Tóm lại TT Thiệu đã sai
lầm về chiến thuật chiến lược khi ban lệnh lui binh xuống đồng bằng duyên hải
để từ đó lên tái chiếm Ban Mê Thuột.
Trên thực tế nhiều người
cũng đã nghi ngờ ông Thiệu tháu cáy Mỹ cho
rút bỏ Cao nguyên. Khoảng năm 1975,1976 khi chúng tôi ở trong trại
tù CS, có một anh bạn tù tin rằng ông Thiệu giả vờ thua chạy đưa tới sụp
đổ, thua luôn cuộc chiến.
Sơ lược tái phối trí
Trước hết tôi xin sơ
lược về cuộc triệt thoái lịch sử này, dựa theo tài liệu, lời kể của ký giả Phạm
Huấn, Nguyễn Đức Phương, các vị Tướng
lãnh Cao Văn Viên , Hoàng Lạc, có tham khảo thêm tài liệu
phía Cộng Sản. Như chúng ta đều biết, cuộc lui binh này đã bị thất bại nặng, nó
là khúc quành quan trọng nhất trong cuộc chiến tranh VN giai đọan cuối. Người
ta kết án TT Thiệu đã làm sụp đổ cả hai Quân khu 1 và 2, kế đó sụp đổ miền nam.
Sau ngày Ký Hiệp định
Paris 27-1-1973, Quốc hội cắt giảm quân viện
mỗi năm khoảng 50% khiến cho miền nam VN lâm vào tình trạng thiếu thốn
trầm trọng về hỏa lực, tiếp liệu đạn dược.
Ngày 11-3-1975, Tổng
thống Thiệu bàn luận tình hình với Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, Đại Tướng Cao Văn
Viên , Trung Tư ớng Đặng Văn Quang. Ông Thiệu cho biết với
khả năng hiện có Quân đội VNCH không thể
bảo vệ tất cả lãnh thổ, nên phải tái phối trí lực lượng để bảo vệ những vùng
đông dân trù phú, quan trọng nhất là Vùng 3 và Vùng 4. Ông Thiệu không lạc quan về Vùng 1 và
Vùng 2. Tại vùng 2, Ban Mê Thuột quan
trọng sẽ phải chiếm lại, miền duyên hải Vùng 2 giữ được phần nào hay phần nấy.
Ngày 12-3-1975 ngân
khoản 300 triệu quân viện bổ túc đã bị Quốc hội Mỹ bác bỏ, ngoài ra họ cũng
không chuẩn chi cho năm tới, nghĩa là từ
náy sẽ không cho một xu viện trợ nào. Tin sét đánh đã khiến TT Thiệu bị mất
tinh thần khiến ông quả quyết tái phối trí.
Ngày 13-3-1975 mất Ban
Mê Thuột, hôm sau ông Thiệu bay ra Cam Ranh mở phiên họp cao cấp quân sự, có
mặt các Tướng Trần Thiện Khiêm, Đặng Văn
Quang, Cao Văn Viên , Phạm Văn Phú, Tư lệnh vùng 2 . Phạm Huấn
ghi lại theo lời kể của Tướng Phú: Tổng thống Thiệu cho biết Quốc hội Mỹ cắt
quân viện, hủy bỏ những cam kết yểm trợ không lực, lãnh thổ phòng thủ quá rộng
nên ta phải tái phối trí lực lượng. Ông cho biết Tướng Phú Tư lệnh Quân đoàn
2 phải rút quân bỏ Pleiku-Kontum về
duyên hải, Nha Trang sau đó sẽ hành quân tái chiếm Ban Mê Thuột. Tại Quân khu 2, VNCH chỉ có 2 Sư đoàn bộ binh (22, 23) và 7 liên đoàn Biệt
động quân trong khi BV có 5 sư đoàn bộ
binh và 4 trung đoàn độc lập ( theo tài
liệu CS)
Tướng Phú xin ở lại tử
thủ nhưng Tổng thống Thiệu bác bỏ, ông
còn cho biết Tướng Phú phải dấu không được cho địa phương, các Tỉnh trưởng Quận trưởng biết, họ phải ở lại chiến đấu.
Các vị Tướng lãnh không có ai phản đối trừ Tướng Phú xin ở lại tử thủ. Về buổi
họp này Tướng BV Văn Tiến Dũng ghi lời khai của Chuẩn tướng Phạm duy Tất cũng
gần giống như vậy, ông Cao Văn Viên cũng ghi lại chi tiết buổi họp cũng gần
giống như lời Phạm Huấn.
Trong buổi thảo luận ông Cao
Văn Viên
cho biết đường quốc lộ 21 về Nha Trang không thể xử dụng được vì đường 14 từ
Pleiku tới Ban Mê Thuột đã bị BV cắt, đường 19 nối Pleiku với Qui nhơn Cộng
quân đóng chốt nhiều nơi, đèo An Khê bị cắt ở hai phía đông tây, ngoài đường số
7 xuống Tuy Hòa không còn đường nào khác. Đường số 7 tuy tạo được yếu tố bất
ngờ nhưng là con đường bỏ hoang cầu cống hư hỏng.
Kế hoạch được hợp thức
hoá và giữ bí mật cho tới giờ phút chót. Kế hoạch của Tướng Phú là Liên đoàn 20
công binh chiến đấu đi trước mở đường , thiết giáp đi theo các đoàn xe để bảo
vệ, hai liên đoàn Biệt động quân và thiết giáp đi bọc hậu đoàn quân di tản
Ngày 16-3-1975 đoàn xe
bắt đầu rời Pleiku gồm các đơn vị quân cụ, đạn dược, pháo binh, khoảng 200 xe.
Tướng Phú và bộ tư lệnh đi trực thăng về Nha Trang, Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất lo
đôn đốc cuộc di tản, mỗi ngày một đoàn xe khoảng 200 hay 250 chiếc, ngày đầu êm
xuôi vì bất ngờ.
Ngày hôm sau 17-3-1975
các đơn vị pháo binh còn lại, công binh, quân
y, tổng cộng chừng 250 xe. Khi ấy dân chúng, gia đình binh sĩ chạy ùa
theo, làm náo loạn gây trở ngại cho cuộc triệt thoái.
Ngày 18-3 Bộ chỉ huy và
ban tham mưu Quân đoàn về tới Hậu Bổn, Phú Bổn, các đoàn xe từ ba ngày trước
kẹt lại đây, đoạn đường từ Hậu Bổn về Tuy Hoà chưa giao thông được vì công binh
chưa làm xong cầu qua sông Ae Pha. Tối
ấy Việt Cộng đuổi theo pháo kích dữ dội gây thiệt hại hầu hết chiến xa và trọng
pháo tại đây. Sư đoàn 320 BV đóng tại Buôn Hô, Ban Mê Thuột được lệnh đuổi theo
đoàn xe triệt thoái từ 16-3 đến
18-3-1975 vào Phú Bổn rồi tiếp tục đánh phá tới Củng Sơn. Ngày 19-3 một số lính địa phương quân người Thượng cướp
giựt và bỏ hàng ngũ trốn đi gây thêm hỗn loạn. Các liên đoàn Biệt động quân,
thiết giáp, bộ binh bị thiệt hại nặng, BV cũng xử dụng các chiến xa đại bác của
ta bị bỏ lại để tấn công đoàn triệt thoái.
Đoàn quân rời Hậu Bổn
ngày 20-3 nhưng chỉ đi được 20 km thì phải đi chậm lại vì Phú Túc phía
trước bị VC chiếm, đoàn quân di tản vừa chống trả vừa tiến. Không quân đến yểm
trợ nhưng ném bom nhầm vào đoàn quân gây tử thương gần một tiểu đoàn BĐQ, thiệt
hại này lại càng gây thêm rối loạn. Tại
Phú túc hỗn loạn diễn ra dữ dội. BV đóng chốt, một tiểu đoàn Địa phương quân và
Biệt động quân được giao nhiệm vụ nhổ chốt. Khi đến Củng Sơn cách Tuy Hoà 65 km đoàn di tản phải băng qua sông Ba. Trực
thăng CH-47 chở từng đoạn cầu lên sông Ba để ráp, ngày 22-3 cầu ráp xong đoàn
di tản qua sông theo hương lộ 436 về Tuy Hoà, vì xe cộ quá đông cầu bị sập chết
nhiều người phải sửa chữa thêm lần nữa.
Chặng đường cuối cùng
từ đây về Tuy Hoà rất cam go vì có nhiều chốt VC, trời mưa lạnh, VC pháo kích
đoàn di tản để cầm chân ta. Tiểu khu Tuy Hoà không còn quân để tiếp viện nên
đoàn quân di tản phải tự lo lấy, các binh sĩ tiểu đoàn 34, Liên đoàn 7 BĐQ lều
mạng lên tấn công các cứ điểm CS cùng
với chiến xa M-113 tiêu diệt chốt địch. Ngày 27-3 sau khi thanh toán chốt cuối
cùng đoàn di tản về tới Tuy Hoà buổi tối tổng cộng 300 xe (trong số 1,200 xe)
mở đường máu về được Tuy Hoà,
Đường rút quân tỉnh lộ
7 lại gần vị trí đóng quân của Sư đoàn 320 BV tại Buôn Hô, Ban Mê Thuột,
họ được lệnh đuổi theo ngày 16-3, chỉ
hai ngày là đã đuổi kịp. Ngày 18-3 Cộng quân
pháo kích phi trường gây kinh hoàng cho đoàn di tản. Lực lượng chiến xa
pháo binh dồn đống tại Phú bổn bị thiệt hại nặng tới 70%.
Các kho quân dụng tại
Kontum, Pleiku bỏ ngỏ, tất cả quân dụng, vũ khí trị giá 253 triệu Mỹ Kim lọt
vào tay CS. Sự thiệt hại về tinh thần còn to tát hơn nhiều.
Theo Nguyễn Đức Phương
trong số 60,000 chủ lực quân chỉ có 20,000 tới được Tuy Hoà, 5 Liên đoàn BĐQ
7,000 người chỉ còn 900 người. Lữ đoàn 2
Thiết Kỵ với trên 100 xe tăng nay chỉ còn 13 chiếc M-113.
Tái phối trí lực lượng
có mục đích co cụm lại vì không đủ lực lượng trải rộng toàn lãnh thổ.
Những nguyên do thất
bại chính của cuộc di tản có thể gồm:
-Di tản quá gấp rút, cả
một quân đoàn quá đông đảo, đường xá
bị tràn
ngập xe cộ và người chạy loạn.
-Đường số 7 bị bỏ hoang,
cầu cống hư hỏng khiến cho cuộc di tản bị ngừng trệ.
-Dân chúng di tản làm
náo loạn mất tinh thần quân đội
-Thiếu chuẩn bị, không
lập kế hoạch lui binh vì quá gấp rút
Thực ra cuộc di tản
thất bại nặng nề vì xui xẻo, đường di tản lại gần với vị trí đóng quân của Sư
đoàn 320 CSBV tại Buôn Hô. Tối 16-3 Văn Tiến Dũng đã điều động, đốc thúc đạo
quân này đuổi theo, hai hôm sau họ bắt kịp đoàn di tản tại Phú Bổn và đã pháo
kích gây thiệt hại nặng cho ta về thiết giáp, pháo binh. Sự thất bại chứng tỏ
ta không có tin tình báo chính xác về vị
trí các đơn vị Cộng quân.
Ngoài ra theo lời kể của
một một nhân dân tự vệ cùng gia đình từ Kontum di tản trên đường số 7, anh
thanh niên này cho biết Pleiku di tản trước nên phần nhiều dân quân đã chạy thoát
khỏi cuộc truy kích của Cộng quân. Người dân Kontum ở phía bắc, cách Pleiku 40
cây số khi biết Pleiku di tản thì cũng ùa chạy theo, vì chạy sau họ bị VC đuổi
kịp pháo kích dữ dội. Khi ấy đoàn xe dân quân dồn đống dưới một vùng đất trũng.
Đạn pháo khiến bụi bay mù mịt, không ai thấy ai chỉ thấy tiếng đạn nổ ấm ầm ghê
rợn, người chết vì pháo kích, người bị xe cán
nằm la liệt. Theo lời nhân chứng này dân chết rất nhiều, lính chết ít vì
họ lanh lợi hơn, biết tránh đạn, nạn nhân đa số là dân Kontum . Ký giả chiến
trường Phạm Huấn mô tả đây là một hành lang máu.
Giả thuyết
Ngoài những nghi ngờ của Đại Tá Lê Kh ắc Lý, Tham mưu trưởng Quân đoàn 2 kể trên
tôi xin góp ý thêm về giả thuyết này.
Như chúng ta đã thấy,
ông Thiệu lệnh cho cả một đại đơn vị (60 ngàn người) hành quân từ Pleiku xuống
Tuy Hòa phía đông , rồi từ Tuy Hòa xuống Nha Trang phía nam, rồi lại từ đó lên
tái chiếm Ban Mê Thuột ở phía tây. Chặng
đường hành quân hình chữ U rất dài và tốn kém nhiên liệu trong khi ta đang kiệt
quệ về tiếp liệu. Kế hoạch không logic lại viển vông cho thấy ông Thiệu có mục
đích tháu cáy, giả vờ thua chạy hơn là mục đích quân sự. Việc tái chiếm Ban Mê
Thuột theo kế hoạch của ông rất gay go và khó thực hiện trong khi ta đang thiếu
thốn về mọi mặt.
Ngoài ra tôi nghĩ ông
Thiệu rất chủ quan, ông vẫn tin người Mỹ
không thể bỏ Đông Dương. Hạ tuần
tháng 10-1972 Tiến sĩ Kissinger sang Sài Gòn thuyết trình cho ông Thiệu biết BV
đã nhượng bộ những đòi hỏi chính mà họ đã
dai dẳng đòi từ mấy năm qua: Không đòi lật đổ Thiệu, không có Liên Hiệp,
Hội đồng hòa giải chỉ hữu danh vô thực… nhưng có điều họ không chịu rút về Bắc.
Kissinger tưởng là ộng Thiệu sẽ đồng ý
ký bản Dự thảo đã soạn chung với phía BV ngày 9-10-1972, dự định ký 25-10,
trước bầu cử Mỹ (7-11-1972). Ông Thiệu
chống đối bản dự thảo và chỉ trích Kissinger. Nixon khuyên Kissinger không nên
ép Thiệu vì Nixon không muốn Hiệp định được ký trước bầu cử, qua thăm dò Nixon
biết chắc sẽ tái đăc cử nhiệm kỳ hai.
Tháng sau 11-1972 và cả tháng 12 ông Thiệu mở chiến dịch trên
báo chí đài phát thanh lên án Kissinger và cả Nixon ép VNCH ký bản Hiệp định
bất bình đẳng, mục đích để vận động cánh
tả, diều hâu bên Mỹ áp lực hành pháp
không được ép VNCH . Theo TT Nixon (No More Vietnams trang 152), nếu đòi điều
kiện BV rút quân sẽ không có Hiệp định, Hà Nội sẽ không chịu ký. Đó là một điều
nguy hiểm, nếu VNCH gây trở ngại hòa bình thì Quốc hội thù nghịch sẽ ra tay giải quyết, họ sẽ ra
luật chấm dứt chiến tranh, cắt viện trợ miền Nam, thực hiện rút hết quân để đánh đổi lấy tù binh Mỹ.
Người Mỹ coi việc lấy
580 người tù binh là quan trọng vào hàng đầu, dĩ nhiên đứng trên cả sự sống còn
của Đông Dương, TT Nixon, Kissinger, Tướng Haig.. và các nhà học giả nghiên cứu
về chiến tranh VN đều nói thế.
Cuối tháng 11, ông
Thiệu quảng bá tin TT Nixon gửi hậu thư cho Thiệu bắt phải ký Hiệp định Paris
mục đích vận động phe diều hâu bên Mỹ
ủng hộ miền Nam VN.
“Sài Gòn
như nghĩ rằng chuyện tối hậu thư
sẽ khiến cánh hữu áp lực tòa Bạch Ốc
không bỏ rơi một đồng minh đang bị CS bao vây đe dọa. Nhưng thực ra đó là sự
đánh giá sai lầm lớn, câu chuyện không được chú ý tới”
(Saigon apparently assumed that an “ultimatum”
story would encourage America ’s right wing to apply pressure on the
White House not to abandon a beleaguered
ally threatened by Communism. It turned out to be a gross and embarrassing
overestimation. The Story caused barely a ripple - Marvin Kalb,
Bernard Kalb, Kissinger- p. 405).
Từ TT Nixon tới Kissinger, Tướng Haig tới
Đại Sứ Bunker đều nhắc nhở cho ông Thiệu biết đừng hy vọng gì vào sự ủng hộ tại
chính trường Mỹ, nay diều hâu đã đổi lông đổi cánh biến thành bồ cu hết, Quốc
hội thù nghịch chỉ tìm cách xiết cổ Đông Dương. Tại nước Mỹ nay số người còn
ủng hộ chiến tranh Đông Dương chỉ còn đếm trên đầu ngón tay trước hết TT Nixon,
Kissinger, Tướng Haig và một số phụ tá của Tổng thống và của Kissinger. Người dân và Quốc hội đã quá chán ngấy cuộc chiến sa lầy đến tận
cổ. Mặc dù hành pháp Mỹ nhắc nhở TT Thiệu nhưng ông vẫn không tin, ông vẫn chủ
quan cho rằng Mỹ không dám bỏ miền Nam, nơi đây vẫn là tiền đồn chống Cộng.
Vì quá chủ quan nên
tháng 3-1975 ông đã sai lầm tháu cáy giả vờ thua chạy để Mỹ xót ruột nhẩy vào.
Trên đây chỉ là những
giả thuyết về việc Tổng thống Thiệu tháu cáy người bạn đồng minh.
Kết Luận
Tuy nhiên không có
nghĩa là TT Thiệu tháu cáy sai lầm làm sụp đổ Quân đoàn 2 đưa tới sụp đổ miền
Nam. Thực ra sự sai lầm của ông chỉ làm cho miền Nam sụp đổ nhanh hơn dự kiến.
Nếu TT Thiệu không thực hiện tái phối
trí và để Tướng Phú tử thủ tại Pleiku, chính ông
Tướng này đã nói nếu được tiếp viện có thể giữ được một tháng nhưng đó chỉ là
hy vọng chủ quan trong khi đạn dược tiếp liệu miền Nam đang lâm vào tình trạng
kiệt quệ. Sự sụp đổ cả hai Quân đoàn 1, 2
và cả miền Nam tháng 4-1975, một phần vì sự sai lầm của TT Thiệu và nhất
là do hỏa lực yếu kém của ta trước áp lực mạnh, đông đảo của đối phương. Người
ta thường nói vì ông Thiệu sai lầm triệt thoái Cao nguyên mà mất nước hoặc nói
vì ông Dương Văn Minh đầu hàng CS mà mất miền Nam, vấn đề không
đơn giản như thế.
Xin nói sơ về thực
trạng bi đát này do hậu quả của việc Hoa kỳ cắt giảm quân viện năm 1974, 75.
-Trước hết trang 92
Cuốn Những Ngày Cuối của VNCH, ông Cao
Văn Viên
cho biết trong tháng 2-1975 tồn kho đạn dược của tất cả các loại súng lớn, súng nhỏ chỉ còn đủ
xài 30 ngày.
-Trước đó hai tháng sau khi Cộng quân
chiếm Phước Long ngày 7-1-1975, vài tuần sau vào ngày 24 và 25-1-1975, TT Thiệu
gửi thư cầu cứu TT Ford về tình trạng nguy khốn của VNCH. Bức thư
này được Tiến sĩ Kissinger nói tới trong Years of Renewal trang 490 như sau.
“Ông Thiệu diễn tả cuộc tấn công này của địch rất qui mô hùng hậu bằng
hỏa lực mạnh và thiết giáp. Trái lại quân đội miền nam VN đã phải đếm từng viên
đạn pháo để tiết kiệm để còn đạn xử dụng”
(He described the intensity of the North Vietnamese attacks, backed
by the
“massive application of fire power and armor”. By contrast, the South
Vietnamese troops “had to count every single shell they fired in order to make
the ammunition last)”.
-Theo Kissinger tháng 1-1975 báo Học tập
cùa CS viết về tình trạng khó khăn của
VNCH.
“Hỏa lực và sự di động của quân Ngụy giảm mạnh trong quí ba 1974, hỏa
lực pháo binh hàng tháng của quân Ngụy giảm ba phần tư (3/4) so với 1973. Số
phi vụ chiến thuật hàng ngày của Ngụy giảm chỉ còn một phần năm (1/5) so với năm 1972. Số máy bay Ngụy so
với thời ký chiến tranh trước đây giảm 70%, trực thăng giảm 80%...Kho bom đạn
Ngụy giảm mạnh và gặp nhiều khó khăn về tiếp liệu, bảo trì, sửa chữa các loại
máy bay, xe tăng, tầu thuyền, vũ khí nặng…
Years of Renewal trang 480
Nhận xét của CS về sự thiếu thốn của quân
đội miền Nam cũng gần với các dữ kiện trong cuốn NNCVNCH kể trên của ông Cao Văn Viên trang 86. 87. Từ trang 89 tới trang 94 tác giả đề
cập vấn đề đạn dược tiếp liệu, từ tháng 8-1974 tới tháng 2-1975 quân đội ta chỉ
xử dụng 19,808 tấn đạn hàng tháng chỉ bằng 27% so với 73,356 tấn dùng hàng
tháng trong thời gian trước đó, nghĩa là hỏa lực đã giảm 70%!
Trong khi ấy Hà Nội được CS quốc tế viện trợ dồi dào.
Giai đoạn 1969-1972 họ được Nga, Trung C ộng và các nước xã
hội chủ nghĩa viện trợ 684,666 tấn vũ khí. Giai đoạn 1972-1975 họ nhận được 649,246 tấn hàng vũ khí, số
lượng hàng viện trợ của hai giai đoạn tương đương nhau.(Bản tin của BBC.com
ngày 5-10-2006).
Theo Kissinger, Hà nội đã xin được viện trợ của Sô viết tăng gấp bội.
Thàng 12- 1974, một viên chức cao cấp Nga viếng Hà Nội lần đầu tiên kể từ sau ngày ký Hiệp định Paris. Tổng tham mưu
trưởng Nga Viktor Kulikov tới tham dự họp chiến lược với Bộ chính trị BV, nay
họ bãi bỏ hạn chế trước đây. Sô Viết đã chở vũ khí viện trợ quân sự cho Hà Nội
tăng gấp 4 lần trong những tháng sau đó.
Nga khuyến khích BV gây hấn
(Years of Renewal trang 481).
Quân khu 2 diện tích rộng nhất toàn quốc gồm 12 tỉnh chỉ có 2 Sư đoàn
bộ binh và 7 Liên đoàn biệt động quân bảo vệ là nơi yếu nhất so với các Quân
khu khác nên CS đã chọn để tấn công trước. Sư đoàn 23 chịu trách nhiệm cao
nguyên, Sư đoàn 22 bảo vệ vùng duyên hải.
Lực lượng BV tại đây gồm 5 Sư đoàn (10,
320A, 316, 968, 3) và 4 Trung đoàn độc lập (25, 271, 95A, 95B), Trung đoàn đặc
công (14, 27), chưa kể các lực lương yểm trợ. Tổng cộng khoảng 6 Sư đoàn bộ
binh
(Theo Dương Đình L ập, Trần Minh Cao,
Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi Dậy Mùa Xuân 1975, trang 90, 91.)
Như vậy dù ông Thiệu không rút bỏ Cao
nguyên và giao cho Tướng Phú tử thủ thì cũng chỉ giữ được một thời gian nào đó,
có lẽ không quá một tháng vì như đã nói trên miền Nam đã bị kiệt quệ đạn dược tiếp liệu trước
áp lực mạnh và hỏa lực áp đảo của
địch.
Tướng Phú nói một câu rất anh hùng, ông xin TT cho ông ở lại giữ
đất chiến đấu và chết tại đó, nhưng dù ông có chết tại trận địa cũng không cứu
được Quân khu, không cứu được miền Nam mà chỉ kéo dài sự dẫy chết thêm hơn một chút.
Trường hợp Tướng Phú đẩy lui được cuộc tấn
công của địch tại Pleiku, Kontum…, sau đó ta lâm vào tình trạng hết đạn VNCH
cũng sẽ phải xin viện trợ khấn cấp. Thực tế cho thấy hạ tuần tháng 4-1975, Quốc
hội Mỹ đã bác bỏ tất cả các khoản viện
trợ cho chiến tranh VN. Đảng Dân chủ đã
thắng lớn trong cuộc bầu cử Hạ viện tháng 11-1974, họ chiếm 66.9% Hạ
viện, gồm nhiều người mới chủ trương chống chiến tranh tới cùng và bác bỏ tất cả mọi ngân khoản quân viện cho Đông
Dương. Trên thực tế tại chính trường Mỹ năm 1975 số người ủng hộ chiến tranh VN
chỉ còn vài người: Tướng Weyand,
Kissinger và TT Ford. Ngay
tại nội bộ Hành pháp, các cố vấn, phụ tá của Tổng thống cũng đã căn ngăn ông
đừng can thiệp vào cuộc chiến sa lầy. Quốc hội thù nghịch như ta đã biết thái
độ của họ rõ ràng là “Sống chết mặc bay”.
Cựu Đại Tướng Cao văn
Viên cho biết
“Nghĩ lại việc đã qua, câu hỏi là miền Nam
có sống sót nếu chúng ta không áp dụng kế hoạch tái phối trí lực lượng quân sự
hay không. Bây giờ nói thì sự đã rồi, nhưng tác giả tin miền nam có nhiều cơ
hội hơn nếu không thực hiện tái phối trí. Tinh thần chiến đấu của quân đội VNCH
và nhân dân bị hủy diệt là nguyên nhân trực tiếp của kế hoạch tái phố trí.
Không có kế hoạch đó, có lẽ quân đội của chúng ta không tan rã nhanh như vậy.
Chúng ta có thể mất đi một phần của sư đoàn 23 BB nhưng tất cả những đơn vị
khác vẫn còn nguyên vẹn. Dù lấy được ban Mê Thuột Cộng quân vẫn phải ngừng lại,
suy tính kỹ trước khi mở một mặt trận mới ở vùng II. Vùng II vẫn còn Sư đoàn
22BB, cộng thêm với một lực lượng tương đương với 2 sư đoàn bộ binh và hai sư
đoàn không quân. Vùng II có đủ quân nhu và tiếp liệu để chiến đấu đến hết mùa
khô. Không có kế hoạch tái phối trí, tác giả không nghĩ Cộng Sản có thể thành
công, đánh nhanh và chiếm được nhiều đất
như họ đã làm ở vùng I. Tình hình quân sự nhân lực của VNCH vẫn gặp
những khó khăn dai dẳng như trước khi có quyết định tái phối trí: thiếu thốn về
quận viện; không còn nhân lực để lập thêm những đơn vị tổng trừ bị. Nhưng ít ra
quân đội VNCH sẽ không tan rã nhanh chóng như khi quyết định tái phối trí được
thực hiện”.
Những Ngày Cuối của
VNCH, trang 134
Theo ông Cao
Văn Viên
sau khi mất Ban Mê Thuột ngày 13-3-1975 lực lượng VNCH tại Quân khu 2 còn tương đối đầy đủ, nếu TT Thiệu không cho
rút khỏi Pleiku, Kontum miền Nam sẽ có
nhiều cơ hội hơn. Sự thực thì chẳng có cơ hội nào cả vì cuộc bầu cử Hạ viện Mỹ
thượng tuần tháng 11-1974 đã là bản án tử hình cho cả Đông Dương. Đảng Dân chủ
phản chiến đã chiếm đại đa số tại Hạ viện 66.9%, họ nắm giữ túi tiền, họ nắm
giữ sinh mạng của cả Đông Dương. Hạ viện đã hai lần trả lời miền Nam xin viện
trợ bổ túc tháng 3-1975 và viện trợ khẩn cấp tháng 4-1975 một cách thẳng thừng
“Sống chết mặc bay”
Tôi xin ngược dòng thời
gian một chút để vấn đề được sáng tỏ hơn. TT Nixon thắng cử nhiệm kỳ hai tháng
11-1972 với 60% số phiếu bầu, hơn đối
thủ McGovern 18 triệu phiếu phổ thông, 530 phiếu cử tri đoàn. Người ta ủng hộ
ông vì ông sắp mang lại hòa bình, nhưng họ chống lại ông vì ông còn tiếp tục
ủng hộ cuộc chiến VN. Từ sau Hiệp định Paris đảng đối lập và phản chiến tiếp
tục chống Nixon. Sự thực ngay từ sau trận Mậu thân khi số người ủng hộ cuộc chiến tụt thang nhanh
chóng, số chống chiến tranh lên cao, khi
ấy số phận Đông Dương đã bắt đầu ngắc ngoải. Sang năm 1969 khi Nixon lên nhậm
chức Tổng thống phong trào phản chiến càng dữ dội hơn trước. Từ 1969, 70..biểu
tình tiến tới giai đoạn bạo động, đổ máu, sinh viên bắn cảnh sát, bắn súng đốt nhà, đập cửa kính, ném bom lớp
học (No more Vietnams, trang 126-127). Họ chán ngấy cuộc chiến tranh
Đông Dương.
Đứng trước sự chống đối
ngày càng mạnh của phong trào phản chiến, họ đòi phải ra khỏi cuộc chiến Đông
Dương ngay. TT Nixon và Kissinger, người
phụ tá cố tìm lối thoát, mở cuộc tấn
công qua biên giới Mên, Lào…rút quân về nước để xoa dịu sự chống đối. Nhưng
thực ra tình trạng ngày càng bi đát, mọi cố gắng của Nixon và Kissinger cũng
chỉ là giải pháp tạm thời, vá víu, nói khác đi chỉ giúp cho Đông Dương và miền
Nam sống thêm ngày nào hay ngày nấy.
Sự ngoan cố của Hà nội
đã khiến hòa đàm Paris kéo dài tới bốn năm. Mặc dù Nixon đã dội 20 ngàn tấn bom
lên Hà Nội, Hải phòng cuối năm 1972
nhưng ông vẫn phải nhượng bộ BV để cho họ được ở lại miền Nam vì bị Quốc
hội thúc ép phải ký. Lập pháp luôn hăm dọa ra luật chấm dứt chiến tranh, cắt
viện trợ VNCH để đánh đổi lấy tù binh Mỹ. Trước khi ký Hiệp định, các Trưởng
ban tại Quốc hội hứa hẹn tiếp tục viện trợ nhưng ký xong, họ trở mặt cắt giảm
viện trợ dần dần và trói tay hành pháp. Tháng 6-1973 Quốc hội ra luật cắt bỏ
mọi ngân khoản cho việc oanh tạc cũng
như mọi hoạt động quân sự khác tại Đông Dương, có hiệu lực từ 15-8-1973.
Họ còn đi xa hơn thế, ngày 7-11-1973 ra luật War Power Act hạn chế quyền Tổng
thống, trước khi gửi quân ra ngoại quốc tham chiến, TT phải hỏi Quốc hội.
Trói tay hành pháp bằng
các luật mới như trên chưa đủ, người ta sợ Nixon sẽ làm liều, làm ẩu cho ném
bom B-52 khi BV vi phạm Hiệp định. Quốc hội thù nghịch và phong trào chống đối
tìm cách loại bỏ Nixon vì ông vẫn là trở ngại hòa bình. Mặc dù đã ký Hiệp định
ngưng bắn nhưng họ thừa biết Nixon và Kissinger vẫn tiếp tục chiến tranh dưới
hình thức cưỡng bách thi hành Hiệp định (to enforce the agreement), trừng trị
mọi vi phạm của CS bằng B-52, hai người
đã lên kế hoạch nghiền nát BV. Khi Nixon đã mang lại hòa bình, họ chống đối hành pháp mạnh hơn trước, hết chống
chiến tranh họ quay ra vụ Watergate từ tháng 4-1973, cho tới ngày 8-8-1974 Nixon phải từ chức. Vài tháng sau, 7-11-1974,
họ hả hê kéo nhau vào Hạ Viện, Dân chủ phản chiến từ 242 ghế (55.6%) năm 1972
tăng lên 291ghế (66.9%) năm 1974, Cộng hòa giảm từ 192 ghế (44.2%) năm 1972
xuống còn 144 ghế (33.1%) năm 1974.
Nay những người Dân chủ
mới, kiên quyết chống chiến tranh Đông Dương đã vào Hạ Viện, số phận của ba
nước Việt Miên Lào đã được quyết định rồi. Họ chống bất cứ khoản viện trợ nào
cho cuộc chiến sa lầy. Tháng 3-1975, và tháng 4-1975, hai khoản viện trợ Bổ túc
300 triệu và viện trợ Khẩn cấp 722 triệu
của VNCH đã bị bác bỏ không thương tiếc.
Trở lại vấn đề đang bàn
trên đây, dù TT Thiệu cho rút khỏi Cao nguyên hay không cũng không tránh khỏi
sự sụp đổ sau cùng, không bao giờ miền
Nam VN còn hy vọng được Hoa K ỳ cấp viện trợ để tiếp tục chống xâm lăng.
Ngay cả TT Nixon cũng không thể quay ngược bánh xe lịch sử, người Mỹ đã quá ghê
tởm cuộc chiến tranh bẩn thỉu của Hà Nội.
Tác giả Walter
Isaacson trong Kissinger, A Biography trang 487có nói
“Một
khi người Mỹ đã tìm được con đường ra khỏi Việt Nam, cả Quốc hội lẫn người dân
đều đã không muốn can thiệp trở lại, dù có hay không vụ Watergate. . .
. . . Bất kể có hay không có vụ Watergate, người Mỹ không còn muốn dính
dáng gì với Việt Nam”
(Once America had found a way to disengage from Vietnam , neither the Congress nor public would
have permitted a reengagement, with or without Watergate. . .
. . . Irrespective of Watergate, Americans wanted nothing more to do
with Vietnam ).
Trọng Đạt
Tham Khảo
Phạm Huấn: Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, Cali 1987
Hoàng Lạc, Hà Mai Vi ệt:
Việt Nam
1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới Texas 1990.
Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập,
1963-1975, Làng Văn 2001.
Nguyễn Kỳ Phong:
Vũng Lầy Của Bạch Ốc, Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam 1945-1975, Tiếng Quê
Hương 2006
Phạm Bá Hoa: Cuộc
Rút Quân Trên Đường Số 7B, Người Việt Dallas 19-3-2004
Hồi Ký Của Trung Uý D : Những Ngày Cuối Cùng Trên Liên Tỉnh Lộ
7B, Người Việt Dallas, 25-3-2005
Henry Kissinger: Years of Renewal- Simon &
Schuster 1999
Walter Isaacson:
Kissinger A Biography Simon & Schuster 1992.
Larry Berman:
No Peace No Honor, Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam -The
Free press 2001
Richard Nixon: No More Vietnams , Arbor
House, New York 1985
Marvin Kalb and Bernard Kalb: Kissinger; Little, Brown
and company 1974
The Word Almanac Of The Vietnam War: John S. Bowman -
General Editor, A Bison-book 1985
Wikipedia: Opposition to the US
involvement in the Vietnam war
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét