Tìm
hiểu về cuộc đời
Hồ
Chí Minh
Kỳ
4
Hồ
Chí Minh chấp hành "nhiệm vụ bí mật".
Mùa thu năm 1938, vào thời điểm Hồ Chí Minh rời khỏi Mạc Tư Khoa, Liên Xô và chính phủ Quốc dân đảng lại tái lập đồng
minh. Từ tháng Tám năm 1937, hai bên đã lần lượt gặp nhau tại Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh ký hiệp định không xâm phạm lẫn nhau,
đồng thời xúc tiến hợp tác hai đảng Quốc Cộng lần thứ hai đề chống lại quân đội
Nhật xâm nhập Trung Quốc.
Từ năm 1939 đến 1944, Hồ
Chí Minh hoạt động ở vùng tây nam Trung Quốc, rõ ràng là thực hiện nhiệm vụ Quốc
tế cộng sản giao phó khuếch trương thanh thế hai đảng Trung -Việt, thống nhất
chiến tuyến chống phát xít Nhật. Lúc này, Liên Xô phải đối mặt với sự uy hiếp của
quân đội Nhật, ngoài việc viện trợ cho chính phủ Tưởng Giới Thạch 300 đến 450
triệu rúp để thiết lập mặt trận chống phát xít, còn lại là chuyển giao vũ khí,
khí tài quân sự. Đúng vào thời điểm và hoàn cảnh này, Hồ Chí Minh rời khỏi Mạc
Tư Khoa đến Trung Quốc thực hiện nhiệm vụ của Quốc tế cộng sản.
Vậy thì Quốc tế cộng sản
đã giao cho Hồ Chí Minh nhiệm vụ bí mật gì? Không có bất cứ một nguồn thông tin
công khai nào cho biết một cách đầy đủ nhiệm vụ ấy. Sau này, theo báo cáo của Hồ
Chí Minh gửi các "Ủy viên Trung ương hội" và Quốc tế cộng sản, chẳng
ngại "Chỉ thị 7 điểm" hay "8 điểm", đều không triển khai việc
thanh trừng các phần tử Troskism, không khai triển trận tuyến liên hợp chống
phái Trosky giữa Trung cộng và Việt cộng. Vậy mà, một năm sau, Hồ Chí Minh dựa
vào trí nhớ, gửi Quốc tế cộng sản một bản báo cáo bằng
Hán văn: "Khi tôi ở Diên An làm kẻ lữ hành, những ghi chép kẹp giữa bản chỉ
lệnh về công tác chính trị của Quốc tế cộng sản bị mất, cho nên, bắt buộc phải
căn cứ vào trí nhớ để báo cáo công tác".
Có phải Hồ Chí Minh bị mất tài liệu thật hay ông ta chỉ mượn
cớ để tránh né? Tôi thật sự nghi ngờ, chỉ lệnh công tác có hay không có một điều
"Yêu cầu đồng chí Hồ Chí Minh đến Quân khu Quảng Châu của Nhật Bản"?
Mật lệnh này liên quan đến thân phận chân chính Hồ Chí Minh và những hoạt động
của Hồ Chí Minh sau khi ông mất tích tại miền nam nửa tháng.
Sự mất tích nửa
tháng kỳ lạ của Hồ Chí Minh.
Các tài liệu trong
và ngoài nước đều ghi chép rõ, tháng mười năm 1938, Hồ Chí Minh đến Diên An,
sau khi nghỉ ngơi 2 tuần lại cùng quân đội Diệp Kiếm Anh hỏa tốc đến Cơ quan
Bát lộ quân Trung công ở Quế Lâm Quảng Tây vào cuối tháng mười hai cùng năm.
Giả thiết trung tuần tháng mười hoặc cuối tháng mười, Hồ Chí Minh xuất phát từ
Diên An, hành trình được dự tính là nửa tháng, thế nhưng mãi đến cuối tháng
mười hai mới đến Cơ quan Bát lộ quân Trung cộng Quế Lâm. Như vậy, từ đầu tháng
mười một đến cuối tháng mười hai, ít ra thời gian cũng gần nửa tháng, Hồ Chí
Minh mất tích một cách thần bí.
Thời gian nửa tháng
này, Hồ Chí Minh dến nơi nào, làm những việc gì, đều chưa thấy được ghi chép
trong bất cứ tài liệu nào. Liệu có phải Hồ Chí Minh thực hiện chỉ lệnh thần bí
của Quốc tế cộng sản? Từ Mạc Tư Khoa, Hồ Chí Minh đi một chặng
đường dài vất vả đến Diên An gặp trùm đặc vụ trùm đặc vụ Khang Sinh bàn mưu
tính kế gì? Vội vàng theo Diệp Kiếm Anh đến Cơ quan Bát lộ quân Quế Lâm
Quảng Tây gặp người chủ trì cơ quan đặc vụ Lý Khắc Nông bàn những chuyện gì?
Những cuộc gặp gỡ giữa Hồ Chí Minh với Chu Ân Lai, Diệp Kiếm Anh, Lý Khắc Nông
mật bàn những vấn đề gì? Và, trong nửa tháng mất tích Hồ Chí Minh ở đâu?
"Đài Loan nhật nhật tân báo".
Từ tháng mười một
đến tháng mười hai năm 1938, Hồ Chí Minh đột nhiên mất tích nửa tháng, trong
nửa tháng này, thật kỳ diệu, tôi tìm được trong "Đài Loan nhật nhật tân
báo". Liên kết "Đài Loan Nhật nhật tân báo" với ngày tháng Hồ
Chí Minh mất tích, tôi đã tìm được câu trả lời rõ ràng. "Đài Loan nhật
nhật tân báo" số ra ngày 12 tháng 11 năm 1938 có bài viết: "Thông
dịch viên quân đội Nhật là Hồ Tập Chương, người gốc Đài Loan, đã trốn khỏi nhà
ngục Nam Thạch Đầu, Hà Nam (Quảng Châu). Sau khi tạm trú tại bản doanh quân đội
Nhật Ōta, ông được tuyển vào làm thông dịch cho quan chỉ huy
Nhật Bản Quân khu Quảng Đông Tiểu Lạp Nguyên Thái Úy(4). (Tác giả nhận
định: thông dịch tức là phiên dịch).
Nhận định hoạt động trong nửa tháng mất tích của Hồ Chí Minh,
có liên quan đến việc Hồ Tập Chương làm thông dịch cho quân đội Nhật ở Quảng Châu
hoàn toàn không phải là võ đoán hoặc tùy ý bịa đặt. Trong tay tôi có những
chứng cứ tương đối sát thực để khẳng định Hồ Chí Minh là Hồ Tập Chương. Từ việc
Hồ Chí Minh tại Liên Xô bị cưỡng chế học tập cải tạo 5 năm, vì sao đến mùa thu
năm 1938, vào lúc quân đội Nhật chiếm đóng Quảng Châu mới đột nhiên để Hồ Chí
Minh rời khỏi Mạc Tư Khoa? Sau khi vượt ngàn dặm xa xôi trở về Trung Quốc gặp
trùm đặc vụ Khang Sinh, Diệp Kiếm Anh,
Lý Khắc Nông, Chu Ân Lai hội đàm mật, Hồ Chí Minh lại đến Cơ quan Bát lộ quân
Trung cộng Quế Lâm. Đặc biệt lúc ấy, trên dọc các tuyến đường Quế Lâm, Liễu
Châu Quảng Tây, quân đôi các nước Trung, Nhật, Pháp, Việt đang tranh chấp nhau.
Quân cảnh, đặc vụ, gián điệp đủ loại thường xuyên bắt giữ, tra hỏi những đối
tượng khả nghi. Trong khi ấy, một người không thuộc dường đi lối lại như Hồ Chí
Minh làm sao dám công nhiên đi Quế Lâm? Chuyện này chỉ có một cách giải thích
hợp lý là, Hồ Chí Minh thực hiện "nhiệm vụ bí mật" của Quốc tế cộng
sản. Nhiệm vụ này phải tuyệt đối giữ kín. Một khi bí mật bị bại lộ, thân phận
thực của Hồ Chí Minh cũng bại lộ theo. Vì thế, Quốc tế cộng sản, Trung cộng và
Việt cộng luôn tìm cách giấu nhẹm bí mật này mà cho đến nay vẫn còn là một nghi
án nằm trong bóng tối.
Vậy nhiệm vụ bí mật
mà Hồ Chí Minh phải thực hiện là gì? Và Quốc tế cộng sản đã giao cho Hồ Chí
Minh bao nhiêu nhiệm vụ bí mật?
Từ các chứng cứ ta
có thể xác định theo hướng sau: Được nhân viên đặc tình giúp đỡ, Hồ Chí Minh
thâm nhập vào Quân khu Quảng Châu của quân đội Nhật, tìm hiểu những hoạt động
của chúng để báo cáo cho Quốc tế cộng sản. Về sự kiện này, giáo sư William J. Duiker, trong "Truyện Hồ Chí Minh" đã viết:
"Hồ Chí Minh báo cáo về Mạc Tư Khoa nhưng hoạt động của mình tại Trung Quốc,
đó là nhiệm vụ chính". Quốc tế cộng sản vì sao lại giao nhiệm vụ này cho Hồ
Chí Minh? Căn cứ vào tình hình lúc ấy mà phân tích, kết hợp với bản tin trên "Đài Loan nhật
nhật tân báo", có thể suy đoán như sau:
1 - Tìm hiểu những
hoạt ðộng của quân ðội Nhật làm tài liệu tham khảo cho Quốc tế cộng sản và Ðảng
Cộng sản Liên Xô. Nhý bài viết của Hồ Chí Minh trên tờ "Cứu vong nhật
báo" Quảng Tây ngày 18 tháng mýời hai nãm 1940: "Việt Nam phục quốc
quân hoàn thị mại quốc quân", có thể chứng minh, sau nãm 1931, Trần Vãn
An, từng là Bộ trýởng ngoại giao Chính phủ Mãn Châu, sau năm 1938 Quảng Châu
thất thủ, ông ta quay về vùng biên giới Quảng Đông - Việt Nam hoạt động. Cuối
tháng chín năm ấy, Nhật Bản xâm chiếm Việt Nam, Nguyễn Cường Để, Trần Văn An
theo sau quân Nhật về hoạt động tại vùng Lạng Sơn-Cao Bằng. Trước mắt, quân đội
Nhật còn bị Anh, Mỹ, Nga ngăn trở, chưa dám xâm phạm Việt Nam nhưng vẫn nhòm
ngó một cách thèm khát nguồn tài nguyên phong phú trên lãnh thổ của họ, nên đã
tìm cách chiêu mộ Việt gian, mục đích nhiễu loạn dân tâm, mượn cớ đưa quân vào
Việt Nam. Việc này, lẽ nào không phải do Hồ Chí Minh thâm nhập vào Quân khu
Quảng Châu thu thập thông tin tình báo? (Xem thêm bài trong "Cứu vong nhật
báo", chuyên đề 11 thiên).
2 - Hồ Chí Minh có
đủ điều kiện, năng lực chọn một phụ nữ tuyệt đẹp để thực hiện nhiệm vụ đặc
biệt. Căn cứ vào "Đài Loan nhật nhật tân báo", Hồ Tập Chương tuyển
chọn những thanh niên ưu tú Đài Loan đến quân đội Nhật Bản để huấn luyện gián điệp,
sau đó phái đến các vùng hậu địch Trung Quốc để thu lượm thông tin tình báo. Hồ
Tập Chương vốn sinh ra ở quận Miêu Lật, châu Tân Trúc, đã tốt nghiệp Khoa Hóa
học, Đại học Công nghiệp Đài Bắc, thầy hướng dẫn là tiên sinh Tatara. Chỉ huy tối cao quân đội Nhật tại Quân khu Quảng Đông
là Tiểu Lạp Nguyên Thái Úy (小笠原太尉), những năm trước đã từng chỉ huy quân đội Nhật ở Đài Loan,
với Tatara (Đa Điền La) là chỗ quen biết. Tôi dẫn ra hai sự kiên trên để chứng
minh, Hồ Chí Minh thực hiện mật lệnh không phải do hai người này tuyển chọn. Khả
năng tiếng Nhật của Hồ Chí Minh đã được trang bị từ trước. Ông hiểu rất rõ tình
hình Nhật bản, phân tích thông tin có cơ sở khoa học, lại ở ngay Bộ chỉ huy
Quân khu Quảng Châu, đồng thời được cơ quan đặc vụ Trung cộng yểm hộ nên mọi công
việc tiến hành khá thuận lợi. Như vậy mới có thể giải thích, vì sao Quốc tế
cộng sản chuẩn y cho Hồ Chí Minh rời khỏi Mạc Tư Khoa, cấp thời cùng Diệp Kiếm
Anh đến Cơ quan Bát lộ quân Quế Lâm cùng Khang Sinh, Diệp Kiếm Anh, Chu Ân Lai,
Lý Khắc Nông mật đàm. Đây chính là nguyên nhân khi Hồ Chí Minh đến cơ quan đặc
vụ của Lý Khắc nông thì đột nhiên mất tích nửa tháng, tạo nên những nghi vấn
khó giải thích.
Quy nạp từ
"Đài Loan nhật nhật tân báo", đặc phái viên Quảng Châu Tấn Trung ngày
12, 18, 21 tháng mười một và ngày 7 tháng mười hai năm 1938 tại "Đài Loan
nhật nhật tân báo", có những điểm chủ yếu liên quan đến Hồ Tập Chương như
sau:
1 - Hồ Tập Chương
tuyển chọn các thanh niên ưu tú từ Đài Bắc, Tân Trúc, Đài Trung, Đài Nam, Cao
Hùng đến học tại "Trung tâm huấn luyện gián điệp Nhật Bản". Sau khi
mãn khóa, vào ngày 8 tháng... năm... được cử đến các vùng hậu địch của Trung
Quốc hoạt động tình báo. Hồ Tập Chương vốn là người trang Đồng la, quận Miêu
Lật, châu Tân Trúc, Đài Loan, tuổi 38, tốt nghiệp Khoa Hóa học ứng dụng, Đại
học Công nghiệp Đài Bắc. Bài đăng kèm một tấm ảnh Hồ Tập Chương rất mờ.
2 - Vào năm Thiên
Hòa thứ năm (1930), Hồ Tập Chương bất chấp nguy hiểm tính mệnh, từ biệt vợ con
đến Quảng Đông thực hiện lý tưởng cúa mình. Ông từng mở xưởng sản xuất hương
chống muỗi, hương sợi và nấu rượu, cũng từng cư trú ở khu Nam Đường đối ngạn
với Quảng Châu làm kỹ sư khai thác, phân tích và giám định quặng của công ty
khai thác quặng Nam Phương thực nghiệp.
3 - Sự kiện
"Song thất" bùng nổ, Hồ Tập Chương bị quân đội Quốc dân đảng bắt với
tội danh Hán gian, ông nhận là người Trung Quốc nên được thả, sau đó có người
mật báo, ông là người Nhật nên lại bị bắt tống giam vào nhà lao Nam Thạch Đầu,
Hà Nam. Lúc ấy, quân đội Nhật bất ngờ đột kích vào vùng tây nam duyên hải,
chiếm đóng Quảng Châu, quân đội Trung Quốc thất bại thảm hại, Hồ Tập Chương
thừa cơ trốn khỏi nhà giam về khu Nam Đường. Nhà giam Nam Thạch Đầu nhốt hai
nghìn tù nhân, phần lớn là những kẻ bị tình nghi gián điệp Nhật, trước khi quân
đội Nhật đột kích dã bị thảm sát.
4 - Khi Hồ Tập
Chương thoát khỏi ngục về khu Nam Đường, lại bị quân
đội Nhật của Ota tuần tra phát hiện. Ông ta nói rõ về thân phận mình, liền được
đưa đến Bộ chỉ huy tối cao Quân khu Quảng Đông của tướng Tiểu Lạp Nguyên Thái
Úy làm thông dịch viên. Tiểu Lạp Nguyên Thái Úy từng đóng quân ở Đài Bắc, sau
sự biến "Song thất" về Nhật, ít lâu sau gia nhập bộ đội Kawaguchi , được phái sang
Quảng Châu. Hồ Tập Chương: "Tôi có một người thầy giảng dạy ở Đại học Công
nghiệp Đài Bắc là ngài Ota. Tôi rời quê hương đã 4, 5 năm, từng bị giam giữ
trong nhà tù hơn một năm, có thời kỳ làm việc khai mỏ quặng ở vùng núi Lưỡng
Quảng, hiện tại cuộc sống rất là khó khăn". Phái viên Tân Trung theo dõi
quá trình hoạt động của Hồ Tập Chương, đặc biệt nhấn mạnh: "Trước mắt Hồ
Tập Chương sống trong quân đội. Ông ta chỉ có một mình, nên trọng dụng, sẽ rất
được việc".
Sau khi tin tức
trên báo chí Đài Loan truyền đến, Đài Loan tổ chức đoàn Ủy vấn đến Quảng Châu
thăm Hồ Tập Chương. Người anh thứ tư của Hồ Tập Chương là Hồ Tập Phỉ đã viết
thư đặc biệt cảm ơn "Đài Loan nhật nhật tân báo". "Đài Loan nhật
nhật tân báo năm Chiêu Hòa thứ mười ba (1938), tháng mười một và tháng mười hai
có đăng tải 4 bài về Hồ Tập Chương. Dưới đây là ảnh chụp từ tờ báo đã được cắt
ra.
Hồ
Tập Chương thoát khỏi nhà giam ngày 12 tháng 11 năm 1938.
Nhà giam Nam Thạch Đầu Hà Nam .
"Đài Loan nhật nhật tân báo" số ra các ngày từ 19
tháng mười một đến ngày 7 tháng mười hai năm 1938 đã đăng tải các bài có liên
quan đến Hồ Tập Chương ở Quảng Châu từ tháng mười một đến tháng mười hai năm 1938, bị
mất tích ở Quế Lâm nửa tháng. Tại thời gian trên, địa điểm trên có mối liên hệ
nhân quả với nhau, phù hợp một cách bất bình thường. Hơn nữa, lại có "Đài
Loan nhật nhật tân báo" với những chứng cứ trực tiếp để khẳng định Hồ Tập
Chương và Hồ Chí Minh chỉ là một người. Trong đó, chứng cứ quan trọng nhất
chính là sự kiện Hồ Tập Chương bị bắt
giữ tại nhà giam tại nhà lao Nam Thạch Đầu, Hà Nam, và sự kiện Hồ Chí Minh bị
bắt giam ở nhà ngục Quảng Châu. Hai sự
kiện này thực chất chỉ là một.
"Đài Loan nhật
nhật tân báo" đưa tin Hồ Tập Chương bị bắt giam tại nhà ngục Nam Thạch
Đầu, Hà Nam , vậy rốt cuộc, dịa
danh Hà Nam là ở đâu? Căn cứ
vào "Lịch sử đảng bộ Đảng Cộng sản thành phố Quảng Châu", thì Hà Nam chính là bờ phía
nam sông Châu, nhà giam Nam Thạch Đầu nằm trên đường phố Nam Thạch Đầu, thành
phố Quảng Châu. Nhà giam Nam Thạch Đầu được thành lập vào thời kỳ phái phản
động Quốc dân đảng thống trị. Đây là Nhà giam lớn duy nhất Quảng Châu, còn gọi
là "Trại trừng giới". Ngày 15 tháng tư năm 1927, sau cuộc dảo chính
phản cách mạng, phái phản động Quốc dân đảng đã bắt một số lớn phần tử cộng sản
và dân chúng đem về giam giữ tại đây, trong đó có những nhân vật nổi tiếng của
Đảng Cộng sản như Lưu Nhĩ Tung, Thẩm Tĩnh Trai, Tống Thời Luân, Tiêu Sở Nữ,
Hùng Hùng, Lý Sâm, Đặng Bồi v. v...
Nói rằng,
"khoảng thời gian từ tháng mười một đến tháng mười hai, Hồ Chí Minh bí mật
đến Quảng Châu, trà trộn vào quân đội Nhật", tuy nhiên đó lại là mưu kế đã
được bàn bạc kỹ giữa Hồ Chí Minh và ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc, chỉ
là vì Hồ Tập Chương bị giam giữ tại nhà ngục Nam Thạch Đầu, Hà Nam, rốt cuộc sự
thực sờ sờ trước mắt, không thể bác bỏ.
Tại Thiên III "Ve sầu thoát xác, thật giả kiếp
người", tôi dã dẫn ra một đoạn "Hồi ký Trịnh Siêu Lân":
"Mùa hè năm 1931, Phó Đại Khánh ở nhà giam Quảng Châu gặp Hồ Chí Minh, Hồ
Chí Minh nhờ Phó Đại Khánh chuyển lời đề nghị Đảng Cộng sản Trung Quốc tìm cách
giải cứu". (Xem thêm: "Lịch sử và hồi ức - Ghi chép cuối đời của
Trịnh Siêu Lân", quyển 2 "Truyện Phó Đại Khánh" trang 506, hoặc
tham khảo "Hồi ức Trịnh Siêu Lân", trích yếu như phụ lục 2). Mùa hè
năm 1931, Phó Đại Khánh bị giam ở nhà lao Nam Thạch Đầu, Hà Nam có gặp Hồ Chí
Minh, tự nghĩ là, đây không thể nào là Nguyễn Ái Quốc, Thời gian ấy, Nguyễn Ái
Quốc đang bị giam tại nhà tù Victorria Hương Cảng, không thể đồng thời lại bị
giam ở nhà ngục Nam Thạch Đầu. Vì thế vị "Hồ Chí Minh" bị giam ở đây
nhất dịnh phải là Hồ Tập Chương. Cả Trịnh Siêu Lân và Phó Đại Khánh đều là đảng
viên Đảng Cộng sản Trung Quốc thuộc phái Troskím. Thời kỳ đầu kháng chiến chống
Nhật, Phó Đại Khánh bị hiến binh Nhật sát hại, Trịnh Siêu Lân bị giam trong
ngục, hưởng thọ 98 tuổi.
Trước sau năm 1930, Hồ Tập Chương nhận nhiệm vụ tại
"Liên minh mậu dịch Thái Bình Dương", là liên lạc
viên của Cục Viễn Đông Quốc tế cộng sản, do đó đã sớm có mối quan hệ mật thiết
với các đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc, quen biết cả Trịnh Siêu Lân và Phó Đại Khánh. Hai
người này nhất định nhận ra Hồ Chí Minh chính là Hồ Tập Chương, chỉ có cái tên
khác nhau mà thôi.
Trong bài "Mối
tình sống chết giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan", Lương Ích Tân có viết một
đoạn "Ẩn trốn tại Quảng Châu, tránh bị truy bắt" như sau:
"Năm 1930,
Tưởng Giới Thạch điều động quân đội Quốc dân đảng bao vây tiễu trừ Hồng quân
khu Giang Tây Tô, đồng thời ra lệnh cho các địa phương khẩn trương truy bắt các
phần tử cộng sản. Dương Thành (Quảng Châu) cũng không ngoại lệ. Hồ Chí Minh lúc
này đang ở Quảng Châu. Nơi đây, trước đó do nhu cầu công tác, ông đã mấy lần về
Việt Nam, tuy nhiên, lần này thì khác, Hồ Chí Minh bị đặc vụ truy đuổi ráo
riết, không chốn nương thân, chỉ còn cách liên lạc với Tỉnh ủy Quảng Đông nhờ
giúp đỡ. Bí thư Tỉnh ủy Quảng Đông Đào Chú đã bố trí một nữ đảng viên là Lâm Y
Lan, đóng giả làm vợ Hồ Chí Minh để bảo vệ an toàn cho ông ta". Tiếp đến
mục "Lâm Y Lan lấy tư cách là vợ" đã chăm sóc Hồ Chí Minh trong sinh
hoạt thường ngày vô cùng tận tình, chu đáo làm cho ông đặc biệt cảm kích, đã có
lúc muốn thổ lộ tình cảm, nhưng vì thời cơ chưa chín muồi nên trong lòng vẫn
trù trừ. Lâm Y Lan thấy Hồ Chí Minh nói với mình những lời chân thành, thâm tâm
đã có phần ưng ý, nhưng vì là phận nữ nhi, không tiện nói ra. Không lâu sau, do
bị một đồng chí phản bội, Hồ Chí Minh bị bắt. Lúc chia tay, Hồ Chí Minh ôm lấy
Lâm Y Lan, dùng khăn tay lau nước mắt cho nàng: “ Hãy cứng rắn lên, đừng để kẻ
thù cười chúng ta mềm yếu”, nói rồi lấy quyển nhật ký đưa cho Lâm Y Lan: “ Tâm
sự của tôi đều ở trong này, sẽ cùng đi với em”. Tiếp đó là "Trong hoạn nạn
mới thấy lòng thành", một lần nữa tác giả kể lại: "Ba ngày sau khi Hồ
Chí Minh được cứu thoát, Lâm Y Lan nhìn đăm đăm vào khuôn mặt hốc hác của ông,
hỏi: “Chí Minh, sao không đợi muội đến đón?”. Theo lời Lương Ích Tân tường
thuật lại, ta sẽ thấy rất rõ, đây là những ghi chép về Hồ Chí Minh thời kỳ đầu
những năm 1930, chính xác là bị Quốc dân đảng Quảng Châu bắt giữ, mà không phải
là Nguyễn Ái Quốc bị cảnh sát Hương Cảng bắt giữ. (Xem thêm Thiên V "Khúc
ca buồn về tình yêu và hôn nhân".
Tại "Đài Loan
Quốc hoa thư tịch", năm 1946, Ngô Trọc Lưu xuất bản cuốn "Hồ Chí
Minh" bằng tiếng Nhật, sau này, khi dịch sang Trung văn, lấy tên là
"Đứa con côi châu Á". Tại Thiên 3 gồm các chương "Xuân
lành", "Bị giam", "Thoát ngục", tác giả có chèn lẫn
vào một đoạn sử liệu về tình yêu giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan khi ông ta bí
mật đến Quảng Châu. Đọc kỹ những tư liệu này cùng những tư liệu ghi chép về Hồ
Tập Chương người Đài Loan, độc giả sẽ thấy ngay đó là Hồ Chí Minh ở Việt Nam
(Xem bài báo "Hồ Chí Minh của Ngô Trọc Lưu Đài Loan").
Theo "Đài Loan
nhật nhật tân báo", từ năm 1938 và "Hồ Chí Minh" của Ngô Trọc
Lưu tại Đài Loan năm 1946, đều có ghi chép sự kiện Hồ Tập Chương bị bắt giữ ở
Quảng Châu. Trong bài "Mối tình sống chết giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y
Lan" (Hồi ký Trịnh Siêu Lân) viết cũng có sự kiện Hồ Chí Minh bị bắt ở
Quảng Châu. Những tư liệu này đều chứng minh Hồ Tập Chương tức là Hồ Chí Minh,
cũng chứng thực về bí mật của dòng họ Hồ Miêu Lật, Đài Loan mấy đời truyền khẩu
cho nhau, nhất định không phải là ngụy tạo cố sự.
Năm 1938, người em
út của Hồ Tập Chương là Hồ Tập Dưỡng đã từ Đài Loan đến Quảng Châu gặp anh. Lúc
ấy, Hồ Tập Dưỡng, cũng tốt nghiệp hạng ưu Đại học Sư phạm Đài Bắc, bị quân đội
Nhật trưng dụng đưa đến Quân hạm hải quân Hương Cảng làm thông dịch. Tình cờ đọc "Đài Loan nhật nhật tân
báo", biết tin về Hồ Tập Chương đã chín năm bặt vô âm tín, vì vậy Hồ Tập
Dưỡng đã đến Quảng Châu gặp anh vào khoảng trung tuần tháng mười hai, báo tin
về người con trai là Hồ Thự Quang. Năm 1939, Hồ Chí Minh lấy bí danh là Hồ
Quang có lẽ là do nhớ đến tình cha con. Đây là lời Hồ Tập Dưỡng sau khi trở về
Đài Loan đã thông báo cho gia đình:
"Tôi phải trải
qua vô cùng khó khăn gian khổ, thậm chí còn xuống cả thuyền hải tặc mới gặp
được Hồ Tập Chương". Câu đầu tiên khi gặp tôi Hồ Tập Chương hỏi: "Tại
sao chú tìm được đến đây? Nguy hiểm lắm!". Sau khi hai anh em nói chuyện
với nhau về tình hình gia đình, Hồ Tập Chương bảo: "Tôi hiện đang làm công
tác đặc biệt, có thể nguy hiểm đến tính mạng bất cứ lúc nào". Rồi anh ấy
dặn tôi chuyển lời đến gia đình: "Không được đến đây tìm tôi nữa, sắp tới
tôi sẽ đi Vân Nam sang công tác ở
Việt Nam , nếu không thành
công sẽ không về nhà".
"Đài Loan nhật
nhật tân báo" và "Những tư liệu về Nam Nhạc du kích
ban".
Có một chứng cứ
quan trong nữa để chứng minh Hồ Tập Chương chính là Hồ Chí Minh. "Đài Loan
nhật nhật tân báo" đưa tin: "Hồ Tập Chương là người trang Đồng La,
quận Miêu Lật, Đài Loan. tuổi 38". Cách đây không đến nửa năm, Ban huấn
luyện cán bộ du kích Nam Nhạc, Hồ Nam có in cuốn sách
nhỏ nhan đề "Thông tin về đồng môn", ghi danh Hồ Chí Minh, 38 tuổi là
hoàn toàn phù hợp. Nếu so với Nguyễn Ái Quốc 49 tuổi thì khoảng cách chênh lệch
những 11 tuổi, sẽ là sự lầm lẫn lớn. Vào năm 1939, Hồ Chí Minh ở Ban huấn luyện
cán bộ du kích Nam Nhạc, có đầy đủ chứng cứ ghi trong cuốn sách "Thông tin
về đồng môn", đã đưa công khai lý lịch của ông qua phần phụ lục dưới đây:
Tên họ: Hồ Quang
Chức vụ: Thiếu tá
Tuổi: 38
Quê quán: Quảng Đông
Đơn vi: Tập đoàn quân 18
Tốt nghiệp trường
nào: Lĩnh Nam đại học
Từng làm công tác
gì: Giáo viên trung học, hiểu trưởng
trường ngoại ngữ.
Tên họ: Hồ Quang.
Hồ Quang chính là bí danh Hồ Chí Minh từ năm 1939 đến 1942 sau khi từ Mạc Tư
Khoa về Trung Quốc. Bí danh của Hồ Chí Minh ở Liên Xô là P.C.Lin (Lin là phiên
âm của chữ "Lâm", cũng là họ bên vợ của Hồ Tập Chương tại Đài Loan
Lâm Quế muội. "P.C" thì không rõ có dụng ý gì, nhưng chữ
"Quang" trong "Hồ Quang" thì chính là tên người con trai
duy nhất của ông ở Đài Loan "Hồ Thự Quang". Gia phả họ Hồ tại Miêu
Lật, Đồng La, Đài Loan có ghi như sau: Đời thứ 21 dựa vào hàng chứ "Tập" như Tập
Trân, Tập Phỉ, Tập Chương, Tập Dưỡng v.v... Đời thứ 22 dự vào hàng chứ
"Quang" như Sùng Quang, Quan Quang, Hoán Quang, Thự Quang v.v...
Chức vụ: Thiếu tá,
nhân viên điện đài tân văn (Tân văn đài thiếu hiệu đài viên). Hồ Quang đích
thực là nhân viên điện đài của Ban huấn luyện cán bộ du kích Nam Nhạc, Hành
Sơn, Hồ Nam , phụ trách thu
thập thông tin từ các đài phát thanh. Tôi rất chú ý đến chi tiết, chưa đầy nửa
năm, sau khi theo Diệp Kiếm Anh làm cần vụ, từ một anh binh nhì, Hồ Quang được
thăng lên cấp bậc thiếu ta, điện đài viên, phụ trách thu lượm tin tức từ các
đài phát thanh. Đối chiếu với Hồ Quang trong "Thông tin về đồng môn",
ta sẽ thấy xuất hiện manh mối. Họ tên người xếp phía trước là Trần Tử Anh, cấp
bậc trung tá trưởng đài, tốt nghiệp Đại học Nhật Bản đế quốc, đơn vị công tác
là Tập đoàn quân 18. Người ở phía dưới là Tưởng Tuyết Ảnh, cấp bậc thượng úy, đài
viên, lưu học sinh tại Nhật Bản, đơn vị công tác là Tập đoàn quân 18. Hồ Quang
vốn là đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc, phụ thuộc vào Tập đoàn quân 18.
Những nhân viên chuyên môn điện đài thu thập thông tin tình báo từ Nhật Bản đều
từng học tại Nhật và thông thạo tiếng Nhật. Hồ Quang (Hồ Tập Chương) phụ trách
công việc này hiển nhiên là rất phù hợp. Tuy nhiên, ở mục "Quá trình học
tập và tốt nghiệp trường nào", Hồ Quang lại không đăng ký "Tốt nghiệp
Đại học Công nghiệp Đài Bắc". Rõ ràng, thời kỳ Nhật Bản chiếm đóng Đài
Loan, Hồ Tập Chương từng học tiểu học, trung hoạc rồi Đại học Công nghiệp Đài
Bắc, vì thế, trình độ tiếng Nhật và văn hóa Nhật của ông rất khá.
Tuổi 38: Ngày 11
tháng mười hai năm 1938, "Đài Loan nhật nhật tân báo" đăng tải bài
viết về Hồ Tập Chương nói ông 38 tuổi mà năm sinh đích thực của Hồ Chí Minh
không phải là năm sinh của Nguyễn Ái Quốc. Theo thông tin chính thức của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19 tháng năm năm 1890, đến năm 1939
đã 49 tuổi. Trong khi đó, giai phả họ Hồ Miêu Lật ghi, Hồ Tập Chương sinh vào
giờ Thân, ngày 11 tháng mười năm Tân Sửu, tức năm Minh Trị thứ 34, chuyển sang
dương lịch là năm 1901, vừa tròn 38 tuổi. Điều này càng chứng tỏ, Nguyễn Ái
Quốc của Việt Nam không phải là Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh chính là Hồ Tập Chương
đến từ Miêu Lật, Đài Loan.
Quê quán gốc Quảng
Đông: Quê gốc Nguyễn Ái Quốc là làng Kim Liên, xă Nam Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An,
Việt Nam . Quê gốc của Hồ
Quang (Hồ Tập Chương) ở huyện Trường Lạc, phủ Huệ Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung
Quốc, vì thế ông mới đăng ký nguyên quán Quảng Đông. Là người Quảng Đông, nói
tiếng Quảng Đông lưu loát, tự nhiên hợp tình hợp lý. Dưới đây là bản phụ lục
gia phả giản lược họ Hồ Miêu Lật do thân phụ Hồ Tập Chương là Hồ Dần Lượng ghi
chép:
"Đài Loan nhật
nhật tân báo" và "Nhật ký trong tù".
Hồ Tập Chương tức
là Hồ Chí Minh, nếu ta liên kết các sự kiện lại với nhau. "Đài Loan nhật
nhật tân báo" đưa tin, Hồ Tập Chương tốt nghiệp Khoa Hóa học ứng dụng, Đại
học Công nghiệp Đài Bắc, từng làm kỹ sư giám định chất lượng khoáng sản trong
công ty khai thác và tinh tuyển khoáng thạch Nam Phương thực nghiệp Quảng Đông
tại tỉnh Quảng Tây. Đối với Hồ Tập Chương, việc khai thác, tinh luyện, giám
định khoáng sản chính là chuyên môn của ông. Trong khi đó, Hồ Chí Minh vào năm
1942 - 1943 bị Quốc dân đảng bắt giam 1 năm 12 ngày. Trong thời gian bị giam
giữ, Hồ Chí Minh viết tập thơ "Nhật ký trong tù", trong đó, bài thứ
28 có nhan đề "Bạn tù nguyên chủ nhiệm L" viết:
Quốc gia phó thác
giữ biên khu
Sao nhãng việc công
mải việc tư
Khoáng sản tuồn qua
biên giới hết
Nên lò đúc bạc đúc
thơ tù.
Giáo sư Hoàng Tranh
chú giải bài thơ như sau: "Phía tây nam biên giới Quảng Tây có nhiều quặng
antimoine (cứng và có ánh kim), Hồ Chí Minh viết bài thơ này để bình luận về
một đồng sự đem loại quặng này bán lậu qua biên giới lấy tiền bỏ túi, chính là
hành vi tham ô phá rối kỷ cương của nguyên chủ nhiệm L.".
"Đài Loan nhật nhật tân báo" viết:
"Hồ Tập Chương từng làm kỹ sư giám định chất lượng khoáng sản trong công
ty khai thác và tinh luyện khoáng thạch (antimoine) "Nam Phương thực
nghiệp Quảng Đông" tại vùng mỏ Quảng Tây. Việc này rất phù hợp với tập thơ
"Nhật ký trong tù" của Hồ Chí Minh. "Nguyên chủ nhiệm L."
vốn là đồng sự ngày trước, vì bán trộm quặng antimoine lấy tiền bỏ túi, chẳng
may lại gặp Hồ Chí Minh tại nhà ngục Tĩnh Tây nên rơi vào hoàn cảnh khó
xử". Việc này há chẳng gián tiếp chứng thực Hồ Tập Chương và Hồ Chí Minh
cùng là một người sao?
Chấp hành mật lệnh
của Quốc tế cộng sản, Hồ Chí Minh tìm cách thâm nhập
vào Quân khu Quảng Châu Nhật Bản làm thông dịch, thời gian khoảng 2 tháng, động
cơ không hoàn toàn rõ ràng. Căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử lúc ấy mà nhận xét thì
cũng không ngoài việc đánh cắp thông tin tình báo của quân đội Nhật, phân tích
thông tin đối ngoại của Nhật, có thể lôi kéo được quân đội Nhật, nhờ Nhật giúp
đỡ Việt Nam đánh Pháp, triển khai trận tuyến liên hợp giữa Đảng Cộng sản và
quân đội Nhật.
Thế nhưng, vào thời
điểm ấy, quân đội Nhật lại ưu tiên giúp đỡ chính quyền bù nhìn của hoàng thân
Cường Để, cho nên Quốc tế cộng sản mới sử dụng thân phận Hồ Chí Minh với mục
đích thân Nhật đã hoàn toàn thất bại. Tuy nhiên, tình thế xoay chuyển, khó ai
dự đoán chính xác được diễn biến thời cuộc, chính bởi việc Hồ Chí Minh thâm
nhập vào quân đội Nhật Quảng Đông không đạt kết quả đã bộc lộ lai lịch phức tạp
của ông. Việc này có lẽ phù hợp với câu cách ngôn "Lưới trời tuy thưa mà
không lọt ", mặc cho bất cứ sự chối cãi nào.
Hồ Chí Minh có phải
là người Trung Quốc?
Hồ Chí Minh là
người Trung Quốc hay người Việt Nam ? Có không ít Hoa
kiều ở Việt Nam coi Hồ Chí Minh là
người Việt Nam bị Trung Quốc hóa.
Họ căn cứ vào lý do Hồ Chí Minh biết nói tiếng Quảng Đông, biết viết chữ Hán,
lại biết làm thơ chữ Hán, từ đó cho rằng tổ tiên ông là người Trung Quốc di cư
sang Việt Nam, vì vậy đương nhiên là người Trung Quốc.
Những nhận định
này, về cơ bản đều không giải thích được tiểu sử của Nguyễn Ái Quốc, bởi họ
chịu ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông chính thống nhà nước Việt Nam
khẳng định Nguyễn Ái Quốc biết nói tiếng Hán và làm thơ chữ Hán. Từ năm 1938
đến 1945, sau khi Hồ Chí Minh đến Trung Quốc, đã hoàn toàn biến thành một người
khác, hầu như không còn bóng dáng Nguyễn Ái Quốc. Hồ Chí Minh chưa từng mở
miệng nói tiếng Việt, thậm chí tự mình cũng không hiểu tiếng Việt, trái lại, nói
tiếng Quảng Đông rất thành thạo hoặc dùng tiếng phổ thông nói chuyện với mọi
người. Hồ Chí Minh cũng không dùng tiếng Pháp hoặc tiếng Việt viết văn, trái
lại, đều sử dụng Hán ngữ với số lượng lớn trong các bài viết chuyên đề, chuyên
luận, bao hàm cả 134 bài thơ trong tập "Nhật ký trong tù". Càng kỳ lạ
hơn là, Hồ Chí Minh dùng chữ Hán viết thư gửi về Việt Nam, lại được các báo,
tạp chí Việt Nam dịch sang tiếng Việt và tiếng Pháp, rồi phổ biến khắp các địa
phương, tuyên truyền Trung Quốc kháng Nhật cùng những hoạt động của phái
Troskism tại Trung Quốc. Hơn thế nữa, Hồ Chí Minh còn không dám thừa nhận mình
là Nguyễn Ái Quốc, chỉ biểu thị thái độ ba phải, tự cho mình là Hoa kiều. Hồ
Chí Minh đã từng gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc, tham gia lớp huấn luyện cán
bộ du kích của quân đội Trung Cộng. Tất cả những thái độ khác thường, những
hành vi không phù hợp đạo lý trên, tác giả chỉ có thể giải thích, từ năm 1938
đến năm 1945, Hồ Chí Minh hoạt động ở
Trung Quốc không phải là Nguyễn Ái Quốc người Việt Nam. Liên quan đến khả năng
nghe, nói, đọc và viết chữ Hán, tôi đã trình bày trong Thiên V, nhan đề
"Chữ Hán, 'Nhật ký trong tù' và 'Di chúc'”. Ở phần này, thời gian từ năm
1938 đến năm 1945, Hồ Chí Minh hoạt động tại Trung Quốc, tôi đã đưa ra những tư
liệu để so sánh, đối chiếu, xem xét, vậy rốt cuộc, Hồ Chí Minh là người Trung
Quốc hay người Việt Nam?
Bảy
bức thư từ Trung Quốc.
Từ tháng mười hai
năm 1938 đến tháng sáu năm 1939, Hồ Chí Minh lấy tư cách ký giả Trung Quốc, bí
danh P.C.Lin, qua phương thức "Thư từ nước ngoài", viết bằng chữ Hán
(bản thảo viết tay), từ Quảng Tây gửi về Hà Nội: "Người Nhật Bản muốn khai
hóa Trung Quốc như thế nào?" (tháng mười hai năm 1938), "Thư gửi từ
Trung Quốc" (tháng hai năm 1939), "Thư gửi từ Trung Quốc" (tháng
ba năm 1939), "Chủ nghĩa anh hùng của nhân dân Trung Quốc chống Nhật"
(tháng tư năm 1939), "Thư gửi từ Trung Quốc" (tháng tư năm 1939),
"Thư gửi từ Trung Quốc" (tháng năm năm 1939), "Thư gửi từ Trung
Quốc" (tháng sáu năm 1939)... trong đó có một bài "Nhật Bản khai thác
Trung Quốc như thế nào?" dài khoảng hai nghìn chữ. Tạp chí bằng tiếng Pháp
"Tiếng nói của chúng ta", số ra ngày 12 tháng hai năm 1939 có đăng
bài viết này nhưng nhan đề đã được đổi thành "Các hành động tàn bạo của đế
quốc Nhật Bản". Tờ báo tiếng Việt "Dân chúng" kỳ 46, ra ngày 21
tháng giêng năm 1939, kỳ 47, ngày 24 tháng giêng năm 1939 và kỳ 48, ngày 28
tháng giêng năm 1939 dã đăng toàn văn bản dịch này.
Hồ Chí Minh lấy tư
cách ký giả Trung Quốc, bút danh P.C.Lin thông qua phương thức"Thư gửi từ
nước ngoài", gửi 7 bài bằng chữ Hán đến Việt Nam. Những sự việc bất bình
thường này làm các nhà nghiên cứu bắt buộc phải chú ý. Hồ Chí Minh lấy bí danh
P.C.Lin, việc này chứng tỏ, Hồ Quang đã ở Trung Quốc năm 1939 và P.C.Lin vào
đầu năm 1934 ở Mạc Tư Khoa chỉ là một người. Trong khi ấy, theo hồ sơ lưu trữ
tại Mạc Tư Khoa thì, P.C.Lin lại là Nguyễn Ái Quốc, người Việt Nam, vậy thì tại
sao ông ta lại đến Quế Lâm trong vai ký giả Hoa kiểu? Nguyễn Ái Quốc bỗng nhiên
không biết dùng tiếng Việt, chữ Việt để viết văn mà bắt đầu viết những bài
trường thiên đại luận bằng chữ Hán. Không những thế, phong cách văn chương, nội
dung diễn đạt đều khác xa với cách viết của Nguyễn Ái Quốc trước đây, càng kỳ
lạ hơn, khi mà trong nội dung các bài viết, nhiều lần xuất hiện cụm từ
"Tôi là người Trung Quốc", "Tôi không hiểu tiếng Việt Nam".
Nếu so với thời kỳ
năm 1925 - 1926, Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu viết 88 bài xã luận bằng tiếng
Pháp đăng trên báo "Thanh niên" thì có vẻ như phong cách khác nhau
rất xa. Thật sự không thể biết vì sao đột nhiên ông lại thành thục Hán ngữ như
vậy? Trong 7 bài viết, trừ 2 bài lên án hành vi xâm lược tàn bạo của đến quốc
Nhật, 5 bài còn lại dưới hình thức "Thư gửi từ Trung Quốc", một bài
viết về tình hình kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc, một bài kiểm điểm
quá trình hoạt ðộng quân sự ở Việt Nam, 3 bài giới thiệu chủ nghĩa Trosky và
những hoạt ðộng của phái Troskism ở Trung Quốc. Vãn chýõng sử dụng kiểu xýng hô
là "Bạn bè của chúng tôi" hoặc "Các bạn thân mến", cuối bài
ký tên P.C.Lin. Xin trích lục một đoạn ở thiên thứ nhất "Nhật Bản muốn
khai thác Trung Quốc như thế nào?". Phần đầu, Hồ Chí Minh viết: "Thân
là người Trung Quốc, nếu như tôi nói tôi đã nhìn thấy tận mắt những hành vi tàn
bạo của quân đội Nhật Bản, thì có lẽ người ta sẽ cho là nói quá lên. Vì vậy,
xin trích lời một ký giả ngoại quốc đã viết về các hành vi bạo ngược của quân
đội Nhật Bản. Bài báo này đã được in trong "Ý nghĩa của chiến tranh, sự
bạo hành của quân đội Nhật Bản ở Trung Quốc", để báo cáo với các bạn.
Ngoài ra, tôi còn kèm thêm một số bài đă đăng tải trên những tờ báo rất có uy
tín, trong đó có lời kể của các vị tư lệnh Tân Tứ quân và Bát Lộ quân nhân dân
cách mạng".
"Người Nhật
Bản muốn khai thác Trung Quốc như thế nào?". Từ "khai thác" là
theo bản tiếng Việt trong "Hồ Chí Minh toàn tập" được chuyển từ Hán
ngữ. Giáo sư Hoàng Tranh trong tác phẩm "Hồ Chí Minh ở Quảng Tây" đã
trực tiếp đăng lại nguyên văn "Nhật Bản muốn khai hóa Trung Quốc như thế
nào?' mà không lưu ý đến hai từ "khai thác" và "khai hóa",
như vậy không phù hợp với cách dùng từ của Trung văn. Chẳng những thế, phần nội
dung lại chèn thêm những cụm từ "Tư lệnh Nhật Bản nói", "Tình
hình quân đội Nhật Bản chứng tỏ" v.v... Tôi rất lấy làm lạ, Nguyễn Ái Quốc
vào thời gian nào học tiếng Nhật, tiếp xúc với văn hóa Nhật mà có những bài
viết sâu sắc như vậy?
Bảy bản báo cáo gửi Quốc tế cộng sản.
Từ ngày 20 tháng tư năm 1939 đến 12 tháng bảy năm 1940, Hồ
Chí Minh gửi Quốc tế cộng sản Mạc Tư Khoa 7 bản báo cáo. Trên đầu các báo cáo đều
xưng là Ủy viên hội Quốc tế cộng sản Phương Đông hoặc Ủy viên chấp hành Quốc tế
cộng sản, cuối bài ký tên P.C.Lin, hoặc phụ thêm cam kết "Tiếng nói của
chúng ta". Có bản viết bằng tiếng Pháp, có bản viết bằng chữ Hán, nội dung
báo cáo về tình thế cách mạng Việt Nam , sự phát triển cũng như hoạt động của phái Troskism tại
Trung Quốc. Trong số này, có một báo cáo đề ngày 12 tháng bảy năm 1940, dùng tiếng
Trung, dài 12 trang, ký tên P.C.Lin, gửi Ủy viên Phương Đông hội Mạc Tư Khoa mà
trước đây, các báo cáo gửi đến Quốc tế cộng sản chưa bao giờ Nguyễn Ái Quốc
dùng Trung văn. Từ nội dung văn bản báo cáo, tôi đã tiến hành phân tích và nhận
thấy, về căn bản, không giống với văn bản của người Việt Nam viết. Điều đó chứng tỏ P.C.Lin không phải là Nguyễn Ái Quốc.
Nội dung bài viết về Việt Nam hoặc giới thiệu địa lý, nhân văn, tài nguyên, chế
độ chính trị Việt Nam đều dùng đại từ nhân xưng ngôi thứ ba, đặc biệt có một số
danh từ khá kỳ lạ, ví như "Đảng Cộng sản An Nam đã vượt quá vạn người"
(đảng viên Hoa kiều), có ba cái tên tay sai "Hán gian", truyền đơn cảnh
cáo của "Việt kiều", gọi Tưởng Giới Thạch là "Tưởng công",
Tống Tử Văn là "Tống công", Bạch Sùng Hy là "Bạch công"
v.v... tất cả những từ ngữ đã dùng đều không phải là từ, ngữ thông dụng của người
Việt Nam .
Cũng tương tự như vậy, khi Hồ Chí MInh nói về những vấn đề
liên quan đến phái Troskism ở Trung Quốc, về cơ bản không phải là cách sử dụng
giọng điệu của người Việt Nam . Ví dụ như: "Phái Troskism liên tục phản bội Tổ quốc
chúng ta như thế nào?", "Phái Troskism Liên Xô chẳng những đã bán rẻ
vùng duyên hải Siberie cho đế quốc Nhật mà còn có ý đồ bán cả đất nước Trung Quốc
của chúng ta cho chúng", "Tháng chín năm 1931, chính vào lúc quân đội
Nhật chiếm đóng Mãn Châu, Cục tình báo Nhật ở Thượng Hải bám theo bọn Troskism. Hai bên đã ký kết hợp đồng với nhau, nội dung như
sau: Phái Troskism cam kết không tiếp tục tuyên
truyền cản trở Nhật Bản xâm lược. Cục tình báo Nhật Bản cam kết, trả cho phái Troskism mỗi tháng ba ngàn dollars để Trần Độc Tú và đồng bọn
hoạt động. Chúng lấy tiền của Nhật xuất bản báo chí, thay Nhật tuyên truyền cái
gọi là "Quân đội Nhật đến Mãn Châu chỉ hy vọng nhanh chóng giải quyết vấn
đề tranh chấp, hoàn toàn không có một chút ý đồ xâm chiếm Trung Quốc". Cục
tình báo Nhật đã thừa nhận, những người Troskism tại Thượng Hải, mỗi tháng nhận được mười ngàn dollars để hoạt động tại
miền trung và miền nam Trung Quốc. Ở Thiên Tân và Bắc Kinh, phái Troskism nhận được năm mươi ngàn dollars mỗi tháng làm kinh phí
hoạt động ở vùng Hoa Bắc. Mục đích của họ chỉ là phản đối Bát Lộ quân và các tổ
chức yêu nước".
Trong các bức thư,
tác giả thường dẫn dụng "Nhật Bản quân tình cục" (Cục tình báo Nhật
Bản), "Nhật Bản mật thám", cùng với "Nhật Bản nội mạc đích tiêu
tức" (Tin tức nội bộ nước Nhật). Ví như: "Chỉ cần 2 sư đoàn là có thể
chinh phục Đông Dương", "Nhật Bản chi ra mười tỷ yên và hy sinh hoặc
chịu thương tật bảy vạn người là cái giá để chiếm 12 tỉnh của chúng ta",
xem ra chuyện này thật kỳ lạ. Nguyễn Ái Quốc học tiếng Nhật thông thạo từ lúc
nào mà có mối quan hệ với "Nhật Bản mật thám", gọi phiên hiệu quân
đội Nhật là "sư doàn", thậm chí, sau khi nước Pháp đầu hàng phát xít
Đức, ông còn bình luận về tương lai của Việt Nam như sau: "Người Pháp...
người Đức... ngưới Anh... người Mỹ... người Trung Quốc... người Nhật
Bản...,chính phủ Pháp giải quyết vấn đề Việt Nam như thế nào? Dự định giao cho
nước Đức? Hoặc là trao trả cho Việt Nam ? Chẳng bằng đem
Việt Nam trao cho Nhật Bản
là tốt hơn cả. Ngược lại, người Việt Nam có suy nghĩ như
thế nào về Nhật Bản? Bởi vì họ đã vô cùng căm hận nước Pháp mà lại chưa từng
được nghe về việc Nhật Bản cưỡng bức, bạo hành,
tàn sát nhân dân Trung Quốc. Vì thế, một khi họ nhận thấy đất nước vẫn
không được đôc lập tự do, thì bọn giặc lùn này cũng chẳng khác gì giặc
Pháp".
Đoạn văn trên đâu
có phải là của Nguyễn Ái Quốc viết trong báo cáo gửi Quốc tế cộng sản. Ngoài
ra, còn có những câu "Ở các tỉnh Bắc Kỳ có một đảng xưng là "Bảo
hoàng". Họ ra một tờ báo, các quan lại dựa vào thế lực hoàng đế để hoạt
động". Trung Quốc dưới tiều đại Mãn Thanh có một tổ chức gọi là "Đảng
Bảo hoàng" ra đời nhằm củng cố chính quyền, trong khi đó, ở Việt Nam xuất
hiện phong trào "Cần vương", chắc là chưa từng nghe tên tổ chức
"Đảng Bảo hoàng". Cách dùng từ ngữ kiểu như thế rất nhiều, không thể
liệt kê hết. Cho nên, tôi dám khẳng định, người ký tên P.C.Lin trong các bản
báo cáo tuyệt nhiên không phải là Nguyễn Ái Quốc mà phải là một người tinh
thông Nhật ngữ, đồng thời lại phải uyên thâm Hán văn viết.
Mười
một (11) bài viết trong "Cứu vong nhật báo".
Sau khi Quảng Châu
thất thủ, tờ "Cứu vong nhật báo" chuyển về Quế Lâm, Quảng Tây, đến
đầu năm 1939 thì xuất bản trở lại do Quách mạt Nhược làm chủ bút, Hạ Diễn làm
tổng biên tập. Các bài viết của Hồ Chí Minh trên "Cứu vong nhật báo đều ký
tên "Bình Xuyên" với 11 bài chuyên đề, nguyên tác bằng Trung văn, gồm
có: "Thiên thượng cố muội" (15 tháng 11 năm 1940), "Ếch đầm và
trâu vàng" (24 tháng 11 năm 1940), "Tiên sinh Roosevelt và trò đùa dai" (27 tháng 11 năm 1940),
"Hai chính phủ Versailles" (29 tháng 11 năm 1940), "Phao
tin" (1 tháng 12 năm 1940), "Báo chí Trung Quốc nói về nhân dân Việt
Nam" (2 tháng 12 năm 1940), "Ca dao An Nam về Trung Quốc kháng chiến"
(4 tháng 12 năm 1940), "Thật giả lẫn lộn" (5 tháng 12 năm 1940),
"Bàn về huyết thống" (8 tháng 12 năm 1940), "Nghĩa Đại Lợi
(Italia) thực bất đại lợi" (16 tháng 12 năm 1940), "Quân Phục quốc Việt
Nam thành quân Bán nước Việt Nam" (18 tháng 12 năm 1940). Đặc điểm của 11
bài chuyên đề là ngôn ngữ phong phú, ngụ ý sâu sắc. Nội dung văn chương đều nói
đến thời kỳ Chiến tranh Thế giới thứ hai và quan điểm của mình về tình hình
chính trị, đặc biệt là kịch liệt phản đối phát xí Nhật và phát xít Đức. Hầu hết
các bài viết đền nhấn mạnh hai nước Trung - Việt là đồng minh chống chiến
tranh, chống chủ nghĩa phát xít.
Từ 11 bài viết này, chưa cần nói đến nội dung thông tin phản
ánh, chỉ căn cứ vào ngữ pháp câu văn và phong cách diễn đạt, ta cũng dễ dàng nhận
ra, không thể do người Việt Nguyễn Ái Quốc mà phải là một người Trung Quốc có
trình độ hiểu biết khá rõ về Nhật bản viết. Xin dẫn ra 3 ví dụ để chứng minh:
1 - Trong bài "Báo chí Trung Quốc nói về nhân dân Việt Nam ", tác giả dùng ngôi thứ nhất: "Phong trào vận động
giải phóng Việt Nam là quân Đồng Minh Trung Quốc kháng chiến chống Nhật. Trên tinh thần và vật
chất, chúng ta dành cho họ sự cổ động và giúp đỡ. Tôn tiên sinh(5) thường
dạy chúng ta là phải giúp đỡ các nước nhược tiểu, cùng nhau phấn đấu giành lấy
độc lập tự do, vì vây, chúng ta phải thực hiện di huấn ấy".
2 - Tong bài "Ca dao An Nam nói về cuộc kháng chiến của
Trung Quốc", Hồ Chí Minh lấy giọng ký giả Trung Quốc, đưa tin nhân dân Việt
Nam chi viện Trung Quốc kháng chiến. Bài viết có đoạn: "Khi
ký giả đến Việt Nam, ở thành thị cũng như nông thôn, đều lan truyền một bài
hát, tuy tôi không biết tiếng Việt nhưng nghe đến câu "Giúp Tàu là tự giúp
mình" (Niếp tào la tự niếp minh) cũng có thể hiểu được lời ca này đồng
tình với nhân dân Trung Quốc. Sau này ở Hà Nội, tôi đem sự việc trên nói với một
Hoa kiều đang sống ở Việt Nam , ông ta bảo, đại đa số nhân dân Việt Nam đều ủng hộ Trung Quốc kháng chiến, họ còn cấu mong cho chúng
ta chiến thắng. Từ đoạn văn vừa dẫn, ta có thể biết được, thời kỳ đầu những năm
1940, việc nghe và nói tiếng Việt đối với Hồ Chí Minh là rất khó khăn. Trong
bài viết của mình, Hồ Chí Minh đã hướng đến độc giả Trung Quốc, giới thiệu việc
ông đã chỉnh lý bài ca dao "Cứu Trung Quốc là tự cứu mình", xin trích
dưới đây để bạn đọc tham khảo:
Nguyên văn:
Cứu Trung Quốc thị tự cứu tự kỷ
Nhật bản đông phương pháp tây tư(6)
Dã man, hung bạo hựu tàn khốc
Phát động liễu xâm hoa chiến tranh
Trung Quốc nhân dân bị đồ độc
Nhân bị sát liễu gia bị phần
Mãn địa huyết hồng mãn sơn cốt
Phi cơ tạc đạn vô khả miễn
Ngạ hàn tật bệnh nan sinh hoạt
Tha môn gian khổ địa đấu tranh
Bảo vệ dân chủ dữ hòa bình
Tha môn nhu yếu viện trợ giả
Tha môn nhu yếu hữu đồng tình
Nhật quỷ hướng thế giới tiến công
Tha thị nhân loại chi công địch
Việt Nam huynh đệ thư muội a
Khoái khoái khởi lai trợ Trung Quốc
Nỗ lực bang trợ Trung Quốc nhân
Trung Quốc Việt Nam như thần xỉ
Tu tri thần vong tắc xỉ hàn
Cứu Trung Quốc thị tự cứu kỷ.
Tạm dịch:
Cứu Trung Quốc là tự cứu mình.
Phương đông Nhật Bản nước phát xít
Dã man hung bạo lại tàn khốc
Phát động chiến tran xâm Trung Hoa
Nhân dân Trung Quốc bị thống khổ
Người thì bị giết, nhà bị đốt
Xương chất thành núi, máu ngập đất
Máy bay ném bon không chỗ ẩn
Bệnh tật, đói rét khó sống sót
Nhưng họ vùng lên quyết đấu tranh
Bảo vệ dân chủ và hòa bình
Trung Quốc rất cần sự giúp đỡ
Trung Quốc rất cần tình đồng chí
Quỷ Nhật tấn công cả thế giới
Trung Quốc kháng Nhật vì nhân loại
Việt Nam vỗn dĩ là anh em
mau mau đứng lên giúp Trung Quốc
Hết sức giúp đỡ người Trung Quốc
Trung Quốc, Việt Nam môi với răng
Nên biết môi hở tất răng lạnh
Cứu Trung Quốc là tự cứu mình.
3 - Trong bài "Quân Phục quốc Việt Nam thành quân Bán nước
Việt Nam", Hồ Chí Minh bỗng nhiên lại không biết tiếng Nhật hoặc tỏ ra
không hiểu mối quan hệ Việt - Nhật vào thời điểm ấy. Tôi lại xin trích dẫn một
đoạn để chứng minh: Năm 1907, Nhật Bản xét thấy "Hiệp ước Nhật Pháp"
đối với Nhật là rất có lợi, lập tức ra lệnh đuổi tất cả thanh niên Việt Nam về
nước, chỉ còn hoàng thân Cường Để và con nuôi ông ta là Trần Văn An, được thủ tướng Inukai Tsuyoshi, lấy tư cách cá nhân cho phép ở lại Nhật Bản, với ý
đồ, trong tương lai sẽ đưa ông ta lên làm vua bù nhìn Việt Nam. Sau năm 1931,
Trần Văn An đã từng giữ chức vụ bộ trưởng Ngoại giao trong chính phủ Mãn Châu.
Năm 1938, sau khi Quảng Châu thất thủ, Trần Văn An trở về khu vực biên giới
Quảng Đông - Việt Nam . Cuối tháng chín
năm ấy, Nhật Bản xâm chiếm Việt Nam, Nguyễn Cường Để, Trần Văn An cũng theo về
hoạt động ở vùng Lạng Sơn - Cao Bằng. Chúng tôi ở Trung Quốc rất hiểu lầm về
tình hình Việt Nam. Ví dụ như, ngày mồng 5 tháng này, các báo đều đưa tin, bọn
địch ở vùng phụ cận Lạng Sơn chiêu mộ dân chúng, tổ chức "Phục quốc
quân", mỗi người được lĩnh 30 đồng một tháng, cán bộ các cấp dều do quân
địch tuyển chọn, số người đã lên đến hàng vạn. Mục đích của họ là xúi giucj dân
chúng giành chính quyền từ tay thực dân Pháp, sau đó đất nước sẽ do họ thống
trị". Vào ngày mồng 10, các báo đưa tin khác nhau: "Những ngày gần
đây, phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam lại càng sôi sục, tư lệnh Việt Nam Phục quốc quân Trần Mỗ, mấy ngày
trước đã phát động khởi nghĩa. Dân chúng chuẩn bị lương thực rầm rộ đi theo,
trước mắt đã thu hút được vài vạn người...". Thế là ngày mồng 5 thành lập
tổ chức Việt gian "Phục quốc quân" mà ngày mồng 10 "Phục quốc
quân" lại biến thành đội tiên phong cách mạng dân tộc? "Phục quốc
quân" là bộ đội vũ trang của nhân dân Việt Nam hay đã trở thành
tổ chức Việt gian? Rốt cuộc, đó có phải là lực lượng vũ trang chân chính của
nhân dân Việt Nam ? Cái người họ Trần
kia thực chất là ai? Ký giả căn cứ vào các thông tin, sau khi tiến hành điều
tra, có thể khẳng định, Trần Mỗ chính là Trần Văn An. Ngụy "Phục quốc
quân" và "Phục quốc quân" là hai hợp làm một, mà cũng là một
phần của hai. Lực lượng vũ trang chân chính của nhân dân Việt Nam chưa ra đời. Trước
mắt tôi xét thấy có mấy điểm như sau:
a - Người Nùng ở
Lạng Sơn suy nghĩ đơn thuần, do đã căm thù đến tận xương tủy đế quốc Pháp,
không hiểu rõ lai lịch Trần Văn An, chỉ nghe thấy mấy tiếng "Phục quốc
quân" liền lập tức đi theo. Một khi được biết Trần Văn An là Việt gian, họ
nhất định từ bỏ "Phục quốc quân", tham gia vào đội ngũ giải phóng dân
tộc chân chính.
b - Lúc này, Nhật
Bản đang bị Anh, Mỹ, Nga cản trở, chưa dám kéo quân vào Việt Nam . Chúng hy vọng
Việt Nam có nhiều tài
nguyên nên tìm cách chiêu mộ Việt gian, ra sức nhiễu loạn lòng dân, tạo cớ xâm
lược Việt Nam .
c - Quân địch không
ở Việt Nam nên chúng tìm cách tổ chưc, nuôi dưỡng lực lượng Việt gian chiêu mộ
tại vùng biên giới Quảng Tây, Lạng Sơn, Cao Bằng. Sự kiện này khiến chúng ta
phải thật chú ý.
d - Chúng tôi có
nhu cầu cần phân biệt rõ ràng những đoàn thể chính trị và vũ trang chân chính
của Việt Nam , quyết không chấp
nhận các tổ chức hoạt động Việt gian, lại càng không thể chấp nhận những tổ
chức hoạt động thổ phỉ hoặc bị kẻ địch lôi kéo.
(Tác giả nhận
định: "Inukai Tsuyoshi" là thủ tướng Nhật lúc ấy, "uy khấu",
"địch quân", "tha môn" là chỉ quân đội Nhật Bản, các báo
là chỉ "Cứu vong nhật báo" lúc ấy ở Quảng Tây, "Quảng Đông nhật
báo", "Tảo đãng báo" v.v... "ký giả" chỉ Hồ Chí Minh lúc ấy lấy bí danh Hồ Quang với
tư cách Hoa kiều Trung Quốc. Khoảng năm 1940 đến 1941, hoàng thân Cường Để cũng
đến Đài Loan với động cơ không rõ ràng. Thời gian từ tháng mười một đến tháng
mười hai năm 1938, Hồ Tập Chương đến Quảng Đông, thâm nhập vào Bộ tư lệnh Quân
khu Quảng Châu Nhật Bản làm thông dịch, hiển nhiên giai đoạn lịch sử này có mức
độ liên quan tương đối với nhau).
4 - "Thiên
thượng cố muội": Thật ra tôi cũng không hiểu bốn chữ "Thiên thượng cố
muội" là như thế nào. Chúng có phải do từ ngữ Việt Nam chuyển dịch sang
chữ Hán hay là nguyên bản chữ Hán? Nội dung "khai tông minh nghĩa"
("mới bắt đầu đã nêu ý nghĩa chủ yếu", chương I "Hiếu
kinh"): Câu này vốn là tục ngữ Việt Nam tương ứng với câu trong Hán văn
"Thiên công hữu mục" (ông trời có mắt) từ khi nước Pháp bắt đầu xâm
lược Việt Nam, hiện tại nước Pháp bị phát xít Đức chiếm đóng, há chẳng ứng
nghiệm "ông trời có mắt" sao?
Theo nội dung văn
bản mà cân nhắc câu chữ "Thiên thượng cố muội" nên chuyển đổi thành
"Thiên công hữu mục" mới phù hợp với nội dung tiêu đề. Lẽ nào Hồ Chí
Minh lại gửi "Cứu vong nhật báo" bản thảo chuyên mục nhan đề bằng chữ
Việt còn nội dung mới bằng chữ Hán? Căn cứ vào "Hồ Chí Minh toàn
tập", tập III, xuất bản năm 2002, nhan đề bài này là
"ÔÔNG-TRÔI-CO-MAT" thì không thể nào dịch được, mà "Thiên công
hữu mục" lại tương ứng với "Ông trời có mắt" của Việt Nam mới mới chính xác.
Do vậy, tôi cứ băn khoăn, không hiểu lúc ấy Hồ Chí Minh chưa thông thạo tiếng
Việt, hay tiếng Việt chưa thống nhất quy cách ngữ pháp, chưa tiêu chuẩn hóa
hoặc cũng có thể là báo chí xuất bản mắc lỗi?
Chuyện cũ Trang Chu
hiểu mộng.
(Trang Tử, "Tề
vật luận"), kết vĩ, môt truyện ngụ ngôn lưu truyền "Trang Chu mộng
điệp":
"Ngày trước,
Trang Chu nằm mơ thấy mình biến thành bướm, lướt bay bồng bềnh ngao du khắp
nơi, quên mất bản thân mình trước đây là Trang Chu, bỗng nhiên giấc mơ tan sực
tỉnh mới biết rõ mình lại là Trang Chu".
Không thể biết
Trang Chu nằm mơ hóa thành bướm hay là bướm nằm mơ hóa thành Trang Chu ? Rốt
cuộc Trang Chu và bướm là có sự phân biệt! Trang Tử căn cứ vào sự chuyển biến
này mà viết truyện (vật hóa). Cái mà Trang Tử gọi là "vật hóa" là chỉ
cái khoảng cách người và vật chuyển hóa. Quốc tế cộng sản mượn "phách"
của Nguyễn Ái Quốc để hóa thành "hồn" Hồ Chí Minh. Ý đồ đem Nguyễn Ái
Quốc và Hồ Chí Minh hợp nhất hồn phách, chết mà lại sống, đây phải chăng có thể
gọi là "vật hóa"? Thời gian Hồ Chí Minh bị bắt giữ, thẩm vấn ở Quảng
Tây, thân phận của ông đã chuyển hóa giống như kết quả "vật hóa" của
Trang Chu, chỉ là thời gian này, Hồ Chí Minh không dám đột nhiên tự nhận mình
là Nguyễn Ái Quốc. Rốt cuộc việc này là như thế nào?
Thông thường, người
đời đều nhận biết tác giả "Nhật ký trong tù" đương nhiên là Hồ Chí
Minh, cũng chính là Nguyễn Ái Quốc. Việc này không có gì phải nghi ngờ. Thế
nhưng, lúc ấy, vào hạ tuần tháng giêng năm 1943, Hồ Chí Minh bị giải tới Văn
phòng của Ủy viên quân sự hội chính phủ Quốc dân đảng Quế Lâm để điều tra., vị
Ủy viên này tuyệt đối không điều tra lai lịch Hồ Chí Minh mà lại cho là
"hiềm nghi chính trị phạm", chuyển giao cho Ban chính trị "Đệ tứ
chiến khu" Liễu Châu xác minh. Sau đó, ngày 10 tháng chín năm 1943, Hồ Chí
Minh được "Đệ tứ chiến khu" Liễu Châu phóng thích, tiếp tục ở lại Ban
chính trị để giám sát. Cuối cùng, Văn phòng Ủy viên hội Quế Lâm và "Đệ tứ
chiến khu" Liễu Châu đã thống nhất phán quyết như sau: "Hồ Chí Minh
bị nghi ngờ hoạt động chính trị chống lại nhà nước, nhận thấy, ông ta là Hoa
kiều tại Việt Nam, là phần tử Đệ tam quốc tế, nhưng chưa khẳng định Hồ Chí Minh
tức là Nguyễn Ái Quốc".
Trong thời gian Hồ
Chí Minh bị giam giữ, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhờ Phân hội "Quốc tế
chống xâm lược" ở Việt Nam, gửi điện đến viện trưởng Tôn Khoa và thông tấn
xã TASS của Liên Xô đóng tại Trùng Khánh để công bố thông tin. Đồng thời họ
cũng thông qua Chu Ân Lai nhờ Phùng Ngọc Tường và Lý Nhân Tông giải cứu, tuy
vậy cũng không thấy nói đến Hồ Chí Minh tức Nguyễn Ái Quốc, người Việt Nam. Mãi
đến ngày 10 tháng chín năm 1943, Hồ Chí Minh mới được phóng thích. Sau khi Hồ
Chí Minh về Việt Nam, Trung ương Quốc dân đảng, thông qua "Việt Nam cách
mạng đồng minh hội", đến ngày 1 tháng mười năm 1944, mới biết Hồ Chí Minh
chính là Nguyễn Ái Quốc, thủ lĩnh Đảng Cộng sản Việt Nam. Nói cách khác, từ
tháng tám năm 1942, Hồ Chí Minh bị Quốc dân đảng bắt, đến 23 tháng giêng năm
1944, Trương Phát Khuê gửi thư đến Tưởng Giới Thạch đề nghị phóng thích, ông ta
đều nói quanh co về nhiệm vụ được cử đến Việt Nam công tác. Đối với Hồ Chí
Minh, chính quyền Tưởng Giới Thạch trước sau đều có sự nghi ngờ về lai lịch
không rõ ràng, còn Trương Phát Khuê thì nửa tin nửa ngờ nên mới tạm trọng dụng.
Từ ngày 9 tháng tám
năm 1944 "Kế hoạch đại cương nhập Việt công tác" được Trương Phát
Khuê phê chuẩn cấp kinh phí là 7 vạn 6 ngàn đồng (nguyên), dẫn đầu gồm 18 cán
bộ trở về Việt Nam khai triển nhiệm vụ mới.
Tác giả Vương Tâm
Cương viết truyện "Trương Phát Khuê" trang 225 đã nói rất rõ ràng;
"Hồ Chí Minh trở về Việt Nam không lâu, ngày 1 thang mười năm 1944, Trung
ương Quốc dân đảng lúc ấy mới biết, Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc, thủ lĩnh
Cộng sản Việt Nam và Việt Minh". Cũng trang đó, tác giả viết tiếp:
"Trương Phát Khuê gửi công văn đến Tưởng Giới Thạch đề nghị phóng thích Hồ
Chí Minh với lý do "tỷ dư nhiệm vụ":
1- Chúng ta không
phản đối những người Cộng sản chủ nghĩa, đặc biệt là người Quốc tế cộng sản.
2 - Hồ Chí Minh chỉ
thừa nhận là cán bộ cách mạng Việt Nam , chưa từng tham
gia Đảng Cộng sản nên không liên quan gì đến
Đảng Cộng sản Trung Quốc. Qua quá trình điều tra, chỉ thấy bằng chứng
xác minh ông ta là phần tử Đệ tam quốc tế.
3 - Trương Phát
Khuê có ấn tượng khá tốt về Hồ Chí Minh, cho rằng, theo ngôn ngữ văn tự mà suy
đoán, đối với "Chủ nghĩa Tam dân" Hồ Chí Minh, chẳng những hiểu rất
rõ về chính sách kháng Nhật, mà còn là người có tư duy sâu sắc, thái độ ôn hòa,
rất xứng dáng là đại biểu của đất nước với hơn 20 triệu dân.
Theo phần trích dẫn
trên, thời gian Hồ Chí Minh bị giam giữ ở Quân ủy hội Quế Lâm và Ban chính trị
Đệ tứ chiến khu Liễu Châu, đều không coi Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc. Đảng
Cộng sản Việt Nam , Đảng Cộng sản
Trung Quốc cũng chưa nói Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc. Bản thân Hồ Chí Minh
cũng chưa từng thừa nhận mình là Nguyễn Ái Quốc. Như vậy, trong sự việc này tồn
tại rất nhiều nghi vấn. Lúc ấy Trung cộng và Quốc tế cộng sản đang hợp tác với
Quốc dân đảng chống Nhật, Nguyễn Ái Quốc lãnh đạo Việt Minh cũng là đối tượng
để Quốc dân đảng tranh thủ cho kế hoạch "Hoa quân nhập Việt".
Hồ Chí Minh chỉ
thừa nhận mình là Nguyễn Ái Quốc sau khi được phóng thích, vậy vì sao phải tổn
hao tâm trí thông qua "Phân hội quốc tế chống xâm lược" ở Việt Nam , thông tấn xã Nga
Xô TASS và Chu Ân Lai giải cứu? Sự việc bỏ đường tắt, phù phép đi đường vòng để
giải cứu Hồ Chí Minh làm cho người ta cảm thấy phí công suy nghĩ.
Vì sao Hồ Chí Minh
không thừa nhận mình là Nguyễn Ái Quốc.
Hồ Chí Minh ở Mạc Tư Khoa bắt đầu từ năm 1934, do áp lực của Quốc tế cộng sản
phải sắm vai Nguyễn Ái Quốc. Trước ngày 6 tháng sáu năm 1941 không lâu, ông ta lại ký tên
Nguyễn Ái Quốc trong bài báo "Thư hiệu triệu gửi đồng bào toàn quốc Việt Nam ". Thế nhưng, vào ngày 27 tháng tám năm 1942, bị
quân cảnh Quốc dân đảng bắt giữ điều tra, Hồ Chí Minh vẫn không dám nhận tên
mình là Nguyễn Ái Quốc, việc này rốt cuộc vì sao?
Tôi phải suy nghĩ
rất lâu mới phát hiện ra trò trí trá quỷ thuật trong thời gian này. Nguyên lai,
quân Quốc dân đảng bắt giữ Hồ Chí Minh lúc đầu không biết ông là người có lai
lịch phức tạp cho dù các giấy tờ tùy thân đều đã quá hạn sử dụng. Tuy nhiên,
công an huyện Đức Bảo, Quảng Tây lại nghi ngờ Hồ Chí Minh là gián điệp, tên
thực là Hồ Quang, đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc, đã từng tham gia lớp huấn
luyện cán bộ du kích Nam Hành Sơn. Ký giả Hoa Kỳ Andew Roth, vào năm 1948,
trong cuốn sách "Nước Việt Nam mới", trang 89, đã viết rất rõ:
"Hồ Chí Minh lấy Trung Quốc làm cơ sở, sau mười năm hoạt động, đột nhiên
vào năm 1943, bị nghi ngờ là gián điệp Nhật nên bị nhà đương cục Trung Quốc bắt
giữ". Cho nên, để điều tra lại lịch, ông ta bị chuyển đến Ủy viên quân sự
hội Quế lâm của chính phủ Tưởng Giới Thạch. Lại căn cứ vào bản báo cáo điều tra
về Cộng sản Việt Nam của chính quyền Quốc dân đảng năm 1941, thì: "Nhận
định là Việt cộng và Trung cộng đã hợp
thành một tổ chức", đồng thời có biểu hiện lợi dụng quân đội Nhật để chống
lại Quốc dân đảng, nhân đó tạo thành sự kiện "Hoãn Nam Tân tứ quân".
Những nhân tố trên
mới là nguyên nhân chủ yếu bắt giữ Hồ Chí Minh. Nhân đó, trong thời gian bị
thẩm vấn, Hồ Chí Minh không dám thừa nhận mình là Hồ Quang, càng không dám thừa
nhận bản thân từng bị bắt ở Quảng Châu. Lúc ấy, Hồ Chí Minh rất sợ bị mất đầu
bởi các tin đăng tải trên "Nhật nhật tân báo" liên quan đến sự kiện
"Gián điệp Nhật Bản".
(Tác giả nhận định:
Lúc ấy, Thượng Hải, Quảng Châu thuộc khu vực Nhật Bản chiếm đóng, đều phát hành
tờ "Nhật nhật tân báo"). Đương nhiên Hồ Chí Minh không dám thừa nhận
mình là Hồ Quang, sợ bị Trung cộng nghi ngờ, cũng không dám thừa nhận là Hồ Tập
Chương, sợ liên lụy đến tội danh gián điệp Nhật. Lúc này, tự nhận là Nguyễn Ái
Quốc, tuy cũng chẳng phải là thượng sách nhưng có thể tránh được sự nguy hiểm
một khi chính quyền Quốc dân đảng muốn lật lại bản án, tránh phải tái nhập nhà
tù. Mặt khác, Hồ Chí Minh lại không dám công
nhiên thừa nhận là Nguyễn Ái Quốc, mà chỉ lén lút tung tin vỉa hè, kệ
cho thiên hạ loan truyền như một tin đồn, bởi vì, ông rất lo, nếu tự nhận mình
là Nguyễn Ái Quốc, đến một ngày nào đó, lai lịch bất minh bị tố giác, chân
tướng sẽ bị vạch trần. Thời gian từ năm 1924 đến 1927, nhân sự kiện hoạt động
của nóm "Tân tâm xã" ở Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Hải Thần từng là bạn bè tâm đầu ý hợp. Một câu nói,
một việc làm của Nguyễn Ái Quốc Nguyễn Hải Thần đều hiểu rõ ràng. Trước mắt,
Nguyễn Hải Thần đang là khách của Đệ tứ chiến khu, nếu Hồ Chí Minh thừa nhận
mình là Nguyễn Ái Quốc, gặp nhau mặt đối mặt, nhất định Nguyễn Hải Thần sẽ vạch
trần tại chỗ Hồ Chí Minh ngụy trang thân phận.
Cuối năm 1934,
Trương Phát Khuê chỉ đạo ban tổ chức trù bị Đại hội đại biểu toàn quốc
"Việt Nam cách mạng đồng
minh hội". Ông ta đề nghị Hồ Chí Minh giữ chức Phó chủ tịch, mà Chủ tịch
lúc ấy là Nguyễn Hải Thần. Hồ Chí Minh và Nguyễn Hải Thần, vì thế, hợp tác làm
việc với nhau một thời gian tại Liễu Châu. Có một ngày, Chủ nhiệm Ban chính trị
Hầu Chí Minh mở tiệc chiêu đãi. Nguyễn Hải Thần, Hoàng Văn Hoan, Lê Hồng Sơn,
Hồ Chí Minh được mời dự. Trong tiệc, Nguyễn Hải Thần cao hứng xuất một vế đối:
"Hầu Chí Minh, Hồ Chí Minh, lưỡng vị đồng chí, chí giai minh"(Hầu Chí
Minh, Hồ Chí Minh, hai người dồng chí, chí đều sáng). Đọc xong, ông hỏi:
"Vị nào có thể đối được?" Vào lúc mọi người còn đang tìm câu chữ chưa
biết làm thế nào cho chỉnh thì Hồ Chí Minh thong thả ðọc ngay vế sau: "
Nhĩ cách mệnh, ngã cách mệnh, đại gia cách mệnh, mệnh tất cách"(Ngài cách
mạng, tôi cách mạng, mọi người cách mạng, việc tất thành). Nghe xong, Hầu Chí
Minh luôn miệng tán thưởng: "Đôii giỏi quá! Đối giỏi quá!". Nguyễn
Hải Thần cũng tâng bốc: "Hồ tiên sinh có tài suy nghĩ mẫn tiệp, bội phục,
bội phục!". Với Nguyễn Ái Quốc trước đây là chiến hữu thân mật, nay gọi Hồ
Chí Minh là "Hồ tiên sinh", đủ để chứng minh, Nguyễn Hải Thần biết rõ
Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh là Hồ Chí Minh. Cố nhiên, lúc ấy
Hồ Chí Minh đang ở Liễu Châu, làm sao dám nhận mình là Nguyễn Ái Quốc.
Tháng mười năm
1944, Trung ương Quốc dân đảng, sau khi Hồ Chí Minh trở về Việt Nam mới biết ông ta là
Nguyễn Ái Quốc, thủ lĩnh Việt cộng và Việt Minh. Trương Phát khuê được biết sớm
hơn vào đầu năm 1943 khi mà Hồ Chí Minh bị chuyển giao cho Ban chính trị Đệ tứ
chiến khu thẩm tra.
Trung cộng và Việt
cộng đều không công khai thừa nhận Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc nhưng lại lén
lút để bí mật này lọt ra ngoài bằng con đương truyền miệng. Đây chính là thủ
đoạn hai mặt, một mặt yêu cầu Hồ Chí Minh không thừa nhận mình là Nguyễn Ái
Quốc, nhưng mặt khác lại thông qua những đảng viên cộng sản như Hoàng Quốc Việt
tán phát bí mật Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc. Thời kỳ ẩn mình làm việc
dưới trướng của Trương Phát Khuê, hoạt động của những người cộng sản là rất rõ
ràng. Ví như, Bí thư Trung cộng Tả Hồng Đào phục vụ trong chi đội đặc biệt của
Tập đoàn quân thứ 8, thời kỳ năm 1941, thư ký cơ yếu của Trương Phát Khuê biết
tin Hồ Chí Minh bị chuyển từ Quế Lâm đến Ban chính trị Đệ tứ chiến khu, lập tức
liên lạc với những người thân tín của Trương Phát Khuê là Ngô Trọng Hy, Cao
Nhược Ngu, Trương Lệ, Hoàng Trung Cẩn... truyền đạt tin tức can ngăn: Hồ Chí
Minh chính là Nguyễn Ái Quốc, khuyên can
Trương Phát Khuê hủy bỏ lệnh giam lỏng ông ta để "tỷ dư nhiệm vụ"
(dùng vào việc sau này).
Không lâu sau, Chủ
nhiệm Ban chính trị Hầu Chí Minh đi họp từ Trùng Khánh về, thực hiện lệnh phóng
thích Hồ Chí Minh. Trương Phát Khuê tự mình đưa Hồ Chí Minh đến ở tại "Bân
Lư" trên đường Diêu Phụ, coi như thượng khách.
Đoạn văn trên là do
Vương Tâm Đồng viết trong "Truyện Trương Phát Khuê", chương 17, trang
215 và "Ghi chép về Tả Hồng Đào mười năm trong hang hổ"
Lai lịch Hồ Chí
Minh vì sao không bị vạch trần?
Quá trình chuyển
hóa thân phận từ Hồ Chí Minh đến Nguyễn Ái Quốc hoàn toàn không phải mọi việc
đều thuận lợi trong một sớm một chiều. Đó là cả một công việc diễn ra lâu dài,
bền bỉ với không ít người tham gia thúc đẩy mới đạt thành hiệu ứng của màn hý
kịch. Xét về mặt thời gian, sau khi Nguyễn Ái Quốc bị bệnh lao phổi chết vào
mùa thu năm 1932, chẳng phải đã có ngay kế hoạch "mượn xác hoàn hồn"
hay "dời hoa tiếp cây".
Năm 1934, Hồ Tập Chương
đến Mạc Tư Khoa với bí danh P.C.Lin, sau khi chịu sự điều
tra của tổ chuyên án ba người, Quốc tế cộng sản mới bắt đầu đề nghị Hồ Tập Chương thay
thế vai trò Nguyễn Ái Quốc, lấy tư cách đại biểu Quốc tế cộng sản tiến hành hoạt động giành độc lập cho Việt Nam. Khoảng thời
gian ấy, sự việc luôn ở trong tình trạng mập mờ, bán tín bán nghi, cho đến
tháng sáu năm 1957, khi về thăm quê hương Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An, Hồ Chí
Minh mới chính thức công khai thừa nhận mình là Nguyễn Ái Quốc. Thời gian này,
song thân Nguyễn Ái Quốc đã qua đời từ lâu, một người anh là Nguyễn Sinh Khiêm
mất vào năm 1950 và người chị là Nguyễn Thị Thanh cũng mất vào năm 1954. Ông
Khiêm và bà Thanh, năm 1945 cũng đã ra Hà Nội gặp Hồ Chí Minh, vội vàng nói
chuyện về thời thơ ấu rồi lại trở về quê. Vậy tình hình lúc gặp mặt ra sao, Nói
những chuyện gì, trước sau vẫn còn là một bí mật. Vì thế, vào năm 1957, khi Hồ
Chí Minh về thăm quê hương Nguyễn Ái Quốc, những người trong làng, có thể nói,
không một ai phát hiện ra vị Chủ tịch nước Việt Nam không phải là Nguyễn Ái
Quốc. Huống hồ, các phe cánh đối lập như Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh cũng
lưu lạc ở Trung Quốc Đại lục, chết vì bệnh tật chốn tha hương. Hồ Chí Minh đến
lúc này với vượt qua các trở ngại, hoàn thành kế hoạch "dời hoa tiếp cây",
thay thế vai trò Nguyễn Ái Quốc do Quốc tế cộng sản sắp đặt.
Công bằng mà nói,
Hồ Chí Minh hoàn thành nhiệm vụ "dời hoa tiếp cây" tuyệt đối không
phải do năng lực cá nhân. Màn ký kịch này là sự hợp tác diễn xuất tuyệt vời của
những nhân vật chóp bu Đảng Cộng sản Việt Nam mà đạo diễn chính là Vera
Vasilieva, phụ trách thiết kế quy hoạch, trong đó, diễn viên chính là Hồ Chí
Minh, chịu trách nhiệm biên tập kịch bản và thượng đài diễn xuất. Phối hợp diễn
xuất là các lãnh đạo cao cấp như Lê Hồng Phong, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp,
Phùng Chí Kiên, Hoàng Văn Hoan, Nguyên Lương Bằng cùng với lãnh đạo cao cấp
Đảng Cộng sản Trung Quốc Chu Ân Lai, Đặng Dĩnh Siêu, Lý Phú Xuân, Thái Sướng,
Khang Sinh, Lý Khắc Nông..., phụ trách yểm hộ, bao che lai lịch Hồ Chí Minh. Họ
giấu kỹ lai lịch cùng những chứng cứ liên quan đến Hồ Chí Minh. Họ dùng các
phương thức yểm hộ khác nhau rối ren như tơ nhện để ngụy tạo thông tin, khiến
cho nhất thời có người tỏ ra hoài nghi, thì bất quá cũng như một cánh hoa trôi
giạt trên biển lớn, chỉ cần một đợt sóng trào là mất hút, không để lại dấu vết.
Năm 1945, vị hoàng
đế cuối cùng của triều Nguyễn là Bảo Đại đã từng nói: "Chỉ cần chứng minh
được Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc tôi sẽ lập tức thoái vị". Không lâu
sau, Bảo Đại thoái vị thật, có thể thấy, giới lãnh đạo Việt Nam che đậy lai lịch
Hồ Chí Minh đặc biệt thành công. Một lần nưa, tôi nhấn mạnh, Nguyễn Ái Quốc đã
chết vì bệnh lao phổi vào mùa thu năm 1932, năm 1942 mới thấy tên tuổi Hồ Chí
Minh xuất hiện. Như vậy, từ trước năm 1932, người ta rất quen biết Nguyễn Ái
Quốc, sau năm 1933, người ta không quen biết Hồ Chí Minh, vậy, theo lý mà nói,
Nguyễn Ái Quốc không phải là Hồ Chí Minh, chỉ có điều, vì sao Nguyễn Ái Quốc có
mối quan hệ đặc biệt thân thiết với một lãnh đạo nổi tiếng của Đảng Cộng sản
Pháp là Paul Vaillant Couturier và vị luật sư
Anh Quốc Frank Loseby đã từng tham gia giải cứu Nguyễn Ái Quốc thoát khỏi nhà
tù Hương
Cảng, đều chưa từng đề cập đến những nghi vấn về thân phận Hồ Chí Minh? Hồ Chí
Minh và những người cộng sản đã dùng những cách gì mà lừa bịp thành công? Chỉ
xin dẫn ra trường hợp Paul Vaillant Couturier và Frank Loseby làm ví dụ. Vậy thì làm thế nào Hồ Chí Minh và những
đồng chí của ông ngụy tạo cố sự để che mắt
người nước ngoài, khiến họ tin rằng Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc? tôi xin lấy
một tiêu đề trong thiên này là "Những năm tháng phiêu bạt" để làm lời
kết.
Hồ Chí Minh ngụy tạo sự kiện Nguyễn Ái Quốc sống lại.
Paul Vaillant Couturier là chuyên gia nước Pháp về "Chủ
nghĩa xã hội", từng là Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Pháp, chủ bút tờ
báo "Nhân đạo". Tháng chín năm 1933, Paul Vaillant Couturier đã đến Thượng Hải tham gia
"Hội nghị thế giới phản đối chiến tranh đế quốc". Tháng mười hai năm 1920, Nguyễn Ái Quốc có tham gia "Hội nghị Tour" của
Đảng Xã hội Pháp, sau khi Ðảng Xã hội bị phân liệt, đã quen biết Marcel Gabriel
và Paul Vaillant Couturier là thành đảng viên cộng sản.
Dưới sự chỉ đạo của Marcel Gabriel và Paul Vaillant Couturier, Nguyễn Ái Quốc
tích cực hoạt động tuyên truyền phản đỗi chủ nghĩa thực dân, trở thành chuyên
gia nghiên cứu về vấn đề thực dân của Đảng Cộng sản Pháp.
Hồ Chí Minh (Hồ Tập
Chương), từ đầu đến cuối, chưa bao giờ quen biết Marcel Gabriel và Paul Vaillant Couturier. Mùa thu năm 1937, Paul Vaillant Couturier qua đời, lúc ấy Hồ Tập Chương
đang ở Mạc Tư Khoa, bí danh P.C.Lin, chấp hành chỉ thị của
Quốc tế cộng sản, lấy danh nghĩa Nguyễn Ái Quốc, viết một bức thư bằng tiếng
Pháp gửi tới Marcel Gabriel tỏ lòng thương tiếc và chia buồn về việc Paul
Vaillant Couturier qua đời. Nói cách khác, Hồ Chí Minh sau khi Paul Vaillant
Couturier chết mới mượn mối quan hệ giữa Nguyễn Ái Quốc và Paul Vaillant
Couturier để liên kết Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh thành một người, dụng ý che
mắt thế gian, tái hiện hình ảnh Nguyễn Ái Quốc vẫn sống trên đời.
Trần Đạt Nhân, vào năm 1963, trong cuốn sách "Vừa đi đường
vừa kể chuyện", và Nguyễn Lương Bằng năm 1965, trong cuốn sách "Tôi
đã mấy lần được gặp Bác Hồ" đều nhắc đến sự kiện năm 1933 Paul Vaillant
Couturier đến Thượng Hải, đồng thời gộp Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh làm
một, ngụy tạo sự kiện Paul Vaillant Couturier gặp Nguyễn Ái Quốc
ở Thượng Hải để tạo điều kiện thuận lợi cho Hồ Chí Minh đến Mạc Tư Khoa. Thời
điểm những cuốn sách này xuất bản, Nguyễn Ái Quốc đã qua đời gần ba mươi năm, Paul Vaillant Couturier cũng đã mất hai mươi sáu năm.
Trần Đạt Nhân là bút danh của Hồ Chí Minh, Nguyễn Lương Bằng là Phó chủ tịch nước Việt Nam, hai người đều đồng lòng, nhất
trí chế tạo Hồ Chí Minh tức Nguyễn Ái Quốc mà không bị lật tẩy bởi nhân chứng
đã chết, Hồ Chí Minh vẫn đường đường chính chính tiếp tục sắm vai Nguyễn Ái
Quốc.
Ngày 6 tháng sáu
năm 1931, Nguyễn Ái Quốc bị cảnh sát Hương Cảng bắt giữ, luật sư Frank Loseby nhận lời biện hộ. Sau chín phiên xử, Nguyễn Ái Quốc
được phóng thích. Vợ chồng Frank Loseby cũng có mặt trong
buổi tiễn đưa Nguyễn Ái Quốc rời Hương Cảng. Mùa thu năm 1932, Nguyễn Ái Quốc
mắc bệnh lao phổi sau đó qua đời. Tất nhiên, luật sư Frank Loseby cũng biết tin này qua báo chí. Năm 1956, trong đoàn ký giả
Anh Quốc thăm Việt Nam , có một thành viên
là đảng viên Cộng sản Anh. Hồ Chí Minh có cuộc gặp gỡ riêng với ký giả cộng sản
này, sau khi được biết ông ta sẽ đến Hương Cảng nên có viết bức thư gửi luật sư
Frank Loseby. Không lâu sau, Hồ Chí Minh lại gửi hai tấm
ảnh chân dung kèm theo bức tranh thêu "Chùa Một cột" và bức tranh sơn
mài tặng vợ chồng luật sư, đồng thời mời hai ông bà thăm Việt Nam .
Mùa xuân năm 1960, tại trụ sở tiếp khách Trung ương Đảng, Hồ
Chí Minh đón tiếp vợ chồng luật sư Frank Loseby và ái nữ của họ là tiểu thư Patricia. Lúc ấy vợ chồng Loseby dã gần 80, Patricia cũng đã
30, mới gặp Hồ Chí Minh lần đầu, trong khi Nguyễn Ái Quốc đã qua đời 28 năm. Luật
sư nói: "Từ sau năm 1933, tôi có nhận được của Nguyễn Ái Quốc một bức thư
đề nghị gửi ảnh cùng địa chỉ, nhưng trong lòng tôi nghi hoặc, chỉ sợ đây là trò
chơi "bịt mắt bắt dê" của cảnh sát nên không dám trả lời. Không lâu.
lại nhận được bức thứ hai, nội dung giống như bức thứ nhất, tôi vẫn giữ cẩn thận,
để nhớ lại hình ảnh Nguyễn Ái Quốc đã qua đời". Luật sư giải thích nguyên
nhân không liên lạc với Nguyễn Ái Quốc là do không biết Nguyễn Ái Quốc chính là
Hồ Chủ Tịch. Sau này vợ chồng Frank Loseby còn mấy lần được mời tham dự hội thảo
tại Viện bảo tàng Cách mạng Việt Nam, băng ghi âm lời phát biểu của ông và những
tư liệu quý do ông tặng vẫn được lưu giữ. Luật sư Loseby còn căn cứ theo kiểu
dáng quần áo Nguyễn Ái Quốc từng mặc năm 1931, đã dùng vải bông gai may một chiếc
áo khoác dài gửi tặng Bảo tàng Cách mạng Việt Nam . Năm 1967, Frank Loseby qua đời, Hồ Chí Minh gửi một vòng
hoa đặc biệt đặt bên linh cữu ân nhân với dòng chữ: "Hồ Chí Minh đau xót
tưởng nhớ luật sư Frank Loseby".
Trở lên trên là những
ghi chép có liên quan đến Hồ Chí Minh và luật sư Frank Loseby được dẫn từ
"Hồ Chí Minh, cha già dân tộc Việt Nam" của cựu Đại sứ Lý Gia Trung,
từ trang 226 đến 228, Nguyễn Việt Hồng chuyển dịch, in trong chuyên mục "Hồ
sơ Hương
Cảng năm 1931". Từ những lời kể trên, vợ chồng Frank Loseby đã biết rõ Nguyễn Ái Quốc chết vào mùa thu năm 1932, vậy mà
đến sau năm 1933 lại nhận được thư của Nguyễn Ái Quốc, vì thế ông cho là cảnh
sát chơi trò "bịt mắt bắt dê", không dám trả lời. Đến năm 1956, một
ký giả cộng sản Anh Quốc chuyển tới Frank Loseby bức thư của Hồ Chí
Minh, sau này lại gửi tặng ảnh chân dung, tranh thêu, tranh sơn mài cùng với
lời mời thăm Việt Nam, thậm chí còn cử người đại diện mậu dịch ở Hương Cảng là
Nguyễn Văn Phối và Đỗ Xuân Phong đến thăm gia dình luật sư.
Tác giả không thể
biết nội dung bức thư Hồ Chí Minh nói những gì, chỉ căn cứ vào những động tác
liên hoàn từ năm 1956, có thể phỏng đoán, Hồ Chí Minh có ý ngầm thông báo cho
vợ chồng luật sư Loseby biết là, Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc, tin tức
đăng trên các báo về sự kiện Nguyễn Ái Quốc chết bởi bệnh lao phổi chỉ là tin
tức giả. Lật lại vấn đề, nếu như Nguyễn Ái Quốc không chết, chân thành báo đáp
ơn cứu mạng, vì sao đến mãi năm 1956 mới ba lần liên lạc với vợ chồng luật sư Frank Loseby, năm 1960 mới chính thức nời thăm? Thời gian kéo
dài những 20 năm, lẽ nào Nguyễn Ái Quốc không có cơ hội đến Hương Cảng cảm tạ
ân nhân? Lại vì sao 28 năm sau, khi mà vợ chồng luật sư đã gần 80 mới mời đến
Việt Nam gặp mặt? Tác giả
nhận thấy "Hồ Chí Minh có thể làm bất cứ việc gì để chờ đợi thời cơ, sau
đó chọn dịp thuận lợi nhất mới gặp mặt". Thử nghĩ, một ông già đã xấp xỉ
80 tuổi, sau 28 năm bặt vô âm tín, đặc biệt là người Âu Mỹ nhìn người phương
Đông, liệu có khả năng phân biệt được thật giả? Hồ Chí Minh chơi trò bịp bợm
chẳng qua là để vợ chồng Losely ghi nhớ "Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc" mà thôi. Hơn thế nữa,
Viện Bảo tàng Cách mạng Việt Nam lại còn mời vợ chồng Frank Loseby tham dự hội thảo, lưu lại các tài liệu liên quan và băng ghi
âm lời phát biểu cùng chiếc áo khoác vải bông kiểu dáng năm 1931, làm cho khắp
nơi nơi đều hiểu rõ mối quan hệ giữa Hồ Chí Minh với luật sư Loseby chính là bằng
chứng tuyệt vời khẳng định Hồ Chí Minh
chính là Nguyễn Ái Quốc.
THIÊN IV
Khúc
ca buồn về chuyện hôn nhân tình ái
Hồ
sơ hôn nhân Hồ Chí Minh.
Trong bài “Nguyễn Ái
Quốc chết rồi sống lại”, tôi đã nhấn mạnh, vào mùa thu năm 1932, Nguyễn Ái Quốc
chết vì bệnh lao phổi, người xuất hiện sau này tuyệt đối không phải Nguyễn Ái
Quốc mà chính là Hồ Tập Chương, làm nhiều chuyên gia nghiên cứu về Hồ Chí Minh
đặt câu hỏi nghi ngờ. Trong quá trình viết cuốn sách này, tôi đã tham khảo không
chỉ một vài tài liệu mà thực chất đã tiếp cận hàng đống hồ sơ, do đó đã phát
hiện ra những điều bất hợp lý thậm chí mâu thuẫn nhau trong cuộc đời nhân vật
lịch sử này. Vấn đề quan trọng nhất là cần phải khách quan và trung thực trên
cơ sở những chứng cứ khoa học, đồng thời hết sức tránh thái độ cực đoan do
thành kiến, nhằm loại trừ những sai lầm để tìm ra sự thật.
Nghiên cứu hồ sơ
hôn nhân, tình ái của Hồ Chí Minh chính là để làm sáng tỏ Nguyễn Ái Quốc là
Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh là Hồ Chí Minh, người này không thể là người kia và
ngược lại. Hôn nhân, tình ái của Nguyễn Ái Quốc cần được phân biệt giữa
Breiere, Tăng Tuyết Minh với Nguyễn Thị Minh Khai. Hôn nhân tình ái của Hồ Chí
Minh cũng phải được phân biệt giữa Lâm Y
Lan, Đỗ Thị Lạc và Nông Thị Xuân. Một số cuộc hôn nhân, tình ái này đã được đề
cập rải rác trong “Truyện Hồ Chí Minh” của Willam J.Duiker và “Những năm tháng
Hồ Chí Minh mất tích, 1919 - 1941” của Sophie Quinn – Judge, quyển 2, nguyệt
san “Vũ Hán văn sử tư liệu” (Đại lục) với bài “Hồ Chí Minh và người vợ Trung
Quốc Tăng Tuyết Minh”, nguyệt san “Nhân dân văn trích” (Đại lục) có bài “ Mối
tình sống chết giữa Hồ Chí Minh và Lâm Y Lan”. Về phía Việt Nam có tác phẩm “Chị
Minh Khai” của nhà văn Nguyệt Tú, “Việt duệ Hoa nhân Lĩnh Nam di dân” chuyên san
có bài “ Thê thiếp và tình nhân của Hồ Chí Minh”. Nói chung, các tác phẩm trên
đều có những phát hiện và trình bày, phân tích về tình trạng hôn nhân, tình ái
của HCM tương đối đúng sự thực. Tuy nhiên, về phía nhà nước Việt Nam , những người lãnh
đạo cao cấp đều ra sức phản bác, cũng như lúc sinh thời, Hồ Chí Minh chưa bao
giờ thừa nhận mình từng có vợ có con. Họ coi Hồ Chí Minh là thần thánh, biểu
tượng tối cao của sự nghiệp cách mạng, nên sẵn sàng nhắm mắt, bịt tai trước sự
thật lịch sử. Hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh là hiện thực khách
quan, được bạch hóa tại nhiều hồ sơ lưu trữ, không thể xóa bỏ được vết hằn lịch
sử.
Từ sau năm 1933 cho
đến lúc qua đời, Hồ Chí Minh không bao giờ thừa nhận các quan hệ hôn nhân, gia
đình, nhưng trước năm 1933, tình trạng hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc lại được
công khai rõ ràng. Nhà nước Cộng sản Việt Nam cường điệu chuyện Hồ Chí Minh vì
sự nghiệp độc lập giải phóng dân tộc mà hy sinh tình cảm cá nhân, bởi vì họ không muốn và cũng không dám đối mặt với
một sự thật chết người, ấy là Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh không phải là một.
Không còn cách nào khác, các nhà lãnh đạo cao cấp, thông qua bộ máy tuyên
truyền, đã lợi dụng những chuyện cường điệu, bịa đặt về thứ tình yêu “đồng chí
cộng sản” để nấp sau tấm màn nhung, điều khiển vở hài kịch “tráo rồng đổi
phượng”, “dời hoa tiếp cây”.
Chuyện
hoang đường về đạo đức thánh nhân.
Trong nhận thức của
một số người, ấn tượng phổ biến về việc ông Hồ Chí Minh không có vợ con là bởi
sự nghiệp cách mạng, vì độc lập dân tộc nên đã hy sinh hạnh phúc gia đình. Đại
sứ Trung Quốc Lý Gia Trung đã viết trên tờ “Thế giới tân văn” ngày 11 tháng bảy
năm 2005 như sau: “ Hồ Chí Minh vì sự nghiệp cách mạng chấp nhận sống độc thân,
không xây dựng gia đình, không vợ không con. Trong thời kỳ kháng chiến chống
Pháp, vào những năm năm mươi, các nhà lãnh đạo Việt Nam đã từng có ý sắp đặt
một nữ tthanh niên ưu tú bên cạnh Bác để giúp đỡ Người trong công tác cũng như
sinh hoạt. Thế nhưng, khi người phụ nữ ấy được đưa đến, Hồ Chí Minh lại bảo: “Bác
ở đây không có việc gì, cháu hãy về cơ quan công tác cho tốt”. Có lần Hồ Chí
Minh tâm sự với các nhân viên phục vụ về
nguyên nhân mình không xây dựng gia đình: “ Thời trẻ, Bác bôn ba nước ngoài, đi
đến đâu cũng được phụ nữ để ý, chỉ hiềm lúc ấy Bác đang họat động bí mật, sẽ có
ngày trở về nước làm cách mạng, một khi thành gia thất thì rất khó bảo vệ được
bí mật”. Lý Đại sứ viết tiếp: “ Hồ Chí Minh
vì tự do độc lập của nhân dân mà dấn thân cuộc đấu tranh cách mạng gian
khổ, không màng đến sự sống chết và hạnh phúc cá nhân, cho nên chấp nhận suốt
đời sống độc thân”. Việc không có vợ con
của Hồ Chí Minh có đúng như Lý Gia Trung nhận định là chỉ vì nền độc lập dân
tộc hay là còn có lý do khác quan trọng hơn mà họ cố ý giấu nhẹm sự thật, tạo
ra chung quanh một vòng hào quang để biến ông thành vị thánh sống?
Căn cứ vào những hồ
sơ từ thời thực dân Anh Pháp để lại, mới được giải mật gần đây, thì Nguyễn Ái
Quốc và Hồ Chí Minh đã có thời kỳ hôn nhân tốt đẹp, đồng thời cũng tồn tại
nhiều mâu thuẫn trong các mối quan hệ. Tuy nhiên, nhà nước cộng sản Liên Xô
Trung Quốc và Việt Nam cho đến nay chẳng
những không chịu thừa nhận thực trạng hôn nhân của Hồ Chí Minh mà còn cố ý làm
sai lệch các hồ sơ trên. Họ làm vậy mới mục đích gì? Lần lượt phân tích các hồ
sơ qua nội dung đã được bạch hóa, có thể suy đoán, Nga cộng, Trung cộng, Việt
cộng, không dám công bố sự thật hôn nhân Hồ Chí Minh là bởi họ đã hiểu Nguyễn
Ái Quốc và Hồ Chí Minh là hai người khác nhau. Một khi các chuyên gia nghiên
cứu về Hồ Chí Minh công bố trước thế giới sự thật này thì thân phận Hồ Chí Minh
sẽ trở thành một “song bào án”, hình tượng Hồ Chí Minh bỗng chốc sụp đổ, làm gì
còn đủ tư cách "Cha già dân tộc"!
Những năm ấy Quốc
tế cộng sản phải khó khăn lắm mới tạo ra được vở kịch “mượn xác hoàn hồn” với kế
hoạch cài cắm một phái viên của mình vào Việt Nam nhằm thực hiện mục đích
“nhuộm đỏ” khu vực Đông Nam Á, nay có nguy cơ bị vạch trần nên tất yếu họ tìm
mọi cách bưng bít.
Vào những năm đầu
thế kỷ XXI (năm 2000), sự thực về hôn nhân, tình ái của Hồ Chí Minh còn được
Sophie Quinn - Judge trong “Những năm tháng Hồ Chí Minh mất tích 1919 -1941”,
quyển I, ở phần mở đầu, giới thiệu tóm tắt đã viết: “ Hồ Chí Minh không phải là
hòa thượng độc thân, qua thẩm xét, nghiên cứu kỹ lưỡng, ông ta từng có quan hệ
chính thức với hai người phụ nữ”. Phần tổng kết, tác giả nhắc lại: “ Hồ Chí
Minh tuyệt đối không phải là một vị thánh của Chủ nghĩa cộng sản chỉ vì ông ta
không có cơ hội chung sống cùng phụ nữ mà thôi”. Một tác giả người Việt là nhà
nghiên cứu Trần Gia Phụng trong tác phẩm “ Ông Hồ có bao nhiêu vợ?”, đã viết:“
Hồ Chí Minh cũng chỉ là một người bình thường. Ông đã từng trải qua mấy cuộc
hôn nhân, có vợ có con, thậm chí có đến mấy bà vợ cùng nhân tình”. Trong xã hội
Việt Nam năm sáu mươi năm
về trước, đây là hiện tượng cực kỳ phổ biến. Chỉ có điều, đã trót suy tôn ông
ta là “nhà chính trị kiệt xuất”, “Cha già dân tộc”, “biểu tượng của cách mạng
Việt Nam” nên bắt buộc phải giấu biệt các mối quan hệ hôn nhân, tình ái, vô
hình chung Cộng sản Việt Nam đã biến ông Hồ thành kẻ phụ tình, bất nghĩa, thoái
thác trách nhiệm làm chồng làm cha, một lẽ thường của đạo nhân luân.
Cầu trả về cầu đường trả về đường.
Qua những sự thực
lịch sử về tình trạng hôn nhân của Hồ Chí Minh, cẩn thận xem xét, kiểm nghiệm
kết hợp với so sánh, đối chứng, ta có thể thấy rõ, Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí
Minh có những quan hệ hôn nhân, tình ái vào các thời kỳ khác nhau. Nếu đem hai
người có tình trạng hôn nhân ở hai thời kỳ khác nhau gộp lại cho một người rồi
đồng nhất cùng một thời gian thì chẳng khác gì câu chuyện dân gian “râu ông nọ
cắm cằm bà kia”, làm biến dạng bản chất sự việc. Muốn làm rõ việc này cần phải
lấy năm 1932 làm mốc phân ranh giới giữa Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh. Trước
năm 1932, thuộc hôn nhân, tình ái của Nguyễn Ái Quốc với Breiere, Tăng Tuyết Minh và Nguyễn Thị
Minh Khai.Từ năm 1933 về sau, thuộc hôn nhân tình ái của Hồ Chí Minh với Lâm Y
Lan, Đỗ Thị Lạc và Nông Thị Xuân. Đem Nguyễn Ái Quốc ghép với Hồ Chí Minh là
không thể. Để loại trừ những kết luận chủ quan, sai lầm, cần phải đối chiếu
thời gian, tìm hiểu các mối quan hệ, phân tích dữ liệu một cách cẩn trọng trong đống hồ sơ lưu trữ về Hồ Chí Minh để
trả lại sự minh bạch cho lịch sử như tục ngữ của người Trung Quốc là “ cầu trả
về cầu, đường trả về đường”. Xin độc giả tham khảo những tư liệu sau đây:
1 – Năm 1921,
Nguyễn Ái Quốc ở trọ tại biệt thự Goblin thủ đô Paris nước Pháp, làm
quen với một thiếu nữ người Pháp là cô Briere. Cảnh sát xác nhận cô này là tình
nhân của Nguyễn Ái Quốc.
2 – Năm 1925, tại
Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc quen biết một thiếu nữ Trung Quốc là Tăng Tuyết
Minh, năm 1926 hai người kết hôn. Sau khi kết hôn hai người ở trong biệt thự
của Mikhail Brodin.
3 – Năm 1930, tại
Hương Cảng, Nguyễn Ái Quốc mang theo từ Việt Nam một người đồng
hương đồng thời là người yêu của ông ta tên Nguyễn Thị Minh Khai. Mùa xuân năm
1931, Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh Khai cử hành hôn lễ đơn giản tại nhà
khách qua sự chứng kiến của các đồng chí
đến từ Sài Gòn và Đông Kinh.
4 – Năm 1935, Mạc Tư Khoa triệu tập Hội nghị lần thứ VII Quốc tế cộng sản. Thời gian này Nguyễn Ái Quốc bị bệnh đã qua đời,
Nguyễn Thị Minh Khai với tư cách là vợ của Nguyễn Ái Quốc, khi đến Mạc Tư Khoa,
ghi trong tờ khai là đã kết hôn với một người đồng chí có tên P.C. Lin. Hội
nghị kết thúc, Nguyễn Thị Minh Khai ở lại Liên Xô, đến phòng đăng ký giá thú
làm thủ tục kết hôn với Lê Hồng Phong, là người lãnh đạo mới của Đảng Cộng sản
Đông Dương.
5- Cuối năm 1944,
Hồ Chí Minh trở lại căn cứ địa cách mạng Việt Bắc. Trong số 18 cán bộ nòng cốt
theo về Việt Nam có một phụ nữ là Đỗ Thị Lạc,
mọi người quen gọi “chị Thuận”. Tại Cao Bằng, Hồ Chí Minh và Đỗ Thị Lạc sống chung với nhau một thời
gian.
6 – Năm 1955, một
thiếu nữ xinh đẹp người Nùng,quê Hòa An, Cao Bằng là Nông Thị Xuân được cử làm
y tá bên cạnh Hồ Chí Minh. Hai người sống chung với nhau gần một năm thì cô
Xuân sinh hạ một bé trai. Đứa bé lúc đầu gửi Hội Phụ nữ rồi Chu Văn Tấn chăm
sóc, sau này thư ký riêng của ông Hồ là Vũ Kỳ bí mật nhận làm con, nuôi dưỡng
tại nhà mình.
7 – Năm 1965, nhân
việc Đào Chú, một yếu nhân của Đảng Cộng
sản Trung Quốc, đồng thời là bạn thân của Hồ Chí Minh viếng thăm Hà Nội, ông Hồ
có nhờ Đào Chú tìm giúp một phụ nữ từng quen biết thời trẻ ở Quảng Ðông là Lâm
Y Lan ðể nối lại tình xưa nghĩa cũ. Họ Đào trở về Trung Quốc báo cáo việc này
với Tổng lý Chu Ân Lai, tuy nhiên quan hệ ngoại giao hai nước lúc ấy không còn
mặn mà như trước vì cuộc “Đại cách mạng văn hóa” nên đề nghị của ông Hồ tạm
thời bị xếp lại.
Mối
tình đầu của Nguyễn Ái Quốc với cô Breiere.
Breiere và Bourdon
Breiere có phải là
người tình đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc hay không, việc này xác minh không khó.
Qua quá trình thẩm xét, các hồ sơ liên quan đến Nguyễn Ái Quốc đều cho thấy,
Breiere đúng là người tình đầu tiên của ông. Mối quan hệ tình ái này, cả trong tác phẩm của William J. Duiker và Nguyễn Thế
Anh đều không được đề cập đến, bởi các nhà nghiên cứu quan niệm, chuyện yêu
đương thời kỳ đầu của Nguyễn thường là giả tạo, thậm chí còn bị tô vẽ phóng đại
với mục đích chính trị.
Người tình đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc là một
phụ nữ Pháp tên Breiere, chẳng hiểu vô tình hay hữu ý đã bị lẫn lộn với mối
tình của nữ chiến sĩ cách mạng Nguyễn Thị Minh Khai. Việc làm này rõ ràng có ý
đồ tạo ra một giả tượng đồng nhất Hồ Chí Minh
với Nguyễn Ái Quốc. Giáo sư Nguyễn Thế Anh trong tác phẩm “Con đường
chính trị của Hồ Chí Minh”, khẳng định người tình đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc
là cô Bourdon, còn William J. Duiker trong “Truyện Hồ Chí Minh”, trang 76 lại
ghi người tình đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc là cô Bourdon Breiere. Có nhiều khả
năng, từ tiếng Pháp chuyển dịch sang tiếng Trung, danh xưng này bị phiên âm khác đi. Theo các tài liệu lịch
sử để lại, cô Breiere và cô Bourdon đều là người tình của Nguyễn Ái Quốc thời
kỳ đầu đến nước Pháp thực chất chỉ là một người. William J. Duiker dẫn theo tài
liệu thời kỳ đầu còn Nguyễn Thế Anh dẫn theo tài liệu ở thời kỳ kết thúc của
mối tình này nên mới có sự bất đồng.
Mối tình đầu của
Nguyễn Ái Quốc.
Giáo sư Nguyễn Thế
Anh trong “Con đường chính trị của Hồ Chí Minh ” có ghi chép về mối tình đầu của
HCM như sau: “ Năm 1923, HCM từng bị thất tình với một cô gái người Pháp là
Bourdon. Cô này đã trách móc Hồ vì việc Hồ tuyên bố với mọi người cô là vợ
mình. Từ một bức thư đề ngày 10 tháng 5 năm 1923, Hồ Chí Minh gửi cho Bourdon
có thể biết được mối quan hệ tình ái của họ trong thời gian ấy: “Nhận được thư
của em làm anh vô cùng sung sướng. Anh cũng gửi đến em lời cảm ơn về những tấm
ảnh đẹp. Anh tạm gửi lại em hai tấm, còn giữ lại ba tấm, nếu có thời gian sẽ in tráng. Mong em
cho phép anh in tráng hai bộ, một bộ gửi em, một bộ anh giữ để làm kỷ niệm tình
đồng chí của chúng ta”. Sau đó hai người còn thư từ qua lại với nhau một thời
gian nữa, hẹn sẽ có ngày gặp mặt. Có khả năng, theo lá thư đề ngày 11 tháng 6
năm 1923 gửi cho Bourdon, Hồ Chí Minh viết: “ Vừa nhận được thư cô, xin cô hãy
giữ gìn các tấm ảnh, nhưng không cần thiết phải phóng đại số ảnh ấy. Đọc thư,
tôi rất sửng sốt, không sao hiểu được ý tứ của những lời nói ấy. Nếu cô nghĩ
rằng tôi làm việc ấy, xin mời cô hãy đến quán ăn, ta sẽ làm rõ sự thật”. (Tác
giả nhận định, thời gian ấy, Nguyễn Ái Quốc làm việc tại một hiệu ảnh, còn cô
Bourdon có thể làm làm bồi bàn trong một nhà hàng). Trích dẫn từ một lá thư do
Cục Bảo an Pháp thu được, hiện bảo tồn tại Trung tâm hồ sơ Pháp quốc hải ngoại
(SLOTFOM), hàng thứ 2, hòm số 4), William J. Duiker trong “Truyện Hồ Chí Minh”,
chương 2, trang 76, viết: “ Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc quyết định gia nhập Đảng
Cộng sản Pháp, việc này đã tạo ra sự căng thẳng với nhóm người cùng ngụ trong
biệt thự Globin. Họ xem Nguyễn là nhân vật cấp tiến và hành động của anh ta có
mùi vị súng đạn. Thời kỳ Hội nghị Versailles, Nguyễn Ái Quốc có kể với người
đồng hương là Trần Tiến Nam về người bạn gái bất đồng quan điểm với mình vì cô
cho rằng anh ta có tư tưởng cực đoan. Cũng cuốn sách trên, trang 593 (chú giải
số 49), có ghi: “Căn cứ Hồ sơ Pháp quốc hải ngoại của Trung tâm viễn chinh quân
bảo hộ, tủ thứ 36, ngày 27 tháng 12 năm 1920, Deveze viết như sau: “Người bạn
gái là Breiere, cảnh sát tin là nhân tình của Nguyễn Ái Quốc”.
Mối tình đầu giữa
Nguyễn Ái Quốc và Breiere là tình yêu chân chính của những người tuổi trẻ. Nó
thường bị lợi dụng gắn kết với mối tình giữa Nguyễn Ái Quốc và Nguyễn Thị Minh
Khai, cố ý gây lẫn lộn, làm mối tình đầu thất bại này mang phong vị lãng mạn,
tạo ra một hình ảnh Hồ Chí Minh thánh nhân, đạo đức “ đất nước chưa độc lập
thống nhất, Hồ Chí Minh không thể xây dựng gia đình riêng”. Theo các đề mục ở
phần sau của tác phẩm “ Hồ Chí Minh vì sao không lấy vợ?” và “Tình yêu vượt qua
Hồng Hà, truyện tình Hồ Chí Minh”, hai thiên này rất không đúng sự thực, chứng
tỏ vòng hào quang chung quanh Hồ Chí Minh
chỉ là thần thoại giả tạo.
Nghi án ái tình giả
tạo.
HCM vì sao suốt đời
không lấy vợ? Tờ “Nhân dân nhật báo” Trung Quốc, bản hải ngoại (bản số 3, ngày
16 tháng 9 năm 2000), Hồ Văn Sinh viết: “Năm 20 tuổi Hồ Chí Minh lên một chiếc
tàu thủy đến nước Pháp, bắt đầu tìm thấy chân lý ở chủ nghĩa Marx – Lenin. Trên
đường đi, ông làm quen với một cô gái xinh đẹp người Việt, dáng mảnh mai, tính
tình nhu thuận. Họ nhanh chóng có tình cảm với nhau. Khi Hồ Chí Minh tham gia “Phong trào vận động giải phóng dân
tộc Việt Nam ” thì người bạn gái
yêu thương bị kẻ thù giết hại một cách thảm khốc. Một hôm, ông đến gặp các nhà
lãnh đạo chủ chốt của Việt Nam thanh niên cách
mạng đồng chí hội trịnh trọng tuyên bố:” Một khi Việt Nam chưa giải phóng,
đất nước chưa thống nhất thì đời này, kiếp này tôi nhất định không thành gia
thất”. Từ Đại lục, “Phúc Kiến kiều báo” có đăng tải bài: “Tình yêu vượt qua
Hồng Hà, chuyện tình Hồ Chí Minh” với nội dung như sau: “Năm 20 tuổi, Hồ Chí
Minh rời quê hương Nghệ An ra đi trên
một chiếc tàu thủy đến nước Pháp tìm chân lý qua nghĩa Marx - Lenin để giải
phóng dân tộc. Hai tháng lênh đênh trên biển, ông làm quen với một cô gái con
nhà gia thế, dáng vóc xinh đẹp, tính tình nhu thuận. Ông Hồ là một thanh niên
cao thượng, phong cách tao nhã, làm việc cần mẫn không nghỉ, quyết chí hiến
thân cho lý tưởng quốc gia độc lập, dân tộc giải phóng, làm người thiếu nữ vô
cùng cảm động và ái mộ. Năm 1923, Hồ Chí Minh
đi Liên Xô học tập. Một thời gian sau người yêu của ông cũng được cử qua
đường Liên Xô về nước truyền bá ngọn lửa cách mạng. Cặp tình nhân níu áo, rơi
lệ từ biệt nhau. Sau đó, Hồ Chí Minh từ Liên Xô trở về Quảng Châu Trung Quốc
vận động thành lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội và “Hội liện hiệp
các dân tộc Á Đông bị áp bức”. Đúng vào lúc Hồ Chí Minh toàn tâm toàn ý hoạt động cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc Việt thì một tin dữ truyền đến, người yêu của ông bị kẻ thù sát
hại một cách thảm khốc. Hồ Chí Minh đau đớn tưởng như không thể sống được nữa.
Một ngày, ông đến gặp các cán bộ chủ chốt của Việt Nam thanh niên cách
mạng đồng chí hội trịnh trọng tuyên bố: “Việt Nam chưa giải phóng,
đời này, kiếp này, tôi quyết không thành gia thất”.
Tăng Tuyết Minh, người vợ đầu tiên của Nguyễn
Ái Quốc
Câu chuyện hôn
nhân, ái tình của Nguyễn Ái Quốc và Tăng Tuyết Minh.
Tháng 11 năm 1924,
Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu đổi tên thành Lý Thụy. Vào một ngày cuối năm
1925, Tăng Tuyết Minh đến trụ sở “Hội Phụ nữ vận động diễn tập” tìm gặp Thái
Sướng, lúc xuống lầu, bất ngờ gặp Lý Thụy ở chỗ rẽ cầu thang. khi ấy, hai người
chẳng để ý gì đến lễ tiết mà cùng đối mặt nhìn nhau. Lý Thụy bị phong thái cao
nhã, dáng vẻ rạng rỡ của cô bắt mất hồn, khi lên gác, không nén được bèn hỏi
Thái Sướng: “Vị tiểu thư vừa rời khỏi đây tên là gì và có quan hệ thế nào với
Hội Phụ nữ?”. Thấy Lý Thụy dường như đã có tình ý với Tăng Tuyết Minh nên Thái
Sướng vui vẻ giới thiệu nhân thân cô gái Quảng Châu với anh ta, đồng thời, cùng
Đặng Dĩnh Siêu đứng ra làm mối cho cuộc nhân duyên này.
Tăng Tuyết Minh
sinh tháng 10 năm 1905 tại Quảng Châu, nguyên quán trấn Tông Khẩu, huyện Mai,
tỉnh Quảng Đông. Cha là Tăng Khai, nhà buôn, đã từng kinh doanh ở Honolulu (nước Mỹ), cả nhà theo đạo Cơ
Đốc. Tăng Tuyết Minh là con gái út của gia đình. Từ năm 1912 đến năm 1917,
Tuyết Minh học tư thục tại Quảng Châu
qua các trường Trấn Quang tiểu học và Đệ thập tứ Quốc dân tiểu học. Mùa
Xuân năm 1923, Tăng Tuyết Minh vào học trường Nữ hộ sinh, năm 1925 tốt nghiệp.
Sau khi được hiệu trưởng Hoàng Ngọc Anh giới thiệu, cô đến làm nữ y tá trợ sản
Sở Y vụ La Tú Vân Quảng Châu. Lúc ấy, Tăng Tuyết Minh vừa tròn hai mươi tuổi.
Đương thời, Quảng Châu được xem như trung tâm cách mạng. Hà Hương Ngưng, Đặng
Dĩnh Siêu, Thái Sướng sáng lập tổ chức “Phụ nữ vận động diễn tập”. Chịu ảnh
hưởng của tư tưởng cách mạng, Tăng Tuyết Minh thường đến trụ sở Hội Phụ vận
nghe diễn thuyết, tham gia hoạt động, kết bạn thân thiết với Đặng Dĩnh Siêu và
Thái Sướng.
Tăng Tuyết Minh có
người anh thứ hai Tăng Cẩm Tương là bạn cũ của Tôn Trung Sơn, tinh thông năm
ngoại ngữ, văn bút tinh xảo, là giảng viên đại học. Tăng giáo thụ mời Lý Thụy
đến nhà. Trong khi nói chuyện, thấy Lý Thụy khiêm nhường, tự tin, thiết thực,
nhiệt tình, có viễn kiến, lịch duyệt và biết nhiều ngoại ngữ, ông đã thay mặt
gia đình tác thành cho đôi lứa. Ngày 18 tháng mười năm 1926, hôn lễ được cử
hành long trọng tại nhà hàng Thái Bình Dương trước sự chứng kiến của đông đảo
quan khách do Đặng Dĩnh Siêu, Thái Sướng chứng kiến và chủ trì. Cố vấn Nga Xô
Mikhail Borodin, trợ thủ đắc lực của Trương Thái Lôi cũng đến chúc mừng.
Cuối năm 1926, Tăng
Tuyết Minh mang thai. Lý Thụy khấp khởi mừng thầm vì sắp được hưởng niềm vui
làm bố. Có điều, mẹ Tăng Tuyết Minh là Lương Thị, sau khi biết việc này, sợ con
gái sinh cháu bé sẽ theo chồng đi mất nên đã tìm mọi cách ép nàng phá thai. Tuy
Tăng Tuyết Minh có những mười anh chị em, nhưng trừ anh hai Tăng Cẩm Tương, còn
lại đều sống xa gia đình. Cha mất sớm, mẹ tuổi già cô độc, vì chữ hiếu, nàng
khó mà trái lời khuyên của mẹ nên đã gặp Lý Thụy nói sự thật rồi nuốt nýớc mắt
bỏ đi cốt nhục của mình, để lại mối hận cho đến cuối đời. Từ khi kết hôn đến
lúc hai người chia tay chưa đầy một năm.
Tình hình cách mạng
Trung Quốc biến chuyển nhanh. Ngày 12 tháng 4 năm 1927, Tưởng giới Thạch gây ra
sự kiện "Trung Sơn Hạm" triệt để phản bội cách mạng, điên cuồng truy
sát các đảng viên Cộng sản, tạo thành vụ khủng bố trắng tanh máu người làm chấn
động dư luận quốc tế. Trước tình hình nghiêm trọng, Lý Thụy nhận chỉ thị của
Quốc tế cộng sản, theo đoàn cố vấn Nga Xô đi Vũ Hán, chuyển qua Thượng Hải, sau
đó đến Vladivostok để đi Mạc Tư Khoa. Từ đó vợ chồng mỗi người một phương.
Năm 1929, Lý Thụy
đến Hương Cảng đổi tên thành Tống Văn Sơ, tháng 2 năm 1930, theo chỉ thị của
Quốc tế cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam tại Cửu Long, Hương Cảng.
Tháng 6 năm 1931, Tống Văn Sơ bị nhà cầm quyền Hương Cảng bắt giam tại nhà lao
Victoria. Tống Văn Sơ tìm cách báo tin cho Tăng Tuyết Minh biết việc mình bị
câu lưu. Được tin, các chị gái Tăng Tuyết Minh nhiệt tình giúp đỡ bằng cách mời
luật sự biện hộ để em rể thắng kiện trước tòa. Tăng Tuyết Minh theo các chị đến
nơi mới biết Tống Văn Sơ chính là Lý Thụy, chồng mình, vội đến nhà giam thăm
nhưng không được gặp đành gạt nước mắt ra về.
Năm 1958, Viện Vệ
sinh y vụ Quảng Châu tiến hành chỉnh phong với phương châm “đại minh, đại
phóng”. Trong đám đồng sự có người tố cáo, trước đây Tăng Tuyết Minh và Nguyễn
Ái Quốc có quan hệ hôn nhân mờ ám làm kinh động cả giới lãnh đạo ngành y tế.
Sau mấy lần tra vấn, truy hỏi, Tăng Tuyết Minh chỉ nói, người có sự trùng tên,
vật có sự đồng dạng, chuyện hôn nhân có tính chất quốc tế này là bịa đặt. Căn cứ vào sự phủ nhận của đương sự, hơn
nữa, đây là sự việc trọng đại, lãnh đạo ngành y tế bèn làm văn bản gửi lên chủ
tịch Hội liên hiệp phụ nữ Trung Quốc Thái Sướng. Thái Sướng liền gửi công văn
cho Tỉnh ủy Quảng Đông nói rõ, Lý Thụy là một bí danh của Hồ Chí Minh thời kỳ ở
Quảng Châu, đồng thời cũng xác nhận Tăng Tuyết Minh và Hồ Chí Minh đã từng là
vợ chồng. Tuy nhiên, chuyện này liên quan đến quan hệ hai nước, không được làm
ảnh hưởng đến tình hữu nghị Trung - Việt, sự việc mới lắng xuống.
Liệu Hồ Chí Minh có biết Tăng Tuyết Minh vẫn
còn sống hay không? Vì sao ông ta không thông qua Trung ương Đảng Cộng sản
Trung Quốc nhờ tìm người vợ đã mất tin nhiều năm? Tăng Tuyết Minh một thân cô
quả, thủ tiết chờ chồng từ năm hai mươi mốt tuổi, làm nghề nữ hộ sinh, trải qua
sóng gió Cách mạng văn hóa rồi nghỉ hưu, một thân một mình cho đến năm 1991 thì
qua đời ở tuổi 86.
Vợ tôi, đối với
Tăng Tuyết Minh thuộc hàng cháu, thường gọi bằng “cô Mười”. Từ khi sinh ra đến
lúc qua đời bà đều sống ở Quảng Châu, là tín đồ trung thành của đạo Cơ Đốc,
ngày đêm cầu khấn cho Lý Thụy bằng an. Năm 1988, khi tôi cùng vợ về Quảng Châu
viếng thăm bà cô Mười, trong ký ức bà vẫn nhớ
đến Hồ Chí Minh lúc chia tay từ mấy chục năm trước. Bà kể tường tận cho
chúng tôi nghe về thời kỳ quen biết Hồ Chí Minh, nảy sinh tình cảm nam nữ rồi
quá trình tổ chức hôn lễ rất xúc động. Tôi gửi lại bà tấm ảnh quý và bức thư
ngày trước viết cho Hồ Chí Minh mà bà gửi tôi giữ hộ. Lúc ấy trong tay vợ tôi
còn có chiếc nhẫn hồng ngọc mà Lý Thụy đã tặng bà cô Mười lúc đính hôn cùng với
tấm rèm cửa cố vấn M. Borodin chúc mừng hôn lễ. Những vật kỷ niệm này được gia
đình tôi coi như bảo vật truyền gia của người bà để lại. Vào dịp kỷ niệm ngày
sinh 111 của Hồ Chí Minh và 96 năm của Tăng Tuyết Minh, tôi, với tư cách là
thành viên Sở Nghiên cứu văn sử thành phố Vũ Hán, Ủy viên Chính hiệp thành phố,
là nhà thư pháp, hiểu rất rõ trách nhiệm và nghĩa vụ của mình khi soạn cuốn
sách này. Bởi vì cuốn sách chính là tấm lòng kính yêu của một kẻ hậu sinh tưởng
nhớ đến người cô Tăng Tuyết Minh, cho dù tình cảm bị tổn thương vẫn một lòng
chung thủy chờ chồng, suốt đời cam chịu sống độc thân, và lãnh tụ Hồ Chí Minh,
chiến sĩ đấu tranh không mệt mỏi vì sự nghiệp cách mạng dân tộc, vì sự nghiệp
cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới, suốt đời sống độc thân, không mưu cầu
hạnh phúc cho riêng mình. Dù thời gian qua đi nhưng tình cảm của hai người vẫn
không thay đổi, một lòng một dạ trung trinh, đời đời ghi vào lịch sử.
Hồ sơ về hôn nhân,
tình ái giữa Nguyễn Ái Quốc và Tăng Tuyết Minh.
Viết về hôn nhân và
tình ái của Hồ Chí Minh, có thể điểm đến các tác phẩm “Hồ Chí Minh và người vợ
Trung Quốc Tăng Tuyết Minh”, dài khoảng 4200 chữ, do Từ Song Minh (cháu của
người chị gái bà Tăng Tuyết Minh viết), Khổng Khả Lập phê bình, chú giải tại
nguyệt san “Vũ Hán văn sử tư liệu”, năm 2001, kỳ 1, William J. Duiker, với
“Truyện Hồ Chí Minh” gồm hai phần, cả hai phần này đều lấy tư liệu từ “Trung
tâm quân viễn chinh bảo hộ” thuộc "Hồ sơ Pháp quốc hải ngoại”, hòm số 367,
tiêu đề “Hồ sơ Nguyễn Ái Quốc, 1926 – 1927).
Phần thứ nhất,
chương 4, trang 143 “Long đích truyền nhân” ( Người nối dòng rồng), nội dung
như sau: “Mùa xuân, năm 1927, Nguyễn Ái Quốc dừng lại ở Quảng Châu già nửa năm.
Ông ta đã trở thành nhân vật trọng yếu được các thành viên trong đảng đoàn kính
nể, đồng thời cũng kiến lập được mối quan hệ rất tốt với nhà cách mạng Chu Ân
Lai, Trương Thái Lôi và các lãnh tụ Quốc dân đảng cánh tả (là đảng viên Đảng
Cộng sản Trung Quốc) Liêu Trọng Khải v.v… Đến lúc ấy, chẳng những Nguyễn Ái
Quốc đã ổn định cuộc sống tại Trung Quốc mà còn muốn tìm một người vợ để học
Trung văn, đồng thời lo liệu mọi sinh hoạt gia đình. Không lâu sau, một người
đồng sự là Lam Đức Thư (Lâm Đức Thụ?!) giới thiệu với Nguyễn Ái Quốc một thiếu
nữ là Tăng Tuyết Minh để hai người làm quen. Tuy cô gái là con một gia đình có
giáo dục nhưng một số đồng nghiệp vẫn không tán thành. Nguyễn Ái Quốc bất chấp
mọi phản đối, quyết định cầu hôn. Sau hôn lễ, hai người chuyển đến ở một phòng
trên tầng 2 biệt thự của M. Borodin. Việc này đã được báo cáo với Mạc Tư Khoa”.
Một phần khác, ghi
chép tại chương 6 “ Xích sắc Nghệ Tĩnh” ( Màu đỏ Nghệ Tĩnh), trang 188-189 viết
“Tình yêu giữa Nguyễn Thị Minh Khai và Nguyễn Ái Quốc không phải mọi người đều
biết, thậm chí cũng chẳng biết có hay không hôn lễ cử hành chính thức”. Từ
tháng 4 năm 1927, tuy Nguyễn Ái Quốc đã rời Trung Quốc, vẫn còn chưa chưa mất
hết dấu tích, chứng cứ là, vào năm 1930, Tăng Tuyết Minh ngẫu nhiên gặp lại
chồng ở Hương Cảng nhưng cuối cùng quan hệ giữa hai người vẫn không nối lại.
Theo một đồng chí của Nguyễn Ái Quốc là Lam Đức Thư (Lâm Đức Thụ?!) nói với một
người quen ở Cục Bảo an: “Tăng Tuyết Minh chê Nguyễn Ái Quốc nhiều tuổi, không
hợp với mình, đồng ý kết hôn chỉ vì lý do kinh tế”. Khoảng gần một năm sau, khi
Nguyễn Ái Quốc rời Quảng Châu có gửi cho Tăng Tuyết Minh một bức thư: "Hai
ta phân ly gần một năm, cho dù không nói được lời nào nhưng anh vẫn thấy tình
cảm chẳng khác gì ngày trước. Anh viết gửi em mấy dòng này làm vật chứng, xin
em chắp tay trước nhạc mẫu chuyển lời của anh chúc phúc đến bà”. Khi quan hệ
hôn nhân của Nguyễn Ái Quốc và Tăng Tuyết Minh chấm dứt, vào năm 1931, ông bắt
đầu có quan hệ luyến ái với với một nữ đồng chí trẻ tuổi người đồng hương là
Nguyễn Thị Minh Khai, đồng thời đề nghị Cục Viễn Đông tổ chức đám cưới cho hai
người. Giáo sư Hoàng Tranh, viện trưởng Viện Khoa học lịch sử Quảng Tây, đã
dành nhiều thời gian và tâm huyết nghiên cứu về mối quan hệ Trung Việt và Hồ
Chí Minh. Sau nhiều năm điều tra, khảo chứng, ông đã viết trên tờ “Đông Nam Á
tung hoành” (Dọc ngang Đông Nam Á), kỳ 12, tháng 11, năm 2001, kết luận Hồ Chí
Minh đích xác có một người vợ Trung Quốc
là Tăng Tuyết Minh.
Đọc tiếp: Kỳ 5 -
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét