NHỮNG NĂM THÁNG CHƯA ĐƯỢC BIẾT ĐẾN (1919‐1941)
HO CHI MINH: THE MISSING YEARS
Kỳ 4
Hội Nghị Trung Ương
tháng 10 và việc Trần Phú củng cố quyền lực
Đảng Cộng Sản vừa thành lập của Việt Nam đã
không thể hợp nhất hàng ngũ lãnh đạo trên toàn quốc mãi cho đến hội nghị Uỷ Ban
Trung Ương lần thứ nhất tổ chức tại Hồng Kông vào tháng 10 - 1930.
Trong thời
gian giữa chuyến đi Thượng Hải vào tháng 6 đến hội nghị tháng 10, Hồ Chí Minh
dường như đã định vị công việc của mình như là một trung gian giữa các đảng Mã
Lai, Xiêm và Việt Nam. Trong giai đoạn từ 23 tháng 7 đến 2 tháng 9, ông nói
rằng đã gửi cho Phân Bộ Viễn Đông sáu bức thư. Trong số này, chỉ có bức thư
ngày 2 tháng 9 là nằm trong văn khố của QTCS. Trong thư ông đã giải thích rằng
vào ngày 13 tháng 8 ông đã bị một cơn lao phổi, một thứ bệnh mà ông tường thuật
là ʺđau phổi và nôn ra máu, vô cùng yếu đuối và mệt mỏiʺ [133]. Ông cũng liệt
kê những chi tiết hoạch định sẽ được đưa ra trong cuộc họp của Uỷ Ban Trung
Ương sắp đến: ʺ(a) Tự phê bình những việc đã qua; (b) dự định tiếp tục hoạt
động cho đến khi hội nghị; (c) chuẩn bị cho hội nghị; và (d) chuẩn bị gửi học
viên.ʺ Rõ ràng là ông đã không nhận thấy trước rằng hội nghị tháng 10 sẽ liên
quan đến sự chuyển hướng quan trọng của đảng. Trong cùng bức thư ông có nhắc
đến việc mình vừa hoàn thành công việc ʺbình dân hoáʺ một cuốn sách mang tên
Nhật Ký Chìm Tàu. Ông nói mình phải bỏ ra 8 ngày để viết và gần một tháng để in
được 20 ấn bản [134]. Đây là một chuyện ngụ ngôn về ba thuỷ thủ, một
người Pháp, một người Phi và một người Việt bị đắm thuyền và được một chiếc tàu
Sô Viết cứu sống. Họ được đưa đến Moscow và được chăm lo sức khoẻ, được đào
tạo tại một học viện cộng sản và đối xử đàng hoàng, không như trước đây khi họ
còn là lao công của Pháp. Người thuỷ thủ Việt Nam ấn tượng với ʺsức hút mạnh mẽ kỳ
lạʺ của học thuyết về chủ nghĩa thực dân của Lenin ʺvề những người đã bị tước
đoạt tổ quốcʺ [135]. Việc Hồ bỏ cả tháng để soạn thảo cuốn sách này có lẽ ngoài
lòng tự hào của một nhà văn, ông đang muốn bày tỏ lòng trung thành của mình đối
với Moscow vào thời điểm mà ĐCS Trung Quốc đang đi theo con đường mà người Nga
cho là chống đối lại QTCS.
Dù sao Hồ vẫn giữ được mối quan hệ có lẽ là tốt
đẹp với ĐCS Trung Quốc. Ông đã báo cáo với Phân Bộ Viễn Đông vào ngày 22 tháng
9 rằng ông đã thỉnh ý kiến của Phân Bộ Miền Nam Trung Quốc về việc ĐCS Việt Nam
nên lựa chọn chiến lược nào để đối phó với ʺcuộc khủng bố Trắngʺ, một biện pháp
đàn áp mà người Pháp đang sử dụng chống lại nông dân Nghệ An. Ông đã báo cáo
rằng vào ngày 19 tháng 9, ba thành viên của Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Việt Nam đã
đến Hồng Kông tham dự hội nghị Uỷ Ban Trung Ương và đã trình một báo cáo về
những sự kiện tại Việt Nam. Vì thời gian để hội ý với Phân Bộ Viễn Đông kéo dài
quá lâu (một bức thư ʺnhanhʺ từ Thượng Hải đến Hồng Kông lúc ấy
phải mất 15 ngày mới đến][136], các thành viên Uỷ Ban Trung Ương và Hồ đã
thảo luận với những người Trung Quốc để quyết định những bước tới của ĐCS Việt
Nam. Bản tường thuật mang tính ngoại giao của Hồ về cuộc thảo luận này nói rằng
Trung Quốc đồng ý với quyết định của ĐCS Việt Nam về việc quyên góp tiền bạc
cho các nạn nhân và tổ chức một phong trào phản đối trên toàn quốc. Cả nhóm
cũng đã quyết định bắt đầu thổ chức lực lượng ʺnông dân tự vệʺ, củng cố hoạt
động của đảng trong hàng ngũ công nhân và tuyên truyền đối với binh lính [137].
Ngô Đức Trì đã đưa ra nhiều chi tiết hơn về
việc gặp gỡ hai thành viên Trung Quốc từ Phân Bộ Miền Nam mà ông nói là bao gồm
Hồ, Hồ Tùng Mậu, Trương Văn Lềnh, người bạn trong Uỷ Ban Trung Ương của ông là
ʺSáuʺ (Nguyễn Trọng Nhã, còn có tên là Nguyễn Trọng Nhât, một cựu sinh viên từ
Hà Tĩnh [138]) và ông. (Những thành viên khác của Uỷ Ban Trung Ương đã chưa đến
hội nghị). Những người Trung Quốc cho rằng những cuộc biểu tình đánh dấu bước
khởi đầu của ʺphong trào nổi dậyʺ là một điều tốt. Nhưng Hồ Tùng Mậu đã trả lời
rằng việc nổi dậy đang đem đến ʺnhiều thất bại hơn thành côngʺ, mặc dù không có
tổn thất gì khi tiếp tục những cuộc biểu tình. Hồ tin rằng không thể nào tổ
chức được một cuộc tổng khởi nghĩa, nhưng ở các làng xã nông dân có thể dựng
lên công xã và thực hiện chính sách phân chia ruộng đất. Ngô Đức Trì cho rằng
ông là người phản đối quyết liệt nhất chủ trương nổi dậy tại Nghệ Tĩnh.
ʺPhong trào cách mạng chỉ vừa mới thành hình...
chủ trương nổi dậy là sai lầm; nó sẽ không mang lại giá trị gì cho phong trào
cách mạng ngoại trừ bom đạn và thất bại. ĐCS Trung Quốc kêu gọi khởi nghĩa,
nhưng... những gì có thể ở Trung Quốc không hẳn luôn có thể
tại Đông Dương. Việc thành lập Sô Viết và phân chia ruộng đất mà không có hậu
thuẫn của một cuộc nổi dậy thì không thể nào thực hiện được,ʺ Trì khai là đã
phát biểu như thế. Trong số những người Việt, chỉ có ʺSáuʺ là hoàn toàn đồng ý
với những người Trung Quốc [139].
Đại biểu người Hoa của Uỷ Ban Trung Ương từ Sài
Gòn là A Lầu đã không tham gia vào cuộc thảo luận. Nhưng có thể ông đã đóng góp
trong phần báo cáo của đảng về Nam Kỳ ‐ Cam Bốt mà Hồ đã gửi cho Phân Bộ
Viễn Đông vào ngày 22 tháng 9. Vào thời điểm này ĐCS Trung Quốc ở miền nam có
vẽ đã chính thức hợp nhất với người Việt. (Nhưng trong năm 1931 một báo cáo từ
Sài Gòn lại một lần nữa đề cập rằng chi bộ Nam Kỳ ‐ Cam Bốt là một
thành phần hoàn toàn riêng biệt với ĐDCSĐ [140]). Tại Campuchia, đảng đã có 120
thành viên người Trung Quốc và 4 người Việt, với 300 thành viên Trung Quốc
trong các nghiệp đoàn lao động. Tại Nam Kỳ đảng cho thấy sự lớn mạnh với 70
thành viên Trung Quốc và 400 người Việt, tăng 350 người Việt kể từ tháng 2
1930. Có 500 thành viên trong các nghiệp đoàn lao động (tính chung mọi chủng
tộc) và 13.500 thành viên trong các nông hội [141].
Hai thành viên còn lại của Uỷ Ban Trung Ương là
Trần Phú và Lê Mão đã đến Hồng Kông vào ngày 2 tháng 10, trước khi những thành
viên miền nam không thể chờ đợi được nữa và định quay trở về. (Một thành viên
thứ ba là cựu đảng viên cuả ĐDCSĐ là Trần Văn Lan bị trễ hẹn và đã phải đợi tại
một khách sạn trong suốt cả tháng 10. Không biết là có phải ông đã nhận được
địa chỉ không chính xác hay không). Nguyễn Phong Sắc, một thành viên vắng mặt
khác thì đang quá bận bịu với phong trào Nghệ Tĩnh đã không tham dự. Ngô Đức
Trì bị đau ruột thừa ngay trước ngày hội nghị và do đó phải nằm tại bệnh viện
trong suốt hai tuần. Mặc dù ít nhất một học giả Việt Nam đã cố gắng chứng minh rằng Hồ cũng
đã vắng mặt trong hội nghị tháng 10 nhưng tài liệu của QTCS đã cho thấy không
phải vậy [142]. Vào ngày 28 tháng 10 Hồ đã viết một trong những báo cáo ít tin
tức nhất về quá trình này. Bên cạnh việc thống kê những số lượng đảng viên
trong những tổ chức khác nhau (giờ đã lên đến 1.740 đảng viên, trong đó có 190
người Trung Quốc], ông đã liệt kê những hạng mục và nghị quyết đã được thảo
luận, chú thích rằng những tài liệu này chưa được chuyển ngữ. Báo cáo về chi
tiêu của ông cho thấy tổng số chi phí cho việc đi lại, ăn ở trong thời gian hội
nghị chiếm hết 440 đô‐la Hồng Kông. Cuối cùng ông hỏi: ʺXin hãy gọi điện cho chúng tôi ngay
bởi vì chúng tôi phải quay về lập tức sau khi gặp ông” [143] Điều này cho thấy
ông thực sự đã đi cùng Trần Phú đến Thượng Hải để báo cáo với Phân Bộ Viễn Đông
sau đại hội.
Đối với những ai tìm cách chứng minh Hồ Chí
Minh luôn là ngọn đèn dẫn đường của ĐCS Việt Nam thì việc ông vắng mặt tại Hồng Kông
trong lúc ấy khá là tiện lợi. Bởi vì tại hội nghị tháng 10 này ông đã bị mất
quyền hành của một người chuyển giao chính sách của QTCS đến Việt Nam . Chính cương cho ĐCS Việt Nam vào tháng 2 1930 do ông soạn thảo
đã bị thay thế bằng một Luận Cương Chính Trị mới và các nghị quyết hợp với
đường hướng hiện tại của QTCS. Như ta đã thấy, việc này đòi hỏi đảng phải phát
triển thành một tổ chức giai cấp. Hai nhiệm vụ của đảng là cách mạng chống đế
quốc và chống phong kiến giờ đây đã trở thành việc giải phóng giai cấp công
nhân tại thành thị lẫn nông thôn. Cho đến năm 1931 tư tưởng này đã gây nên việc
thanh trừng nhiều người trung lưu yêu nước trong đảng, tách rời họ ra khỏi
phong trào cách mạng. Trong cùng lúc ấy, hội nghị đã phê bình cuộc khởi nghĩa
tháng 9 tại Nghệ An. Một thông tư được gọi là Văn Kiện Đảng viết vào tháng 10
đã phê phán ʺXứ Uỷ Trung Kỳʺ. Thông tư nói rằng: ʺVào thời điểm hiện tại với
hiện tình đất nước, mức độ chuẩn bị của tầng lớp vô sản và quần chúng bị bóc
lột tại thành thị và nông thôn, mức độ chuẩn bị của đảng và sức mạnh của địch,
những cuộc khởi nghĩa riêng rẽ tại một vài nơi là manh động và sai lầm” [144]
Vào cuối hội nghị, những đại biểu đã quyết định thành lập Uỷ Ban Trung Ương tại
Sài Gòn. Trần Phú được bầu làm bí thư Uỷ Ban Trung Ương, với Ngô Đức Trì và
Nguyễn Trọng Nhã là uỷ viên trong Uỷ Ban Thường Vụ. Nguyễn Phong Sắc và Trần
Văn Lan vẫn giữ chức uỷ viên Uỷ Ban Trung Ương. Thành viên người Trung Quốc là
A Lầu đã quyết định ở lại Hồng Kông để làm việc với ĐCS Trung Quốc vì ông từng
là học viên của Hoàng Phố [145].
Theo lời của Ngô Đức Trì thì sau hội nghị, Hồ
và Trần Phú cùng đi Thượng Hải để báo cáo với Phân Bộ Viễn Đông. Khi Trần Phú
quay lại Hồng Kông vào ngày 20 tháng 11, ông đã đem theo một bức thư ngắn của
Hồ, Ngô Đức Trì nói. Bức thư nhìn nhận rằng quá trình hợp nhất đảng đã được
thực hiện vội vàng và đã có những thiếu sót về phương hướng vì đã thiếu thông
tin từ trong nước. Hồ cũng đã đồng ý việc đổi tên đảng thành Đảng Cộng Sản Đông
Dương [146]. Một thông tư đề ngày 9 tháng 12 cho các đảng uỷ công bố việc Hồ
nhìn nhận những sai lầm của mình. Thông tư đã lưu ý rằng đã không có một xứ uỷ
nào thực hiện chỉ thị của QTCS được gửi cho họ vào tháng 2 và tháng 3 193; trên
thực tế, những chỉ thị này đã được ʺtiếp thu một cách lạnh nhạtʺ. Các đảng viên
đã không biết được rằng ʺngười đồng chí kêu gọi Hội Nghị Hợp Nhất đã được QTCS gửi
về nước hoạt động mà không có một hướng dẫn cụ thể nào... ông đã tự mình khởi
xướng và đã mắc phải hàng loạt sai lầm... Đồng chí này đã nhìn nhận sai lầm của
mình và đã đồng ý sửa chữaʺ [147]. Thông tư này cũng đã chỉ ra việc cần phải
xem tất cả địa chủ là một ʺgiai cấpʺ. Đối nghịch lại với chính cương tháng 2
của Hội Nghị Hợp Nhất, bản thông tư khẳng định rằng tất cả các địa chủ là kẻ
thù của nông dân và quyền lợi của họ ʺliên quan mật thiết với quyền lợi của đế
quốcʺ [148].
Đến cuối tháng 1 1931, mặc dù những làn sóng
biểu tình mới đang xảy ra tại Hà Tĩnh và Quảng Ngãi, Ngô Đức Trì đã viết cho
Moscow rằng ʺcuộc khủng bố đẫm máu đang ảnh hưởng đến tinh thần quần chúng và
làm cho hoạt động của chúng tôi thêm khó khănʺ. Đến tháng 10 1930, ông ghi chú,
trong số 90 đảng viên tại Hải Phòng đã có 17 người bị bắt, 10 người khác đã bỏ
trốn, và 45 người đã bỏ đảng vì sợ bị đàn áp. Đến tháng 12 1930, số lượng đảng
viên đã tăng lên 93 đảng viên nhờ những thành viên mới được kết nạp, nhưng số
lượng thành viên công đoàn đã giảm từ 99 vào tháng 10 xuống còn 67 vào trong
tháng 12 [149]. Trong khu vực mỏ than Hồng Gai, Cẩm Phả và Hà Tu, nơi có hàng
nghìn công nhân mỏ, ông viết: ʺChúng tôi chỉ có 29 đồng chíʺ [150].
Đảng đã không thể thâm nhập vào các đồn điền kể
từ sau cuộc nổi dậy ở Phú Riềng, và tại khu vực nông thôn, nơi việc đàn áp đặc
biệt dữ dội, các nông hội ʺđã bị phá huỷʺ [151]. Trong phần tái bút ông nói
thêm rằng Uỷ Ban Trung Ương đã bắt đầu thiết lập liên lạc với Thượng
Hải nhưng hiện tại hệ thống này làm việc rất tồi tệ. Có thể là việc Phân
Bộ Miền Nam của ĐCS Trung Quốc bị cảnh sát Anh tại Hồng Kông khám phá vào tháng
12/1930 đã làm gián đoạn hệ thống liên lạc vốn đã chậm giữa Hồng Kông và Thượng
Hải. Theo báo cáo của người Anh vào năm 1932, phân bộ ʺđang sống trong tình
trạng hấp hối, như một cơ quan chuyển giao và thông dịch tin tức của Phân Bộ
Viễn Đông, với một nhân viên là Nguen[sic] Ai Quac, một người Cộng Sản An Namʺ
[152].
Tình trạng thảm hại này dường như đã ảnh hưởng
đến quan hệ giữa Uỷ Ban Trung Ương và Hồ. Vào ngày 12 tháng 2 ông đã chuyển một
bức thư (mà ông đã dịch sang tiếng Anh) của Uỷ Ban Trung Ương Việt Nam đến Phân
Bộ Viễn Đông. Lá thư mở đầu: ʺQuan điểm của QTCS về bản thảo nghị quyết của
chúng tôi là gì? Có thư từ gì cho chúng tôi không? Nếu không thì đặt văn phòng
tại Hồng Kông để làm gì. Ít nhất QTCS cũng nên gửi thư cho chúng tôi. [...] Nếu
các đồng chí không thể giúp chúng tôi liên lạc với QTCS và Cục Đông Phương thì
các đồng chí làm gì ở đây?ʺ[153] Những chỉ thị và hậu thuẫn mà Đảng Cộng Sản
Đông Dương mới đang mong muốn đã mất quá nhiều thời gian để đến Việt Nam . Không hẳn là lỗi của Hồ khi Phân
Bộ Viễn Đông chậm trả lời những yêu sách của họ. Trong một bức thư gửi cho Phân
Bộ Viễn Đông vào tháng 2, Hồ đã nhấn mạnh vai trò tế nhị của tầng lớp lãnh đạo
trong Uỷ Ban Trung Ương và tầm quan trọng của việc củng cố quyền lực của họ. Lý
do mà ʺnhững giám đốc mới trong công ty Đông Dươngʺ đang vô cùng nôn nóng trông
chờ những bức thư mà các ông đã hứa, ông nói, là vì ʺhọ vừa đặt chân đến trong
nước và họ vẫn chưa có được những ảnh hưởng cần thiết đối với những người dưới
quyền đã ở trong công ty lâu hơn” [154]. Nhưng Phân Bộ Viễn Đông chỉ giỏi trong
việc đưa ra những chỉ thị chung và phê bình những báo cáo nhận được hơn là giải
quyết những khó khăn (trong mùa đông năm 1931 họ cũng đã hoàn toàn bận rộn
trong việc khống chế ảnh hưởng của Lý Lập Tam]. Họ đã viết cho Hồ vào ngày 12
tháng 1 hứa hẹn là sẽ sớm có ʺmột tài liệu đầy đủ và chi tiết hơnʺ kèm theo các
chỉ thị, nhưng nó đã không thành hình mãi cho đến cuối tháng 3. [155] Bức thư
ngày 12 tháng 1 của Phân Bộ Viễn Đông cũng đã phê bình công việc báo cáo của Hồ
và bỏ qua thực tế là có thể ông đã phải thay đổi địa chỉ và hình thức thông tin
sau khi Phân Bộ Miền Nam của ĐCS Trung Quốc bị khám phá. ʺChúng tôi thấy liên
lạc của đồng chí với những nơi khác dường như không đầy đủ và không chấp nhận
được. ... Hơn nữa thông tin về cuộc Khủng Bố Trắng thì quá ʺkhô khanʺ (chỉ đề
cập là bao nhiêu người bị bắt]; điều quan trọng là cần phải biết họ bị bắt khi
đang làm gì, vì sao họ bị bắt, vân vân” [156] Cũng trong cùng bức thư này, Phân
Bộ Viễn Đông đòi hỏi cần có thêm những cuộc biểu tình: ngày 25 tháng 2 là ʺNgày
Thất Nghiệpʺ, được đánh dấu bởi ʺsự vận động quần chúng rộng rãi nhất có
thể được trong các công xưởng và nhà máyʺ.
Dường như Hồ đã báo với Phân Bộ Viễn Đông về dự
định cưới vợ của mình trong khoảng mùa đông. Phân Bộ Viễn Đông nhắc nhở ông
trong bức thư ngày 12 tháng 1 rằng ông phải báo cho họ biết trước hai tháng
ngày cưới của ông. Vì bức thư này đã không dùng mật mã dưới dạng công ty thương
mãi, ta có thể cho rằng họ thực sự đang nói về việc Hồ lấy vợ. Trong tháng 2
ông có đề cập đến việc vợ mình đang bận rộn chuẩn bị Tết và dự định mở tiệc đón
khách từ Sài Gòn và Bắc Kỳ, do đó có thể là ông đã tảng lờ yêu cầu của Phân Bộ
Viễn Đông hoặc là thư của họ đến quá trễ. [157] Từ tài liệu QTCS khác trong
giai đoạn 1934 và 1935, chúng ta biết được rằng vợ của ông rõ ràng là Nguyễn
Thị Minh Khai, cựu thành viên đảng Tân Việt ở Vinh được giao nhiệm vụ làm việc
tại Hồng Kông sau khi đảng hợp nhất. [158] Sau này bà được giao nhiệm vụ làm
việc với ĐCS Trung Quốc. Việc Hồ và bà có còn giữ quan hệ vợ chồng sau khi hai
người bị bắt vào tháng 4 và tháng 6 1931 thì không rõ. (Nguồn hồ sơ của người
Pháp về Nguyễn Thị Minh Khai làm ta tin rằng bà đã có nhiều quan hệ với những
đồng chí nam giới trong khoảng 1930 đến 1940. Ví dụ như vào năm 1932, Sở Liêm
Phóng tin rằng bà là tình nhân của Trần Ngọc Danh, em trai Trần Phú. Vào năm
1933 họ đã giữ được một bức thư của bà viết từ Hồng Kông, dường như để từ chối
việc cầu hôn của một người nào đó, trong đó bà tuyên bố ʺTôi không còn ám ảnh
chuyện hôn nhân hoặc làm mẹ... Người chồng duy nhất của tôi là cuộc Cách
Mạng Cộng Sảnʺ [159]. Nhưng cho đến cuối năm 1934, khi bà đến Moscow , bà lại viết rằng bà đã có chồng là
ʺLinʺ, bí danh của Hồ lúc ấy [160]. Ở Việt Nam, tiểu sử về bà viết rằng bà đã
lấy Lê Hồng Phong tại Moscow vào năm 1935, nhưng hiện tại không có một bằng
chứng gì về cuộc hôn nhân này [161])
Hội nghị tháng 3 và sự
chấm dứt của ʺcao trào cách mạngʺ
Đến ngày 12 tháng 3 1931, khi Hội Nghị Toàn Thể
lần 2 bắt đầu tại Sài Gòn, quan hệ giữa Uỷ Ban Trung Ương và Hồ Chí Minh đã suy
giảm đến mức ông đã phải nhanh chóng yêu cầu được từ bỏ nhiệm vụ của mình tại
Hồng Kông. Một trong những đề mục trong chương trình nghị sự của Hội Nghị tháng
3 là ʺvấn đề Hồ Chí Minhʺ. Theo Ngô Đức Trì thì những người cầm đầu tại
Trung Kỳ và Bắc Kỳ đã than phiền rằng Hồ liên tục yêu cầu họ phải tường trình
cho Phân Bộ Viễn Đông tại Thượng Hải những báo cáo mà Thường Vụ Uỷ Ban Trung
Ương có trách nhiệm soạn thảo. Hội nghị đã quyết định viết thư yêu cầu Hồ nên
chấm dứt việc đòi hỏi những báo cáo này; khi cần thiết, Uỷ Ban Trung Ương sẽ
gửi báo cáo cho Phân Bộ Viễn Đông qua ngõ Hồng Kông, và sẽ yêu cầu Hồ chỉ đơn
giản là chuyển giúp cho họ [162]. Vào tháng 4, Trần Phú đã viết thư thông báo
cho Phân Bộ Viễn Đông rằng họ không nên tiếp tục dùng Hồ làm người trung gian
vì ʺông ta quá vắn tắt và đôi khi chỉ thị cho chúng tôi những ý kiến cá nhân
của mình mà không thông qua các đồng chíʺ [163].
Hồ phản hồi những phê bình trên trong một bức
thư gửi cho Uỷ Ban Trung Ương ngày 23 tháng 4 nói rằng ông thấy vô ích khi chỉ
đóng vai trò của một trạm đưa thư đơn thuần. Ông giải thích: ʺTôi biết hoàn
cảnh khó khăn và Uỷ Ban Trung Ương có rất nhiều việc phải làm. Nhưng ʺhọʺ cần
phải hiểu rõ tình thế của chúng ta, và đó là lý do tại sao chúng tôi đã yêu cầu
các văn bản báo cáo từ các đảng uỷ địa phươngʺ [164]. Vào cuối tháng 3 Phân Bộ
Viễn Đông tìm cách thuyết phục ông ở lại Hồng Kông với lý do là việc giữ liên
lạc với Thượng Hải sẽ không dễ dàng hơn cho ông. Họ đã trấn an ông rằng, ʺBản
thân đồng chí vô cùng quí giá và trên hết là sự cần thiết mà chúng ta đã thảo
luận vào tháng 11 trước. Chúng tôi đã xác định nhiệm vụ của đồng chí như sau:
(1) giữ vững các liên lạc mật thiết nhất có thể được với những đảng uỷ trong
nước; (2) báo cáo với chúng tôi mọi việc tại nơi sinh hoạt của đồng chí; (3)
chuẩn bị và giáo dục đảng trong những cuộc đấu tranh tương laiʺ [165].
Kiểm soát viên QTCS là Joseph Ducroux đã gặp Hồ
vào tháng 3 và tháng 4 khi trên các chuyến đi và rời khỏi Việt Nam, nơi ông đã
tổ chức một số cuộc họp với Trần Phú và Ngô Đức Trì. Ông đã không hé lộ nhiều
về mối căng thẳng giữa Hồ và Uỷ Ban Trung Ương trong một bức thư viết sau khi
gặp Hồ vào tháng 4. Nhưng ông đã lưu ý rằng Hồ cảm thấy bị cô lập và đề nghị
Phân Bộ Viễn Đông nên củng cố sự chỉ đạo của mình và ʺsự hậu thuẫn vững chắcʺ
mà họ đã dành cho Hồ và ʺnhững người bạn trong nướcʺ của ông. [166] Ducroux
cũng đã báo cáo rằng giới lãnh đạo trung ương của Đảng Cộng Sản Đông Dương
ʺcuối cùng đã được mọi người công nhận và có thực quyền, mặc dù có một vài chủ
trương liên bang nhỏʺ. Dù thế những chủ trương này lại rất mạnh ở miền bắc đến
độ tại hội nghị, Uỷ Ban Trung Ương đã quyết định thay thế bộ phần lãnh đạo ở
đấy. Cả lời khai của Ngô Đức Trì lẫn thư từ liên lạc giữa Ducroux và Trần Phú
đã cho thấy một thành viên của Xứ Uỷ Bắc Kỳ trong khi được giao nhiệm vụ chuyển
ngữ bức thư của QTCS
ʺNhững Nhiệm Vụ Cấp Bách của Cộng Sản Đông
Dươngʺ đã thêm vào một lời mở đầu rằng Đệ Tam Quốc Tế đã không hiểu được tình
hình tại Đông Dương. Nhân vật phản kháng này, được nhận diện là ʺKyʺ, đã giữ
được ảnh hưởng của mình trong hàng ngũ lãnh đạo phía bắc, ngay cả khi đã bị đưa
ra khỏi chức vụ của mình và đã tìm cách thành lập một thành phần đối lập. [167]
Một bức thư của Phân Bộ Viễn Đông được viết sau hội nghị tháng 3 đã lặp lại
rằng ĐCS Đông Dương phải chống lại những ʺphần tử tại các tỉnh phía bắcʺ đã cho
rằng QTCS không thấu hiểu được hiện tình của Đông Dương. ʺNhững lập luận này đã
được dùng trước đây bởi Lý Lập Tam, người đã không thực hiện những chỉ thị của
QTCS và đã dẫn đến những thiệt hại to lớn của tổ chức tại đâyʺ [168].
Hồ Chí Minh đã đứng ở vị trí nào trong mối mâu
thuẫn về đường lối của QTCS là một vấn đề phức tạp. Chúng ta có thể giả định từ
mối quan hệ tốt đẹp của ông với Phân Bộ Viễn Đông, báo cáo của ông từ Mã Lai
vào năm 1930 cũng như từ bức thư của ông trong tháng 4 1931 rằng ông đã không
mong muốn dính líu đến việc phản đối lại Moscow. Nhưng vị thế của ông đã có thể
bị suy yếu từ việc Mif đang cố gắng nắm lấy Phân Bộ Viễn Đông vào mùa thu 1930.
Theo quan điểm của Trần Phú, việc Hồ thất bại trong việc đưa ra một chính sách
giai cấp rõ rệt trong nội bộ đảng là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn
đến sự mất đoàn kết trong đảng. Trong bức thư ngày 17 tháng 4 1931 ông đã buộc
Hồ chịu trách nhiệm về những tàn dư của ʺnhững tổ chức cách mạng cũʺ bên trong
đảng Việt Nam . Ông cho rằng ʺnhững tháng qua cho
thấy rằng tất cả những thành phần tư tưởng thuộc những nhóm cách mạng cũ đã kết
hợp thành một thành phần chống lại phương hướng mới về chính sách thống nhất tư
tưởng và hành động của đảng.ʺ Hội nghị hợp nhất vào tháng 2 1930 đã bị thấm
nhuần tư tưởng của những tổ chức cách mạng cũ, ông nói. Tư tưởng này bao gồm
việc thừa nhận những địa chủ bậc tiểu và trung cũng như thành phần tư sản quốc
gia là một bộ phận của cách mạng. Ông giải thích: ʺKết quả của ʺhội nghị hợp
nhấtʺ này đã chứa đựng rất rõ dấu vết của giai đoạn hợp tác giữa Quốc Dân Đảng
và ĐCS Trung Quốc, đặc biệt là chính sách hữu khuynh của ĐCS Trung Quốc từ 1925
đến 1927ʺ [169].
Việc thúc đẩy chủ trương giai cấp của Trần Phú
với uy thế của Stalin có thể đã mang lại một hậu quả ngoài ý muốn. Nỗ lực áp
đặt một ʺđường hướng giai cấpʺ của ông tại Hội Nghị tháng 3 1931 có thể đã dẫn
đến một giai đoạn mới của chủ nghĩa cực đoan tại Trung Kỳ vào mùa xuân 1931.
Những quyết định được đưa ra trong phiên hội nghị tháng 3 kéo dài 2 tuần thường
được cho là đã phê bình nghiêm khắc những ʺkhuynh hướng thiên tảʺ trong nội bộ
đảng của những người như Ngô Vĩnh Long [170]. Có lẽ chính xác hơn thì đây là sự
thay thế một chủ trương cực đoan bằng một chủ trương cực đoan khác. Trong khi
hội nghị đã không lên án khủng bố cá nhân và cách sử dụng bạo lực đầy hấp tấp,
nó đã kêu gọi củng cố tính chất giai cấp của ĐCS Đông Dương. Bản nghị
quyết viết: ʺMột trong những nguy hiểm lớn nhất là việc các đảng viên vẫn chưa
hiểu rõ về vị trí của giai cấp vô
sản trong cuộc cách mạng và những
nhiệm vụ của đảngʺ[171]. Những nhiệm vụ tổ chức đầu tiên phải
được thực hiện là: giải pháp cho cuộc khủng hoảng trong hàng ngũ lãnh đạo tại
Bắc Kỳ và đẩy mạnh vị thế của Uỷ Ban Trung Ương tại miền trung và miền nam. Cần
thiết phải từng bước một thay thế các đại diện của thành phần trí thức và bảo
thủ trong những bộ phận lãnh đạo bằng tầng lớp công nhân hoặc bần nông [172].
Đảng được giao nhiệm vụ điều tra những hội nông dân và loại bỏ những thành phần
không dính líu đến giai cấp nông dân; đưa những đại biểu bần nông và người lao
động thành thị nghèo khó nhất vào hàng ngũ lãnh đạo. Cuộc đấu tranh giai cấp
tại nông thôn cần được mở rộng và ảnh hưởng của chủ nghĩa quốc gia cần được
loại bỏ [173]. Tổ chức phụ nữ không còn chỉ chú trọng vào ʺphụ nữ nói chungʺ mà
cần được thực hiện chỉ trong tầng lớp phụ nữ lao động. Hội Phụ Nữ Giải Phóng
phải bị giải tán tức thì [174].
Một hệ quả của nghị quyết về giai cấp dường như
là sự thanh trừng của Đảng Uỷ Trung Kỳ vào tháng 4. Một lần nữa, đã có một sự
nhầm lẫn về nguyên do của việc thanh trừng này. Nguyễn Duy Trinh đã miêu tả nó
như là việc loại bỏ những thành viên ʺđã mắc những sai lầm thiên tả nghiêm
trọngʺ [175]. Nhưng Trần Huy Liệu lại nhắc đến một thông tư đề ngày 29 tháng 4
1931 từ Xứ Uỷ Trung Kỳ trong đó kêu gọi bài xích những thành phần trí thức, phú
nông, địa chủ và thân hào [176]. Thuật ngữ này nhắc lại khẩu hiệu nổi tiếng
trong thời điểm mạnh mẽ nhất của phong trào Nghệ Tĩnh: ʺTrí, phú, địa, hào, đào
tận gốc, trốc tận rễʺ. Trần Huy Liệu viết rằng khẩu hiệu mang tính chia rẽ như
thế đã giúp cho người Pháp lôi kéo được một phần khá lớn trong dân chúng vào
thời điểm mà sự đàn áp của Pháp đang lên cao. Khi Thông Tư ngày 29 tháng 4 được
ban hành, Lê Viết Thuật đã được tín nhiệm để nắm quyền lãnh đạo Xứ Uỷ Trung Kỳ,
theo lời Nguyễn Duy Trinh. Cả Nguyễn Đức Cảnh và Lê Mão đều bị bắt giữ vào ngày
9 tháng 4; Lê Viết Thuật có lẽ cũng nằm chung số phận vào ngày 1 tháng 5, trong
khi Nguyễn Phong Sắc bị người Pháp bắt vào ngày 3 tháng 5 1931 [177].
Việc loại bỏ giai cấp tư sản có lẽ đã được toan
tính như là một cuộc thanh trừng bất bạo động. Nhưng nó đã chuyển thành một quá
trình tìm vật tế thần khi người Pháp đưa thêm quân vào Vinh và nạn đói lan
rộng. Tài liệu của toà án Pháp cho thấy tại Hà Tĩnh, bắt đầu từ tháng 11 1930
và trong suốt nửa đầu 1931, những người bị tình nghi là gián điệp và dân làng
bị tố cáo ngăn cản phong trào Sô Viết đã bị ám sát bằng nhiều biện pháp [178].
Một người phản đối đảng đã bị trói và thả trôi sông cùng với vợ và con; một kẻ
trộm lúa và khoai đã bị chôn sống; một người bị tình nghi là chỉ điểm đã bị
đánh chết. Ta không biết rõ rằng những việc này có nằm trong chủ trương thanh
trừng mà Trần Huy Liệu nhắc đến hay không. Trong hoàn cảnh nguy hiểm ngày càng tăng
đối với những đảng viên, một ʺkẻ thù giai cấpʺ bị loại bỏ khỏi chức vụ lãnh đạo
trong đảng sẽ tự động biến thành kẻ bị tình nghi phản bội.
Theo tài liệu trong Văn Kiện Đảng, một chỉ thị
do Uỷ Ban Trung Ương ban hành vào ngày 20 tháng 5 1931 đến Xứ Uỷ Trung Kỳ kêu
gọi chấm dứt việc thanh trừng. Tài liệu này nói rằng ʺXứ Uỷ Trung Kỳ, cụ thể là
bí thư xứ uỷ, đã đưa ra một chỉ thị loại bỏ khỏi đảng những trí thức, phú nông,
địa chủ và thân hào; chỉ thị này không có cơ sở, thiếu giải thích cặn kẻ, độc
đoán và cẩu thảʺ [179]. Xứ Uỷ Trung Kỳ được chỉ đạo phải tự kiểm điểm với thái
độ nghiêm khắc nhất và sửa chữa những sai lầm của mình. Điều kỳ lạ là trong bài
viết của Trần Huy Liệu năm 1957 đã không thấy nhắc đến chỉ thị này. Như ta đã
thấy, Nguyễn Duy Trinh, tự nhận rằng đã trực tiếp chứng kiến những sự kiện này
và đã tham dự cuộc họp của Xứ Uỷ Trung Kỳ vào tháng 4 đã đặt thời điểm sửa chữa
những sai lầm tả khuynh vào khoảng tháng 4, khi trong thực tế thời kỳ bạo lực
hơn nữa của phong trào Sô Viết chỉ mới bắt đầu. Dường như đã có một khả năng
khác là những hành động mà trong thời gian 1935‐6 được cho là ʺsai lầm thiên tảʺ
trên thực tế đã không được sửa đổi trong năm 1931. Giai đoạn cực đoan này có
thể chỉ đơn giản đã lắng dần khi cơ cấu đảng bị phân tán.
Như ta đã biết được từ những bức thư cuối cùng
của Trần Phú và Hồ Chí Minh gửi đến Phân Bộ Viễn Đông (trước khi họ bị bắt],
vào tháng 4 1931 và đầu tháng 5 1931 toàn bộ cơ cấu bên trên cấp tỉnh của ĐCS
Đông Dương đã bị phá huỷ vì những bắt bớ của Pháp. Ngô Đức Trì bị bắt vào ngày
1 tháng 4, cùng với toàn bộ Xứ Uỷ Nam Kỳ. Vào ngày 15 tháng 4 cơ quan của Uỷ
Ban Trung Ương tại Sài Gòn bị khám phá, dẫn đến việc mất mát
tất cả thư từ và 1.500 đô‐la do Ducroux đưa sang để trang trải
chi phí trong 3 tháng. Trần Phú thoát được nhờ đang đi vệ sinh khi cuộc ruồng
bố xảy ra [180]. Ông đã viết vào ngày 28 tháng 4: ʺMỗi ngày đều có bắt bớ.ʺ Các
tỉnh Thái Bình và Nam Định bị tấn công dữ dội làm liên
lạc viên của họ bị bắt giữ và đã khai báo. Cơ sở in ấn mới của Uỷ Ban Trung
Ương bị khám phá và thêm vài đảng viên bị bắt. [181] Hồ đã báo cáo việc Trần
Phú bị bắt vào ngày 19 hoặc 20 tháng 4. Sau đó Hồ viết rằng chỉ còn sót lại một
công nhân trẻ trong ban bí thư. Tại Hồng Kông một trong những ʺđồng chí có
nhiệm vụ thông tinʺ là Nguyễn Thị Minh Khai đã bị bắt vào ngày 29 tháng 4.
Vì những bắt bớ rộng rãi ở trên, việc soạn thảo
của chỉ thị ngày 20 tháng 5 1931 cho Xứ Uỷ Trung Kỳ đã gặp khó khăn. Có phải Uỷ
Ban Trung Ương đã ban hành một tài liệu như thế vào lúc ấy? Có phải chính Hồ
Chí Minh đã soạn thảo và gửi đến miền trung Việt Nam dưới danh nghĩa của một Uỷ Ban
Trung Ương đã không còn tồn tại? Có phải Hồ Chí Minh vẫn sẵn sàng khởi xướng
việc này trong khi QTCS đã hoàn toàn ủng hộ những chính sách do Trần Phú đưa
ra? Nó có được thực sự chấp nhận và thi hành tại Trung Kỳ? Bằng chứng duy nhất
từ văn khố của Pháp về vấn đề này là một thông tư dang dở do cảnh sát Hồng Kông
tịch thu được từ máy đánh chữ của Hồ Chí Minh khi ông bị bắt vào ngày 6 tháng
6. Chủ đề của tài liệu này là đường lối đúng đắng để chống lại cuộc khủng bố
của Pháp. Người Pháp cho tài liệu này là ʺkhông đáng quan tâmʺ nhưng tin rằng
nó cho thấy quyền lực của Hồ trong đảng [182].
Theo bức thư từ Đức mà Phân Bộ Viễn Đông đã gửi
đến Moscow vào ngày 10 tháng 6, dường như họ đã quyết định đưa ra lời kêu gọi
ʺđến toàn thể các thành viên trong đảngʺ trên danh nghĩa của Uỷ Ban Trung Ương
ĐCS Đông Dương. Lời kêu gọi này có mục đích ʺkhẳng định rằng đảng đang lập lại
trật tự và bắt tay vào việcʺ [183]. Người viết, có thể là Rylski, đã không đưa
ra những chi tiết liên quan đến tài liệu này. Nhưng trong bức thư ngày 12 tháng
5 rõ ràng là gửi cho Hồ, viết bằng tiếng Anh không nguyên thuỷ, người viết đã
giao cho ông nhiệm vụ viết lời kêu gọi đến đảng: ʺChúng tôi cho rằng cần có một
bức thư do đồng chí viết, một bức thư ngỏ cho tất cả các thành viên. Trong thư
đồng chí nên nói về những nhiệm vụ của đảng đối với hoạt động quần chúng, việc
tổ chức những cuộc đấu tranh kinh tế của công nhân tại các đồn điền, nhà máy,
những công nhân nông nghiệp, việc tổ chức các nghiệp đoàn lao
động, Liên Đoàn Phản Đế, Uỷ Ban Nông Dân, Uỷ Ban Binh Lính, vân vân. Đồng chí
nên nói về sự cần thiết phải lãnh đạo và tổ chức những hoạt động tự phát của
nông dân của các thành viên, vân vân. Đồng chí nên cảnh báo đảng về hiểm hoạ
của xu hướng manh động và nhất là cho thấy khả năng của hiểm hoạ hữu khuynh
đang dâng cao là một phản ứng đối với cuộc khủng bố trắngʺ [184]. Căn cứ trên
ngày tháng của hướng dẫn này, có khả năng là Hồ đã viết thư dưới danh nghĩa của
Uỷ Ban Trung Ương vào ngày 20 tháng 5. Cũng có thể là ông đã nhận ra rằng thông
điệp mà Phân Bộ Viễn Đông yêu cầu ông chuyển giao đã không còn hợp với thực
tại. Có thể ông đã tự tay giải quyết công việc và đã soạn thảo bản chỉ thị đã
được tìm thấy trong Văn Kiện Đảng.
Chúng ta biết được suy nghĩ của Hồ trong tháng
4 từ những bức thư của ông. Vào ngày 28 tháng 4 ông than phiền với Phân Bộ Viễn
Đông về trình độ học vấn của những đảng viên mới. Những học viên được lựa chọn
để đào tạo tại Moscow lẫn những đảng viên công nhân và nông dân đều thất học, ông viết. ʺĐiều
này có nghĩa là mặc dù họ dũng cảm và hi sinh, họ vẫn làm việc rất tồi, tư
tưởng và trình độ chính trị của họ rất thấp.ʺ Ông bổ xung: ʺHệ quả của việc
thiếu trình độ hoàn toàn này là công việc của các đồng chí gốc công nhân và
nông dân hoàn toàn phụ thuộc vào những thành viên trí thức.ʺ Trong cùng lúc ấy
ông lưu ý rằng phần đông những trí thức Việt Nam được gửi đi Moscow từ Pháp thì
ʺkhông dùng đượcʺ. Họ bao gồm những con em được nuông chiều của thành phần tư
sản, ông than phiền [185]. Ông cũng lo lắng về chiến lược đang được sử dụng để
chống lại sự đàn áp của người Pháp. Trong khoảng ngày 12 đến 20 tháng 4 ông ghi
chú rằng đã có 65 nông dân đã bị giết trong những cuộc biểu tình. Quân đế quốc
đã quyết định ngăn chận phong trào bằng ʺthảm sátʺ, ông nói. ʺChúng ta nên đưa
ra chương trình đấu tranh cụ thể gì cho các đồng chí của mình? Nếu chúng ta để
họ tiếp tục con đường này thì sẽ dẫn đến hiểm hoạ manh động” [186] Điều mỉa mai
là trong cùng bức thư ấy, ông đã đề cập đến việc hãng tin Reuters vào ngày 25 tháng
4 đã đưa ra bản tin về việc ĐCS Đông Dương đã được QTCS thừa nhận như là một
ʺbộ phận độc lậpʺ. Nếu bản tin này là đúng, ông viết, ʺthì đây sẽ là một khích
lệ tinh thần rất lớn cho đảng và quần chúngʺ [187].
Uy tín của Hồ tại Việt Nam có thể vẫn còn tương đối lớn để ảnh
hưởng đến hướng đi của ĐCS Đông Dương trong giai đoạn này nếu ông đã không bị
bắt vào đầu tháng 6. Nhưng tài liệu của Trần Huy Liệu viết vào năm 1960 về giai
đoạn mùa xuân 1931 đã không đưa ra ấn tượng rằng Hồ thật sự có ảnh hưởng đến những
tiến trình của các sự kiện: ʺPhong trào Sô Viết ở Nghệ An và Hà Tĩnh, không
những đã không lụi tắt mà còn tăng thêm cường độ và bạo lực trong những tháng
cuối. Máu đổ ngày càng nhiều. Khi chuyển đổi từ giai đoạn yêu sách kinh tế và
chính trị đến đấu tranh chống lại khủng bố trắng, những cuộc biểu tình ngày
càng trở thành đấu tranh vũ trangʺ [188]. Ta nghi ngờ rằng xét đoán của Liệu
trong nhiều năm sau về những sự kiện trên là không thể có được trong thời kỳ
1931. ʺCương lĩnh hành động năm 1930 đã phạm sai lầm về việc kêu gọi lật đổ
tầng lớp tư sản dân tộc cùng với chính quyền thực dân Pháp và giai cấp phong
kiến...Lẽ ra họ nên được lôi kéo vào hàng ngũ cách mạng dân chủ tư sản và không
nên bị tách rời một cách có hệ thống,ʺ ông viết. ʺTại nông thôn, những cuộc đấu
tranh chống lại thành phần phú nông, trung nông và hương lý và thân hào là
những sai lầm nghiêm trọng đã làm mất đi uy tín của cả phong trào và tạo điều
kiện cho địch tuyên truyềnʺ [189].
Một báo cáo viên vô danh tại Sài Gòn trong năm
1931 khi viết về tình hình của Đông Dương đã không đưa ra một dấu hiệu nào về
việc ĐCS Đông Dương đang chỉnh sửa đường lối. (Người viết nhân danh là một
thành viên trong tổ đảng 4 người ở một kho hàng có đến 200 công nhân. Bản báo
cáo được QTCS đóng dấu ngày nhận vào tháng 6 1931). Vào lúc bản báo cáo được
viết trong nước đã có 2.400 đảng viên, trong đó có 600 người tại Nam Kỳ (không
kể 200 thành viên người Hoa của nhóm Nam Kỳ ‐ Cam Bốt]. Khi nhận định về ʺkhuynh
hướng cơ hộiʺ, ông viết rằng những thành phần cách mạng dân tộc đã gia
nhập đảng sau hội nghị hợp nhất và những người bị loại bỏ trong cuộc đấu tranh
giai cấp đang ʺtìm cách tổ chức một cơ sở của Đảng Độc Lập tại Nam Kỳʺ, (tức là
đảng của Nguyễn Thế Truyền]. Còn có một tổ chức vô chính phủ vừa được thành lập
cũng như một nhóm Trotskyist đang hoạt động trong thành phần trí
thức, và một ʺLiên Đoàn Cộng Sảnʺ mới được thành
lập của những đảng viên đã bị khai trừ. ĐCS Đông
Dương đang đấu tranh chống lại tất cả những xu hướng này ngoại từ nhóm chủ trương
vô chính phủ vì họ đã không còn hoạt động. Ông viết rằng 30 thành viên còn lại
của Việt Nam Quốc Dân Đảng ở phía nam đang sẵn sàng gia nhập ĐCS Đông Dương.
Nhưng họ đã quyết định tổ chức một ʺđêm hành động lớnʺ
làm rung chuyển chính quyền đế quốc
trước khi gia nhập đảng. Những người cầm đầu đã bị bắt trước
khi những kế hoạch được thực hiện, ông nói. [190] Như ta thấy được trong bản
báo cáo này, sự tan rã của phong trào cách mạng đang ở phía trước. Việc Hồ Chí
Minh trở lại vai trò lãnh đạo vẫn còn cần nhiều năm nữa trong tương lai.
CHƯƠNG
6
CHẾT
Ở HỒNG KÔNG, CHÔN TẠI MOSCOW ?
(1931‐8)
Tù nhân
Vào ngày 8 tháng 6 1931, Toàn Quyền René Robin
tại Hà Nội đã đánh điện cho Bộ Trưởng Thuộc Địa để thông báo về việc bắt giữ Hồ
Chí Minh hai ngày trước đó [1]. Việc tìm được Hồ là nhờ đã khám phá được cuốn
sổ địa chỉ của Joseph Ducroux tại Singapore khi đại diện người Pháp này bị bắt
trong lúc đang trao đổi tài liệu với những người cộng sản địa phương. Bức điện
của Robin thông báo rằng việc bắt được Hồ là nhờ ʺsự phối hợp giữa Sở Liêm
Phóng với cảnh sát Anh tại Hồng Kông và Singapore cũng như cảnh sát tô giới
Pháp tại Thượng Hải.ʺ Những kết hợp này đã giúp Pháp bắt Hồ Tùng Mậu, Nguyễn
Huy Bon, người trở về từ Moscow, công nhân Phan Đức Mau, từng tham gia Đại Hội
Công Đoàn Quốc Tế Đỏ lần thứ 5 tại Moscow, và hầu hết những thành viên
cộng sản người Việt đang hoạt động tại Thượng Hải. (Nguyễn Thị Minh Khai, bị
bắt tại Hồng Kông vào ngày 29 tháng 4, đã bị dẫn độ về một nhà tù tại Quảng
Châu vì họ ngỡ rằng bà là người Trung Quốc. Ở đấy bà gặp Trương Văn Lềnh và ba
người Việt Nam khác đã bị bắt từ đầu năm 1931). Vợ
của Hồ Tùng Mậu là Lý Phương Thuận (Lý Ung Thuân) cũng bị bắt chung với Hồ. Tổn
thất nặng nề nhất đối với những hoạt động của QTCS xảy ra vào ngày 10 tháng 6,
khi đại diện của Cục Thông Tin Quốc Tế (Otdel Mezhdunarodnoi Svyazy hay
OMS ‐ ND) là Hilaire Noulens và vợ của ông bị theo dõi qua một
địa chỉ tìm được từ cuốn sổ của Ducroux. Mặc dù trong nhiều năm trước người ta
nghĩ họ là hai công dân Thụy Sĩ tên Paul và Gertrude Ruegg, nhưng giờ họ được
nhận diện là hai vợ chồng người Nga tên Jakov Rudnik và Tatiana Moiseenko‐Velikhaya
[2].
Bức điện của Robin chứa đầy nội dung tự ca
ngợi. Việc bắt giữ ʺtoàn bộ giới lãnh đạo cộng sản tại Việt Namʺ, trong đó có 9
người về từ Moscow và đa số những nhà hoạt động người Việt tại Trung Quốc, là
ʺthành quả của sự điều tra khéo léo do những ban ngành đầy khả năng thực hiệnʺ,
ông viết; ʺlàm cho chúng ta chiếm ưu thế hoàn toàn đối với tình hình chính
trị.ʺ Nhưng ông cũng không mong đợi việc dẫn độ Hồ Chí Minh về Đông Dương. Lãnh
sự Pháp tại Hồng Kông đã cảnh báo với ông rằng những người Việt bị bắt giữ tại
Hồng Kông rất có thể sẽ được trả tự do. Robin đề nghị giải pháp tốt nhất có thể
là thuyết phục người Anh giam giữ Hồ tại những vùng ʺthuộc địa xa xôiʺ như là
một hành động trao đổi đối với những người cộng sản người Ấn hoặc Miến Điện đã
bị bắt trong khu vực của Pháp [3]. Đến cuối tháng 6 viên thám tử của Sở Liêm
Phóng là Neron đang tìm cách chuyển giao số tiền thưởng cho những vụ bắt giữ
trên (15 nghìn đô‐la cho Hồ và 10 nghìn đô‐la cho Hồ Tùng Mậu và mỗi nhà cách
mạng bị bắt tại Thượng Hải[4]). Nhưng phương pháp xét xử của Anh đã đi ngược
lại với ý muốn của người Pháp.
Số phận của Hồ Chí Minh nằm trên hoàn cảnh của
trát lệnh trục xuất được đưa ra tại Hồng Kông. Neron tin rằng những tài liệu
tìm được tại địa chỉ của Hồ được xem như bằng chứng để trục xuất ông về Thượng
Hải với tội danh tuyên truyền cộng sản. Không những người Anh đã tìm được bức
thông tư dang dở lên án đế quốc Pháp trên máy đánh chữ của Hồ, họ còn tìm được
những bức thư cho thấy rằng ông đã đóng một vai trò quan trọng trong việc kích
động phong trào cộng sản tại Mã Lai Á. Nhưng một số cố vấn pháp luật của Anh
nhận định về vụ án này trong hồ sơ của Văn Phòng Thuộc Địa đã biện hộ rất mạnh
mẽ cho quyền công dân của bị cáo. Ông đã không hề vi phạm pháp luật tại Hồng
Kông, và vì thế lý do duy nhất để trục xuất ông là việc ông là một người cộng
sản. Một luật sư là Walter Ellis đã viết rằng: ʺTôi thấy rằng chúng ta không
thể bắt buộc ông ấy phải bị trục xuất về Đông Dương nhiều hơn là nếu chúng ta
có cơ hội bắt buộc một cựu quan chức trong chính phủ Sa Hoàng phải bị trục xuất
về một nước cộng hoà Sô Viết.ʺ Ellis giải thích rằng nếu người Pháp có bằng
chứng rằng Hồ đã vi phạm ʺmột tội có thể dẫn độ đượcʺ thì họ nên đưa ra một
kháng án chính thức để dẫn độ ông [5].
Hồ đã không khai nhận bất cứ tên tuổi nào ngoài
Tống Văn Sơ (Sung Man Cho ‐ ND), tên này được ghi trong hộ
chiếu Trung Quốc mà ông nhận được từ Singapore . Nhưng mâu thuẫn với việc ông
tự nhận mình là người Trung Quốc, ông đã sắm vai là một người quốc gia chiến
đấu cho nhà vua và đất nước với bản án tử hình đang chờ đợi ông tại Việt Nam . [6] Như Dennis Duncanson (học giả
người Anh ‐ ND) đã chỉ ra, lời khai báo mâu thuẫn này có thể là một chiến thuật bào
chữa do QTCS đề xướng [7]. Đến tháng 7 1931 ông đã có được cố vấn luật pháp rất
tài giỏi từ một nhóm luật sư do Frank Loseby dẫn đầu, rõ ràng đây là sự sắp đặt
của tổ chức Trợ Giúp Đỏ (International Red Aid, tổ chức cứu trợ của QTCS ‐ ND). Những
luật sư của ông lập luận rằng việc trục xuất ông về Thượng Hải cũng chẳng khác
gì một cuộc dẫn độ trá hình về Đông Dương [8]. (Trên
thực tế Hồ Tùng Mậu và các đồng chí
của mình đã bị trục xuất về Thượng Hải vào cuối tháng 6
mà không có một sự nhận diện chính thức. Họ bị bắt lại tại tô giới Pháp và bị
đưa về Việt Nam [9]).
Chiến lược của bên bào chữa là đòi hỏi cho Hồ
quyền lợi của một tù chính trị chiếu theo Sắc Lệnh Trục Xuất trong đó cho phép
ông được quyền chọn lựa điểm đi và điểm đến một cách bí mật. Nếu quyền lợi này
không được bảo đảm, bị cáo sẽ ʺphản kháng quá trình xét xử bằng mọi hình thức
và tiến trình có đượcʺ, luật sư Jenkin tuyên bố trước toà.
Nhờ đã vận dụng chiến lược này mà vụ án của Hồ
đã kéo dài mãi cho đến tháng 1 / 1933. Việc huy động toàn lực lượng cánh tả
trên toàn thế giới để hậu thuẫn cho đôi vợ chồng bí ẩn Noulens có lẽ đã làm mọi
người quan tâm đến hoàn cảnh của Hồ nhiều hơn là nếu ông bị bắt một mình. Tin
tức báo chí cũng cho thấy ông cũng đã gây ấn tượng tốt tại toà bằng việc phát
biểu bằng tiếng Anh mà không cần phiên dịch và đã biểu lộ sự thành khẩn trong
việc chứng minh rằng ông mang tư tưởng quốc gia. Văn Phòng Thuộc Địa rõ ràng là
cũng muốn giao ông cho người Pháp; một quan chức gọi ông là ʺmột trong những kẻ
kích động tồi tệ nhất đã bị bắt vào rọ trong cuộc ruồng bố sau khi bắt được
Lefranc (Ducroux)ʺ [11]. Sau khi toà án Anh bác bỏ yêu cầu bị cáo có được quyền
Habeas Corpus (Quyền của bị cáo yêu cầu nhà chức trách đối chất với bị cáo
trước toà về việc bị bắt giữ có hợp pháp hay không ‐ ND), người
Pháp càng tin tưởng rằng cuối cùng họ sẽ có được người họ muốn. Ngày 24 tháng 8
1931 Sở Liêm Phóng tại Hà Nội đã đánh điện vào Sài Gòn để thông báo rằng Hồ Chí
Minh sẽ rời Hồng Kông vào ngày 1 tháng 9 trên chiếc tàu General Metzinger đi
Sài Gòn. Hai cảnh sát người Pháp được giao nhiệm vụ áp giải Hồ về Việt Nam [12]. Nhưng chỉ vài ngày trước khi
trục xuất, những luật sư của Hồ đã kháng án đến Uỷ Ban Xét Xử thuộc Hội Đồng Cơ
Mật tại London . Họ cho rằng lệnh trục xuất Hồ thì không có giá trị dưới luật pháp Hồng
Kông. Vì thế vào ngày 23 tháng 10 1931, Thư Ký Chính Phủ đã thông báo rằng sẽ
không có lệnh trục xuất cho đến khi họ biết được kết quả kháng án từ Hội Đồng
Cơ Mật [13]. Vì thời gian cần thiết để chuẩn bị cho những hồ sơ pháp lý, phiên
toà phúc thẩm đã không bắt đầu cho đến tháng 11 1932.
Trong lúc ấy Sở Liêm Phóng đã bắt đầu thúc giục
Lâm Đức Thụ thu thập thông tin của những người Việt bị bắt tại Quảng Châu, và
có lẽ để liên lạc với Hồ. Sau khi Lý Phương Thuận (Lý Ung Thuân) được phóng
thích vào cuối tháng 8 1931 vì lý do bà là người Trung Quốc, bà đến ở tạm với
Thụ. Vào tháng 11 ʺđiệp viên Pinotʺ (tức Lâm Đức Thụ ‐ ND) báo rằng
đã nhận được tin tức từ Hồ yêu cầu trợ giúp trong việc trả tự do cho những
người Việt bị bắt tại Hồng Kông cũng như giúp đỡ thực hiện những công việc của
đảng cho đến khi những nhà hoạt động mới từ Moscow đến. Hồ đặc biệt mong mỏi
Trương Văn Lềnh được phóng thích để nắm lấy việc vận hành đảng tại Trung Quốc,
theo lời Lâm Đức Thụ; có lẽ Hồ cũng đã lo lắng đến tình trạng của Nguyễn Thị
Minh Khai [14]. Thật là lạ lùng khi ông đã liên lạc với một người chỉ điểm lộ
diện lúc này ‐ có lẽ ông đã tin rằng Thụ không thể làm tổn hại gì hơn nữa với tình
hình hoạt động của đảng đã bị phá vỡ thảm hại. Những sự liên lạc này có lẽ đã
dẫn đến việc Hồ bị phê bình về cách hành xử của mình sau khi được thả ra. Nhưng
những tiếp xúc này dường như không kéo dài được lâu. Từ một báo cáo Thụ gửi vào
ngày 16 tháng 5 1932 ta biết được rằng Thụ đã thu thập tin tức của Hồ một cách
gián tiếp qua văn phòng của Loseby.
Đến cuối năm 1931 Hồ Chí Minh được chuyển vào
bệnh viện có canh gác. Vào tháng 12 Hoàng Thân Cường Để gửi thư cho ông khi
nghe tin ông đang bị bệnh nặng. Hoàng Thân đã gửi 300 Yên để trả viện phí cho
ông và khuyên ông nên giữ gìn sức khoẻ ʺvì lợi ích của nước nhàʺ [15]. (Vào
thời điểm này những người cộng sản Việt Nam như Lê Hồng Sơn vẫn giữ quan hệ với
Cường Để, có lẽ chỉ hoàn toàn vì lý do thực dụng và tài chính [16]). Việc Dennis
Duncanson khẳng định rằng Hồ không bị bệnh trong thời gian bị giam cầm rõ
ràng là không chính xác [17]. Như chúng ta đã thấy, Hồ đã từng nói rằng ông bị
bệnh lao phổi rất nặng vào tháng 9 1930; viên lãnh sự Pháp tại Hồng Kông là
Soulange Teissier vào năm 1932 đã xác nhận trong một bức thư gửi cho bộ trưởng
bộ ngoại giao rằng ông đã bị mắc chứng lao phổi trong tình trạng chậm phát
triển và có thể chữa được. Vào mùa hè 1932 tin tức báo chí về ʺmột người Việt Nam nhỏ bé, có thân thể bị suy nhược vì
lao lực và tinh thần của một lãnh tụʺ bắt đầu xuất hiện [18]. Sau này truyền
thông cộng sản đã loan báo rằng Hồ đã chết vì lao phổi vào tháng 8 1932 [19].
Nhưng người Pháp đã không tin vào những báo cáo này. Lãnh sự quán của họ tại
Hồng Kông đã cập nhật cho nhà cầm quyền tại Hà Nội những bước đi của Hồ trong
nỗ lực rời khỏi mảnh đất thuộc địa của Anh [20].
Việc ra đi của ông cuối cùng đã xảy ra vào cuối
tháng 1 / 1933, sau một lần bị đình chỉ. Ngày 27 tháng 6 1932 kháng cáo đến Hội
Đồng Cơ Mật đã được rút lại khi luật sư của Hồ đồng ý với luật sư của chính
quyền Hồng Kông về những điều khoản mới trong việc trục xuất ông. Cuối cùng Hồ
được đưa lên một chiếc tàu đi Singapore và đã đến đây vào ngày 6 tháng 1
1933. Nhưng nhà chức trách vùng eo biển Malacca đã không cho ông ở lại đây, vì
thế ông đã bị gửi về lại Hồng Kông và đã bị bắt lại khi vừa lên bờ vào ngày 19
tháng 1. Toàn quyền Hồng Kông là William Peel quyết định không áp dụng án tù 1
năm dành cho những di dân bất hợp pháp; ông cũng không chịu thông báo cho Teissier
về chi tiết của chuyến khởi hành thứ hai của Hồ. [21] Lần này Loseby đã thuyết
phục chính quyền nên đóng vai trò tích cực hơn trong quá trình giúp đỡ Hồ đi
đến nơi mà ông tự quyền lựa chọn. Chính Peel đã giải thích trong thông điệp của
mình rằng ông đã thu xếp để Hồ đáp một ʺchiếc thuyền dân sựʺ để lên chiếc tàu
An Huy đang bỏ neo ngoài cảng Hồng Kông vào ngày 22 tháng 1 [22].
Lẩn trốn/những làn
sóng cách mạng mới
Hồ đi Sán Đầu cùng với viên thư ký của Loseby
dưới vỏ bọc là một người Trung Quốc giàu có tên là Lung [23]. Vào thời điểm này
của năm 1933 những người cộng sản Việt Nam vẫn chưa tái lập liên lạc chính thức
với ĐCS Trung Quốc và, theo điều lệ của nguyên tắc cách mạng, một đảng viên vừa
ra khỏi tù thì bị nghiêm cấm không được quay về những địa điểm mà người ấy
thường lui tới trước khi bị bắt. Vì vậy có lẽ Hồ vẫn phải tiếp tục giả dạng là
một thương gia giàu có và ẩn dật tại Sán Đầu cho đến tháng sau. Những người
Việt vẫn còn lẩn trốn hoặc như Nguyễn Thị Minh Khai, vừa được phóng thích, đã
phải trải qua khoảng cuối năm 1932 và gần trọn năm 1933 tìm cách phục hồi mạng
lưới liên lạc của họ. Điều cay đắng là những thành viên tín cẩn của Hồ tại Hồng
Kông như Lê Hồng Sơn và Minh Khai cũng như những người từ Moscow về như Trần
Ngọc Danh, em của Trần Phú, đã bị nghi ngờ khi tìm cách liên lạc với ĐCS Trung
Quốc trong năm 1932.
Một đảng viên người Việt vẫn còn giữ liên lạc
với ĐCS Trung Quốc tại Thượng Hải là Trương Phước Đạt, một thợ máy tàu gốc Phan
Rang đã sớm gia nhập thành phần ĐDCSĐ tại Sài Gòn vào năm 1929. Sau khi vượt
ngục tại Sài Gòn và đến Hồng Kông vào năm 1931, ông được đảng đề cử đi Nga để
học tập. Nhưng ông và hai bạn đồng hành đã bị chặn lại tại biên giới Mãn Châu,
vì vậy ông đã phải quay về Thượng Hải. Tại đây uỷ ban quân sự tỉnh Giang Tô (Jiang
Su ‐ ND) thuộc ĐCS Trung Quốc đã giao cho ông nhiệm vụ tái lập liên lạc với
những quân nhân người Pháp và Việt Nam ; những đầu mối này đã bị cắt đứt
khi những tuyên truyền viên người Việt bị bắt vào mùa hè 1931. Vì thế đến giữa
năm 1932 Trương Phước Đạt được yêu cầu bảo đảm cho những Việt đã đến Thượng Hải
để xin ĐCS Trung Quốc giúp đỡ và trợ giúp tiền bạc. Trần Ngọc Danh yêu cầu ngân
sách hỗ trợ cho công đoàn của những đầy tớ người Việt mà ông đã tổ chức với
những thành phần cũ của Thanh Niên tại Hồng Kông. Ông và Minh Khai tìm cách tái
thiết hệ thống liên lạc của ĐCS Đông Dương tại đây với sự giúp đỡ của một số
thuỷ thủ. Một số báo cáo của Pháp cho rằng lúc ấy bà đang là vợ lẽ của ông. Lê
Hồng Sơn đang dự định quay về Xiêm, nơi mà ông hy vọng sẽ tái tổ chức Uỷ Ban
Trung Ương ĐCS Đông Dương. Những người Việt qui tập về Thượng Hải quyết định
gửi Đạt đi Xiêm để hoạt động cùng với Lê Hồng Sơn. Vì không hài lòng với quyết
định này, Trương Phước Đạt đã phá hoại những dự án của họ bằng cách cáo buộc họ
đã có những hành vi ʺtiểu tư sảnʺ (ví dụ như thuê khách sạn hiện đại có thang
máy) trong báo cáo của ông gửi cho Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc. Hơn thế
nữa, ông đã không nhìn nhận là có quen biết bất cứ ai trong họ trước khi họ đến
Thượng Hải. Cuối cùng toán người Việt với 5 thành viên đã phải cầm cố quần áo
của mình để trả tiền khách sạn và chi phí đến Nam Kinh (Nan Jing ‐ ND), nơi họ có
thể dựa dẫm vào lòng hiếu khách của Hồ Học Lãm. [24] Chúng ta không
biết được rằng sự kiện này đã phản ánh mối
căng thẳng liên tục giữa những thành phần ĐDCSĐ và ANCSĐ cũ trong
ĐCS hay đơn giản chỉ là một trường hợp hai mang. Trần Ngọc Danh và Lê Hồng Sơn
rốt cuộc bị bắt vào ngày 25 tháng 9 1932. Trương Phước Đạt bị bắt vào tháng 4
1933. [25] Đến tháng 3 Minh Khai quay về Hồng Kông để liên lạc với những người
Việt tại Nam Kinh [26].
Một chỉ điểm cho Pháp tại Thái Lan nói rằng Hồ
Chí Minh đã lẩn trốn tại khu vực Nakhon Phanom từ đầu tháng 1 1933, nhưng sau
này được tiết lộ là nhầm người. [27] Vào tháng 9 1933 một chỉ điểm cho Pháp
khác nói rằng đã phát hiện Hồ đang sống tại Nam Ninh (Nan Ning ‐ ND) cùng với
một nhóm nhỏ người Việt. Mật vụ ʺMariaʺ nói rằng trong số 4 người Việt Nam đang
sống tại số 78 đường Cau Song Kai có một người giống với ảnh chụp Hồ Chí Minh.
Người chỉ điểm này cũng nhắc đến 3 phụ nữ cùng với hai bé gái và một bé trai
cũng đang sống chung trong ngôi nhà này. Hồ được cho là đang dùng tên Lý Sính
Sáng (ngài Lý) [28].
Nhưng Lê Hồng Phong, trong gần trọn năm 1933
đang sống tại Nam Ninh và Long Châu, đã không hề nhắc đến việc liên lạc với Hồ
khi ông báo cáo cho QTCS vào tháng 1 1935. Phong đã dự định lên mạn ngược dể
gặp những cơ sở người Việt tại Xiêm khi ông đến Bangkok vào tháng 2-1932 trên đường về từ Moscow và Paris . Nhưng nhận thấy mình đang bị cảnh sát
theo dõi chặt chẽ, ông đã từ bỏ dự định này 10 ngày sau và đến tháng 4 ông đã
đi đến Quảng Châu và Nam Ninh. Nơi đây ông bắt đầu tái thiết chi uỷ đảng tại
tỉnh biên giới Cao Bằng cũng như thành lập những tổ đảng tại Lạng Sơn. Ông đã
tuyên truyền những học viên tại học viên quân sự Nam Ninh, nơi mà từ 1925 đã
trở thành nguồn cung cấp thành viên cộng sản mới. Vào tháng 8 1933 ông đã gặp
những người bạn học cũ là Hà Huy Tập và Nguyễn Văn Dựt tại Quảng Châu, và đến
tháng 6 1934 họ đã thành lập một Phân Bộ Hải Ngoại để quản lý những công việc
của đảng cho đến khi một Uỷ Ban Trung Ương quốc nội được thành lập [29].
Nếu Hồ Chí Minh đã lẩn trốn tại Nam Ninh, ta có
thể chắc chắn rằng ông đã rời đi từ tháng 9. Vì vào cuối tháng 9 1933 một người
quen cũ của ông từ ĐCS Pháp là Paul Vaillant‐Couturier có mặt tại Thượng
Hải để tham gia Hội Nghị Phản Chiến Á
Châu. Sau này Hồ đã nói rằng chính Vaillant‐Couturier
đã giúp ông quay về lại Moscow bằng cách cho ông gặp những đại
diện Sô Viết ở Thượng Hải. [30] (Liên Bang Sô Viết đã tái lập quan hệ ngoại
giao với Trung Quốc vào cuối năm 1932; vị tân đại sứ đã đệ trình uỷ nhiệm thư
tại Thượng Hải vào ngày 2 tháng 5 1933.] Hội nghị trên đã được tổ chức bí mật
tại một căn nhà riêng vào ngày 30 tháng 9. Đại diện người Pháp này đã báo cáo
rằng những người tham dự bao gồm Lord Marley, Vaillant‐Couturier,
một bác sĩ tên Marteaux, nhà báo người Mỹ Harold Isaacs, một đại diện Sô
Viết và 50 người Trung Quốc trong đó có bà Tôn Dật Tiên [31]. Một số nhân vật
trên là thành viên cao cấp của Liên Đoàn Phản Đế tại Berlin . Hồ Chí Minh có thể đã tránh xa
cuộc họp này, nhưng dường như Harold Isaacs đã nhớ đến Hồ trong giai đoạn này
là ʺngười bạn rất cũ của tôi ở Thượng Hải ʺ [32]. Ta chỉ có thể phỏng đoán việc
Hồ đã có quan hệ mật thiết như thế nào với Tống Khánh Linh (Song Jing Ling ‐ ND), goá phụ
của Tôn Dật Tiên. Nhưng không có lý do gì để phản bác lại chuyện ông kể rằng
ông đã liên lạc với Vaillant‐Couturier bằng cách đến nhà
của bà dưới vỏ bọc của một người Trung Quốc giàu có để đưa cho bà một bức thư.
Đến thời gian này của năm 1933, khi Hồ Chí Minh
bắt đầu thảo kế hoạch để quay lại Moscow, những người cánh tả Việt Nam lại một
lần nữa khuấy động phong trào. Những sinh viên cấp tiến quay về từ Pháp đã biểu
lộ tinh thần chống đối quyền lực liên tục của dân chúng Sài Gòn bằng việc thắng
hai ghế hội đồng thành phố trong cuộc bầu cử vào cuối tháng 4 đầu tháng 5. Mặc
dù việc đắc cử của Nguyễn Văn Tạo, một thành viên của ĐCS Đông Dương và Trần
Văn Thạch, một người Trotskyist, đã bị huỷ bỏ vào tháng 8, thắng lợi ban đầu
của họ đã giúp hướng tới việc thành lập mặt trận La Lutte giữa những người
Trotskyist và ĐCS Đông Dương trong tương lai (trong giữa năm 1934]. [33]
Trần Văn Giàu, học viên từ Đại Học Stalin đã quay về lại Nam Việt Nam vào đầu
năm 1933 để thành lập lại ĐCS Đông Dương theo đường lối vạch ra bởi Cương Lĩnh
Hành Động 1932 cấp tiến mà ông đã giúp soạn thảo tại Moscow [34]. Những thành
viên ĐCS Đông Dương tại Xiêm cũng như những người Việt là đảng viên ĐCS Xiêm
cũng đã tích cực ủng hộ việc hồi sinh ĐCS Đông Dương qua Uỷ Ban Cứu Trợ Đông
Dương [35]. Chủ nghĩa chống đế quốc, theo định nghĩa của ʺGiai Đoạn Thứ Baʺ đã
trở thành một biểu tượng của tinh thần đoàn kết vô sản trên toàn thế giới,
trong khi chủ nghĩa quốc gia được cho là một khái niệm lỗi thời. Daniel Héremy
(nhà sử học Pháp ‐ ND) nhận định rằng trong suốt 21 tháng xuất bản, đến tháng 6 1936, tờ
báo La Lutte (Đấu Tranh ‐ ND) chỉ đã nhắc đến chủ trương quốc gia của Việt Nam trong vỏn vẹn 20
bài viết, và thường với nội dung chỉ trích chủ nghĩa yêu nước tư sản. [36]
Nhưng trong hội nghị ʺChống Phát Xít và Chiến Tranhʺ được tổ chức tại rạp hát
Khánh Hội, Sài Gòn vào ngày 11 tháng 8 1933 đã có trên 600 người tham dự, theo
một báo cáo của Pháp, và đã thu hút nhiều tầng lớp các nhà cách mạng khác nhau
từ Dương Văn Giáo và Trịnh Hưng Ngẫu có liên hệ với đảng Lập Hiến, đến Nguyễn
Văn Tạo và Trần Văn Thạch. Vaillant‐Couturier đã tham dự hội nghị trên
trước khi đi đến Thượng Hải, và đã được nồng nhiệt hoan nghênh khi ông tường
thuật lại những hoạt động tại Paris nhằm ủng hộ những tù nhân chính trị Việt
Nam đang bị án tử hình [37]. Tạ Thu Thâu, đang là một thành viên tích cực của
Liên Đoàn Phản Đế tại châu Âu, có thể đã đóng vai trò tổ chức hội nghị này.
Nhưng người Pháp lại cho rằng những hoạt động chính trị hợp pháp của Nguyễn Văn
Tạo và Trần Văn Thạch đã có liên hệ đến việc Trần Văn Giàu quay trở lại Việt
Nam [38].
Mặc dù sự phối hợp toàn bộ của QTCS cho chính
sách được tu chỉnh về mặt trận thống nhất đã không ra đời cho đến Đại Hội Lần 7
vào năm 1935, nhưng vào năm 1933 ta có thể nhận thấy một bước lùi trong chủ
thuyết cực đoan về giai cấp chống lại giai cấp đã được đưa ra vào năm 1929.
Quyền lực của Đảng Quốc Xã tại Đức đã trở thành một nhân tố quan trọng cần phải
quan tâm, trong khi những hình thái của chủ nghĩa đế quốc tại châu Á đã trở
thành một mối đe doạ ngày càng lớn đối với Liên Bang Sô Viết và những người
cộng sản Trung Quốc. Otto Braun (Cố vấn của ĐCS Trung Quốc ‐ ND) nói rằng
vào tháng 1 1933 Ban Chấp Hành Quốc tế Cộng Sản đã đưa ra một nghị quyết thừa
nhận việc cần thiết phải ʺđoàn kết đấu tranh chống Nhậtʺ cùng với bất cứ tổ
chức hoặc quân đội Trung Quốc nào có thể chấm dứt những tấn công vào những khu
vực của Liên Bang Sô Viết [39]. Một văn bản của QTCS xuất hiện vào tháng 7 1933
kêu gọi cộng sản Ấn Độ và Đông Dương nên quay lại với chiến lược Leninist
trong đó nhấn mạnh việc đấu tranh giành độc lập dân tộc lên trên những
mục tiêu cách mạng xã hội chủ nghĩa. Văn bản này trước đây đã được đăng bằng
tiếng Anh trên tờ báo Pan Pacific Worker, nằm dưới dạng một loạt câu hỏi và trả
lời của ʺOrgwaldʺ, được nhận diện trong tài liệu của QTCS là nhân vật Bolshevik
kỳ cựu Osip Piatnitsky, người đã từng đứng đầu Văn Phòng Tổ Chức đầy quan trọng
trong QTCS từ giữa Đại Hội Lần 5 và Lần 7 (1924‐35). Không có gì ngạc nhiên
khi vào giữa năm 1933, sự thăng tiến của Hitler đã khiến một số người Bolshevik
phải tái thẩm định quan điểm của họ về chủ nghĩa dân tộc và mặt trận thống
nhất.ʺOrgwaldʺ đã cố vấn trong văn bản trên rằng trong thời điểm hiện
tại, sẽ không khôn ngoan lắm nếu đưa ra lời kêu gọi lật đổ giai cấp tư sản, vì
nó sẽ tạo nên sự xa cách giữa tầng lớp nông dân và giới tiểu tư sản thành thị.
Một mặt trận thống nhất với những đảng phái quốc gia có thể chấp nhận được nếu
nó đi theo nguyên tắc ʺcùng nhau chiến đấu nhưng hành quân riêng rẽʺ. [40] Tài
liệu này đã không được xuất bản bằng tiếng Pháp cho đến năm 1934 và ta không có
bằng chứng gì về việc nó được xuất bản bằng tiếng Việt cả. Điều này
mâu thuẫn với đường lối chính sách được
những người chủ chốt của ĐCS Đông
Dương như Trần Văn Giàu và Hà Huy Tập đem về từ Moscow. Sự chia rẽ giữa đường
lối đấu tranh giai cấp của ʺThời Kỳ Thứ Baʺ và chiến lược mới đang được thảo
luận vào năm 1933 sẽ trở thành chướng ngại vật cho việc hợp nhất ĐCS Đông
Dương.
Bằng chứng của việc chia rẽ này có thể thấy
được trong một bức thư dài của Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc gửi đến những
người cộng sản Đông Dương vào tháng 8 1934. Nó được QTCS phê chuẩn như là một
chỉ thị chính trị. (Cho đến tháng 3 1935, Vera Vasilieva, người đang điều hành
bộ phận Đông Dương của QTCS, đã nhắc đến nó trong những thư từ với Văn Phòng
Hải Ngoại ĐCS Đông Dương như là một tài liệu chỉ ra ʺnhững công tác cơ bản mà
các đồng chí phải hoàn toàn chú ý trong thời điểm hiện tạiʺ [41]). Rất có thể
bức thư này đã được soạn thảo từ Moscow với sự hậu thuẩn của những thành
viên người Trung Quốc trong Uỷ Ban Trung Ương QTCS, dẫn đầu bởi Vương Minh
(Wang Ming ‐ ND). Trong khi nó kêu gọi việc thành lập một tờ báo hợp pháp và việc tận
dụng những biện pháp tổ chức hợp pháp có thể được, nó cũng đã đưa ra một tín
hiệu cảnh báo mạnh mẽ chống lại việc hợp tác với những người dân chủ xã hội và
tư sản dân tộc. Nó đã nhắc đến thất bại của cuộc khởi nghĩa tại Áo trong năm
1934 như là một ví dụ của những ʺảnh hưởng phản bộiʺ của thành phần dân chủ xã
hội. Mặc dù bức thư đã thừa nhận rằng có nhiều thành viên của giai cấp tư sản
Đông Dương đang sẵn sàng đấu tranh chống lại đế quốc Pháp, gia cấp công nhân và
nông dân không được quên rằng ʺthành phần tư sản dân tộc ích kỷ và hèn hạ đã
phản bội phong trào 1930‐31ʺ. ʺTrong tình trạng bất mãn chung đang dâng cao trong nước, thành
phần dân tộc cách tân sẽ luôn tìm cách chiếm lấy quyền lãnh đạo của phong trào
quần chúng để rồi sẽ chặt đầu nó,ʺ bức thư viết. ʺĐây chính là vì sao chúng ta
phải liên tục vạch mặt tất cả những tổ chức và đảng phái dân tộc cách tân, cho
dù chúng nấp sau bất kỳ những khẩu hiệu ʺthiên tảʺ nào...ʺ[42]
Lá thư từ Trung Quốc này có thể được hiểu như
một nỗ lực từ một số nhân vật lãnh đạo tại QTCS để đối đầu với việc ĐCS Pháp
quyết định hợp tác với Đảng Xã Hội Pháp, quyết định này đã được đưa ra tại một
cuộc họp của Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Pháp vào ngày 14 và 15 tháng 3
1934. [43] Liên lạc cũ của Hồ Chí Minh là
Jacques Doriot là một trong những người ủng hộ mạnh mẽ nhất cho mối giao hảo
với những người xã hội Pháp. Nhưng tại Sài Gòn, nơi không có đảng xã hội, mặt
trận thống nhất của những người cánh tả cũng chỉ là một nỗ lực hợp tác giữa
những người theo khuynh hướng của Moscow và thành phần cộng sản Trotskyist.
Tờ báo của mặt trận La Lutte đã được chính thức ra đời sau cuộc họp vào tháng 9
1934 do Nguyễn An Ninh tổ chức. Đây là một liên hiệp nhằm chống lại
chính quyền thuộc địa và Đảng Lập Hiến, với khuynh hướng vô
sản mạnh mẽ [44].
Về lại Moscow
Hồ Chí Minh đã không về đến Mosow, theo lời của
ông là mãi cho đến tháng 7 1934 [45]. Không có thông tin gì về việc ông đã sống
như thế nào trong giai đoạn giữa mùa thu 1933 cho đến những tháng đầu của năm
1934. Moscow mà ông quay lại thì đã khác xa nhiều với Moscow mà ông đã biết trong giai đoạn 1923‐4 và một thời
gian ngắn của năm 1927. Nó không còn là một thành phố xoay vần một cách tự do
của Chính Sách Kinh Tế Mới (New Economic Policy, hoặc NEP ‐ ND) mà ông đã
chứng kiến trong lần đầu đến đây; nó cũng không còn là một thủ đô tràn đầy
không khí chính trị, nơi những trận chiến cuối cùng nhằm giành quyền kiểm soát
đảng Sô Viết đã sắp sửa xảy ra trong năm 1927. Chủ nghĩa sùng bái cá nhân của
Stalin cũng như việc ông kiểm soát tất cả mọi cơ quan Sô Viết đang tạo ra một
không khí chính trị đầy chết chóc được bao phủ bởi tính hoang tưởng và một tâm
lý cô lập đối với thế giới bên ngoài.
Đến năm 1930 những cuộc thanh lọc trong những
học viện QTCS như Trường Tôn Dật Tiên, bị đóng cửa trong năm ấy, và Đại Học
Quốc Tế Lenin đã trở thành một đặc điểm trong sinh hoạt của QTCS. Một
cuộc thanh lọc đối với bộ phận tiếng Pháp trong Đại Học Lenin, nơi Hồ Chí Minh
sẽ theo học vào tháng 10 1934, đã được tổ chức vào tháng 10 1933, do André
Marty thuộc Ban Bí Thư khu vực nói tiếng Romance chủ toạ. Một bài viết
của một sinh viên với bút danh ʺBrétaneʺ đưa ra một số ý kiến về những yêu cầu
của những cuộc ʺthanh lọcʺ này. Ngay cả đối với những người chưa từng phạm phải
sai lầm chính trị hoặc không bị đảng đe doạ trục xuất cũng phải bị bắt buộc tự
chỉ trích. Trong bài viết với nhan đề ʺThanh lọc như là một Yếu tố để Bolshevik
hoáʺ Bretane viết: ʺĐiều quan trọng là cần phơi bày những yếu điểm còn sót lại
để loại bỏ chúng. Chúng ta đã có thể thấy được qua những lý lịch khác nhau rằng
nằm dưới đáy của những yếu điểm này là gốc gác xã hội và những ảnh hưởng ngoại
quốc đã in dấu trên người khi anh ta hoạt động ở nước ngoài” [46] Yelena Bonner
(nhà hoạt động nhân quyền Nga - ND), có cha kế là Gevork Alikhanov là một viên
chức cao cấp trong Bộ Cơ Cấu của QTCS, đã chứng kiến từ sau bức màn trong căn
hộ nhà mình tại khách sạn Lux việc cha kế của bà và những người khác khai báo
tư tưởng và tiết lộ những bí mật riêng tư nhất của mình, thậm chí đến những
quan hệ tình cảm trong quá khứ và những đứa con rơi [47].
Khi Hồ Chí Minh xuất hiện vào mùa hè năm 1934,
có lý do để tin rằng ông đã nghĩ mình đang là đối tượng của một cuộc điều tra
nào đấy. Con gái của Vera Vasilieva, lúc ấy được 10 tuổi, đã nhớ rằng ông
thường ngủ trên chiếc ghế trường kỷ trong ngôi nhà gỗ mà gia đình cô đang sống
tại trung tâm Moscow , dường như ông đang cố giữ thấp danh phận của mình [48]. Nói cho cùng
Hồ đã liên quan đến hàng loạt những vụ bắt bớ dẫn đến tổn thất nặng nề cho Phân
Bộ Viễn Đông lẫn ĐCS Trung Quốc trong năm 1931.
Vasilieva, một người ngây thơ và có lẽ là
một người Bolshevik thiếu đầu óc tưởng tượng, từng được biết đến là đã
bảo vệ những bạn bè bị tố cáo về những tội danh chính trị cũng như người chồng
của bà là Mark Zorky [49]. Nhưng ta không tìm thấy những tài liệu về những khó
khăn chính trị của Hồ trong hồ sơ của QTCS cho đến khi Đại Hội Lần 7 sắp xảy ra
vào năm sau. Ông nhắc lại trong bản câu hỏi tiểu sử của mình rằng ông đã trải
qua vài tháng phục hồi căn bệnh của mình tại vùng Crimea trong năm 1934, sau đó theo học tại
Đại Học Lenin vào tháng 10 [50]. Vào lúc ấy ông là người Đông Dương duy nhất
ghi danh tại trường này, mặc dù QTCS đã dự định thu nhận 12 học viên Đông Dương
vào một khoá học ngắn hạn trong học kỳ 1935‐6 [51]. Không có dấu hiệu cho thấy
rằng đã có người theo học. Trường này lúc ấy được vị giám đốc Kirsanova miêu tả
là ʺlò tôi luyện duy nhất cho những thành phần chủ chốt của QTCSʺ [52]. và được
xem là học viện đào tạo những lãnh đạo cộng sản nước ngoài. Nhưng những phần tử
bị thất sủng trong thành phần lãnh đạo như Lý Lập Tam và Hồ cũng được gửi đến
đây. Thực tế là (đặc biệt là trong trường hợp của Lý Lập Tam) họ đã từng phục
vụ trong hàng ngũ cao cấp của đảng mình và có thể đã trông đợi để được làm việc
trong Ban Chấp Hành QTCS nếu danh phận của họ được vẹn toàn.
Vào ngày 1 tháng 12 1934, khi việc chuẩn bị cho
Đại Hội Lần 7 bắt đầu, Sergei Kirov, bí thư Đảng Uỷ Leningrad bị bắt chết
trong văn phòng của mình tại Học Viện Smolny. Việc sát hại này đã giúp Stalin
có lý do dể bắt đầu một cuộc ruồng bố những kẻ thù của đất nước [53]. Trong
thời kì bình minh của Mặt Trận Bình Dân thì một đợt đàn áp mới đối với những kẻ
thù chính trị có thật hay tưởng tượng của Stalin cũng đang bắt đầu. Vào ngày 8
tháng 12 khi 3 đại biểu Đại Hội được ĐCS Đông Dương gửi vừa đến Moscow , một cơn khủng hoảng nhỏ đã nổ ra
tại Đại Học Stalin. Vì Cục Thông Tin Quốc Tế đã không ra đón họ tại nhà ga, ba
người này phải tự tìm đến khách sạn mà những người Việt đang ở ‐ việc này được
xem là sai sót trong kỹ thuật hoạt động ngầm. Có ba người đã làm báo cáo về
việc này là: Vera Vasilieva, Kotelnikov thuộc Ban Bí Thư Phương Đông, và ʺKan
Sinʺ (Khang Sinh ‐ ND), vị trí của người này không được ghi trong báo cáo của ông [54].
Ba đại biểu người Việt là Lê Hồng Phong, thành
viên chủ chốt của Ban Chỉ Huy Hải Ngoại; một thành viên dân tộc Tày tên là
Hoàng Văn Nọn; và Nguyễn Thị Minh Khai, được nhắc đến trong bức thư của Hà Huy
Tập gửi cho QTCS là ʺvợ của Quốcʺ. Hồ cũng được phân công làm đại biểu đại hội
từ hội nghị ĐCS Đông Dương họp vào tháng 3 1935. [55] Trong bản khai lý lịch mà
Minh Khai đã điền sau khi đến nơi, bà viết rằng bà đã lập gia đình và cho biết
tên của chồng mình là ʺLinʺ, bí danh mới nhất của Hồ [56]. Điều này cho thấy
giữa hai người không đơn giản chỉ là một quan hệ thoáng qua mặc dù người
Pháp nghi ngờ rằng bà đang là tình nhân của Trần Ngọc Danh[57] (dù thế Hồ Chí
Minh không bao giờ nhắc đến vợ mình trong bất cứ đơn từ chính thức nào của ông
trong QTCS]. Tại Moscow, Minh Khai đã lấy tên là ʺPhan Lanʺ.
Từ giữa tháng 12 1934 đến cuối tháng 3 1935 đã
có một số báo cáo về tình hình của ĐCS Đông Dương được gửi từ Việt Nam đến Moscow . Ngoài ra Lê Hồng
Phong cũng đã viết một bản tường trình dài bằng tiếng Nga về
những hoạt động của mình từ khi ông quay về Đông Nam Á vào tháng 2 1932. [58]
Hồ đã viết những phê bình riêng của mình đối với sự thất bại của ĐCS Đông Dương
trong thời kỳ ʺcao trào cách mạngʺ 1930‐1 [59]. (Chắc chắn rằng ông đã viết
về những hoạt động khác của mình trong thời gian 1930‐4, nhưng đã
không được tìm thấy trong văn khố của QTCS3). Với đường lối của QTCS hiện đang
quay lại giống như trong thời kỳ 1924‐
7, rõ ràng là Hồ đã cảm thấy an toàn khi lên
tiếng phê bình việc ĐCS Đông Dương nhìn chung đã có nhận thức tư tưởng thấp, và
đặc biệt là việc ʺđa số các đồng chí ‐ ngay cả những người lãnh đạo ‐ đã không quán
triệt ý nghĩa của ʺcuộc cách mạng tư sản dân tộcʺ. [...] Họ lặp đi lặp lại
những từ ngữ mà không hiểu được ý nghĩa của chúng,ʺ ông viết, ʺvà thường xuyên
bị sai lầm trong những hoạt động tuyên truyền và khích động của mình.ʺ Ông cũng
đã phê phán phương pháp cứng nhắc trong việc đào tạo công nhân để tổ chức đình
công mà không được khuyến khích để tự mình quyết định dựa trên phát xét của họ
về tình hình thực tế. Ông cũng chỉ ra mối nguy hiểm về việc những công nhân
được đưa vào những bộ phận lãnh đạo của đảng thì ʺluôn tự cho phép mình bị ảnh
hưởng bởi những phần tử trí thức vì những người này đã đọc
hết những điều trong sách vở và những luận cươngʺ. ʺĐiều này đã xảy ra trong
giai đoạn 1930‐1,ʺ ông nói, ʺkhi những đồng chí của ta là những thành viên lớn tuổi và
có kinh nghiệm. Hiện nay, đa số hoặc hầu hết những đồng chí này đang ở tù hoặc
bị giết chết. Những đồng chí hiện nay thì trẻ và ít kinh nghiệm hơn và do đó sẽ
phạm phải sai lầm nhiều hơn.ʺ
Phương án khắc phục mà ông đưa ra là việc xuất
bản những văn kiện ngắn bằng ngôn ngữ bình dân với những chủ đề bắt đầu từ
Tuyên Ngôn Cộng Sản và lịch sử của QTCS, rồi đến ʺvấn đề dân tộcʺ và ʺvấn đề
nông dânʺ, và kết thúc với ʺphương pháp tổ chức một mặt trận thống nhấtʺ và
ʺluận cương và nghị quyết của QTCS về vấn đề thuộc địaʺ. Ông đã học cách trích
dẫn lời của Stalin đúng lúc ‐ ʺStalin thì nghìn lần đúngʺ, Hồ
viết ʺkhi ông nói ʺHọc thuyết đã giúp cho các đồng chí... sức mạnh của đường
lối, sự rõ ràng trong quan điểm, lòng tin vào công việc của họ và niềm tin
tưởng vào chiến thắng của chính nghĩaʺ [60]. Ta có thể giả định rằng Hồ đã biết
rằng học thuyết toàn thắng trên đã thay đổi từ 1928‐9, nhưng đã đủ
khôn ngoan để không đưa ra trong bài viết. Phong cách vừa là giảng viên vừa là
học viên của ông tại Đại Học Stalin mà chúng ta sẽ thấy, cho thấy rằng dường
như ông đã không tiếp thu đường lối giảng dạy lý thuyết của Moscow một cách nghiêm túc.
Báo cáo của Lê Hồng Phong về những hoạt động
của mình từ cuối năm 1931 đến khi ông quay lại Moscow vào cuối năm 1934 là một
báo cáo dựa trên dữ kiện, gần như là một liệt kê về những thành công và thất
bại chính trị của ông. Trong khi đó những báo cáo của Hà Huy Tập (có tên là
Sinitchkin ở Moscow) gửi về Moscow từ giữa tháng 12 1934 và tháng 4 1935 lại
mang một giọng điệu hoàn toàn khác hẳn [61]. Những báo cáo này cho thấy ông đã
bắt đầu đảm nhận một vai trò tích cực, thậm chí độc đoán hơn trong việc xây
dựng ĐCS Đông Dương sau khi Lê Hồng Phong quay lại Moscow . Là một người gầy guộc được biết
với bí danh là ʺKhịtʺ ở Sài Gòn và ʺÔng Lùnʺ ở Trung Quốc, Hà Huy Tập dường như
đã quay lại châu Á với sự tin tưởng hoàn toàn của QTCS vào giữa năm 1933. Một
báo cáo của Sở Liêm Phóng đề cập đến ông như là một ʺrenifluerʺ, tức là ʺkẻ
khịt mũiʺ hoặc ʺchó sănʺ, có lẽ là lấy từ bí danh của ông [62]. Vào lúc ấy ông
là người duy nhất trong Ban Chỉ Huy Hải Ngoại đã được QTCS tin tưởng giao cho
chìa khoá giải mã những mật thư bằng điện đài đang được bắt đầu sử dụng để liên
lạc trong những năm 1934‐5. [63] Nổi ám ảnh về an ninh dấy lên trong QTCS từ vụ ám sát Kirov đã làm cho guồng máy tại Moscow hài lòng với một người có thiên
hướng như Hà Huy Tập để soạn thảo những báo cáo với đầy đủ chi tiết. Hơn nữa,
đối với Ban Bí Thư Đông Phương, an ninh đã trở thành mối quan tâm chủ yếu sau
khi Phân Bộ Thượng Hải của ĐCS Trung Quốc bị phá huỷ vào tháng 12 1934. Vào lúc
ấy QTCS đã bị mất mối liên lạc bằng điện đài duy nhất với ĐCS Trung Quốc, lúc
ấy đang trong giữa quá trình của cuộc Vạn Lý Trường Chinh. (Sau đó ĐCS Đông
Dương được lệnh cắt đứt mọi liên lại với ĐCS Trung Quốc và Lãnh Sự Quán Sô Viết
tại Thượng Hải [64]). Trong mọi trường hợp, Hà Huy Tập đã nổi bật như là người
đã tố cáo Trần Văn Giàu, Hồ Chí Minh và một số những thành viên khác của ĐCS
Đông Dương bao gồm cả một trong những đại diện môi giới của Hồ là Nguyễn Văn
Tram (Cao Văn Bình) [65]. Trong giai đoạn chuẩn bị cho Đại Hội Lần 7 (ban đầu
được dự định sẽ tổ chức vào năm 1934, rồi dời đến tháng 3 1935 và cuối cùng
được khai mạc vào tháng 7) có lẽ Hồ Chí Minh là người đã bị nghi ngờ nhiều
nhất.
Hội Nghị ĐCS Đông Dương từ ngày 27‐31 tháng 3 tại
Macao đã thông qua nghị quyết chính trị dài 30 trang và đã bầu ra một Uỷ Ban
Trung Ương mới, cho phép Hà Huy Tập nắm quyền ĐCS Đông Dương trong thời gian Lê
Hồng Phong vắng mặt. Điều mà hội nghị đã không làm là phản ánh những trào lưu
thay đổi tại Moscow mà mãi cho đến Đại Hội Lần 7 QTCS vào mùa hè mới được giải thích rõ
ràng. Vào cuối năm 1934 Tập đã báo cáo rằng đảng có khoảng 600 thành viên bao
gồm cả những người đang ở Lào và Cam Bốt [66]. Mười ba người đã có mặt để tham
gia Hội Nghị, ông nói. Hội Nghị đã bầu ra Uỷ Ban Trung Ương đứng đầu bởi Lê
Hồng Phong đang vắng mặt, trong đó có 8 công nhân, một bần nông người dân tộc
Tày, ba trí thức và một thành viên từ đảng An Nam cũ (không rõ nghề nghiệp)
đang được lựa chọn [67]. Hồ Chí Minh nằm ở vị trí thứ
13 như là một thành viên dự bị. Những học viên
tại Moscow trong Uỷ Ban Trung Ương gồm có công nhân ʺDin‐Tanʺ (Trần Văn
Diêm), đứng đầu xứ uỷ Bắc Kỳ; và ʺSvanʺ (Nguyễn Văn Dựt), lúc ấy đang đứng đầu
Liên Uỷ tại Nam Kỳ. Hà Huy Tập giữ cho mình một vị trí trong Ban Chỉ Huy Hải
Ngoại, lúc ấy đang có quyền ra hướng dẫn chính trị cho Uỷ Ban Trung Ương [68].
Ở cuối bản báo cáo về Hội Nghị, Tập đã đưa ra
vấn đề của Hồ Chí Minh. Ông nói rằng Hội Nghị đã phân công Đồng Chí Lin làm đại
biểu của ĐCS Đông Dương tại QTCS. Nhưng trong khi đó ông lại viết:
Các tổ chức cộng sản tại Xiêm và Đông Dương
đang thực hiện một cuộc đấu tranh công khai chống lại những tàn dư của tư tưởng
cách mạng dân tộc pha lẫn chủ nghĩa cách tân và chủ nghĩa duy tâm của Thanh
Niên Hội và của Đồng Chí Nguyễn Ái Quốc. Những tàn dư này vẫn còn rất mạnh và
trở thành một trở ngại nghiêm trọng đối với công cuộc phát triển của chủ nghĩa
cộng sản. Cuộc đấu tranh không khoan nhượng chống lại những tư tưởng cơ hội của
Quốc và Thanh Niên là thật sự cần thiết. Hai đảng uỷ tại Xiêm và Đông Dương sẽ
ra những văn bản chống lại những khuynh hướng này. Chúng tôi đề nghị Đồng Chí
Lin nên thảo một văn bản để tự kiểm điểm bản thân và những thất bại của mình
trong quá khứ [69]
Đến cuối tháng 4 1935 Hà Huy Tập cảm thấy có
trách nhiệm phải làm việc phê bình rõ ràng hơn. Trong điểm cuối cùng của bức
thư viết tay dài 4 trang bằng tiếng Pháp trong đó đề cập đến một số trường hợp
bị nghi ngờ có sự phản bội trong ĐCS Đông Dương, ông báo cáo với Ban Bí Thư
Đông Phương rằng một số đại biểu tại Hội Nghị Macao đã thảo luận về trách nhiệm
của Hồ về trong việc bắt bớ của trên 100 cựu thành viên của Thanh Niên được đào
tạo tại Quảng Châu. Tập đã liệt kê những lý do như sau:
(a) Quốc đã biết rằng Lâm Đức Thụ là một kẻ
khiêu khích, nhưng vẫn tiếp tục sử dụng ông ta; (b) Quốc đã phạm sai lầm khi
đòi hỏi mỗi học viên hai bức ảnh, tên thật, địa chỉ, tên cha mẹ, ông bà nội
ngoại và ông bà cố... (c) trong nước, tại Xiêm và trong tù, họ vẫn tiếp tục nói
về trách nhiệm của Quốc, một trách nhiệm mà ông không thể chối bỏ được; (d)
những bức ảnh do Quốc và Lâm đòi hỏi giờ đây đang nằm trong tay của cảnh sát;
(e) dần dần khi đường lối của đảng đã trở nên rõ ràng hơn đối với đảng viên và
quần chúng, họ đã phê phán mạnh mẽ hơn chính sách mà Đồng Chí Quốc theo đuổi.
Tổng bí thư của ĐCS Xiêm, từng là người học trò thuần thành của Quốc, là một
trong những người nói rằng trước năm 1930, Quốc không phải là một người cộng
sản!!! [70]
Khi trả lời cho đề xuất của ĐCS Đông Dương về
việc Hồ trở thành đại diện của họ tại QTCS, Vasilieva khẳng định là
ʺkhôngʺ. ʺQuốc cần phải học tập nghiêm túc trong hai năm tới và sẽ
không thể nhận bất cứ công việc gì khác,ʺ bà giải thích; ʺsau khi ông học xong
chúng tôi sẽ có những dự định đặc biệt để sử dụng ông ấyʺ [71]. Ta không biết
rằng bà đã nhận được lời tố giác vào tháng 4 khi bà viết những nhận định trên.
Dù sao bức thư tháng 4 rõ ràng là đã ảnh hưởng đến vai trò của Hồ tại Đại Hội
Lần 7. Trong một danh sách đại biểu Đại Hội, vì tính chất bắt buộc của nó, ai
đó đã viết ʺcần phải loại bỏʺ bên cạnh tên của Hồ [72]. Đa số những danh sách
đại biểu Đại Hội cho thấy có 3 đại biểu từ Đông Dương, một người trong họ là phụ
nữ ‐ cả ba người đều có toàn quyền bầu cử. Hai đại biểu Xiêm chỉ được quyền
bầu với tư cách tham vấn (soveshchatelniie golosy), trong qui định cộng
sản điều này có nghĩa là phiếu bầu của họ không được tính [73]. Nhưng dường như
Hồ cũng không nhận được cả quyền này. Ta có thể bảo rằng ông đã được đưa ra
khỏi chương trình công khai của Đại Hội để giữ bí mật, nhưng ta cũng thắc mắc
rằng tại sao những người Việt khác,
sau này sẽ quay lại hoạt động chính
trị tại Đông Dương, lại được giao cho những chức vụ công khai.
Nếu đã có một uỷ ban được lập ra để điều tra
những cáo buộc mới nhất đối với Hồ, thì chắc hẳn nó đã xảy ra trước Đại Hội 7.
Vì những thiếu sót về an ninh được cảnh báo từ việc Kirov bị mưu sát, sẽ rất là khó hiểu nếu
đã không có một biện pháp nào được thực hiện. Một nguồn tin được biết nhiều
năm sau từ một nhân viên của Bộ Quốc Tế thuộc Uỷ Ban
Trung Ương Sô viết là Anatoly Voronin cho biết rằng Hồ đã bị điều
tra bởi bộ ba Dmitry Manuilsky, Khang Sinh và Vera Vailieva. Theo nguồn tin
này, Mauilsky đã giữ vị trí trung lập trong khi Khang Sinh muốn Hồ bị xử tử
hình. Vasilieva được cho là đã bảo vệ ông trên cơ sở rằng những sai lầm của ông
về những biện pháp an ninh đã xảy ra là do thiếu kinh nghiệm [74]. Vào năm 1935
có khả năng là Khang Sinh đề nghị Hồ bị trục xuất ra khỏi đảng hơn là tử hình,
nếu ông tin rằng Hồ đã có một phần lỗi trong những bắt bớ vào năm 1931. Nhưng
vì không có những tài liệu làm bằng chứng mà rất có thể vẫn còn được giấu kín
trong tàng thư của KGB, chúng ta không thể biết được những tố giác
của Hà Huy Tập đã được xử lý nghiêm trọng đến mức độ nào. Bản thân những người
cộng sản Việt Nam đã biết rất rõ rằng đảng của họ đã
bị Sở Liêm Phong thâm nhập. Vào cuối năm 1934, Hà Huy Tập đã gửi một danh sách
đến Moscow trong đó ông phân tích hồ sơ của 37
học viên người Việt đã rời Moscow đi châu Á hoặc Pháp. Trong số này
có 12 người được liệt vào dạng phản bội hoặc khiêu khích. Chỉ có 10 người được
cho là ʺnhững nhà cách mạng chuyên chínhʺ [75].
Đã có vài tia sáng hé mở trong việc QTCS xử lý
những trường hợp như của Hồ qua báo cáo của Joseph Ducroux về việc ông bị đối
xử tại Moscow khi ông quay lại vào tháng 1 1934. Ducroux đã viết vào năm 1970 rằng
trưởng Cục Thông Tin Quốc Tế là Abromov đã quyết tâm qui nguyên nhân ông bị bắt
tại Singapore là do lỗi kỹ thuật của Ducroux. Ducroux đã
không được đối xử như một người hùng trở về và chỉ được phép ăn tại nhà ăn
chung của khách sạn Lux chứ không được ngồi cùng với những lãnh đạo chính trị.
Ông đã bị triệu tập đến một cuộc họp tại Ban Chấp Hành QTCS với sự
có mặt của Manuilsky, Lozovsky, Piatnitsky và
Bela Kun. Manuilsky đã ʺcông kích ông dữ dộiʺ, yêu cầu khai
trừ ông ra khỏi đảng. Lozovsky tỏ vẻ thông cảm hơn với điều kiện khó khăn mà
ông phải đối phó. Sau hai ngày ông được báo rằng ông có thể ở lại Moscow để làm
công việc thông dịch cho tờ tin Quốc tế Cộng Sản. Nhưng thay vì thế, Ducroux đã
yêu cầu được gửi về Pháp. Yêu cầu này được thông qua nhưng ông bị cấm không
được nhận bất cứ nhiệm vụ gì có liên quan đến Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Pháp. [76]
Hồ Chí Minh cũng lâm vào hoàn cảnh tương tự là bị tách rời khỏi những hoạt động
liên quan đến những quyết định chính trị. Hồ còn gặp phải một phức tạp khác do
đã có liên hệ với những hoạt động của ĐCS Trung Quốc, cụ thể là trong thời kỳ
khó khăn của năm 1930. Có khả năng là Khang Sinh đã có oán hận với ông vì ông
từng là người biết rõ vai trò của Khang Sinh trong thời kỳ hưng thịnh của Lý
Lập Tam, hoặc đã biết về những thất bại của ông trong tổ chức an ninh đặc biệt
vào năm
1933. Sau khi Kirov bị ám sát, Khang Sinh được cho là
đã bắt đầu hô hào một cuộc thanh trừng mới trong nội bộ đảng Trung Quốc tại Moscow [77]. Nhưng một lần nữa, vì không
có tài liệu làm bằng chứng nên ta không thể kết luận một cách chắc chắn về mối
quan hệ giữa Hồ và Khang Sinh.
Đại Hội Quốc tế Cộng
Sản Lần 7
Đại Hội Lần 7 QTCS cuối cùng cũng đã được khai
mạc vào ngày 25 tháng 7 1935. Nó đã đạt được sự nhất trí chậm trễ về việc ủng
hộ một liên minh với thành phần xã hội dân chủ cánh tả trong cuộc chiến đấu
chống lại chủ nghĩa phát xít tại châu Âu. Sự nhất trí này đã được chuẩn bị tỉ
mỉ từ giữa năm 1934, khi ĐCS Pháp đồng ý thực hiện ʺhành động chungʺ với Đảng
Xã Hội Pháp chống chủ nghĩa phát xít. Dường như đã có rất ít những thảo luận
sôi nổi và những nghị quyết Đại Hội đã được thông qua thanh chóng. Sự sục sôi
chính trị của Đại Hội 6, khi đặc tính của ʺGia Đoạn Thứ Baʺ và những ảnh hưởng
của chủ nghĩa thực dân đã bị xoá bỏ, thì giờ đây đang được giới lãnh đạo QTCS
cẩn thận chuyển hướng. Trong sự chuyển hướng mà rõ ràng là do Georgy Dimitrov
chủ trương trong tháng 7 1934, QTCS đã cho phép các đảng cộng sản được tự do
hơn trong phương sách riêng của mình, nhưng cùng lúc ấy họ cũng cách tân guồng
máy của mình và ʺxây dựng một mối liên hệ mật thiết giữa thành phần lãnh đạo
QTCS và Bộ Chính Trị ĐCS Liên Xôʺ. [78] QTCS đang rời bỏ chủ nghĩa cực đoan của
năm 1929 và Hội Nghị Thứ 10 Ban Chấp Hành QTCS, khi những chiến lược cực đoan
được đưa ra tại Moscow mà không màng gì đến những điều kiện tại địa phương
trong phong trào cộng sản thế giới. Dimitrov nhấn mạnh việc cần thiết phải tính
đến những điều kiện đặc trưng tại những địa điểm khác nhau trên thế giới
và những phát triển không đồng đều
trong phong trào cộng sản; không thể
dùng một đường hướng được tiêu chuẩn hoá để thay
thế việc tìm hiểu cặn kẽ ở những quốc gia khác nhau[79]. Nhưng cùng lúc
ấy, QTCS vẫn tiếp tục trợ giúp những đảng thành viên trong việc đào tạo những
ʺlãnh đạo Bolshevik thực thụʺ [80]. Dimitrov có lẽ đã thuyết phục được Stalin chấp
thuận những gì đã xảy ra tại Pháp và Trung Quốc, nơi các đảng đang đưa ra những
quyết định phù hợp với điều kiện chính trị của mình, bằng cách đồng thuận để
tăng mức kiểm soát của nhà lãnh đạo Sô Viết này tại hàng ngũ tối cao của QTCS.
Một Ban Bí Thư nhỏ gọn, chặt chẽ của Ban Chấp
Hành QTCS được chọn ra vào tháng 8 1935 trong đó những thành viên sẽ có ban bí
thư riêng của mình để điều khiển những nhóm của các đảng cộng sản. Dimitrov,
Tổng Bí Thư QTCS, chịu trách nhiệm về ĐCS Trung Quốc, trong khi đó Vương Minh
(Wang Min ‐ ND) chịu trách
nhiệm về các đảng tại khu vực
Nam Mỹ và Caribbe. Trách nhiệm về Đông Dương nằm trong tay
của ban bí thư của Manuilsky, bao gồm những quốc gia trước đây trực thuộc
Ban Bí Thư khu vực nói tiếng Romance và những thuộc địa. Vì thế trong hầu hết
giai đoạn Mặt Trận Bình Dân, ít nhất là cho đến mùa thu năm 1937, những
người cộng sản Việt Nam đã có quan hệ gần gũi với ĐCS Pháp.
Otto Kuusinen, một chuyên viên về những vấn đế Ấn Độ, phụ trách các
đảng cộng sản Nhật, Triều Tiên, Ấn Độ và Xiêm. Philippines nằm dưới sự chỉ đạo
của ban bí thư của André Marty vì ông đang đảm nhiệm những công
việc của những quốc gia thuộc ngôn ngữ
Anglophone và một số thuộc địa của chúng; Hà Lan và Nam Dương trở
thành bộ phận của Ercoli (Togliatti) [81]. Những quyền lợi của những đảng
vùng Đông Nam Á vì thế bị phụ thuộc vào những nhu cầu của các đảng trong những
quốc gia mẫu quốc [82].
Vào năm 1935, như nhiều tác giả đã nhấn mạnh,
QTCS đã áp đặt khái niệm của một mặt trận thống nhất dựa trên những chính sách
cấp tiến của những năm 1928 và 1929. Thời điểm để từ bỏ những mục
tiêu xã hội, dù là tạm thời,
vẫn chưa đến lúc. McDermott và Agnew
(Kevin McDermott & Jeremy Agnew ‐ sử gia người Anh ‐ ND) viết: ʺSự
tương quan chặt chẻ của Stalin với những chiếc lược của ban bí thư và những tư
tưởng của Giai Đoạn Thứ Ba đã ngăn chặn những nghiên cứu cặn kẽ về những kinh
nghiệm của sáu năm vừa qua. Vì thế thời kỳ Mặt Trận Bình Dân đã được đánh dấu
bởi một căng thẳng không được giải quyết giữa truyền thống và cách tân, giữa tư
tưởng thừa hưởng và khuôn khổ tổ chức và những chủ trương của những đảng cộng
sản để giao chiến với nền tư tưởng của phong trào xã hội dân chủʺ [83]. Mong
muốn của Hồ Chí Minh, đưa ra vào tháng 1-1935 về việc phân tích những thất bại
của giai đoạn 1930‐1 dưới quan điểm rằng đây là một sự hiểu lầm về ʺcuộc cách mạng dân chủ
tư sảnʺ, có lẽ đã đến trước thời gian. Dimitrov nhấn mạnh trong báo cáo Đại Hội
của mình rằng mặt trận thống nhất sẽ không đưa ra dấu hiệu của việc quay lại
khái niệm của hai giai đoạn cách mạng. Ông nói sẽ sai lầm nếu xem chính quyền
liên minh chống phát xít là ʺmột giai đoạn dân chủ trung gian nằm giữa chuyên
chính tư sản và chuyên chính vô sảnʺ. [84] Vào thời điểm này tại Moscow vẫn có rất ít thông tin về cuộc Vạn
Lý Trường Chinh. Vương Minh và những người lãnh đạo Trung Quốc khác giả định
rằng một huyện Sô Viết đang được thành lập tại Tứ Xuyên (Sichuan ‐ ND), trong vùng Thành Đô (Chendu ‐ ND) [85].
Wilhelm Pieck (cựu chủ tịch Cộng Hoà Dân Chủ Đức ‐ ND) vẫn trích dẫn việc thành lập
của phong trào Sô Viết tại Trung Quốc như là một ʺsự kiện nổi bậtʺ trong phong
trào cộng sản châu Á kể từ Đại Hội Lần 6 QTCS [86]. Nhưng vì sự vắng mặt của
một hội đồng đặc biệt về những quốc gia thuộc địa và bán thuộc địa, Đại Hội Lần
7 đã không đưa ra một tín hiệu rõ rệt cho những thuộc địa của những quốc gia
phương Tây.
Lê Hồng Phong là người Đông Nam Á duy nhất trở
thành thành viên của Ban Chấp Hành QTCS trong đại hội 1935. Việc này đã đưa ông
lên ngang hàng với những nhà lãnh đạo hàng đầu của Trung Quốc như Mao Trạch
Đông, Chu Ân Lai, Trương Quốc Đảo và Vương Minh (Khang Sinh và Bác Cổ (Bo Gu ‐ ND) trở thành
uỷ viên dự khuyết) [87]. Khi ông phát biểu vào ngày thứ tư của Đại Hội, dưới bí
danh Hải An, Phong nhấn mạnh tầm quan trọng về kinh nghiệm của Trung Quốc đối
với Việt Nam . Cách mạng Tháng Mười Nga đã đóng
vai trò quan trọng trong việc phát triển phong trào cách mạng tại Việt Nam , ông nói. ʺNhưng chính phong trào
Sô Viết thắng lợi tại Trung Quốc đã đóng vai trò quyết định,ʺ ông nhận định.
ʺTrong suốt lịch sử của đảng chúng tôi, ĐCS Trung Quốc đã giúp đỡ và hậu thuẫn
cũng như chia sẻ kinh nghiệm của họ. [...] Tình huynh đệ thắm thiết gắn chặt
hai đảng chúng tôiʺ [88]. Dù thế, tầm quan trọng thật sự của phong trào Sô Viết
tại Trung Quốc đối với Đông Dương ra sao thì không được nêu rõ trong bài phát
biểu của Hải An. Sau giai đoạn ʺphát triển tối đaʺ của ĐCS Đông Dương vào những
năm 1930‐1, ông giải thích, đã không còn gì ngoài những tổ chức cộng sản cô lập
tại Việt Nam; nhưng vào thời điểm hiện tại ʺphong trào đang phát triển trên một
cơ sở rộng lớn hơn so với trong quá khứ. Tầng lớp dị biệt nhất trong dân chúng,
những thành phần lạc hậu nhất trong tầng lớp lao động, những dân tộc thiểu số
(Mọi, Thợ, Lão v.v...), tầng lớp quần chúng rộng rãi của tiểu tư sản, trí thức
đã được lôi kéo vào cuộc đấu tranhʺ [89]. Nhưng ông tiếc rằng những đồng chí
của mình đã không nghĩ đến việc thành lập một mặt trận thống nhất dựa trên ʺmột
mặt trận phản đế rộng rãiʺ [90].
Phát biểu của Nguyễn Thị Minh Khai tại Đại Hội
vào ngày 16 tháng 8 cũng cho thấy giai đoạn trung chuyển nhắm về một mặt trận
chống phát xít. Bà đã phát biểu về vấn đề chống chiến tranh được đưa ra từ báo
cáo của Ercoli tại Đại Hội. Bà đề cập rất ít đến những vấn đề phụ nữ, than
phiền về con số nhỏ nhoi của phái nữ tại Đại Hội. Chủ đề chính của bà là mối
nguy hiểm ngày một lớn của hệ thống quân sự Pháp tại vùng biển Thái Bình Dương
và việc chuyển hoá Đông Dương thành một căn cứ quân sự của Pháp. Nhiệm vụ của
ĐCS Đông Dương vì thế cần phải ʺhuy động toàn bộ lực lượng của mình để tạo
thành một mặt trận bình dân rộng rãi trong cuộc đấu tranh vì hoà bìnhʺ. Mặc dù
Liên Xô đã thoả thuận với Pháp về một hiệp ước hỗ trợ chung vào tháng 6 1934,
ĐCS Đông Dương vẫn quyết tâm ʺvạch mặt những chính sách của đế quốc Pháp bằng
ví dụ điển hình là Đông Dươngʺ [91]. Chỉ sau khi Mặt Trận Bình Dân thắng cử tại
Pháp vào mùa xuân 1936, ĐCS Đông Dương mới thay đổi sự chống đối của họ đối với
nỗ lực tự vệ của người Pháp.
Photo 008
ʺChứng
minh thưʺ tại Đại Hội 7 Quốc tế Cộng Sản, 1935 của Nguyễn Thị Minh
Khai và Lê Hồng Phong, hai trong số ba đại biểu của Đông Dương.
Photo 009
Ban Chấp Hành mới của QTCS được bầu chọn vào năm 1935.
Hàng đứng:
(từ trái sang) M. Moskvin, Otto Kuusinen, Klement Gottwald, Wilhelm Pieck,
Dmitry Manuilsky. Hàng ngồi: (từ trái sang) André Marty, G.Dimitrov, Palmiro
Togliatti, V.Florin, Vương Minh.
Photo 010
Vera
Vasilieva, lãnh đạo bộ phận Đông Dương tại QTCS, người được cho là đã bảo vệ Hồ
Chí Minh khi ông bị điều tra vào năm 1935.
Photo 011
Hồ Chí Minh
trước khi rời Moscow đi Trung Quốc vào năm 1938. Đầu ông bị cạo trọc có lẽ
là do việc phải nhập viện.
Mặt Trận Thống Nhất
tại Đông Dương
Trong việc phân tích những hệ quả của Đại Hội
QTCS Lần 7, ta có thể lấy làm lạ là việc thay đổi chính sách về mặt trận thống
nhất đã không thay đổi thời vận của Hồ Chi Minh ngay lập tức. Ta không biết
được Vasilieva đã nghĩ gì khi bà viết về ʺdự định sử dụng ông ta sau hai năm
học tậpʺ ‐ nhưng ta biết được rằng Hồ vẫn ở lại Moscow sau khi Lê Hồng Phong quay
về lại châu Á vào năm 1936 và khi Minh Khai và Hoàng Văn Nọn quay về vào năm
1937. Một mẩu thư của Vasilieva gửi cho ʺDmitry Zaharovichʺ (Manuilsky), chắc
hẳn là đã được viết vào cuối năm 1935 hoặc đầu năm 1936, xác nhận rằng tại Moscow,
Lê Hồng Phong đang nắm vai trò chủ đạo trong việc vạch ra đường lối cho ĐCS
Đông Dương vào lúc ấy. Vailieva viết rằng, ʺHải An muốn tham khảo về những vấn
đề Đông Dương vào những ngày tới, vì ông ta phải (1) viết một bức thư cho
đảng... và (2) có thể sẽ nhập viện trong vài ngàyʺ [92]. Tám thành viên của
QTCS được mời tham dự buổi hội ý: Manuilsky,
Kuusinen, Khang Sinh, Vương Minh, Stepanov,
Gere, Mirov và Vasilieva. Ở cuối danh sách này Vasilieva đã
ghi chú rằng hai học viên người Đông Dương đang theo học tại Đại Học Stalin và
ʺĐồng Chí Lin (Ai‐kvak)ʺ từ Đại Học Lenin cũng được yêu cầu tham dự. [93]
Trong năm 1936 ĐCS Đông Dương đã thảo ra một số
thư về vấn đề mặt trận thống nhất tại Đông Dương. Bức thư đầu tiên có lẽ được
thảo tại Moscow sau cuộc hội ý trên. Một bức thư bằng tiếng Pháp từ Phân Bộ
Đông Dương thuộc Liên Đoàn Phản Đế gửi đến ʺCác Đảng Phái và Phần Tử Cách Mạng
Trong Nước và Hải Ngoạiʺ, đề ngày 27 tháng 2 1936 có thể tìm được tại hồ sơ của
ban bí thư của Manuilsky. Bức thư kêu gọi tất cả các đảng phái, tất cả
các phần tử cách mạng trong nước và hải ngoại tham gia bộ phận Đông Dương của
Liên Đoàn Phản Đế ʺđể đoàn kết phong trào giải phóng dân tộc tại Đông Dươngʺ
[94]. Một tài liệu khác mang tên ʺThư Mở của Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Đông Dươngʺ
đã xuất hiện vào tháng 4 ‐ một bản sao của nó đã được gửi đến Moscow và được dịch sang tiếng Nga vào
ngày 6 tháng 6 1936. Lá thư nhắm vào thành phần ʺViệt Nam Quốc
Dân Đảng và tất cả những tổ chức và đảng phái cách mạng
dân tộc, những nhóm phản đế, những tổ chức cách tân, những nhóm đối
lập và những phần tử cách mạng đơn lẻ tại Đông Dươngʺ [95]. Bức thư đề
xướng một cơ cấu uyển chuyển cho một mặt trận thống nhất trong đó sẽ giao cho
các tổ chức cộng sản hạ tầng quyền quyết định những hoạt động chung tại cấp địa
phương. Lá thư đề nghị rằng những đảng phái khác hoặc là nên gia nhập bộ phận
Đông Dương của Liên Đoàn Phản Đế hoặc mỗi tổ chức nên cử ra một vài đại diện để
tham gia vào một uỷ ban điều phối. Ban Chỉ Huy Hải Ngoại của ĐCS Đông
Dương sẽ chịu trách nhiệm trong việc thảo luận với những chi nhánh
hải ngoại của những đảng phái khác [96].
Ta không biết được ai là tác giả chính thức của
bức thư trên. Nhưng việc nó bao gồm những ʺnhóm cách tânʺ trong lời kêu gọi cho
thấy một trong những dấu hiệu của việc chuyển hướng sang hình thái chiến lược
mới của mặt trận thống nhất của ĐCS Đông Dương. Ta có thể chắc chắn rằng bức
thư không phải là sản phẩm chung của Lê Hồng Phong và Hà Huy Tập. Vì khi Hà Huy
Tập gửi một báo cáo đến Moscow về công việc của ĐCS Đông Dương từ tháng 5 1935
đến tháng 6 1936, Lê Hồng Phong vẫn chưa liên lạc với Ban Chỉ Huy Hải Ngoại,
lúc đó đang đóng tại Macao. [97] Ta có thể đoán rằng những lá thư tháng 2 và
tháng 4 đã kêu gọi một mặt trận phản đế với tổ chức Việt Nam Độc Lập Đồng Minh
Hội (Việt Minh) tại Nam Kinh. Theo lời Hoàng Văn Hoan, việc này xảy ra
với sự đồng ý của Hà Huy Tập vào khoảng đầu năm
1936. [98] Nhưng trong báo cáo của mình gửi cho QTCS vào ngày 1
tháng 7 1936, Tập lại viết rằng ʺmột tổ chức gọi là Liên Đoàn Việt Nam Độc Lập
Cách Mạng đã được thành lập tại Nam Kinhʺ, và ʺmột hội nghị giả tạo đã được tổ
chứcʺ. ʺChúng tôi đã khai trừ khỏi đảng những thành viên cộng sản nào đã thành
lập liên đoàn này với Min [còn có tên là Phi Vân, Nguyễn Hữu Cam]; nó đã bị tan
rã khi bị chúng tôi lột mặt nạ,ʺ ông báo cáo [99]. (Nhưng Hoàng Văn Hoan lại
viết rằng Liên Đoàn lâm vào tình trạng bất động vì thái độ thù địch của một số
người Việt quốc gia và khó khăn khi gây quỹ [100]). Rõ ràng là Lê Hồng Phong đã
từ Moscow đến thẳng Nam Kinh với thông
điệp về mặt trận thống nhất: ông đã có mối liên hệ lâu dài với Hồ Học Lãm và
Nguyễn Hải Thần, hai thành viên của tổ chức Việt Minh đầu tiên. Như những sự
kiện sau này cho thấy, ngay cả sau khi Lê Hồng Phong và Hà Huy Tập liên lạc với
nhau vào năm 1936, Tập vẫn tiếp tục phản bác chiến lược sau Đại Hội 7 của QTCS.
Tại cuộc họp được tổ chức vào cuối tháng 7 tại
Thượng Hải, được gọi là Hội Nghị Trung Ương Đảng, hai nhà lãnh đạo cộng sản
cuối cùng đã gặp nhau. Chính tại cuộc họp này những nghị quyết lỗi thời từ Hội
Nghị Macao đã được loại bỏ. Trên thực tế hội nghị này có thể là một cuộc họp của
Ban Chỉ Huy Hải Ngoại mà từ tháng 9 1935 đang hoạt động như một Uỷ Ban Trung
Ương; có thể những đảng viên trong nước đã không được tham dự. [101] Hội nghị
đã đưa ra một bức thư mở mới về việc thành lập mặt trận thống nhất mà giờ đây
được gọi là ʺmột Mặt Trận Liên Hiệp Phản Đế Bình Dânʺ. [102] Cuộc họp tiếp theo
sau việc thành lập của chính phủ Mặt Trận Bình Dân tại Pháp vào tháng 5 đã mở
đường cho Hà Huy Tập chuyển về Sài Gòn vào tháng 8 để thành lập một Uỷ Ban
Trung Ương mới. [103] Trên giả thuyết ông đã đem theo ʺBức Thư Mởʺ viết vào
tháng 7 và một loạt những nghị quyết phản ánh việc ĐCS Đông Dương chấp nhận
đường lối của Đại Hội 7 QTCS, nhưng trên thực tế, sau này ông đã bị tố cáo là
không chịu thực thi những chính sách mới của QTCS và đã không công bố những
quyết định từ cuộc họp vào tháng 7 tại Thượng Hải. Trong một báo cáo tóm lược
mà ông đã viết vào cuối mùa hè 1937, ông đã đề cập rằng ʺLitvinov (Lê Hồng
Phong) đang ở nước ngoài như là một đại diện dự bị; vì sự vắng mặt ấy, ông ta
không có vai trò gì trong hoạt động của Uỷ Ban Trung Ươngʺ [104]. Một người tại
Ban Bí Thư Đông Phương đã viết một nhận định về bản báo cáo này vào tháng 1 /
1938 và đã ghi chú rằng: ʺLitvitov (Hải An) đã nhận công tác khi ông ấy rời
khỏi Moscow để quay về nước và tổ chức việc đưa Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Đông Dương
vào trong quốc nội. Sau khi việc chuyển đổi của Hà Huy Tập diễn ra, Hải An được
lệnh của Lozeray [một người cộng sản Pháp đang cùng uỷ ban điều tra quốc hội
thăm viếng châu Á]... tìm cách nắm lại quyền lãnh đạo đảng ở trong nước. Rõ
ràng là ông ấy đã thất bại trong việc nàyʺ [105]. Vì thế có thể Hà Huy Tập đã
tự ý nắm quyền vào năm 1936 khi ông quay lại Sài Gòn. Những tiến triển của sự
mâu thuẫn này sẽ được phân tích ở chương kế tiếp.
Những ảnh hưởng của chính phủ Léon Blum tại
Việt Nam đã được ghi chép đầy đủ, đặc biệt là tại Nam Kỳ, nơi mặt trận La Lutte
đã phát triển thành một tờ báo chung và một liên minh chính trị giữa ĐCS Đông
Dương và những người Trotskyist địa phương cho đến mùa hè 1937. [106]
Phong trào Hội Nghị Đông Dương, được bắt đầu bằng đề nghị của Nguyễn An Ninh
đăng trên tờ La Lutte vào ngày 29 tháng 7 1936, đã đem lại một làn sóng hoạt
động chính trị mới trong chính trường. Những uỷ ban hành động được thành lập,
bắt đầu từ những thị trấn và làng xã phía nam nhằm thu thập những yêu sách của
dân chúng và chuẩn bị cho việc tổ chức một Hội Nghị bao gồm những thành viên
cộng sản và Trotskyist như một tổ chức đại diện cho phần đông dân chúng. Một
đợt ân xá cho các tù nhân chính trị từ tháng 7 1936 đến tháng 8 1937 đã trả tự
do cho hơn 2.000 nhà hoạt động trong đó có 643 tù nhân Côn Đảo (Poulo Condore
‐ ND) [107]. Những người tù cộng sản đã tận dụng tốt thời gian họ bị giam
cầm: họ đã nâng cao trình độ lý thuyết cộng sản và trau dồi kỹ năng hoạt động
của mình. [108] Nhiều người trong họ trong đó có một nhóm lãnh đạo quan trọng
của ĐCS Đông Dương đã sớm hoà nhập với phong trào yêu cầu nâng cao điều kiện
làm việc và tự do dân chủ cho nhân dân Đông Dương. Nhưng việc chính quyền thuộc
địa không mặn mà lắm với phong trào Mặt Trận Bình Dân cho thấy làn sóng lạc
quan đầu tiên của những người Việt đối với chính phủ mới tại Pháp đã không tồn
tại được lâu. Đến tháng 9 1936 vị Bộ Trưởng Bộ Thuộc Địa, một người xã hội tên
Marius Moutet đã thông báo với Hà Nội rằng việc tổ chức
một Hội Nghị rộng lớn tại Sài Gòn thì
không thể chấp nhận được[109]. Theo sau cuộc
viếng thăm của đại diện Mặt Trận Bình Dân là Justin
Godart (Thị trưởng Lyon, thuộc đảng Xã hội cấp tiến ‐ ND) tại Sài
Gòn và Hà Nội và đầu năm 1937 và những cuộc biểu tình rộng lớn để đón chào ông,
chính quyền thuộc địa đã bắt đầu một chiến dịch đàn áp mới. Nhưng một báo cáo
vào năm 1937 của Ban Chỉ Huy Hải Ngoại gửi đến Moscow đã đổ những thất bại của
phong trào Hội Nghị lên những người Trotskyist: bức thư này đã phê phán La
Lutte đã đẩy ʺthành phần tư sản dân tộcʺ ra khỏi mặt trận thống nhất bằng những
phê bình gắt gao [110]. ʺMặt trận thống nhất hạ tầngʺ giữa ĐCS Đông Dương và
thành phần Trotskyist đã không tồn tại trong sự thất vọng chung đối với chính
phủ của Blum. Vào tháng 5 1937 ĐCS Đông Dương đã gây áp lực đòi rút ra khỏi
liên minh với ĐCS Pháp, hiện đang bận rộn với cuộc chiến toàn diện chống lại
chủ nghĩa Trotskyism của Stalin, nhưng chủ yếu chính là cam kết của QTCS đối
với những đồng minh chống phát xít đã dẫn đến việc mặt trận La Lutte bị giải
thể vào tháng 6 1937. Đến tháng 8 ĐCS Đông Dương đã bắt đầu giai đoạn tái tổ
chức, sẽ được thảo luận ở chương tới.
Những hoạt động của Lê Hồng Phong tại Trung
Quốc đã không được ghi chép đầy đủ như lịch sử của mặt trận La Lutte tại Sài
Gòn. Nhưng những báo cáo của Sở Liêm Phóng cho thấy từ mùa thu 1936 đến đầu năm
1937 ông đã di chuyển trong khu vực miền nam Trung Quốc và tái lập liên lạc với
một số người trong đó có Nguyễn Hải Thần, nhà lãnh đạo phong trào dân tộc đã ly
khai khỏi Thanh Niên Hội vào năm 1927. Theo lời của mật vụ ʺKonstantinʺ,
Lê Hồng Phong đã viếng thăm Thần vào ngày 23 tháng 9 1936. Hai người được cho
là đã dự định tổ chức một cuộc họp mở rộng tại Thuận Đức (Shun De ‐ ND) [111].
Những chỉ điểm của Sở Liêm Phóng cũng tìm thấy dấu vết của Phong vào tháng 3 và
tháng 4 1937 ‐ ông được cho là đã di chuyển liên tục giữa các vùng Thuận Đức, Phật Sơn
(Fat San ‐ ND) và Quảng Châu [112]. Những hoạt động của Lê Hồng Phong có lẽ đã tác
động đến việc thành lập Mặt Trận Bình Dân của những người Việt tại Vân Nam, sự
kiện này đã được đề cập đến trong báo cáo của tình báo quân sự Pháp vào tháng
3-4 1937. Báo cáo này đã nhắc đến ba tiểu tổ quan trọng nhất của ʺQuốc Dân
Đảngʺ tại Hà Khẩu (Hekou ‐ ND), Khai Nguyên (Kai Yuan ‐ ND) và Côn
Minh (Kun Ming ‐ ND) đã tham gia mặt trận này, bản báo cáo
gọi nó là ʺchi bộ của phân bộ Bắc Kỳ
của Mặt Trận Bình Dân Đông Dươngʺ[113].
Ở đây chúng ta thấy được một trong những dấu
hiệu ban đầu của mặt trận thống nhất tại Bắc Kỳ (cũng như ở miền trung Việt Nam ] đã mang một hình thái khác với mặt
trận thống nhất tại Sài Gòn. Rõ ràng là đã không có những cơ hội cho những nhà
hoạt động tại miền bắc. Nhưng cũng đúng là tại Hà Nội thành phần Troskyist đã
không có một tổ chức vững mạnh và dường như đã không xâm nhập được vào trong
phong trào công nhân. Hơn nữa, cũng không có thành phần tư sản tương đương của
Đảng Lập Hiến tại vùng này. Vì thế khi những người tù cộng sản được phóng thích
bắt đầu xuất hiện tại Bắc Kỳ vào cuối năm 1936, ĐCS Đông Dương đã không gặp trở
ngại gì trong việc tổ chức phong trào lao động. Cùng lúc đó họ đã cởi mở để tạo
một liên minh chính trị với những lực lượng trung lưu và dường như đã đóng vai
trò chủ chốt trong việc thành lập chi bộ Việt Nam
của Đảng Dân Chủ SFIO (Section
Francaise de IʹInternationale Ouvrière - Phân Bộ Pháp của
Liên Đoàn Lao Động Quốc Tế ‐ ND) tại miền bắc. Vào tháng 3 1936
tờ báo lưỡng nguyệt LʹAvenir (Tương Lai ‐ ND) bắt đầu xuất hiện. Những người
cộng tác bao gồm Võ Nguyên Giáp, Phan Anh, Đặng Thai Mai, Vũ Đình Huỳnh và Bùi
Ngọc Ái, đa số họ sẽ đóng vai trò quan trọng trong tổ chức Việt Minh. [114] Vào
tháng 11 1936 một nhóm hỗn hợp gồm những thành viên của ĐCS Đông Dương và
Trotsyist đã thành lập tờ Le Travail (Lao Động
‐ ND), một tờ báo hổ trợ việc phóng
thích những tù nhân chính trị và tổ chức việc chuẩn bị cho chuyến viếng thăm
của Justin Godart. Trong số những nhà báo hàng đầu của tờ báo này có Đặng Xuân
Khu, một nhà hoạt động từ Nam Định đã từng làm việc với Nguyễn Đức Cảnh vào năm
1929 trước khi bị bắt đi tù tại Bắc Kỳ vào năm 1930. Sau này ông chính là người
được biết nhiều với cái tên ông lấy vào năm 1945 là Trường Chinh. Đến tháng
1937 nhóm Travail đã hợp tác với SFIO và Đảng Cấp Tiến (hai tổ chức của Pháp)
trong kế hoạch thành lập một chi bộ của SFIO tại Bắc Kỳ [115]. Vào tháng 4 1937
Phạm Văn Đồng cũng đã tham gia nhóm này, ông đang bị giam lỏng ở Huế sau khi
vừa được phóng thích. Một báo cáo của Sở Liêm Phóng cho biết rằng ông là một
nhà báo tài ba và đã được cử làm biên tập viên cố định của tờ Le Travail [116].
Nhưng tờ báo đã phải đóng cửa ngay sau khi Đồng tham gia vì nhà xuất bản bị
những vụ phạt vạ và kiện cáo. Đến mùa hè 1937, những bất đồng giữa nhóm
Trotskyist và ĐCS Đông Dương đã làm thất bại cố gắng đầu tiên để
thành lập mặt trận thống nhất tại Hà Nội [117].
Nhưng ĐCS Đông Dương vẫn tiếp tục theo đuổi việc liên minh với
những trí thức quốc gia và những thành viên khác của thành phần tư sản tại Bắc
Kỳ.
Những năm cuối của Hồ Chí Minh tại Moscow
Sau Đại Hội 7 Hồ Chí Minh vẫn ở lại Đại Học
Lenin cho đến cuối năm 1935, nhưng sang năm 1936 ông đã là giảng viên trong bộ
phận Đông Dương tại Đại Học Stalin, nơi hai đại biểu người Việt của Đại Hội 7
đang theo học. Một báo cáo về một cuộc họp của giảng viên và học viên của bộ
phận này vào tháng 4 1936 cho thấy ʺLinʺ và Vere Vasilieva đã làm việc chung
với nhau, rõ ràng là để thiết lập một khoá đào tạo về Đông Dương. Bà làm chức
giảng viên chủ đạo trong Bộ Phận Đông Dương. ʺThật dễ chịu khi làm việc với ông
ấy vì ông ấy là một chuyên gia trong đề tài về đất nước ông,ʺ bà nhận xét; ʺông
ấy biết về tình hình đất nước nhưng không được hệ thống mấy.ʺ Họ làm việc
về những khó khăn chính trị như vấn đề nông dân. ʺÔng ấy có rất nhiều kinh
nghiệm cách mạng, nhưng cũng như những đồng chí người Đông Dương khác, ông đã
mắc phải rất nhiều sai lầm, hiện nay chúng tôi đang chú tâm rất nhiều về những
vấn đề này... ông ấy đã có nhiều tiến bộʺ [118]. Một số nguồn tài liệu của Việt
Nam nói rằng Hồ đang dự định soạn thảo một luận
cương về vấn đề nông dân, nhưng tôi đã không thấy một bằng chứng nào về việc
này ngoài báo cáo của Vasilieva . Một trong những học viên của Hồ là ʺVăn Tânʺ
(Hoàng Văn Nọn] đã than phiền rằng Đồng Chí Lin đã đặt ông vào một chế độ
ʺStakhanoviteʺ (lấy từ tên của Alexey Stakhanov, người phát động phong
trào thi đua lao động tăng năng suất, vượt chỉ tiêu kế hoạch ở Nga ‐ ND) trong một
khoá học ‐ trong vòng một tháng ông đã phải hoàn thành toàn bộ lịch sử của ĐCS
Liên Xô, và vì không có tài liệu, ông đã phải thuộc lòng mọi thứ. ʺĐồng Chí Lin
nói rất nhanh, cứ như một bánh xe đang xoay,ʺ ông nói; ʺđó là nguyên nhân
về tình trạng kiến thức của tôi [119]. (Ta có thể đoán được rằng Hồ đã không có
hứng thú gì trong việc giảng dạy cho người thanh niên dân tộc Tày này về phiên
bản lịch sử đảng đã được Stalin hoá từ năm 1935. Ta biết rằng khi Hồ muốn giảng
điều gì, ông sẽ bỏ nhiều công sức để giải thích vấn đề một cách rõ ràng và đơn
giản).
Vào cuối năm 1936 Vasilieva thảo ra một
kế hoạch đào tạo cho những học viên Đông Dương trong đó bà đưa ra chi phí cho
10 học viên người Việt đến Moscow . Kế hoạch cũng đề xuất việc thành
lập một trường đào tạo mới tại Trung Quốc để giảng dạy những lớp chính trị dài
2 tháng cho những hoạt động viên cấp thấp từ Việt Nam . Bà dự định một ngân sách 3.000
đô-la Mỹ để đào tạo 10 học viên cho mỗi khoá hai tháng. Điểm thứ chín trong bản
đề xuất của bà có nhắc đến rằng ʺchúng ta phải quyết định vấn đề gửi Đồng Chí
Lin, người đã hoàn tất công việc nghiên cứu tại Moscow, về để tổ chức và giảng
dạy tại trường này.ʺ Nhưng ở cuối bản đề xuất của bà, ai đó đã viết: ʺMọi đề
nghị đều bị huỷ bỏ sau khi vấn đề đã được làm sáng tỏ” [120] ʺVấn đềʺ là gì thì
không được giải thích, nhưng chúng ta biết rằng Đồng Chí Lin đã phải lưu lại
Moscow để tiếp tục học tập.
Đến năm 1937, Đại Học Stalin được tái tổ chức
với những học sinh không thuộc Liên Xô được đưa vào ʺHọc Viện Khoa Học về việc
Nghiên Cứu các Vấn Đề Dân Tộc và Thuộc Địaʺ. Một tên mới có vẻ trung lập hơn
nhưng không có nghĩa là nhà trường đã thay đổi chức năng của mình. Trong một
bức thư gửi cho ʺHội Đồng Quản Trị Sô Viếtʺ vào tháng 4 1938, một quản trị viên
của nhà trường giải thích rằng chức năng của Học Viện là nhằm đào tạo những
thành viên của các đảng nước ngoài ‐ cái tên chỉ là vỏ bọc và không phản
ánh tính chất thật sự về hoạt động của trường, ông viết. [121] Hồ vẫn ghi danh
là giảng viên và học viên tốt nghiệp, ông tham dự ʺlớp đầu tiênʺ của Khoa Lịch
Sử. Ông đã không tỏ vẻ phấn khởi mấy trong việc học tập của mình: ông chỉ đạt
điểm ʺtrung bìnhʺ trong các lớp ʺDuy Vật Biện Chứngʺ, ʺLịch Sử Cổ Đạiʺ và
ʺLịch Sử Trung Đạiʺ. Chỉ có môn ʺLịch Sử Cận Đạiʺ là ông nhận được điểm ʺxuất
sắcʺ. Địa vị giảng viên của ông dường như rất thấp ‐ ông giảng dạy
môn ʺNghiên Cứu về Đông Dươngʺ bằng tiếng Việt. Ngược lại, ʺMininʺ
Nguyễn Khánh Toàn, người đã từng học tại Cao Đẳng Hà Nội, được nhận chức
ʺquyền giảng viênʺ trong các môn ʺKinh
Tế Chính Trịʺ, ʺLịch Sử Tổng Quátʺ, và
ʺNghiên Cứu Quốc Giaʺ. [122] (Việc Nguyễn Khánh Toàn lưu lại Moscow lâu dài đã không được giải thích.
Ông quay về lại Trung Quốc vào năm 1939).
Đến giữa năm 1938, khi Hồ Chí Minh chuẩn bị rời
Moscow , Học Viện đã bị đóng cửa. Pavel
Mif, Giám Đốc Học Viện và là cánh tay phải của Stalin về những vấn đề Trung
Quốc từ năm 1928, đã bị bắt vì tội danh ʺkẻ thù nhân dânʺ trong khoảng năm
1937. Ông bị tử hình vào năm 1938. Trong suốt những năm 1937 và 1938 rất nhiều
lãnh đạo ĐCS Nga và những nhà hoạt động của QTCS bị bắt và xử bắn. Những thành
viên QTCS từng giúp thực hiện đường lối cứng rắn của những năm 1928-9 đã
bị trừng phạt nặng nề. Những người này gồm
thành viên người Ba Lan ʺRylskiʺ,
ʺBailisʺ (người soạn thảo cuốn Kháng Chiến Vũ
Trang], Volk, Vasiliev, Safarov và cả Piatnitsky (Orgwald]. Những chuyên
viên về vấn đề nông dân từng theo dõi công tác của Hồ Chí Minh trong giữa thập
niên 1920 là Dombal và ʺVolinʺ cũng bị cuốn vào làn sóng thanh trừng. [123]
Trong khi đó ba thành viên cộng sản Nga là Trotsky, Zionev và Bukharin, những
người đã từng lãnh đạo QTCS cho đến năm 1929 đã bị đánh bật.
Thật khó mà tưởng tượng được rằng một người
cộng sản kỳ cựu như Hồ Chí Minh lại có thể tiếp tục hoạt động trong suốt thời
kỳ đảo điên này. Nhưng đến tháng 1 1938 ông vẫn đang dịch những thư
từ hiếm hoi từ Đông Dương gửi đến Moscow . Việc ông sống sót trong suốt những
tháng năm tồi tệ nhất của phong trào thanh trừng được xem là dấu hiệu của việc
Hồ được bảo vệ bởi một trong những lãnh đạo
cao cấp còn sót lại đó là Manuilsky, hoặc ông
là một người Stalinist thuần thành. Về giả thiết thứ hai, chúng ta
biết rằng Stalin đã có rất nhiều thay đổi trong chính sách vì thế Hồ không thể
nào đã không có mâu thuẫn với đường lối của Stalin trong vài giai đoạn nào đấy.
Như Hồ đã cho thấy trong năm 1924, ông sẵn sàng hợp tác với bất kỳ nhóm nào
đang nắm quyền lực tại QTCS nhằm xúc tiến cho nền độc lập của Việt Nam . Nhưng ngay cả việc im lặng phục
tùng vẫn không đủ để cứu ông nếu ông là một người Ba Lan, Baltic, Đức hoặc Thổ
Nhĩ Kỳ. Những người này đã bị Stalin tấn công với toàn bộ chủ tâm trả thù của
mình trong những năm 1937‐8. Đại diện QTCS từ những đảng hợp
pháp như các ĐCS Pháp, Anh và Mỹ nhìn chung đã được dung thứ. [124] Trong
trường hợp của Hồ Chí Minh, việc ông đến từ một đất nước xa xôi với một ưu tiên
thấp trong chính sách ngoại giao của Liên Xô có thể là một phần nguyên nhân tại
sao ông đã không bị bắt. Cùng lúc ấy, ông cũng đã thực hành việc mà ông đã làm
từ lâu là giữ thấp danh phận của mình tại Moscow và không bao giờ nhận mình là một
nhà lý luận như M.N.Roy đã làm. Trong bản thẩm tra lý lịch mà ông đã điền khi
ghi danh vào Đại Học Lenin năm 1934, ông vẫn luôn giữ bí mật. Ông viết rằng ông
không có người thân trưởng thành, không vợ, không chuyên môn, không nghề nghiệp
và cũng không biết mình có thể làm được trong lĩnh vực gì. Vào cuối bài tiểu sử
ngắn của mình, ông viết một cách châm biếm: ʺTôi nghĩ rằng đấy là tất cả những
gì về lý lịch của tôi hiện nayʺ [125].
Về mối quan hệ giữa ông và Dmitry Manuilsky, ta
biết qua một bức thư ông gửi đến Ban Bí Thư của Manuilsky vào ngày 6 tháng 6
1938 rằng hai người đã không gặp nhau trong một thời gian dài. Hồ viết: ʺThưa
Đồng Chí, tôi vô cùng biết ơn nếu đồng chí cho phép tôi được gặp. Lâu lắm rồi
đồng chí đã không gặp tôi.ʺ Hồ chỉ ra rằng đã 7 năm rồi kể từ ngày ông bị bắt
giữ tại Hồng Kông và cũng là bắt đầu năm thứ 8 của việc ông bị ʺbất độngʺ: ʺGửi
tôi đi một nơi nào đấy. Hoặc giữ tôi tại đây. Hãy sử dụng tôi trong việc gì mà
đồng chí cho là có ích. Tôi chỉ yêu cầu đồng chí đừng để tôi sống tại đây quá
lâu mà không làm gì bên ngoài đảng” [126] Hồ sơ của Học Viện Khoa Học về việc
Nghiên Cứu các Vấn Đề Dân Tộc và Thuộc Địa cho thấy ước nguyện của ông đã được
chấp thuận và vào ngày 29 tháng 9 1938 ông chính thức được giải toả. [127]
Không bao lâu sau dường như ông đã khởi hành đi Trung Quốc. Một lần nữa, chúng
ta hoàn toàn không biết nhiệm vụ của Hồ là gì khi ông rời Moscow đi Trung Quốc.
Nhưng ta biết rằng ông quay lại với tư cách là một phái viên chính thức của
QTCS đối với ĐCS Đông Dương. Vasilieva đã can thiệp với Dimitrov để họ chịu
nghe Hồ phát biểu trước khi ông khởi hành. Bà giải thích trong một bức thư
ngắn: ʺĐiều quan trọng là ai đó trong thành phần lãnh đạo nên nói chuyện
với Đồng Chí Lin trước khi ông ấy ra đi về những vấn đề liên quan đến những bất
đồng bên trong thành phần lãnh đạo Đảng [CS Đông Dương] mà hiện nay vẫn còn tồn
tại. Lin là một thành viên của Uỷ Ban Trung Ương, có nhiều quyền lực trong
Đảng, và vì ông ấy từ Moscow về, họ sẽ chú ý lắng nghe những gì ông nói. Vì thế
rất quan trọng là ông ấy cần nói đúng. [128] (Dường như vào thời điểm này ít
nhất Hồ vẫn được xem là một uỷ viên dự khuyết của Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Đông
Dương).
Trên thực tế niềm tin của Vasilieva đối với uy
quyền từ Moscow dường như đã không đặt đúng chỗ. Chương kế tiếp tôi sẽ phân tích những
bất đồng bên trong thành phần lãnh đạo ĐCS Đông Dương đã làm chia rẽ đảng này
từ 1936 đến 1940. Mãi cho đến tháng 5 năm 1941, hai năm sau khi Hồ về lại Trung
Quốc, ông mới chính thức chuyển giao thông điệp của mình đến Uỷ Ban Trung Ương
Đảng.
CHƯƠNG
7:
HỒ
CHÍ MINH TRỞ VỀ VÀ CON ĐƯỜNG DẪN
ĐẾN
HỘI NGHỊ LẦN THỨ TÁM (1937-41)
Khi Hồ Chí Minh được phép quay về lại châu Á
vào mùa thu 1938, Liên Bang Sô Viết và chính quyền Quốc Dân Đảng Trung Quốc đã
tái thiết lập một liên minh. Những đàm pháp kéo dài giữa Moscow và Nam Kinh đã dẫn đến việc ký kết
hiệp ước không gây hấn vào tháng 8 1937. Cũng như trong những năm 1920, thành
quả ngoại giao đã không được những người cộng sản Trung Quốc hoàn toàn thừa
nhận. Nhưng nó đã đem lại một nguồn viện trợ quân sự mới nhằm giúp Quốc Dân
Đảng ngăn chận bước tiến của quân Nhật từ những thành phố vùng duyên hải vào
trung tâm Trung Quốc. Charles McLane (Giáo sư sử người Mỹ ‐ ND) ước tính
từ giữa năm 1937 đến tháng 11 1940, số tiền viện trợ của Nga cho Tưởng Giới
Thạch lên đến khoảng từ 300 đến 450 triệu đô‐la [1]. Thoả thuận giữa Nga và Quốc
Dân Đảng cũng đã dẫn đến sự hồi sinh của mặt trận thống nhất giữa
những người quốc gia và cộng sản Trung Quốc.
Có nghĩa là ĐCS Trung Quốc lại có được sự hợp pháp trong vòng vài
năm và cơ hội để thiết lập sự hiện diện của mình tại những căn cứ của Quốc Dân
Đảng, trước hết là tại Nam Kinh, và kế đến là Vũ Hán trong một giai đoạn ngắn,
rồi đến Trùng Khánh (Chong Qing ‐ ND). Vào tháng 9 1937 Hồng Quân
Trung Quốc được tái tổ chức dưới quyền chỉ huy của Hội Đồng Quân Sự của Quốc
Dân Đảng, cùng với tập đoàn Bát Lộ Quân được thành lập để hoạt động tại khu vực
tây bắc và tập đoàn Tân Tứ Quân để chiến đấu tại miền nam sông Dương Tử (Yang
Tze ‐ ND). ĐCS Trung Quốc được phép hợp tác với Quốc Dân Đảng để mở hai Khoá
Đào Tạo Du Kích Chiến ở miền nam Trung Quốc. Từ tháng 6
1938 những người cộng sản Việt Nam hải ngoại đã gặp được
Tướng Diệp Kiếm Anh (Ye Jianying ‐ ND) của ĐCS Trung Quốc đang đóng
vai trò liên lạc giữa Bát Lộ Quân và Hội Đồng Quân Sự ở Vũ Hán [2].
Vì thế Hồ Chí Minh đã quay lại Trung Quốc trong
thời điểm hưng thịnh của mối hợp tác Nga‐ Hoa. Nhiệm vụ của ông trong việc
quay về Đông Nam Á là để biến ĐCS Đông Dương trở thành một ʺmặt trận dân chủ
dân tộc rộng rãiʺ, trong đó sẽ bao gồm những Pháp kiều cấp tiến tại Đông Dương
cũng như tầng lớp tư sản dân tộc [3]. Chỉ thị 8 điểm của QTCS mà ông đã phải
thuộc lòng, kêu gọi những người cộng sản Việt Nam phải đặt mục tiêu của mặt
trận chống phát xít trước mục tiêu của cuộc cách mạng vô sản. Đây là bản chất
của những mặt trận đã được thành lập tại Pháp trong năm 1936 và ở Trung Quốc
năm 1937. ĐCS Đông Dương được yêu cầu không được đưa ra những yêu sách quá
khích ví dụ như hoàn toàn độc lập hoặc thành lập quốc hội. ʺVì thế sẽ rơi vào
bẩy của phát xít Nhật,ʺ chỉ thị cảnh giác. Đảng nên tổ chức một mặt trận để đòi
hỏi quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do nhóm họp cũng như ân xá toàn bộ
những tù nhân chính trị. Đối với thành phần tư sản dân tộc, đảng được khuyên là
nên ʺmềm mỏngʺ để lôi kéo họ vào mặt trận và thúc đẩy họ hành động, hoặc nếu
cần thiết, cô lập họ về mặt chính trị. Đảng không được đòi hỏi quyền chỉ đạo
mặt trận dân chủ mà phải tự đạt lấy nó bằng cách chứng tỏ mình là một đảng
ʺtích cực, chân thành và hết lòng nhất.ʺ Đối với thành phần Trotskyist, không
được phép khoan nhượng hoặc thoả hiệp. Họ cần phải bị loại bỏ về mặt chính trị.
Màn đầu chính trị cho việc quay lại của Hồ Chí
Minh (1937-8)
Đến năm 1938 tại Việt Nam một hình thể phức tạp
của những lực lượng chính trị đã tiến hoá từ khuynh hướng Trotskyist đến những
đảng cực hữu, làm cho công tác tổ chức của Hồ càng thêm khó khăn hơn so với
thời kỳ 1924‐7. ĐCS Đông Dương vừa mới tái tổ chức một tầng lớp lãnh đạo hợp nhất vào
năm 1935. Giờ đây đảng được yêu cầu tham gia một chiến dịch chống phát xít toàn
cầu trong đó đòi hỏi nó phải giới hạn việc phản kháng của mình đối với thực dân
Pháp. Nhưng vì không có sự đoàn kết trước hiểm hoạ xâm lược của Nhật, những
người cộng sản Việt Nam cảm thấy thật khó mà chấp nhận bản
chất của mặt trận thống nhất mà họ phải tham gia. Mối đe dọa của Nhật thì cấp
bách tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ hơn là tại Nam Kỳ. Một số người Việt xem Nhật là
những người giải phóng triển vọng. Như ta đã thấy, khi Lê Hồng Phong từ Moscow
quay về vào năm 1936, thông điệp của ông về mặt trận thống nhất đã gặp phải
chống đối từ một hướng không được ngờ tới
đó là Hà Huy Tập. Tập đã quay về lại
châu Á khi phong trào Proletkult (từ ghép của
proletarskaya kultura ‐ văn hoá vô sản ‐ ND) vẫn còn là
một lực lượng mạnh mẽ; rõ ràng là ông đã ngạc nhiên khi thấy sự chuyển hướng
của QTCS. Nhưng việc ĐCS Đông Dương chống lại mệnh lệnh của QTCS chỉ được Moscow biết đến mãi cho đến tháng 1
1938, khi họ nhận được một báo cáo đề ngày 10
tháng 9 1937 và được ký tên ʺF.L.ʺ Bản báo cáo này đã tóm lược một số tiến
triển sau cuộc họp của Uỷ Ban Trung Ương được tổ chức vào tháng 7 1936 tại
Thượng Hải. Theo tường thuật của tác giả về chuyến trở về châu Á qua ngỏ Paris , ta có thể chắc rằng người viết
chính là Nguyễn Thị Minh Khai hoặc ʺFan Lanʺ. [4] Bức thư đã được viết sau Đại
Hội Mở Rộng của ĐCS Đông Dương và Hội Nghị Ban Chấp Hành lần 2 được tổ chức tại
Sài Gòn từ ngày 25 tháng 8 đến ngày 4 tháng 9 1937, khi Uỷ Ban Trung Ương đã đi
theo đường lối của QTCS [5].
Minh Khai và Hoàng Văn Nọn đã quay về lại Hồng
Kông qua ngỏ Pháp và Ý vào cuối mùa xuân 1937. Họ đã thuộc lòng danh sách 9
điểm của bản chỉ thị về đường lối mà họ sẽ chuyển giao cho Ban Chỉ Huy Hải
Ngoại khi đến nơi. Tôi đã không tìm được bản sao của bản liệt kê này, nhưng
chúng ta có thể giả định rằng nó cũng gần giống như chỉ thị 8 điểm mà Hồ Chí
Minh được lệnh phải thực thi trong năm 1938. Hai người đồng
hành đã gặp Lê Hồng Phong vào tháng 7 và chuyển giao những đề
xuất của QTCS. Như bức thư của ʺF.L.ʺ đã đề cập, ông đã cho họ biết việc Uỷ Ban
Trung Ương đã phê phán sự quan tâm mới của QTCS về những phương pháp tổ chức
hợp pháp và bán hợp pháp và đã cho nó là ʺxét lại, cơ hội và hữu khuynhʺ. Ban
Chỉ Huy Hải Ngoại đã soạn thảo một văn bản giải thích chính sách mới nhưng đã
bị Hà Huy Tập không cho phát hành. Theo lời Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập đã viết
thư cho ông, bảo rằng ʺnhững đồng chí hải ngoại đã quá xa rời thực tế trong
nước, và Uỷ Ban Trung Ương phải có trách nhiệm đối với hoạt động quốc nội.ʺ
Lê Hồng Phong đã gửi Minh Khai đến Sài Gòn vào
tháng 8 1937 để đích thân chuyển giao những chỉ thị mới nhất của QTCS. (Hoàng
Văn Nọn cũng được gửi đi Hà Nội để làm công việc tương tự). Trả lời cho thông
điệp của Minh Khai, Hà Huy Tập một lần nữa nhấn mạnh rằng những chiến lược do
QTCS và Ban Chỉ Huy Hải Ngoại đề xướng là ʺphản độngʺ. (Theo lời ʺF.L.ʺ, bà đã
khám phá ra rằng Uỷ Ban Trung Ương tại Sài Gòn đã gửi cho những chi bộ đảng một
bức thư vào ngày 26 tháng 3 1937 để bãi bỏ những quyết định đưa ra từ hội nghị
Thượng Hải năm 1936. [6]) ʺTôi muốn viết thư giải thích tất cả cho những đồng
chí hải ngoại,ʺ bà viết, ʺnhưng đồng chí Sinitchkin bảo tôi rằng nếu tôi làm
thế, tôi sẽ bị khai trừ ra khỏi đảng.ʺ Nhưng tại một cuộc họp tổ chức trước Hội
Nghị Uỷ Ban Trung Ương, những đảng viên phía bắc là Hoàng Quốc Việt và Nguyễn
Văn Cừ đã ủng hộ những đề xướng của QTCS. Họ bảo rằng họ đã không nhận được bức
thư gửi ngày 26 tháng 7 1936 về những phương pháp tổ chức mới và Hà Huy Tập đã
giải thích sai lệch những chính sách của QTCS trước Hội Nghị Uỷ Ban Trung Ương
tháng 3 1937. Phùng Chí Kiên đã đại diện cho Ban Chỉ Huy Hải Ngoại tại Hội Nghị
tháng 8. Sự có mặt của thành viên cộng sản Pháp là Maurice Honel tại Sài Gòn
vào lúc ấy dường như đã có vai trò quan trọng trong việc phủ quyết những chống
đối của Hà Huy Tập đối với đường lối mới của QTCS. Bức thư của F.L.
nói rằng Honel đã phê bình ʺchủ nghĩa bè
pháiʺ của Tập, và rằng ông đã khuyến khích bà viết thư
cho QTCS để giải thích rõ ràng những gì đã xảy ra trong nội bộ ĐCS Đông Dương.
Thật khó mà tìm hiểu được nguyên do của sự cãi
vả bất đồng qua những ngôn ngữ chính trị được sử dụng bởi những học viên của
QTCS ‐ trên bề mặt thì có vẻ như không mấy trầm trọng. Tranh chấp cá nhân có
thể là một phần nguyên nhân của sự căng thẳng này. [bức thư tháng 9 của F.L.
không nhắc đến những bất đồng về chính sách đối với thành phần Trotskyist].
QTCS và Ban Chỉ Huy Hải Ngoại đã khuyến khích việc nhấn mạnh hơn nữa công tác
tổ chức hợp pháp và tham gia mặt trận của những đảng phái không vô sản. (Dường
như họ đã không có vấn đề gì về sự cần thiết cho những người lãnh đạo đảng tiếp
tục hoạt động bí mật). Một vấn đề gây tranh chấp là tính chất của công tác tổ
chức thanh niên. Hà Huy Tập muốn biến Đoàn Thanh Niên Cộng Sản thành một Liên
Đoàn Thanh Niên Phản Đế bất hợp pháp để đào tạo thành viên cho công tác thanh
niên. Tám đảng viên trong tham gia Hội Nghị đã ủng hộ quan điểm này trong khi 5
người còn lại ủng hộ việc biến Đoàn Thanh Niên Cộng Sản thành tổ chức quần
chúng hợp pháp. Trong trường hợp thứ hai này, những thành viên ưu tú nhất sẽ
được kết nạp vào đảng và cùng lúc ấy tạo thành lực lượng nòng cốt cho những tổ
chức thanh niên. Sự bàn cãi về phương pháp tổ chức đã phản ánh mối căng thẳng
đang tiếp tục hiện hữu bên trong phong trào cộng sản, đã từng xuất hiện vào
thời kỳ 1928‐9 khi phong trào sùng bái việc vô sản hoá bắt đầu.
Quyết định cuối cùng trong công tác tổ chức
thanh niên đã được dành cho QTCS giải quyết. Ngoài điều này ra, F.L. cho rằng
hội nghị tháng 8‐9 đã thành công trong việc hợp nhất đảng và đấu tranh chống lại ʺchủ
nghĩa bè pháiʺ. Hà Huy Tập nhanh chóng phản ứng đối với những quyết định của
Hội Nghị, ta có thể biết được qua một bức thư mà Sở Liêm Phóng đã theo dõi. Vào
ngày 7 tháng 9 1937 Tập thông báo cho những cộng tác viên của tờ báo LʹAvant‐Garde (Tiền
Phong ‐ ND) rằng từ nay trở đi, mọi văn bản bằng tiếng Pháp và Quốc Ngữ phải
qua sự kiểm duyệt của đảng. (Tờ LʹAvant‐Garde do ĐCS Đông Dương thành
lập sau khi tách ra khỏi nhóm La Lutte vào tháng 5 1937. Vào thời gian này nó
đã được đổi thành một tên khác bao gồm hơn là Le Peuple. Vào tháng 3 sau, một
học viên từ Đại Học Stalin là Trần Văn Kiệt, còn có tên là Remy, đã quay về từ
Pháp nắm quyền lãnh đạo tờ báo và bắt đầu phiên bản tiếng Việt có tên là Dân
Chúng [7]). Tất cả các bài viết cho tờ Le Peuple phải được viết trước từ một
đến hai ngày. Theo giải thích của Tập là tờ Lʹavant‐Garde đã
xuất bản một số bài viết mà ʺchủ trương cực tả đã là nguyên nhân của những đàn
áp.ʺ Ông cảnh báo giới báo chí tại Bắc Kỳ cũng đã tường thuật sai lệch chính
sách của đảng: ʺNhững hành động này sẽ ngăn cản những hoạt động hợp pháp của
chúng ta hoặc làm cho những tổ chức mà chúng ta có thể liên minh quay lại chống
đối chúng taʺ[8].
Một bản tóm tắt bằng tiếng Pháp của những nghị
quyết được thông qua bởi Hội Nghị Xứ Uỷ Nam Kỳ cho biết thêm vài thông tin về
sự thay đổi chính sách đã được quyết định vào tháng 9 1937. Được tổ chức từ
ngày 22 đến 25 tháng 9 năm 1937, hội nghị này đã tuyên bố rằng những tuyên
truyền viên của đảng đã chiếm quyền lãnh đạo quần chúng với ʺnhững nghị luận
trí thứcʺ của họ. ʺNhững mục tiêu kích độngʺ của họ hoặc là ʺhăm doạ ʺgiới quần
chúng lạc hậuʺ hoặc tạo ra sự đồng cảm trong những thành phần tôn giáo, hoặc
thổi phồng tính tự mãn của tầng lớp phú nôngʺ. Nhưng đường lối của đảng là
ʺdùng mọi biện pháp để kết nạp những thành phần này vào những tổ chức quần
chúng (những hội bằng hữu, hội tương tế, vân vân)ʺ [9]. Trong tương lai thành
phần phú nông sẽ bị tiêu diệt hoặc vô hiệu hoá. ʺNhưng nếu những ai hy sinh quyền
lợi của mình để xin được tham gia vào các tổ chức của chúng ta, chúng ta nên mở
rộng cửa đón họ để họ không thất vọng, từ đó đẩy họ vào vòng tay của những kẻ
cách tân, phản động và những kẻ Trotskyistʺ [10].
Ngay sau hội nghị Uỷ Ban Trung Ương, Lê Hồng Phong
vào Sài Gòn, một phần để thiết lập liên lạc với Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung
Quốc qua ngỏ đảng uỷ Sài Gòn. [11] Vào hạ tuần tháng 3 1938, khi ĐCS Đông Dương
tổ chức Hội Nghị Trung Ương lần thứ 3 tại Bà Điểm, Gia Định với bảy thành viên
tham dự, Hà Huy Tập bị mất chức Tổng Bí Thư. [Ông bị bắt vào tháng 5 và bị trục
xuất về Hà Tĩnh và bị quản thúc tại gia.] Nguyễn Văn Cừ, một môn đồ trẻ của Ngô
Gia Tự, người tỉnh Bắc Ninh và là một tù chính trị được ân xá từ Côn Đảo, trở
thành Tổng Bí Thư. Một Ban Bí Thư mới của Uỷ Ban Thường Vụ được thành lập bao
gồm Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ và, như trong ghi chú của Sở Liêm Phóng, ʺmột
người trở về từ Trung Quốcʺ. Thành viên sau cùng này rất có thể là Lê Hồng
Phong, vì Phùng Chí Kiên đã quay về lại Hồng Kông sau hội nghị tháng 9 1937. Uỷ
Ban Thường Vụ bao gồm năm thành viên: Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Gia hoặc Anh
Bảy từ miền Nam (chính là Võ Văn Tần), Nguyễn Văn Trọng hoặc Nguyễn Chí Diểu,
người vừa được phóng thích và đang xây dựng lại Xứ Uỷ Trung Kỳ, và lần nữa ʺngười
trở về từ Trung Quốcʺ. Vào lúc này Nguyễn Thị Minh Khai được xác định là thành
viên của Xứ Uỷ Nam Kỳ cũng như của Đảng Uỷ Sài Gòn. Bà cũng được giao nhiệm vụ
đào tạo đảng viên. [12]
Chúng ta có thể giả định rằng vào lúc cuộc họp
này xảy ra, đường lối của QTCS và những người ủng hộ nó đang bắt đầu có ảnh
hưởng mạnh hơn đối với những cơ cấu của đảng tại Nam Kỳ. Trên thực tế bản tường
trình của Hội Nghị Uỷ Ban Trung Ương vào tháng 3 đã đề cập việc một số đảng
viên ở phía nam đã bị khai trừ vì đã ʺkhông hoạt độngʺ và một số khác đã tự ý
rời bỏ hàng ngũ. Con số đảng viên tại Nam Kỳ vẫn giữ được ở mức 655 sau Hội
Nghị lần 2 [13]. Nhưng việc Nguyễn Văn Cừ được đề cử làm Tổng Bí Thư cho thấy
những người cộng sản được đào tạo tại Moscow đã phải thoả hiệp với cơ cấu của
ĐCS Đông Dương trong nước, như Trần Phú và Hà Huy Tập đã làm trước đây. Với
việc những tù nhân chính trị được phóng thích đang được đưa lại vào đảng, những
thành viên cũ của Tân Việt có vẻ đã bắt đầu đóng vai trò quan trọng trong công
tác lãnh đạo. Những chuẩn bị cho hội nghị ngày 1 tháng 5 tại Sài Gòn cũng cho
thấy rằng mặc dù ĐCS Đông Dương hiện thời đang cố gắng trở thành một thành viên
đáng tin cậy của những đảng phái tư sản, họ vẫn tán đồng một sự hợp tác nào đó
với thành phần Troskyist. Uỷ ban tổ chức của hội nghị này bao gồm một người của
đảng Xã Hội Pháp, một người Trotskyist, và hai người ʺStalinistʺ. Nhưng
Hà Huy Tập nhấn mạnh rằng truyền đơn thông báo cho cuộc họp này chỉ liệt kê
thành phần ʺcông nhânʺ là người tổ chức. Theo Sở Liêm Phóng thì ông sợ rằng nếu
Việt Nam Quốc Dân Đảng biết được những người Trotskyist cũng tham gia, họ sẽ
cắt đứt quan hệ với ĐCS Đông Dương [14].
Từ những báo cáo của ĐCS Đông Dương được soạn
thảo vào cuối năm 1937 đến đầu năm 1938 ta có thể thấy được rằng mối quan hệ
với QTCS và ĐCS Pháp đã bị giảm thiểu từ những ngày đầu của Mặt Trận Bình Dân.
Maurice Honel đã quay về Pháp vào năm 1937, hứa hẹn sẽ đưa vấn đề Đông Dương
lên ĐCS Pháp. Nhưng đã không có tin tức gì của ông sau sáu tháng kể từ ngày ông
trở về Pháp. Như trong bản tường trình của Uỷ Ban Trung Ương gửi đến Moscow vào
tháng 4 1938 đã nói rõ, việc thiếu hậu thuẫn từ ĐCS Pháp đã làm phai nhạt ảnh
hưởng của ĐCS Đông Dương tại Nam Kỳ. Theo sau việc thành lập chính phủ Leon
Blum, bản tường trình cho biết, ĐCS Pháp đã ngừng quan tâm đến những vấn đề
Đông Dương. Mặt khác, thành phần Trotskyist tại Pháp đã tấn công những
chính sách thuộc địa của Mặt Trận Bình Dân, việc này đã
giúp những người Trotskyist tại Sài Gòn tăng thêm ảnh hưởng đối với quần chúng,
đặc biệt là trong giới trí thức [15]. Những người Trotskyist cũng đã công
khai hoá vai trò của ĐCS Pháp trong việc khai tử mặt trận La Lutte vào tháng 5‐6 1937 và đã
phát hành những văn bản về những phiên toà độc diễn tại Moscow. [16] Dù thế Uỷ
Ban Trung Ương ĐCS Đông Dương vẫn tiếp tục giữ nguyên cam kết của mình đối với
quan điểm về một mặt trận chống phát xít và tiếp tục tìm cách giữ liên lạc
thường xuyên với QTCS. (Dường như nó đã không hề hay biết gì về sự tàn phá mà
quá trình thanh trừng tại Moscow đã gây nên trong Đệ Tam Quốc Tế, và có thể đã
không hay biết việc những lãnh đạo của QTCS như Piatnitsky và Mif đã bị
bắt giữ trong năm 1937). Trong bản báo cáo vào tháng 4 1938, những người cầm
đầu ĐCS Đông Dương đã yêu cầu QTCS nên gửi những chỉ thị thường lệ về những vấn
đề chính trị và tổ chức cũng như trợ giúp về tài chính. Ngoài việc xin gấp
5.000 đô-la cho việc ấn loát sách, họ còn yêu cầu gửi những cố vấn và ngân sách
để mở một trung tâm đào tạo hợp pháp tại Trung Quốc, tương tự như những trung
tâm đã có từ thời 1926‐7 [17]. Việc điều phối Hồ Chí Minh về lại châu Á vào mùa thu 1938 có thể
là để đáp ứng yêu cầu trên.
Cho đến lúc này liên lạc với QTCS qua ngã Trung
Quốc đã trở nên vô cùng khó khăn do hậu quả của cuộc chiến tranh Hoa ‐ Nhật. Những
chiếc tàu mà ĐCS Đông Dương có những thuỷ thủ làm công tác liên lạc đã không
thể đến được Việt Nam vì sự phong toả của người Nhật
[18]. Khi Phùng Chí Kiên viết thư cho QTCS vào tháng 11 / 1937, ông đã xin phép
được chính thức liên lạc với Chi Uỷ Miền Nam của ĐCS Trung Quốc vì đảng này đã
trở nên ʺít nhiều hợp phápʺ. Ông giải thích rằng ʺMặc dù trong hơn một năm qua
chúng tôi đã có quan hệ với Chi Uỷ Miền Nam nhưng mối liên hệ này, cho dù rất
chặt chẽ, vẫn không được chính thức vì không có sự chấp thuận của các đồng chí.ʺ
Ông cũng yêu cầu chuyển giao trách nhiệm liên lạc với ĐCS Xiêm sang Chi Uỷ Miền
Nam [19]. Trong lúc viết bức thư này, dường như Kiên vẫn đang ở tại Hồng Kông.
Đến tháng 6 1938 ông đã ở Vũ Hán để hội ý với tướng Trung Quốc Diệp Kiếm Anh,
theo hồi ký của Hoàng Văn Hoan. Có thể Kiên đã quen biết vị tướng này từ những
ngày ông còn học tại Hoàng Phố, khi Diệp Kiếm Anh là chỉ huy của Trung Đoàn Đào
Tạo. Sau tháng 10 1938, khi quân Nhật đang tiến vào Vũ Hán và sau khi nơi ở của
ông tại Cửu Long bị cảnh sát khám xét, Phùng Chí Kiên được cho là đã chuyển về
Sán Đầu để học về chiến tranh du kích. [20] Đối với những người cộng sản Việt Nam vào thời điểm này ở miền nam Trung
Quốc, vai trò của QTCS trong những quyết định thường nhật của họ ngày càng trở
nên ít giá trị. Nhưng như đã nói ở trên, ĐCS Đông Dương
trong nước đang nôn nóng thiết lập
lại liên hệ thường xuyên với Moscow, phần
vì lý do tài chính, và vào tháng 3 1938 họ đã tìm cách quyên góp tiền bạc để
gửi một đảng viên ra ngoài nước để tham vấn. Một tường trình của Sở Liêm Phóng
nói rằng Phùng Chí Kiên đã tình nguyện nhận làm phái viên nhưng Uỷ Ban Trung
Ương đã quyết định gửi một thành viên cộng sản hợp pháp [21]. Nhưng dường như
đã không có ai thực hiện chuyến đi đến Pháp hoặc Nga.
Những đi lại của Hồ
Chí Minh / bối cảnh chính trị năm 1939
Hồ Chí Minh lên tàu đi Trung Quốc vào mùa thu
năm 1938 và chắc hẳn đã đến Tây An (Xiʹan ‐ ND) vào tháng 11 hoặc tháng 12. Ông
đã đi qua ngã Ô Lỗ Mộc Tề (Urumchi, thủ phủ của Tân Cương ‐ ND) và Lan
Châu (Lan Zhou ‐ ND) và chắc hẳn là nằm trong chương trình lớn nhằm đưa cố vấn và vật
liệu đến Trung Quốc để hậu thuẫn cuộc chiến tại đây. Dường như hầu hết chuyến
đi ông đã di chuyển bằng tàu hoả và máy bay, vì ông đã có thời gian để ở lại
Diên An (Yanʹan ‐ ND) suốt một tháng mà vẫn kịp đến Quế Lâm (Gui Lin ‐ ND) vào tháng
2 1939. Sau này ông đã viết rằng, chiến tranh bùng nổ ở Trung Quốc đã làm ông
ʺbị cuốn vào vòng xoáy vĩ đại đang thay đổi số phận của hàng trăm triệu ngườiʺ
[22]. Trong cùng bức thư ông đã viết rằng ông đã bị mất hành lý tại Diên An,
trong đó có cả những ghi chú của ông về những chỉ thị của QTCS. Tài liệu của
Trung Quốc nói rằng Hồ Chí Minh, giờ mang tên là Hồ Quang, đã ở tại nhà khách
của ĐCS Trung Quốc giành cho người nước ngoài tại vùng tây bắc Diên An và Khang
Sinh là người tiếp đón ông [23]. Hồ đã đến ngay sau Hội Nghị Lần 6 ĐCS Trung
Quốc xảy ra vào tháng 10, được cho rằng đã chấm dứt với một thế quân bình gay
gắt trong hàng ngũ lãnh đạo giữa Mao và những người cầm đầu như Vương Minh và
Chu Ân Lai, những người nhiệt tình ủng hộ mặt trận thống nhất [24]. Mặt trận Vũ
Hán cuối cùng đã kết thúc với việc quân Quốc Dân Đảng rút lui vào cuối tháng
10, một sự kiện dường như đã làm tăng ảnh hưởng của Mao. Chúng ta có thể giả
định từ một báo cáo dài với yêu cầu trợ giúp mà Hồ đã gửi cho ĐCS Trung Quốc
vào giữa năm 1940 rằng ông vẫn tiếp tục thái độ giữ kín danh phận của mình tại
vùng hậu cứ của Mao ‐ trong báo cáo ấy ông đã không bộc lộ sự mật thiết với giới lãnh đạo
Trung Quốc hoặc cho rằng họ đã biết được vai trò của ông trong ĐCS Đông Dương
[25].
Những quân đoàn cũng như dân tị nạn đang
di chuyển trên toàn cõi Trung Quốc. Quân đội Quốc Dân Đảng đang rút về phía nam
và phía tây vào cuối năm 1938. Hồi ký của Hoàng Văn Hoan tường thuật việc ông
di chuyển với bộ máy hành chánh Quốc Dân Đảng bắt đầu bằng việc di tản từ Nam
Kinh đến Vũ Hán trong năm 1937 rồi đến Trường Sa và Quí Dương (Gui Yang ‐ ND), nơi đại
lộ nam‐bắc đến Tây An cắt ngang trục đường đông‐tây; và cuối cùng đi về hướng tây
đến Côn Minh vào đầu năm 1939. Hầu như trong cùng thời gian ấy, Hồ Chí Minh đi
xuyên Trung Quốc về hướng đông‐nam, Từ Diên An đến Quế Lâm thuộc
tỉnh Quảng Tây, hiện giờ là một thành phố tiền phương, thường bị quân Nhật dội
bom. Hồ được phong chức thiếu tá trong quân đoàn Bát Lộ Quân, dường như việc
này đã giúp ông di chuyển dễ dàng hơn trong cơn hỗn loạn. Sau khi ở lại Diên
An, ông tìm đường đi xuống phía nam để đến Trùng Khánh, nơi ấy ông tham gia vào
đại đội của Chu Ân Lai vào đầu năm 1939. [26] King Chen nhớ lại rằng ông đã tham
gia vào đoàn tuỳ tùng của tướng Diệp Kiếm Anh, vị tướng này sau khi rút lui
khỏi Vũ Hán đã được bổ nhiệm trông coi Khoá Đào Tạo Chiến Tranh Du
Kích Tây Nam tại Hành Dương (Heng Yang ‐ ND) thuộc tỉnh Hồ Nam [27]. Một tài
liệu của Trung Quốc về hoạt động của Hồ trong tập đoàn Bát Lộ Quân nhấn mạnh
rằng ông đã di chuyển dưới sự bảo trợ của ĐCS Trung Quốc, và đã nói rằng ông
cũng hoàn tất mọi nhiệm vụ thường nhật trong một văn phòng liên lạc, ở tại Quế
Lâm cũng như Hành Dương, khoảng 350 dặm về phía bắc. Văn phòng liên lạc Quế Lâm
có lẽ đã được dùng làm nơi thu thập tin tức tình báo cho ĐCS Trung Quốc vì nó
nằm ngoài khu vực hoạt động của Bát Lộ Quân. Hồ được cho là đã giữ nhiệm vụ ʺvệ
sinhʺ, có thể là ông đã mang chức vụ của một sĩ quan y tế công cộng; ông trông
nom phòng bảo tàng của cơ quan, xuất bản một tờ báo nhỏ cho đơn vị, nghe ngóng
tin tức từ đài ngoại quốc, trong suốt thời gian ấy ông vẫn giấu mình như một sĩ
quan Trung Quốc với âm giọng Quảng Đông. Tài liệu này nói rằng Hồ đã ở Hành
Dương từ ngày 20 tháng 6 đến ngày 20 tháng 9 năm 1939 để làm giảng viên cho
khoá đào tạo thứ hai của Trung Tâm Du Kích [28].
Sự miêu tả ở trên về những hoạt động của Hồ tại
Trung Quốc đã không đồng điệu với bức tranh tô vẽ về nhà lãnh đạo cộng sản nổi
tiếng đang hồi hương để nắm lấy quyền lực trong đảng mình. Sự hỗn loạn do chiến
tranh tại Trung Quốc chắc chắn đã làm cho công tác của ông càng thêm phức tạp.
Nhưng có lẽ những tranh chấp và mâu thuẫn về chính kiến bên trong đảng cũng đã
góp phần khó khăn trong việc ông thiết lập liên lạc với ĐCS Đông Dương. Theo
lời của chính ông, Hồ đã đến Quế Lâm vào khoảng tháng 2 1939. Rõ ràng là ông đã
nản lòng khi ông viết một bản tường trình dài cho Moscow vào tháng 7 năm ấy. Bảy tháng sau
khi ông về đến Trung Quốc, ông viết, nhưng ông vẫn chưa hoàn thành được nhiệm
vụ của mình (bức thư này không nhắc đến nhiệm vụ của ông tại Hành Dương).
ʺTôi đã làm gì trong suốt 7 tháng qua?ʺ ông
viết. ʺNhờ bạn bè giúp đỡ tôi đã bắt đầu tìm kiếm nhưng đã không đạt được kết
quả gì. Rồi tôi lại tìm cách thiết lập vài mối liên lạc và việc này đã có chút
kết quả... Trong khi chờ đợi và để không bỏ phí thời gian, tôi đang làm công
tác phiên dịch cho Bát Lộ Quân (nghe ngóng tin tức từ đài phát thanh], làm thư
ký cho đơn vị, làm chủ tịch của một câu lạc bộ và hiện nay là thành viên của
hội đồng câu lạc bộ. Trong cùng lúc ấy... Tôi đã thảo ra một văn bản về Đặc Khu
và viết những bài báo về những sự kiện chính trị và quân sự, về sự tàn bạo của
quân Nhật, về sự anh dũng của những chiến sĩ Trung Quốc, về cuộc đấu tranh
chống lại khuynh hướng Trotskyist, vân vân...ʺ Ông giải thích rằng từ ngày 12
tháng 2 một số bài viết của ông đã được xuất bản trong một tuần báo tại Hà Nội
của ʺĐCS Đông Dương hợp phápʺ, tờ Notre Voix. (Tiếng
Nói của Chúng Ta ‐ ND) ʺNhững bài
viết này mang bút hiệu ʺKwilinʺ và ký tên là
ʺĐường Lốiʺ, với hy vọng rằng các đồng chí lãnh đạo trong đảng sẽ đoán được tác
giả là ai và đang ở đâu. Nhưng hy vọng này vẫn chưa thành sự thật,ʺ ông viết.
Ông đã thiết lập được những mối liên hệ tốt đẹp với vị chủ bút, người này vẫn
cho rằng ông là một nhà báo người Trung Quốc. Mãi cho đến cuối tháng 7, ông
nói, ông mới có thể gửi địa chỉ của mình cũng như những chỉ thị của QTCS đến Uỷ
Ban Trung Ương qua một người bạn và vị chủ bút của tờ Notre Voix. [29] Bản
tường trình gửi theo sau bức thư này đã viết về hiện trạng chính trị tại Việt
Nam từ năm 1936 là một tài liệu dài 8 trang đánh máy với đầy đủ những thông tin
về báo chí, bầu cử, đình công và những phong trào chính trị khác. Ông nói rằng
ông đã chọn lọc dữ kiện và thông tin từ việc đọc những tờ báo như Notre Voix và
Đời Nay, một tờ báo hợp pháp khác của đảng tại Hà Nội do Trần Huy Liệu chủ
biên. Nhưng ta tự hỏi rằng không biết ông đã có những nguồn thông tin trực tiếp
nào khác.
Giải thích của Hồ về những tiếp xúc của ông với
Việt Nam đã tạo ra vài nghi vấn. Có thể thật sự rằng từ
tháng 2 đến tháng 7 những ʺđồng chí lãnh đạoʺ của ĐCS Đông Dương vẫn chưa đoán
được ai là ʺĐường Lối Đảngʺ? Vì trong lúc ấy, chủ biên của tờ Notre Voix là Võ
Nguyên Giáp, người đã lấy em gái của Nguyễn Thị Minh Khai vào năm 1939 [30].
Vào năm 1937 báo cáo của Sở Liêm Phóng cho thấy Giáp đã kiên quyết giữ vững lập
trường về sự cần thiết phải thành lập một mặt trận dân chủ thống nhất và ngay
cả có lúc đã cổ vũ việc thành lập một bộ phận hỗn hợp của ĐCS Pháp tại Việt Nam
để đảm nhiệm những hoạt động tổ chức hợp pháp [31]. Tôi nghĩ rằng có lý do để
tin rằng trong suốt năm 1939 Hồ đã liên lạc riêng rẽ với Nguyễn Thị Minh Khai
hoặc một số nhà hoạt động hợp pháp có chung quan điểm với bà. Như chúng ta sẽ
thấy, đến cuối năm 1939 bà đã lên đường sang Trung Quốc để gặp Hồ. Một nguồn
thông tin của Hồ vào thời gian này có thể là từ những mối liên lạc giữa ĐCS
Trung Quốc và Lê Hồng Phong tại Sài Gòn. Nhưng Phong đã bị bắt vào ngày 22 tháng
6 1939 và bị tuyên án 6 năm tù và 3 năm quản thúc tại gia vì tội xử dụng căn
cước giả [31]. Cuốn sách của Hoàng Tranh về thời gian của Hồ tại Trung Quốc,
được trích dẫn ở trên, nói rằng ông đã tiếp xúc với một trung gian người Trung
Quốc thường đi lại giữa Quế Lâm, Hải Phòng và Hồng Kông. Phái viên này tên là
Lý Bội Quân, có nhiệm vụ đem cho Hồ một máy đánh chữ hiệu Baby Hermes với bàn
phím tiếng Pháp trong một chuyến đi của ông đến Hải Phòng. Nhưng ông đã không
nhận là đã đại diện cho Hồ để liên lạc với ĐCS Đông Dương mãi cho đến mùa thu
1939 [33].
Mâu thuẫn nội bộ trong ĐCS Đông Dương về chiến
lược lại nổi lên vào mùa hè 1939. Một cuộc bút chiến trong giới báo chí cộng
sản đã bắt đầu sau khi những ứng cử viên của Mặt Trận Dân Chủ Thống Nhất là
Nguyễn An Ninh, Nguyễn Văn Tạo và Vũ Công Tôn bị phe Trotskyist đánh bại trong
cuộc bầu cử vào Hội Đồng Thuộc Địa Sài Gòn tháng 4 1939. Cuộc tranh luận đã làm
cho ba người trong nhóm được gọi là cộng sản Stalinist: Nguyễn Văn Tạo, Lê Hồng
Phong và Nguyễn Văn Cừ xoay sang chống lại nhau. Một lần nữa vấn đề chủ chốt
được đưa ra về việc ĐCS Đông Dương nên liên hệ ra sao với những đảng phái tư
sản cách tân. Nguyễn Văn Tạo, một người cộng sản hợp pháp từng đại diện cho
Việt Nam tại Đại Hội QTCS Lần thứ 6 vào năm 1928, đã viết trên tờ Đông Phương
Tạp Chí rằng những người cộng sản nên dùng đường lối cứng rắn hơn để chống lại
đảng Lập Hiến vừa thắng được 3 ghế hội đồng. Một cây viết được nhận dạng là Lê
Hồng Phong, với bút danh là ʺT.B.ʺ hoặc ʺTri Binhʺ đã
viết trong một vài số của tờ Dân Chúng để bảo vệ đường lối của ĐCS Đông
Dương. [34] Tác giả đã lập luận rằng không cần phải tấn công những đảng phái và
giai cấp bản xứ miễn là chúng không phải là phản động. Ông đổ lỗi về những thất
bại của ĐCS Đông Dương trong cuộc bầu cử là do sự phá hoại của chính quyền
thuộc địa (trên thực tế những nhân viên chủ chốt của tờ Dân Chúng đã bị bắt giữ
trong thời gian bầu cử [35]).
Nhưng Tổng Bí Thư ĐCS Đông Dương Nguyễn Văn Cừ
đã viết một tập tài liệu nhan đề Tự Chỉ Trích trong đó ông phân tích cả hai
quan điểm. Trong một lần giới thiệu về tập tài liệu này, ông có nhắc đến rằng
nguyên thuỷ ông đã từng gửi tài liệu này để đăng tải trên tờ Dân Chúng tại Sài
Gòn, nhưng vì lý do nào đấy bài báo đã không được in. Ông bèn cho in dưới dạng
tập tài liệu tại nhà xuất bản của tờ Dân Chúng ở Hà Nội vì họ dễ dãi hơn [36].
Ông đã chỉ trích ʺT.B.ʺ là đã đưa ra ʺnhận định cá nhânʺ chứ không phải là ʺý
kiến chung của toàn Đảngʺ [37]. Ông nói một phần trách nhiệm về việc thất bại
trong cuộc bầu cử nằm trong việc ĐCS Đông Dương đã quá chú trọng đến hiểm hoạ
của phát xít Nhật và đã không đề cập đầy đủ đến sự đàn áp của ʺnhững lực lượng
thực dân phản độngʺ đối với quần chúng [38]. Ông viết rằng sai lầm của T.B. là
người này đã không phân biệt sự khác nhau giữa một đảng cách tân và một đảng
phản động [39] (tác giả đã không nhắc đến rằng tại cuộc bầu cử hội đồng thành
phố Hà Nội vào tháng 4, một danh sách ứng cử viên do lực lượng cánh tả dưới sự
chở che của SFIO (Đảng Xã Hội Pháp ‐ ND) đưa ra và đã không có phe đối
lập tranh cử). Trong khoảng thời gian của tháng 6 1939, Sở Liêm Phóng được tin
tập tài liệu dài 10 chương tên Dự Thảo Tranh Luận đang được Xứ Uỷ Trung Kỳ phát
tán bởi đến các tỉnh uỷ của mình. Theo tài liệu này thì đường lối của đảng là
ủng hộ việc thành lập một mặt trận dân chủ ‐ nhưng mặt trận này sẽ phải được
hình thành trong ʺnhững phong trào đấu tranh mạnh mẽ của quần chúngʺ. Mặt Trận
Dân Chủ sẽ là một hình thái đấu tranh giai cấp và cũng là một phong trào phản
đế. [40] Khái niệm này dường như là do Nguyễn Văn Cừ đề xướng.
Khi đọc những bài viết do Hồ Chí Minh gửi cho
tờ Notre Voix, ta có thể thấy rằng tình trạng mà ông đang nằm giữa cuôc chiến
tranh Hoa ‐ Nhật đã khác xa rất nhiều hiện tình tại Sài Gòn với những cuộc bầu cử.
Ông đang lao vào soạn thảo những tài liệu tuyên truyền thời chiến để kêu gọi
xây dựng hậu thuẩn cho Trung Quốc cũng như niềm tin vào khả năng chống lại
người Nhật của họ. Vào cuối tháng 2 ông đã viết về phiên họp thứ ba của Hội
Đồng Chính Trị Quốc Gia Trung Quốc. Đây là cuộc họp đầu tiên kể từ sau việc đào
thoát của cựu chủ tịch Uông Tinh Vệ, một cựu lãnh đạo của Quốc Dân Đảng thiên
tả. Hồ đã trích dẫn những tuyên bố của Mao và Tưởng Giới Thạch để cho thấy việc
hợp tác chặt chẽ giữa hai đảng chính trong mặt trận quốc gia chống Nhật. Ông
giải thích rằng hội đồng đã họp ʺvào thời điểm khi mà những khuynh hướng cầu
bại mà đại diện là Uông Tinh Vệ, đã ngóc đầu lên sau thất bại tại Quảng Châu và
Hán Khẩu‐ đã bị đập tan hoàn toàn bởi sự đoàn kết và quyết tâm của nhân dân
taʺ [41]. Vào thời điểm này đa số những người cộng sản tin rằng ý chí kháng
Nhật của Quốc Dân Đảng là rất bấp bênh. Những đảng viên ĐCS Đông Dương
gắn bó gần gũi với cuộc đấu tranh của Trung Quốc (Lê Hồng Phong, nguyên thuỷ là
một đảng viên ĐCS Trung Quốc, chắc hẳn là người trong số đó) chắc có thể đã
không tin tưởng hơn so với thời kỳ trước chiến tranh để lo nghĩ đến mức độ phức
tạp về chính trị của những đảng phái Việt Nam mà giờ đây đang sẵn sàng tham gia
vào một mặt trận chống phát xít. Nhưng bên trong Việt Nam, đặc biệt là ở miền
nam, những vấn đề như sự tăng cường mộ lính người Việt sang châu Âu cũng như
những sưu thuế của chính phủ thuộc địa đã trở nên quan trọng hơn là việc Nhật
đang xâm lược Trung Quốc.
Rõ ràng là Hồ đã rất nhạy bén khi biểu lộ lòng
trung thành của mình đối với Stalin và tách mình ra khỏi giới lãnh đạo thiên tả
của Quốc Dân Đảng, những người đã chạy trốn sang Hà Nội vào cuối năm 1938.
Những bức thư của ông gửi cho tờ Notre Voix bao gồm những trích dẫn tuyên
truyền tương đối tàn độc đả phá phái Trotskyist từ những phiên toà độc diễn ở Moscow . Ông cũng đã nhắc đến những phiên
toà cáo buộc giới Trotskyist tại Đặc Khu Diên An vào năm 1937. Suy nghĩ thật sự
của ông đối với những phiên toà này vẫn là một điều bí ẩn. Nhưng ông đã dẫn ra
sự kiện năm 1937 khi những người Trung Quốc Trotskyist đã lên án việc
cộng sản kêu gọi thành lập mặt trận thống nhất với Quốc Dân Đảng là một sự phản
bội. [42] Tổng cộng ông đã viết 4 bài báo ở Quế Lâm đả phá phái Trotskyist.
Trong tập tài liệu viết năm 1939 Nguyễn Văn Cừ cũng đã nhấn mạnh mối đe doạ từ
phái Trotskyist cần phải được nhìn nhận thấu đáng. Ta nên nhớ rằng tại Việt Nam , cuộc đấu tranh chống phái
Trotskyist vẫn là một tranh chấp chính trị nhằm tranh giành ảnh hưởng mà trong
đó cả hai bên đều có những vũ khí như nhau đó là diễn thuyết và báo chí.
Tình hình quốc tế thay
đổi
Đến tháng 8 vàng tháng 9 1939 tình hình chính
trị thế giới đã góp phần mạnh mẽ hơn bao giờ trong những tranh luận nội bộ của
ĐCS Đông Dương. Ngày 23 tháng 8 Hiệp Ước Molotov - Ribbentrop được
ký kết, ngay lập tức đã tạo điều kiện cho những người cộng sản thân Moscow liên minh với nước Đức Quốc Xã.
Chiến tranh nổ ra ở châu Âu khi Đức tấn công Ba Lan vào ngày 1 tháng 9. Ngày 28
tháng 9 Toàn Quyền Pháp ở Đông Dương đã đặt ĐCS Đông Dương và những tờ báo của
nó ngoài vòng pháp luật. Trong những tuần lễ kế tiếp người Pháp bắt đầu ruồng
bố những thành viên cộng sản, cả Trotskyist lẫn Stalinist,
việc bắt giữ này đã tiếp tục trong suốt mùa thu và đến năm 1940. Nhưng
trong khi mối quan hệ hữu nghị giữa Liên Xô và Đức thường được xem gần như là
một thảm hoạ cho ĐCS Đông Dương,[43] đã có bằng chứng rằng nhiều thành viên ĐCS
Đông Dương đã phải lẩn trốn vào cuối tháng 10 và đã tìm cách lợi dụng hoàn cảnh
chính trị mới. Hiệp ước Quốc Xã ‐ Liên Xô đã tạo điều kiện cho
những người cộng sản một lần nữa đứng lên kiên quyến chống lại đế quốc Pháp.
Trong thời kỳ Mặt Trận Dân Chủ, họ đã bị ép buộc phải ủng hộ những cương lĩnh
bảo vệ nước Pháp cũng như những nỗ lực chiêu mộ lính tại Đông Dương. Giờ đây
một lần nữa họ đã có thể hoạt động để khuấy động tinh thần phản chiến trong
hàng ngũ binh lính người Việt trong quân đội Pháp, vào thời điểm mà việc tuyển
mộ lính ngày càng ít được ủng hộ [44].
Vấn đề lãnh đạo đảng ngày càng trở nên phức tạp
trong giai đoạn này vì nhiều người cầm đầu trong nước bị bắt giữ và việc liên
lạc giữa miền nam và miền bắc đã trở nên khó khăn hơn. Tại Trung Quốc, vào
tháng 11, quân Nhật đã tiến về phía tây đến Nam Ninh và Long Châu, hầu như gần
sát biên giới Việt Nam . Nguồn tài liệu của cộng sản Trung
Quốc nói rằng Hồ Chí Minh đã tìm cách bắt liên lạc với đại diện của ĐCS Đông
Dương ở Long Châu trong khoảng mùa thu 1939, nhưng phái viên ấy đã phải quay về
Việt Nam sớm vì đã bị cướp hết sạch tiền. [45] Sau khi
đợi hết 3 ngày, Hồ quay về lại Quế Lâm. Câu chuyện này có thể là chính xác
nhưng đã không cho ta biết được toàn cảnh bức tranh về nỗ lực của Hồ trong việc
bắt liên lạc với Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Đông Dương. Vào tháng 4 1940 Sở Liêm
Phóng đã tìm thấy một bức thư bí ẩn mà họ tin rằng là mang chữ viết của Nguyễn
Thị Minh Khai khi họ khám xét ngôi nhà của một đảng viên tại Gia Định. Giọng
văn mạnh mẽ và mang tính phê phán đối với Uỷ Ban Trung Ương thật đáng ngạc
nhiên. Nó được viết cho những đại biểu của một cuộc họp mà bà có quyền tham dự
nhưng lại không có quyền biểu quyết. Bà nói rằng trong
hai năm qua bà đang làm việc với những ʺbộ phận lãnh đạoʺ, vì thế
ta có thể đoán được rằng bức thư đã được viết trong khoảng thời gian của Hội
Nghị Lần 6 ĐCS Đông Dương được tổ chức tại Hóc Môn vào tháng 11 1939. Bức thư
viết:
Các Đồng Chí!
Chúng ta cần phải phân công gấp một người để
đưa L. về! Tại sao lại có những bất cập như thế này? Các đồng chí vẫn chưa
quyết định được điểm hẹn. Có nghĩa là L. đã phải chờ đợi một thời gian dài mà
không có ai đón ông cả. Tôi đang mong chờ việc đem ông ấy về nhưng tôi vẫn
không biết nơi gặp gỡ ở đâu và hơn nữa tôi vẫn chưa nhận được bất cứ chỉ thị
nào về việc này. [...]
Tại Trung Quốc đang xảy ra những sự kiện trọng
đại có thể ảnh hưởng đến Uỷ Ban Trung Ương của chúng ta. Chúng ta phải giải
quyết vấn đề này và vấn đề tài chính cũng rất quan trọng. Chúng ta đang có
khoảng vài trăm đồng bạc (đồng Piaster ‐ ND) và vẫn đang đợi quyết định từ
Uỷ Ban Trung Ương hoặc Kỳ Uỷ. Các đồng chí phải gửi một người đáng tin cậy đến
để lấy tiền. Uỷ Ban Trung Ương sẽ được yêu cầu bố trí công tác một cách cụ thể
hơn. Vì cứ như thế này thì đôi lúc chúng ta đã cố gắng rất nhiều nhưng kết quả
lại không được bao nhiêu vì sự phân chia không đồng đều trong công việc.
Tôi biết đây chỉ là ý kiến của một nữ lưu, dù
người ấy có lý và phẩm chất chính trị vẫn không tạo được đủ tin tưởng. Nhưng
tôi nghĩ rằng vì trước đây tôi đã làm việc với các đồng chí ở đây, tôi đã chưa
có những đề xuất hoặc làm những việc gì đi ngược lại với tiêu chí hoặc chủ
trương của Đảng [46].
Giọng văn đầy quyền lực của bức thư làm ta đoán
được rằng Minh Khai đã tự nhận bà là đại diện của QTCS hoặc của Ban Chỉ
Huy Hải Ngoại của ĐCS Đông Dương. Với việc Lê Hồng
Phong đang bị bắt giữ, trách nhiệm này hiển nhiên đã được đặt trên vai bà.
Nhưng như bức thư của bà đã nói rõ, những thành viên trong đảng đã không thích
nhận chỉ thị từ một phụ nữ; có thể họ nghĩ rằng bà đã bất tuân thượng lệnh và
đã liên lạc với ʺL.ʺ hoặc những đồng minh của mình tại Bắc Kỳ như Giáp, em rể
của bà. Khi bức thư này được viết, Sở Liêm Phóng đã cho bà là ʺvợ bé của Lê
Hồng Phongʺ. Hai người đã ở chung một nhà tại Chợ Lớn và có thể ít nhất là đã
đóng vai vợ chồng. Dù sao trong năm 1937 người Pháp đã cho rằng bà đã có gia
đình nhưng không sống chung với chồng [47]. Từ việc Hồ Chí Minh đang gặp khó
khăn trong việc liên lạc với Uỷ Ban Trung Ương, khả năng rất lớn là người mang
tên ʺL.ʺ trong bức thư của bà thật sự là ʺLinʺ. Bức thư có thể đã được viết khi
việc kết nối liên lạc tại Long Châu bị thất bại, trước khi người Nhật chiếm giữ
thị trấn này vào cuối tháng 11 / 1939.
Hội Nghị Lần 6 và cuộc
khởi nghĩa năm 1940
Nguyễn Văn Cừ từ Hà Nội đến Sài Gòn vào mùa thu
1939 để tham gia Hội Nghị Lần 6 của ĐCS Đông Dương (ông đã bị trục xuất khỏi
Bắc Kỳ vào mùa hè 1938, không bao lâu sau khi ông đảm nhiệm chức vụ mới [48]).
Đây là cuộc họp cuối cùng của Uỷ Ban Trung Ương trước khi cuộc khởi nghĩa 1940
từ đó tạo nên sự thay đổi lớn trong hệ thống lãnh đạo đảng. Bản thân Nguyễn Văn
Cừ bị bắt vào tháng 1 1940 cùng với Lê Duẩn, một cựu tù Côn Đảo hoạt động tại
Sài Gòn trong năm 1939 [49]. Phan Đăng Lưu, Lê Duẩn và Võ Văn Tần là ba thành
viên thường được nhắc đến là đã tham gia trong cuộc họp được tổ chức từ ngày 6 ‐ 8 tháng 11 tại
Hóc Môn. Hoàng Quốc Việt dường như đã không tham gia vì ông đang lẩn trốn ở
phía bắc Hà Nội; đại diện của Uỷ Ban Trung Ương Trung Kỳ là Nguyễn Chí Diểu
trong lúc ấy đang nằm liệt vì bệnh lao. Một thành viên khác đã tham gia là Tạ
Uyên, người gốc Ninh Bình, đang hoạt động tại miền nam sau khi ông vượt ngục
Côn Đảo vào năm 1935. Là thành viên của thành phần nguyên thuỷ của ĐCS Đông
Dương từ năm 1929, lý lịch của ông cho biết là ông đang là bí thư Xứ Uỷ Nam Kỳ
vào thời gian ông bị bắt vào tháng 10 1940. [50] Minh Khai dường như không phải
là thành viên Uỷ Ban Trung Ương trong giai đoạn này mặc dù trong năm 1940 người
Pháp đã xác nhận bà là bí thư Uỷ Ban Trung Ương.
Hội Nghị lần 6 đã có phản ứng đối với những
thay đổi của tình hình thế giới vào cuối năm 1939 bằng cách kêu gọi việc thành
lập một Mặt Trận Thống Nhất Phản Đế. Giải phóng đất nước giờ đây trở thành mục
tiêu trọng yếu của ĐCS Đông Dương. Trong một văn bản phát hành vào tháng
12, những người cộng sản đã kêu gọi ʺnhững lực lượng đấu tranh của giai cấp vô
sản, nhân dân lao động của những quốc gia nhỏ béʺ đứng lên chiến đấu, ʺdập tắt
ngọn lửa chiến tranh bằng cách tiêu diệt nguồn gốc của nó là hệ thống tư bản đế
quốcʺ [51]. Bản tuyên ngôn kêu gọi chấm dứt việc gửi lính Việt sang Pháp và
những nước khác; nó cũng kêu gọi thành phần cộng sản ủng hộ Liên Xô cũng như
những cuộc cách mạng tại Pháp, Trung Quốc và trên thế giới[52]. Theo phiên bản
được công bố vào năm 1983 về Nghị Quyết Hội Nghị lần 6, cuộc họp này đã khôi
phục chính sách ôn hoà trong thời kỳ 1930 của Hồ Chí Minh về vấn đề tịch thu
ruộng đất [53]. Nhưng tương phản với những tuyên bố từ Hội Nghị lần 8 vào năm
1941, những tài liệu của năm 1939 vẫn chủ yếu nhắm vào tầng lớp công nông và
dân chúng. Một mặt ĐCS Đông Dương đang quay lại những lĩnh vực quen thuộc mà
những nhà hoạt động như Hồ Chí Minh có thể nhớ lại phong trào phản chiến trong
thời kỳ Chiến Tranh Thế Giới thứ Nhất. Trong thời gian ấy tầng lớp xã hội thiên
tả và Bolshevik đã không thừa nhận những mục tiêu chiến tranh của tầng
lớp thống trị. Trong khi đó, đảng hiện đang đứng trên lập trường mà nhờ đó có
thể gần gũi hơn với thành phần cánh tả của mình trong khi đang chuẩn bị vị thế
để quay lại những cuộc đấu tranh bạo lực hơn nhằm lật đổ quyền lực của Pháp.
Sau việc Nguyễn Văn Cừ bị bắt vào tháng 1 1940
không rõ là chiếc ghế lãnh đạo đang trống đã được thay thế ra sao. Việc Cừ biến
khỏi sân khấu chính trị dường như đã tạo ra cơn khủng hoảng trong ĐCS
Đông Dương vốn vẫn chưa giải quyết xong cho đến Hội Nghị lần 8 vào năm 1941. Có
thể là vào năm 1940 hai xu thế khác nhau bên trong đảng lại nổi lên, tương tự
như việc chia rẽ của Thanh Niên Hội thời gian 1928‐9. Trong khoảng
tháng 3 hoặc tháng 4, Võ Văn Tần bị bắt, làm mất đi một lãnh đạo chủ chốt [54].
Đến năm 1940, hai nhà hoạt động hợp pháp tại Bắc Kỳ là Võ Nguyên Giáp và Phạm
Văn Đồng bắt đầu đảm nhận vai trò liên lạc giữa Uỷ Ban Trung Ương và những
người cộng sản ở miền nam Trung Quốc. Trong lúc ấy tại Nam Kỳ phong trào chống
Pháp được hồi sinh và đã xem việc kết nạp thành viên trong hàng ngũ quân đội là
một trong những nhiệm vụ chính của mình. Khó có thể nói được những gì đang xảy
ra tại Vân Nam và Quảng Tây đã được điều phối chặt
chẽ ra sao với những hoạt động tại Nam Kỳ cũng như những vùng khác tại Việt Nam . Những thành viên cộng sản cố gắng
tìm cách đến Côn Minh để gặp Hồ Chí Minh và Ban Chỉ Huy Hải Ngoại trong năm
1940 là những người có quan hệ mật thiết nhất với những chính sách của Mặt Trận
Liên Minh Dân Chủ. Ngoài Giáp và Đồng, những người này bao gồm cựu đảng viên
Tân Việt là Phan Đăng Lưu. Một phụ nữ có tên là Lý Thị Lan được thấy đã có gặp
Hồ Chí Minh tại Vân Nam vào tháng 5 và tháng 6 1940. Điều
đáng lưu ý là một báo cáo của người Pháp vào tháng 6 có nhắc đến việc ĐCS Đông
Dương đã ʺcó ý định sử dụng thành viên nữ nhiều hơn nữa trong công tác tuyên
truyền và liên lạcʺ [55].
Vào tháng 6 1940 những chi bộ của ĐCS Đông
Dương trong và ngoài nước cuối cùng đã tập hợp lại với nhau. Hồ Chí Minh đã đến
Vân Nam , thủ phủ của Côn Minh vào đầu năm. Sau khi
thất bại trong việc bắt liên lạc với ĐCS Đông Dương vào mùa thu 1939, ông được
cho là đã quay lại Quế Lâm và tìm cách đến Quí Dương (Gui Yang ‐ ND) và Trùng
Khánh (Chong Qing - ND). Tại đấy ông đã gặp lại Chu Ân Lai một lần nữa, theo
tài liệu của Trung Quốc. [56] Với việc thay đổi chính sách thình lình của Moscow vào tháng 8 1939, những người Việt
chắc hẳn đã rất nôn nóng học hỏi cách áp dụng chiến thuật của riêng họ. (Hẳn là
Hồ đã gặp Chu trước khi Chu đi Moscow vào đầu năm 1940 [57]). Tài liệu của Việt
Nam viết rằng Hồ cũng gặp Hồ Học Lãm, người đồng hương của ông tại Trùng Khánh,
Lãm vẫn còn nằm trong Bộ Tổng Tham Mưu của Quốc Dân Đảng [58].
Những người cộng sản Việt Nam đang biến Côn
Minh trở thành trung tâm hoạt động của mình là những thành phần bao gồm những
cựu học viên Thanh Niên tại Quảng Châu và những cựu đảng viên của Việt Nam Quốc
Dân Đảng đang nương náu tại Vân Nam từ năm 1930. Trong số những thành viên
Thanh Niên thì Hoàng Văn Hoan và Phùng Chí Kiên là hai người nổi bật nhất.
Giống như Hồ Chí Minh, Kiên vẫn được xem là
thành viên của Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Đông Dương cho đến năm 1938. [59] Ông đã
trở thành người đứng đầu của Ban Chỉ Huy Hải Ngoại vừa được tái thiết. Lai lịch
của hai thành viên khác trong nhóm này là Vũ Anh (Trịnh Đông Hải) và Cao Hồng
Lĩnh hoặc Lành thì ít rõ ràng hơn. Cả hai rõ ràng đều là những người cộng sản
thuần thành và thông thạo tiếng Hoa. Có thể họ là những người trong nhóm Nam
Kinh chung quanh Hồ Học Lãm. Vào năm 1935 Vũ Anh và một cựu đảng viên Việt Nam
Quốc Dân Đảng là Trần Hồ Kinh đã được ĐCS Đông Dương gửi đi để xây dựng một tổ
chức cộng sản tại Vân Nam. Họ đã kết nạp hai học viên tại trường đào tạo sĩ
quan Côn Minh là Bùi Đức Minh và Lê Tùng Sơn, những người này đang bất mãn với
giới lãnh đạo Việt Nam Quốc Dân Đảng [60]. Hai người này đã trở thành trụ cột
của nhóm cộng sản hải ngoại, Bùi Đức Minh là người dẫn đường cho Giáp và Đồng
khi họ đến Côn Minh vào tháng 5 1940. Có thể vẫn còn một số đông công nhân có
liên hệ với Việt Nam Quốc Dân Đảng tại Vân Nam vào năm 1940, dọc theo tuyến đường
sắt Hà Nội ‐ Côn Minh. Mặc dù mặt trận thống nhất đang hiện hữu tại Trung Quốc,
những người cộng sản vẫn thường dùng một tổ chức trá hình nào đấy để tránh bị
những người Quốc Dân Đảng địa phương quấy rầy. Một số tài liệu của Việt Nam cho biết Hồ Chí Minh và Phùng Chí
Kiên đã thực hiện một chuyến kiểm tra dọc theo tuyến đường sắt Vân Nam vào tháng 4 1940. Hồ khuyến khích
giới cộng sản Việt Nam tăng cường công tác tuyên truyền dọc theo tuyến đường,
kêu gọi dân chúng Việt Nam ʺchống lại người Pháp và ủng hộ Trung Quốc kháng
Nhậtʺ, dùng vỏ bọc của ʺHiệp Hội Người Việt Ủng Hộ Cuộc Kháng Chiến Trung Quốcʺ
để che đậy những hoạt động của mình [61].
Võ Nguyên Giáp kể lại rằng ông và Phạm Văn Đồng
đã đáp tàu hoả từ Hà Nội vào đầu tháng 5 1940. Họ gặp Bùi Đức Minh tại Yên Bái,
Minh đưa họ đi chặng sau bằng đường sông. Sau khi băng qua sông tại Lào Cai để
qua Trung Quốc, họ ăn mặc như người Trung Quốc để tiếp tục cuộc hành trình đến
Côn Minh. [62] Điều kỳ lạ là vào ngày 13 tháng 5 Sở Liêm Phóng nhận được một
báo cáo rằng ʺmột người nhập cư vừa đến từ Tây An, Trần Bá Quốcʺ, và Lý Thị Lan
đã rời Vân Nam Phủ bằng tàu hoả vào ngày 12 tháng 5. Họ dự định sẽ đi đến biên
giới Việt Nam và đi bộ qua Việt Nam , bản báo cáo cho biết. Người đàn
ông ăn vận như một học giả và người đàn bà mặc trang phục Khách Gia (Hakka ‐ ND) [63].
Người Pháp nhận diện người đàn ông này là Hồ Chí Minh. Có thể là Hồ Chí Minh đã
hy vọng gặp được hai đại diện từ Hà Nội tại biên giới. Nhưng theo lời kể của
Giáp, ông và Đồng đã đợi ở Côn Minh cho đến đầu tháng 6 trước khi Hồ, giờ được
gọi theo bí danh cũ từ Hồng Kông là Vương, xuất hiện. Vào thời điểm này thì tài
liệu của Việt Nam không cho biết rõ về cuộc thảo luận
đã xảy ra sau đó. Nhưng có một bản báo cáo dài và yêu cầu trợ giúp mà Hồ soạn
thảo gửi cho ĐCS Trung Quốc vào tháng 7 1940 có thể là kết quả của một quyết
định chung đạt được trong tháng đó. Báo cáo của Sở Liêm Phóng vào tháng
12 1940 cho biết rằng Phan Đăng Lưu đã thú nhận
sau khi bị bắt rằng ông cũng có mặt tại Vân Nam vào tháng 6. [64] Một báo cáo khác
của Sở Liêm Phóng vào ngày 9 tháng 6 1940 đã đề cập về việc ʺnhững người cộng
sản Đông Dương đang trở về nướcʺ. Báo cáo đã nhắc đến có 4 người đồng
hành là: Trần Bá Quốc, Lý Thị Lan (bản báo cáo khẳng định
người này không phải là Nguyễn Thị Minh Khai, còn được biết
đến như Cô Duy, Lý Minh Xuân hoặc Trần Thị Lan), Dương Bá Linh và Nguyễn Công
Nam [65]. Lúc Giáp và Đồng còn ở Trung Quốc thường lấy bí danh là Dương Hoài Nam và Lâm Bá Kiệt. Vì thế chúng ta
không thể chắc chắn bốn nhân vật này là ai. Danh phận của người phụ nữ vẫn là
một bí ẩn nhưng người Pháp có lẽ cũng quá hấp tấp khi kết luận rằng người này
không phải là Minh Khai. Họ đã không có bằng chứng chắc chắn về dấu vết của bà
từ hội nghị vào mùa thu 1937 cho đến khi bà bị bắt tại Chợ Lớn vào hạ tuần
tháng 7 1940, mặc dù họ tin rằng bà đã sinh một bé gái vào đầu năm 1939. Đến
tháng 5 1940 bà bị chỉ điểm của Sở Liêm Phóng nhận diện là bí thư Uỷ Ban Trung
Ương, vì thế việc bà tham gia vào nhóm người đi Vân Nam là rất có lý [66].
Báo cáo của Hồ về tình hình Đông Dương cùng với
yêu cầu trợ giúp đề ngày 12 tháng 7 1940, được trình bày với phong cách vô cùng
cặn kẽ theo khuôn khổ của QTCS. Nó bao gồm một phân tích về hiện tình chiến
lược tại Đông Dương và thái độ của quốc tế về tương lai của vùng này. Tác giả
báo cáo viết rằng vào cuối năm 1929 ông quay về Hồng Kông để tổ chức một hội
nghị gồm các thành phần cộng sản, ta có thể giả định rằng tác giả chính là Hồ
Chí Minh. Ông liên hệ việc Pháp đầu hàng Đức vào ngày 16 tháng 6 1940 là ngày
mà tất cả người Việt đều vui mừng, tin rằng thời điểm thuận tiện để lật đổ ách thống
trị của Pháp đã đến. ʺVề việc này chúng tôi chỉ thiếu những người lãnh đạo và
tổ chức. Và tại sao ĐCS không lãnh lấy trách nhiệm tổ chức và lãnh đạo này? Bởi
vì 80 ‐ 90% các đảng viên kỳ cựu đã bị bắt, và những đảng viên mới không có đủ
kinh nghiệm hoặc thực lực. Vấn đề là để kêu gọi nhân dân đứng lên chúng tôi cần
một người có ảnh hưởng, một người sẽ tiến công một cách quyết đoán và mạnh mẽʺ
[67]. Phân tích của Hồ về chủ ý của Nhật cho thấy rằng ông đã không nhìn trước
được mối hợp tác giữa Nhật và chính phủ Vichy của Pháp để đô hộ Đông Dương sẽ
được thiết lập vào tháng 9 1940. ʺHiện tạiʺ, ông viết, ʺNhật đang cố gắng để
nắm lấy nước nàyʺ (Đông Dương). Người Nhật đã cách Hà Nội chỉ 3 giờ đồng hồ,
trong khi lực lượng đặc nhiệm của họ đang sẵn sàng đổ bộ vào Hải Phòng bất cứ
lúc nào, ông nói. Mặc dù chính quyền tại Đông Dương đã tuyên bố ủng hộ Hội Đồng
London của nước Pháp Tự Do, ông lưu ý rằng trên thực tế họ đang đi từ nhượng bộ
này đến nhượng bộ khác đối với người Nhật. [68] Nhưng ông lại kết luận rằng,
mặc dù Nhật đang mạnh, họ không thể dùng toàn bộ lực lượng để bảo hộ Đông
Dương, vì bộ máy quân sự khổng lồ của họ đang đang bị trói chân trong cuộc
chiến tại Trung Quốc. Quân đội Pháp tại Đông Dương nói chung đa phần bao gồm
binh lính bản xứ, ông chỉ ra, và ʺnếu chúng ta có thể kêu gọi họ được, họ ‐ hoặc ít nhất
một số trong họ ‐ sẽ chống lại người Pháp (hoặc ngay cả Nhật].ʺ Ông cũng lưu ý rằng các
lực lượng chống Pháp có được những đồng minh lớn: ngoài Liên Xô còn có Trung
Quốc và Ấn Độ. Một tình thế sẽ được thành hình khi nó có đủ ʺcho một người lên
tiếng kêu gọi, để toàn bộ đồng đứng lênʺ. ʺNói tóm lạiʺ, ông viết, ʺnhững điều
kiện khách quan đang có lợi cho thành công của chúng tôi, nhưng lực lượng chủ
quan ‐ đảng của chúng tôi ‐ thì lại rất yếu... hiện tại các
đồng chí kỳ cựu đầy kinh nghiệm của chúng tôi đang rên xiết trong ngục tù. Vì
thế quần chúng không có người cầm đầu và không thể lợi dụng được ʺthời cơ nghìn
năm có một nàyʺ [69].
Để thay đổi hiện tình, để giúp đảng thực hiện
nhiệm vụ lịch sử của mình, ông giải thích rằng họ cần phải tấn công từ bên
ngoài. Để làm được việc này họ cần: (1) được tự do qua lại biên giới; (2) một
số vũ khí; (3) một số trợ giúp về tài chính; và (4) một vài cố vấn. Khi chúng
tôi có được những thứ này, ʺchúng tôi hoàn toàn có thể tạo ra được một hậu cứ
chống phát xít Nhật,ʺ ông viết. ʺNgoài ra,ʺ ông kết luận, ʺnếu chúng tôi có thể
lợi dụng những mâu thuẩn bên trong bọn đế quốc để thành lập và mở rộng một mặt
trận thống nhất của quần chúng bị áp bức, thì tương lai sáng lạn cũng không còn
xa mấy” [70] Lời yêu cầu này dường như là phương án đầu tiên để thành lập lực
lượng vũ trang Việt Minh. Nó cũng có thể là dấu hiệu đầu tiên về nhân vật được
biết đến là Nguyễn Ái Quốc đang chuẩn bị biến mình thành vị lãnh đạo quốc gia Hồ
Chí Minh, ʺmột con người đầy ảnh hưởng luôn sẵn sàng ra
tay tấn côngʺ. Sự yếu kém của ĐCS Đông Dương dường như đã tạo
nên một khung thời gian ít nhất là 6 tháng đến 1 năm để kế hoạch nổi dậy có thể
khởi sự.
Vào mùa hè 1940, Bộ Phận 6 (chuyên nắm thông
tin) của Quốc Dân Đảng Trung Quốc nhận được tin rằng một thành viên cộng sản
người Việt đang tìm cách tiếp xúc với ĐCS Trung Quốc. Họ đã báo cáo rằng có một
đảng viên cộng sản từ miền nam là Trần Văn Hinh đã đến Diên An và đến tháng 8,
hai bên Trung Quốc và Việt Nam đã đạt được một thoả thuận tương
trợ. (Không rõ rằng người này đã chuyển giao yêu cầu của Hồ Chí Minh hay đây là
một tiếp xúc riêng với ĐCS Trung Quốc). Kinh Chen đã liệt kê những điều khoản
trong bản thoả thuận như sau: (1) xây dựng một Mặt Trận Thống Nhất của nhân dân
Hoa ‐ Việt chống Nhật; (2) mở rộng tổ chức vũ trang cộng sản và bắt đầu các
hoạt động du kích; (3) liên hiệp ĐCS Đông Dương với tất cả các đảng chính trị
khác trong nỗ lực thiết lập một ʺMặt Trận Thống Nhất cho Nền Độc Lập Quốc Giaʺ,
(4) biến mục tiêu đấu tranh của ĐCS Đông Dương trở thành ʺChống Đế Quốc
Pháp và Chống Phong Kiếnʺ; (5) gửi thành viên ĐCS Đông Dương đến Diên An để học
tập tại Đại Học Kháng Nhật ; và (6) để những thành viên ĐCS Trung Quốc đang làm
đại diện tại Phòng Thông Tin Châu Á của QTCS trở thành người hướng dẫn ĐCS Đông
Dương, và phụ giúp 50 nghìn đồng Trung Quốc hằng tháng cho ĐCS Đông Dương
[71]. Thoả thuận này phản ánh sự bất lực của ĐCS Pháp trong việc tiếp tục cố
vấn cho người Việt, và là một khởi đầu của việc chấp nhận phục tùng của ĐCS
Đông Dương đối với ĐCS Trung Quốc. Thoả thuận trên có thể là không tránh
khỏi vào thời điểm này trong quá trình phát triển của ĐCS Đông Dương vì liên
lạc trực tiếp với QTCS dường như đã bị giảm thiểu. (Yêu cầu trợ giúp của Hồ gửi
đến ĐCS Trung Quốc đã không được dịch sang tiếng Nga mãi cho đến năm 1942; việc
nó có mặt trong hồ sơ của QTCS ra sao thì không được rõ). Hồi ký của Giáp nói
rằng tại Bắc Kỳ đang thảo luận việc cần thiết phải phục hồi lại Liên Hiệp Các
Dân Tộc Châu Á Bị Áp Bức [72], một ý định được Hồ đưa ra trong kết luận của bản
yêu cầu viện trợ của ông. Dường như tổ chức dùng làm vỏ bọc để liên kết
những người cộng sản châu Á vào những năm 1925‐6 và 1928‐30 đang được
cân nhắc để biến thành guồng máy cho mặt trận kháng Nhật do Trung Quốc dẫn đầu.
Vào tháng 7 1940 người Pháp bắt đầu thu thập
chứng cứ tại Nam Kỳ về mầm mống của một cuộc nổi dậy. Họ tin rằng vào cuối
tháng 6 1940, Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Đông Dương đã thông qua một
điều lệnh chỉ đạo đảng viên chuẩn bị một cuộc khởi nghĩa vũ trang [73]. Bản
tường trình này có thể đang nói về cuộc họp được tổ chức tại Côn Minh vào tháng
6 1940, vì ở đó thực sự đang có nhiều thành viên của Uỷ Ban Trung Ương hơn là
số thành viên còn lại đang lưu lạc tại Nam Kỳ. Những người này bao gồm Phùng
Chí Kiên, Hồ Chí Minh, Phan Đăng Lưu và có lẽ có cả Nguyễn Thị Minh Khai. Sở
Liêm Phóng cũng đã báo cáo rằng đảng Việt Nam đã gửi một thành viên người Hoa
thuộc ĐCS Đông Dương đến Trung Quốc để yêu cầu ĐCS Trung Quốc hậu thuẫn cuộc nổi
dậy [74]. Chúng ta không biết được việc này có phải đang nói về chuyến đi của
Phan Đăng Lưu đến Vân Nam hoặc những di chuyển của ʺTrần Văn Hinhʺ được ghi
nhận bởi Quốc Dân Đảng, hoặc có một mối liên hệ nào khác giữa ĐCS Trung Quốc và
Nam Kỳ qua chi bộ của ĐCS Trung Quốc tại Sài Gòn hay không. Người Pháp đã có
được bằng chứng chắc chắn về công tác chuẩn bị cho một cuộc khởi nghĩa vũ trang
khi họ bắt giữ Nguyễn Thị Minh Khai tại văn phòng của Uỷ Ban Trung Ương ở Chợ
Lớn vào ngày 30 tháng 7 / 1940, cùng với người tù chính trị từng vượt ngục là
Nguyễn Hữu Tiến. Họ đã thu giữ được những tài liệu mà họ miêu tả là ʺliên quan
đến một cuộc nổi dậy do ĐCS Đông Dương chuẩn bị thực hiện khi ʺthời cơ thuận
lợiʺ đếnʺ. Hầu hết những tài liệu trên chưa được quay rô‐nê‐ô và phân phát
đến các thành viên. Một số đoạn trong số tài liệu bị tịch thu mang chủ trương
chống lại quân đội Pháp vì thế những người vừa bị bắt được giao cho toà án quân
đội [75]. Sud Chonchirdsen viết rằng những tài liệu này bao gồm ʺviệc thành lập
một tổ chức kháng chiến, kế hoạch phá hoại và chiến thuật du kíchʺ[76].
Những đảng viên bị bắt chung với Minh Khai là Nguyễn Hữu Tiến (Giáo Hoài), cũng
như Tạ Uyên, một cựu thành viên của ĐCS Đông Dương cũ từ Hà Nam. Hai người đã
cùng vượt ngục Côn Đảo vào mùa xuân 1935.
Dường như đã có một mối liên hệ giữa cuộc họp
tại Côn Minh vào tháng 6 1940, không được ghi nhận trong lịch sử đảng như là
một phiên họp chính thức của ĐCS Đông Dương, và khởi đầu của phong trào kháng
chiến bên trong Việt Nam . Nhưng từ những biến chuyển sau đó
tại Nam Kỳ, ta có thể nghi ngờ rằng những kế hoạch mà Hồ Chí Minh đã thảo luận
với các đồng chí của mình và yêu cầu trợ giúp mà ông đã gửi cho ĐCS Trung Quốc
đã thực sự tạo thành một sơ đồ cho cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, được khởi sự từ ngày
23 tháng 11 hay không. Hồ Chí Minh, một người lập kế hoạch đầy thận trọng, chắc
hẳn đã không ủng hộ một lịch trình cấp tốc cho cuộc khởi nghĩa đang thành hình
ở Nam Kỳ giữa tháng 9 và tháng 11 1940. Đến năm 1930, dường như cánh duy chí
trong đảng với chủ trương tạo ra một khởi nghĩa bạo lực mang tính tượng trưng
trong lòng quân đội Pháp, đã là người cầm trịch cho những sự kiện xảy ra trong
những tháng mùa thu. Một nguồn tài liệu của Việt Nam cho rằng tại một cuộc họp của Xứ Uỷ
Nam Kỳ được tổ chức tại Mỹ Tho vào tháng 7 1940, một nhóm đại biểu đã chủ
trương hoãn khởi nghĩa vì các lực lượng của đảng quá yếu. Nhóm người này bao
gồm những đại biểu từ Sài gòn ‐ Chợ Lớn, những tỉnh miền đông và
Phan Đăng Lưu, được xem là đại diện của Nam Kỳ tại Uỷ Ban Trung Ương. Nhưng
thành phần đa số đã biểu quyết tiếp tục khởi nghĩa. Đến lúc này thì Phan Đăng
Lưu đã đề nghị nên tham khảo với toàn thể Uỷ Ban Trung Ương [77]. Sau khi Phan
Đăng Lưu bị bắt vào tháng 11, ông đã khai rằng cuộc khởi nghĩa đã do những
thành phần cực tả trong đảng chủ trương ʺhọ đã không thèm để ý đến những lời
khuyên từ Ban Chấp Hành Đảng Uỷ Nam Kỳ về việc đảng đã sẵn sàng hay chưaʺ [78].
Một số tài liệu của Việt Nam mà cụ thể là Trần
Huy Liệu cho rằng Mặt Trận Phản Đế tại phía Nam đã cực kỳ thành công trong việc
chiêu dụ thành phần binh lính bản xứ. Trong bài viết của ông về cuộc Khởi Nghĩa
Nam Kỳ ông nói rằng đã có một số nhóm lính tại Gia Định và Chợ Lớn, có khi đã
lên đến 300 người, đã bỏ trốn vào rừng cùng với vũ khí để chuẩn bị khởi nghĩa
chống Pháp. Vào tháng 11 1940, khi người Pháp đang chuẩn bị gửi quân đến vùng
biên giới Thái ‐ Miên để chống lại việc Thái đang lấn chiếm, Liệu viết rằng có đến
15.000 (sic] binh lính người Việt tại Sài Gòn, gồm cả hai đơn vị pháo binh,
đang chuẩn bị biểu tình phản đối việc họ phải tham chiến. Có đến hai phần ba
lính người Việt sẵn sàng ʺđi theo cách mạngʺ vào thời điểm ấy, cùng với 15.000
thường dân miền nam, Liệu viết [79]. Những nguồn tài liệu khác viết rằng tốc độ
tăng trưởng nhanh chóng của chi bộ phía nam vào thời điểm sau Hiệp Ước Molotov‐Ribbentrop.
[80] Nhưng dường như người Pháp đã nắm được thông tin của phong trào một cách
dễ dàng khi nó nổ ra vào tháng 11.
Nhật và Pháp đã đi đến thoả thuận hợp tác quân
sự vào ngày 22 tháng 9 1940, trong đó cho phép Nhật giữ 6.000 quân tại Bắc Kỳ,
được quyền sử dụng 4 sân bay tại Bắc Kỳ và di chuyển quân từ Bắc Kỳ đến Vân
Nam. [81] Nhưng vào đêm ký kết thoả thuận, Nhật đã tấn công không lý do vào đồn
biên giới Đồng Đăng của Pháp, dẫn đến 3 ngày giao chiến giữa lính Pháp và Nhật.
Người Việt trong tổ chức được Nhật hậu thuẫn Việt Nam Phục Quốc Đồng Minh Hội
đã tham gia trong trận chiến tại Lạng Sơn, trong khi tại huyện Bắc Sơn một cuộc
nổi dậy do ĐCS Đông Dương cầm đầu đã xảy ra vào ngày 23 tháng 9. Kháng cự tại
khu vực Vũ Lăng xảy ra lẻ tẻ cho đến ngày 23 tháng 10, khi người Pháp quay lại
để dập tắt những chiến binh cách mạng. [82] Một lần nữa những người cộng sản
thấy rõ rằng người Nhật sẽ không đánh bật người Pháp để hậu thuẫn cho các lực
lượng quốc gia người Việt, mục đích ngắn hạn của Mặt Trận Phản Đế đã phải tái
thẩm định.
Khi Phan Đăng Lưu đi Bắc Kỳ để tham vấn vào
tháng 10 1940, không rõ là ông đã tham gia một cuộc họp nào, hoặc quyền hạn của
nó có được đảng bộ phía nam công nhận hay không. William Duiker (nhà sử học Mỹ ‐ ND) dựa trên
những cuộc phỏng vấn của Hà Nội, viết rằng Lưu đã gặp những thành viên của Xứ
Uỷ Bắc Kỳ, những người này vào đầu tháng 11 1940 đã tái tổ chức Uỷ Ban Trung
Ương, đề cử Đặng Xuân Khu, tức Trường Chinh, làm quyền Tổng Bí Thư. [83] Những
thành viên khác gồm có Hoàng Quốc Việt (đã nằm trong Uỷ Ban Trung Ương ít nhất
là từ 1937], Hoàng Văn Thụ và Trần Đăng Ninh, người đang chỉ đạo phong trào
khởi nghĩa Bắc Sơn. Đây có vẻ là câu trả lời hợp lý nhất cho sự khủng hoảng
trong giới lãnh đạo ĐCS Đông Dương đã được giải quyết ra sao, mặc dù không rõ
là cuộc họp tháng 11 đã được xem như là Hội Nghị Lần 7 từ khi nào, hoặc những
thành viên trong Uỷ Ban Trung Ương tại Côn Minh đã tham gia quyết định hay
không. Điều đáng lưu ý là tại Viện Bảo Tàng Cách Mạng tại Thành Phố Hồ Chí Minh
có giữ một ʺthông báo khẩnʺ dưới dạng tờ rơi từ Đảng Bộ Trung‐Bắc Kỳ gửi đến
Ban Chấp Hành Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Đông Dương yêu cầu giúp đỡ cuộc Khởi Nghĩa
Nam Kỳ. Cuộc nổi dậy đã bắt đầu vào ngày 23 tháng 11, tờ thông báo viết; nhiệm
vụ của Đảng Bộ Trung-Bắc Kỳ là ʺđem thanh thế của những người
tham gia khởi nghĩa bằng cách đánh
động những lực lượng đế quốcʺ. [84] Nếu tài liệu này là
thật thì nó cho thấy ít nhất một số đảng viên phía nam vẫn nghĩ rằng Ban Chấp
Hành đang ở tại Nam Kỳ. Nhưng Sở Liêm Phóng vào tháng 12 1940 đã tường trình
rằng Phan Đăng Lưu đã thú nhận là ông đã đi Bắc Kỳ vào tháng 10 1940, ʺchắc
chắn là để tham gia cuộc họp của Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Đông Dương, được cho là
đã diễn ra vào ngày 5,6 và 7 tháng 11ʺ [85].
Dù thế, cuộc họp mà Phan Đăng Lưu tham dự đã
biểu quyết đồng ý dời ngày khởi nghĩa ở miền nam nhưng muốn phát triển các lực
lượng vũ trang tại Bắc Sơn [86]. Hoặc là ý kiến của Uỷ Ban Trung Ương đã không
đến được chi bộ miền nam đúng lúc, hoặc theo như một số nguồn tài liệu, kế
hoạch đã đi quá xa nên không thể huỷ bỏ. Phan Đăng Lưu đã bị bắt khi vừa đến
Sài Gòn, ngay trước khi Tạ Uyên bị bắt. Người Pháp đã tìm cách bám sát được kế
hoạch khởi nghĩa nhờ đã bắt được những nhân vật chủ chốt. Do đó hầu hết những
mục tiêu của cuộc khởi nghĩa như việc đánh chiếm Nhà Lao Chính tại Sài Gòn đã
được ngăn chận. Việc nổi dậy đồng loạt của binh lính bản xứ bị dập tắt ngay từ
đầu khi họ bị nhốt trong doanh trại. Có thể người Pháp đơn giản chỉ đợi chờ
những người tổ chức ra tay là tiến hành bắt giữ. Một bức điện tín năm 1941 gửi
cho nhà cầm quyền thuộc địa của chính phủ Vichy đã liệt kê những thiệt hại từ
cuộc nổi dậy như sau: 30 tử vong trong đó có 3 người Pháp, 30 bị thương trong
đó cũng có 3 người Pháp. Một số nạn nhân đã bị tấn công một cách tàn bạo. Vẫn
chưa tìm lại được 40 khẩu trong số 130 súng trường và súng ngắn bị đánh cắp.
Nhiều toà nhà bị đốt trụ, cầu cống, đường dây điện và dây thép bị phá hoại. Đô
đốc Decoux cho rằng mức độ bạo lực quá ghê tợn vì thế không thể nương tay với
bất kỳ người lãnh đạo của ĐCS Đông Dương nào bị bắt giữ [87].
Những vụ bắt bớ và tử hình theo sau cuộc nổi
dậy bất thành đã phá vỡ nền móng ĐCS Đông Dương tại miền nam. Có đến 100 nhân
vật cầm đầu bị án tử hình, theo lời Trần Huy Liệu. [88] Hà Huy Tập, Nguyễn Văn
Cừ, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai và Nguyễn Hữu Tiến bị xử
bắn vào tháng 8 1941. Lê Hồng Phong, Lê Duẩn và nhiều thành viên cộng sản hợp
pháp như Dương Bạch Mai và Nguyễn Văn Tạo bị cầm tù mãi cho đến khi người Nhật
đầu hàng vào năm 1945 (Lê Hồng Phong đã chết tại Côn Đảo vào năm 1942]. Việc
này đã làm cho Uỷ Ban Trung Ương vừa mới tái thiết ở Bắc Kỳ phải tổ chức cơ
cấu, trên lý thuyết là chuẩn bị cho cuộc đấu tranh lâu dài giành độc lập. Trọng
tâm của đảng giờ đây đã chuyển sang phía bên kia biên giới Trung Quốc, nơi Hồ
Chí Minh và những đảng viên hải ngoại đang bắt đầu thiết lập liên lạc để giúp
họ tham dự vào phong trào giải phóng Việt Nam do Quốc Dân Đảng Trung Quốc hậu
thuẫn. Nền lãnh đạo chính thống mới của đảng giờ đây được chuyển sang Hồ Chí
Minh và những đồng chí của ông từ những năm
của những khoá đào tạo tại Quảng Đông. Ngay
cả Trường Chinh vào năm 1941 cũng đã cần đến sự phê chuẩn của Hồ Chí Minh
để được chấp thuận vào chức vụ đứng đầu đảng. Đối với những đảng viên thuộc thế
hệ 1928‐35, có lẽ nhóm lãnh đạo này có ít uy tín nhất: họ đã hai lần tham gia
vào những mặt trận thống nhất với tầng lớp tư sản Quốc Dân Đảng và chỉ có vài
người trong họ được ʺvô sản hoáʺ. Võ Nguyên Giáp, người sẽ trở thành một trong
những cánh tay đắc lực của Hồ Chí Minh, chỉ mới trở thành đảng viên chính thức
vào năm 1937. [89] Quá khứ của ông là một học sinh hoạt động cho Tân Việt vào
những năm 1928‐30 và là một nhà báo trong mặt trận thống nhất tại Hà Nội đã tạo ra ngờ
vực dưới mắt một số đảng viên ĐCS Đông Dương. Chỉ có Phùng Chí Kiên là thật sự
có kinh nghiệm khi từng tham gia Hồng Quân Trung Quốc. Nhưng họ lại là những
người đã đóng vai trò chủ đạo trong năm 1941, khi tổ chức Việt Minh bắt đầu
thành hình.
Di chuyển đến biên
giới và Hội Nghị lần 8
Vào tháng 10 1940 Hồ Chí Minh và những phụ tá
của ông chuyển từ Côn Minh về Quế Lâm. Chính vào thời điểm này những người cộng
sản hải ngoại đã quyết định sử dụng vỏ bọc của tổ chức Việt Nam Độc Lập Đồng
Minh Hội, gọi tắt là Việt Minh cho mặt trận quốc gia của mình.
Đây cũng chính là tổ chức được sáng lập tại Nam
Kinh bởi Hồ Học Lãm, Hoàng Văn Hoan, Lê Thiết Hùng, Phi Vân, Nguyễn Hải Thần và
những người khác vào năm 1936. Vì nó vẫn là một tổ chức chính thức có đăng ký
tại Trung Quốc nên cơ cấu của nó rất phù hợp với những mục đích của Hồ. Hồ Học
Lãm, mặc dù đang nằm viện tại Quế Lâm, vẫn là một nhân vật đứng đầu có uy tín
và có quan hệ mật thiết với Bộ Tổng Tham Mưu của Quốc Dân Đảng. Qua Hồ Học Lãm,
những người cộng sản Việt Nam đã có thể liên lạc với Tướng Lý Tế Thâm, tư lệnh
quân khu Tây Nam của Quốc Dân Đảng tại Quế Lâm [90]. Điều trớ trêu là Lý Tế
Thâm chính là vị tướng mà Hồ Chí Minh từng tố cáo là người chủ mưu phá huỷ
phong trào nông dân Quảng Đông vào những năm 1926‐7; ông cũng chính là người đập tan
Sô Viết Quảng Châu vào tháng 12 1927. Nhưng những năm sau này ông lại trở thành
người chống đối Tưởng Giới Thạch và giờ đây có thể đã thấy rằng việc hợp tác
với những người quốc gia Việt Minh rất quan trọng trong việc nới rộng hoạt động
kháng Nhật. Hồ đã giúp nâng cao uy tín của Việt Minh bằng cách kêu gọi thành
lập Hoa Việt Văn Hoá Đồng Chí Hội, bao gồm những người vào lúc đó được cho là
những ʺcây viết cấp tiếnʺ. Hồ Học Lãm và Phạm Văn Đồng trở thành thành viên của
hội đồng điều hành [91]. Nhưng kinh nghiệm của Hồ vào thời kỳ đầu của mặt trận
thống nhất tại Quảng Đông, khi ông thành lập Liên Hiệp các Dân Tộc bị Áp Bức,
giờ đã được đem vào sử dụng.
Vào cuối năm 1940 khi làn sóng của những người
tị nạn từ những cuộc khởi nghĩa thất bại ở miền bắc đổ sang Trung Quốc, những
người quốc gia Việt Nam chuyển đến phía nam Trịnh Tây (Jing Xi ‐ ND), một thị
trấn cách biên giới Việt Nam khoảng 65 dặm. Trương Phát Khuê, giờ là tổng tư
lệnh Đệ Tứ Chiến Khu, đã gửi một thành viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng là
Trương Bội Công đi Trịnh Tây để thu nạp những người tị nạn vào một ʺđội công
tác biên giớiʺ. [92] Đã có một số thành viên cộng sản như Lê Quảng Ba và Hoàng
Sâm trong nhóm tị nạn này và Hồ Chí Minh đã nhanh chóng gửi ba cán bộ giỏi nhất
của mình đi về phía nam để gia nhập. Những người này là Võ Nguyên Giáp, Vũ Anh
và Cao Hồng Lãnh. Họ khuyên Hồ rằng ông nên đến Trịnh Tây cùng với họ. Khi Hồ
đi về phía nam cùng với Phạm Văn Đồng, Phùng Chí Kiên và Hoàng Văn Hoan, ông đã
đem theo 3 thẻ căn cước, đều được làm trong năm 1940. Theo lời kể của Trương
Phát Khuê, những giấy này chứng nhận ông là (1) thành viên của Hội Phóng Viên
Thanh Niên Trung Quốc; và (2) Phóng Viên Đặc Biệt của Dịch Vụ Tin Tức Quốc Tế;
tấm căn cước thứ ba là Giấy Phép Đi Lại của Nhân Viên thuộc Bộ Chỉ Huy Đệ Tứ
Chiến Khu. Tất cả các giấy tờ trên đều mang tên ʺHồ Chí Minhʺ [93]. Tên này có
nghĩa là con người sáng suốt nhất, đã đánh dấu việc tạo dựng nên một nhân vật
mới, mang tính chất của một bậc lãnh đạo uyên bác và một môn đồ khổ hạnh của
chính nghĩa dân tộc.
Sau khi Hồ đến Trịnh Tây vào tháng 12 1940, ông
đã gửi Vũ Anh đến vùng biên giới thuộc tỉnh Cao Bằng để chọn lựa một khu vực an
toàn dùng làm căn cứ cách mạng, theo hồi ký của Vũ Anh [94]. Chính vào lúc này
Hồ đã mở một lớp đào tạo tại hai ngôi làng biên giới cho khoảng 40 người tị nạn
Việt Nam được Giáp và các đồng chí của ông tuyển lựa từ ʺĐội Công Tác Biên
Giớiʺ của Trương Bội Công. Vũ Anh nói rằng ông đã chọn một chiếc hang tại Pắc
Bó để làm nơi trú ẩn an toàn phía bên này biên giới cho những người cộng sản
quốc gia. Nhưng theo những tường trình của người Pháp từ năm 1941 đã cho thấy
chiếc hang này đúng hơn là đã được dùng làm nơi ẩn náu của quân du kích để đi
về giữa Việt Nam và Trung Quốc [95]. Hồ Chí Minh được cho là đã quay lại Việt Nam vào tháng 2 1941 nhưng thật ra ông
đã giành phần lớn thời gian của mình tại những xóm nhà thuộc phía bên kia Trung
Quốc.
Hồ Chí Minh và nhóm cộng sản cốt cán của ông đã
tiếp tục hoạt động thành công bên trong cơ chế của mặt trận thống nhất trong
năm 1941 trong khi đang nối lại liên lạc với ĐCS Đông Dương tại Bắc Kỳ và Trung
Kỳ. Vào đầu năm 1941 Bùi Đức Minh và Hoàng Văn Thụ đã vượt qua biên giới để
thảo luận những chương trình cho Hội Nghị Toàn Thể của Uỷ Ban Trung Ương lần
thứ 8. [96] Hội nghị này là một trong hai phiên họp quan trọng đã được tổ chức
vào mùa xuân 1941 tại Trịnh Tây, những cuộc họp nhằm củng cố những liên hệ giữa
hai bên biên giới tại cả hai tầng lớp. Vào tháng 4 một cuộc họp của Việt Nam
Dân Tộc Giải Phóng Đồng Chí Hội, một tổ chức mặt trận thống nhất khác, do
Trương Bội Công và Hồ Học Lãm tổ chức đã diễn ra. Theo King Chen, hạt nhân của
cuộc họp mặt này là tổ chức Việt Minh [97]. Chen nói rằng Đồng, Giáp và Hoàng
Văn Hoan là những nhân vật chủ chốt của Giải Phóng Đồng Chí Hội khi họ đã đặt
vấn đề này với Lý Tế Thâm vào cuối năm 1940, và đã thành lập một văn phòng trù
bị tại Trịnh Tây. [98] Hội này rõ ràng là đã đồng nhất với mặt trận thống nhất
của Quốc Dân Đảng và đã dùng thuyết
ʺTam Dânʺ của Tôn Dật Tiên như là chủ thuyết
căn bản. Nó tiếp tục trở thành một cỗ xe hữu ích cho Việt Minh cộng sản cho đến
cuối năm 1941, khi những căng thẳng trong mặt trận thống nhất giữa ĐCS Trung
Quốc và Quốc Dân Đảng đã đến gần điểm bùng nổ.
Việc tổ chức Hội Nghị lần 8 của ĐCS Đông Dương
cũng có thể đã đòi hỏi công tác ngoại giao tế nhị trong tập thể tổ chức Việt
Minh. Việc này được nhớ đến như cuộc gặp gỡ chính thức của Hồ Chí Minh và Uỷ
Ban Trung Ương kể từ khi Hồ trở về miền nam Trung Quốc. Đến mùa xuân 1941, khi
các chi bộ của cả ba miền Việt Nam đang bị người Pháp khủng bố dữ dội, dường
như những người đứng đầu Xứ Uỷ Bắc Kỳ đã không có tư cách gì để từ chối quyền
lãnh đạo từ những người cộng sản hải ngoại. Những quan hệ mong manh giữa những
người cộng sản còn được tự do tại Việt Nam được bộc lộ trong cách thức tiến cử
đại biểu tại Trung Kỳ cho Hội Nghị lần 8. Một trong số họ là Bùi San, sau này
đã bị người Pháp bắt và đã khai với Sở Liêm Phóng rằng ông đã gặp Phan Đăng Lưu
tại Vinh vào cuối năm 1940. Lưu phái ông đi Hà Nội để tái lập liên lạc giữa
những cơ sở đảng thuộc Bắc và Trung Kỳ. Vào hạ tuần tháng 12 1940 nhận được một
bức thư yêu cầu ông gửi hai đại biểu đi dự hội nghị. Ông đã đi Cao Bằng và cuối
tháng 1
1941 với Hồ Xuân Lưu [99]. Theo bản khai của
cảnh sát về hai người cộng sản Trung Kỳ này, cuộc họp mà họ tham gia đã xảy ra
gần Long Châu; đây có thể là cách đánh lạc hướng Sở Liêm Phóng, nhưng căn cứ
theo những tường trình mà Sở Liêm Phóng có được, hội nghị chắc chắc đã diễn ra
bên ngoài Việt Nam. Một chỉ điểm có bí danh là ʺUrsuleʺ đã báo cáo với cảnh sát
Bắc Kỳ rằng cuộc họp đã được tổ chức tại một ngôi nhà hai tầng xây bên sườn núi
cách Trịnh Tây, Quảng Tây 4 ‐ 5 cây số. Uỷ Ban Trung Ương đã họp
tại lầu một, trong khi Xứ Uỷ Bắc Kỳ họp tại tầng trệt. Hai cuộc họp đã được tổ
chức liên tiếp nhau, Hồ Chí Minh tham dự hội nghị Uỷ Ban Trung Ương vào buổi
sáng và hội nghị Xứ Uỷ vào buổi chiều [100].
Nội dung của những cuộc thảo luận tại Hội Nghị
lần 8 đã được ĐCS Việt Nam ghi chép lại để chứng tỏ tầm nhìn
xa của Hồ Chí Minh [101]. Việc ông có thực sự đoán trước được Đức sẽ xâm lược
Nga, xảy ra vào ngày 22 tháng 5, thì không được biết rõ. Nhưng thành công thực
sự của ông là việc đã hợp nhất ĐCS Đông Dương vào trong mặt trận thống nhất với
Quốc Dân Đảng và những đảng phái quốc gia Việt Nam có mặt tại vùng biên giới Trung
Quốc. Bùi San đã khai với người Pháp rằng một người tên Phong (được nhận diện
là Hồ) đã là chủ toạ của phiên họp Uỷ Ban Trung Ương, trong
khi đó ʺMạnhʺ (được nhận diện là
Hoàng Quốc Việt) làm thư ký.
ʺXuyênʺ hay Đặng Xuân Khu, sau này trở thành
Trường Chinh, đã báo cáo những hoạt động tại các tỉnh Thái Bình và Hà Đông.
Đặng Xuân Khu đã được phê chuẩn làm Tổng Bí Thư ĐCS Đông Dương tại hội nghị
này. Khi ʺPhongʺ phát biểu trên cương vị đại diện của Chi Bộ Hải Ngoại, ông đã
phê bình hoạt động trong quốc nội. ʺÔng nói rằng vào thời điểm hiện tại, việc
kêu gọi toàn thể dân chúng không phân biệt thành phần giai cấp là cần thiếtʺ.
Ông đã đề xuất rằng đảng nên kêu gọi tinh thần dân tộc của nhân dân Việt Nam . Họ phải khuyến khích tinh thần yêu
nước và kêu gọi mọi người học hỏi về lịch sử Việt Nam . Vì mục đích tổ chức, hội nghị đã
quyết định thành lập một ʺHội Cứu Quốcʺ. Khi được hỏi về sức mạnh của phong
trào cộng sản thế giới,
ʺPhongʺ đã nói với các đại biểu rằng ʺĐảng dã
không có dự định giành quyền lực ngay lập tức tại bất cứ quốc gia nào, vì trong
khi các phe đang giết chóc lẫn nhau thì tại Nga sẽ an toàn cho việc chuẩn bị
cho phong trào cách mạng toàn thế giớiʺ [102]. Lời giải thích này, nếu chính
xác, đã cho thấy rằng Hồ vẫn phải giải thích chính sách của QTCS trên cơ sở của
thoả ước với Đức đã ký vào năm 1939. Nó không cho thấy rằng ông đã lường trước
việc Đức tấn công Liên Xô.
Tại Hội Nghị lần 8 tầm quan trọng của việc giải
phóng đất nước so với công cuộc đấu tranh giai cấp đã đặt ra một cách rõ ràng.
Nếu người dân Việt Nam không đánh đuổi Pháp và Nhật, bản
nghị quyết nói, thì đến mười nghìn năm nữa họ vẫn không thể đấu tranh cho quyền
lợi giai cấp hoặc giải quyết được vấn đề nông dân [103]. Lời kêu gọi đến dân
chúng Việt Nam mà Hồ Chí Minh đã viết vào ngày 6 tháng 6 1941 và đã ký tên là
ʺNguyễn Ái Quốcʺ là ví dụ đầu tiên về bộ mặt mới của ĐCS Đông Dương. Bài viết
kêu gọi một cách rõ ràng tinh thần yêu nước của người Việt, hô hào mọi người
hãy noi gương của những anh hùng chống Pháp như Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám
và Lương Ngọc Quyến. ʺCông việc vĩ đạiʺ của việc giành độc lập vẫn chưa đạt
được, bức thư viết, bởi vì thời cơ thuận tiện vẫn chưa đến, những cũng bởi vì
các lực lượng nhân dân vẫn chưa ʺđứng chung với nhauʺ. Ông hô hào mọi người noi
theo ʺtấm gương vĩ đại của nhân dân Trung Quốcʺ và thành lập những hội chống
Pháp và chống Nhật cứu nước. Sau bức thư này, chỉ có một tài liệu khác được ký
bởi Nguyễn Ái Quốc, đó là một lời hiệu triệu khác kêu gọi người dân Việt Nam vào tháng 8 1945. Nhưng đến lúc ấy
cái tên mà những đồng chí của ông ở QTCS từng biết đến đã được dẹp bỏ. Lúc ấy
Hồ cần phải vứt bỏ tên tuổi trước đây cũng như mối quan hệ của nó với QTCS. Ông
sẽ hiện diện trước thế giới với cái tên Hồ Chí Minh, Chủ Tịch của chính phủ
Việt Nam vừa độc lập vào ngày 2 tháng 9 1945.
Khi Hồ Chí Minh xây dựng tổ chức liên hiệp Việt
Minh tại Quảng Tây, QTCS đã biến khỏi tầm nhìn của những người cộng sản Việt Nam . Mặt dù Liên Xô quay lại cương vị
của mình trong liên minh chống Phát Xít toàn thế giới vào tháng 6 1941, họ đã
đang phải đối phó với cuộc chiến sinh tử chống lại người Đức xâm lược và vì thế
đã chuyển mối quan tâm của họ khỏi châu Á. Vào ngày 16 tháng 10 1941 nhân viên
QTCS đã bắt đầu sơ tán về hướng đông đến Ufa và Kuibyshev khi quân Đức Quốc Xã
tiếp tục tiến về Moscow. Vào cuối tháng ấy Dimitrov đã viết thư cho
Stalin với đề xuất rằng QTCS nên bắt đầu đi vào hoạt động bí mật dưới cái tên
là ʺHọc Viện Nghiên Cứu Quốc Tếʺ. [104] Nhưng mãi cho đến tháng 5 1943,
sau khi Dimitrov quay về lại Moscow thì thảo luận về việc khai tử QTCS
mới bắt đầu được đề cập. Tại một cuộc họp tổ chức bởi Dimitrov, Molotov và
Manuilsky, họ đã đồng ý rằng QTCS đã không còn có ích và ʺđã trở thành một trở
ngại cho sự phát triển độc lập của những đảng cộng sản” [105] Thông báo chính
thức về việc giải thể đã được đăng trên tờ Pravda (Sự Thật - ND) vào ngày 22
tháng 5. Mặc dù nhiều cơ chế của QTCS vẫn còn được tiếp tục bởi hai ʺhọc viện
nghiên cứu khoa họcʺ, đến nay ta vẫn chưa có bằng chứng về việc cộng sản Việt Nam đã từng nhận được những hướng dẫn
hoặc tài trợ từ Moscow trong khoảng thời gian từ 1941 - 1947 [106].
Những chính sách đưa ra tại Hội Nghị lần 8 đã
trở thành khuôn mẫu cho những hoạt động trong thời kỳ chiến tranh của Việt
Minh. Nhưng theo những nghiên cứu về việc Việt Minh chiếm lấy quyền lực vào
tháng 8 1945 cho thấy, những chính sách này đã không được truyền bá ngay cả tại
Việt Nam hoặc đã được những thành viên ĐCS Đông Dương chấp thuận toàn bộ. [107]
Trong những năm tháng sắp đến, con người thực dụng Hồ Chí Minh, người đã đặt
nhiệm vụ thống nhất lên trên tư tưởng chính trị thuần thành, sẽ phải tiếp tục
đối diện với sự đối lập ngay bên trong đảng của mình trong việc cố gắng xây
dựng một liên minh quốc gia.
TỔNG
KẾT
Phần Giới Thiệu đã đề cập đến tâm lý của thời
Chiến Tranh Lạnh đã ảnh hưởng đến việc chúng ta hiểu về Hồ Chí Minh và nỗ lực
của ông trong việc xây dựng một đảng cộng sản tại Việt Nam . Cách sử dụng nguồn tài liệu thiên
về tuyên truyền đã dẫn đến việc rất nhiều tác giả nhìn nhận Hồ Chí Minh như là
một vị thánh toàn năng của quốc gia hoặc là một thiên tài độc ác. Không những
ông đã là nhân vật lãnh đạo vĩ đại của Bắc Việt ‐ ông cũng đã được xem như là một
người cộng sản đầy ảnh hưởng ngay từ khi ông vừa tham gia ĐCS Pháp. Nhưng vị
thế của ông bên trong Quốc tế Cộng Sản và giới cộng sản Châu Á trước 1945 theo
như nghiên cứu này cho thấy, đã không nổi bật như từng được miêu tả sau này.
Ông đã không xuất hiện như một người cộng sản đầy thế lực trong bối cảnh thế
giới của những năm 1920 hoặc 1930, và ông đã gặp rất nhiều khó khăn để được ĐCS
Đông Dương để ý đến vào những năm 1939‐40. Việc ông thăng tiến vào năm 1945
như là một biểu tượng của phong trào độc lập tại Việt Nam hoàn toàn không có nghĩa là một
diễn tiến hiển nhiên. Robert Turner đã đúng khi cho rằng Hồ chia xẻ phần lớn
công trạng trong việc đem chủ nghĩa Marxist-Leninist vào Việt Nam [1]. Nhưng chúng ta nên
nhớ rằng những tiếp xúc của ông với người Nga đã không mang lại kết quả
tức thời. Hơn nữa, đã có những nguồn gốc của ảnh hưởng phái tả và Marxist khác
tại Việt Nam trong những năm 1920 - có thể nói rằng có cả chi nhánh của ĐCS
Trung Quốc đã hiện hữu tại miền nam Việt Nam trong những năm 1927-8. Vai trò
của tổ chức này đối với sự phát triển của cộng sản Việt Nam vẫn chưa được tìm
hiểu, nhưng căn cứ theo tên gọi của nó - Uỷ BAn Nam Kỳ - Cam Bốt - chúng ta có
thể đoán được rằng nó đã có ảnh hưởng ngay từ đầu trong việc đưa ra khái niệm
của một phong trào cộng sản Đông Dương thống nhất chứ không phải là một đảng
cộng sản Việt Nam thuần tuý.
Nỗ lực của Hồ nhằm tạo ra một đảng cộng sản
Việt Nam với hậu thuẫn của Quốc tế Cộng Sản nên được hiểu trong hoàn cảnh của
sự đô hộ từ người Pháp và từ lâu người Việt đã tìm kiếm trợ giúp từ bên ngoài.
Sự thất bại trong chiến dịch của người Việt tại Hội Nghị Hoà Bình Paris năm
1919 đã chuyển sự chú ý của những người quốc gia về phía nước Nga. Chính từ
quan điểm của Lenin về nhiệm vụ của giai cấp vô sản phương Tây "ủng hộ
những phong trào cách mạng tại những quốc gia thuộc địa ‐ đã thuyết phục
Hồ tham gia Đệ Tam Quốc Tế. Ông đã không hề có ý tưởng lãng mạn nào với bạo lực
cách mạng hoặc chủ nghĩa anh hùng cá nhân" trên thực tế ông đã giữ mình
rất khiêm tốn trong suốt sự nghiệp chính trị của mình. Ông không phải là tay
chân của Stalin và có thể đã không thực sự gặp riêng Stalin mãi cho đến năm
1950. Thái độ của ông đối với việc sử dụng bạo lực và đấu tranh giai cấp thì
dường như là quá cẩn trọng để làm vừa lòng một số thành viên cộng sản trẻ tuổi
hơn.
Không thể chối cãi được thực tế là những lý
thuyết ban đầu của Quốc tế Cộng Sản về những vấn đề dân tộc và thuộc địa đã là
một công cụ tri thức đầy quan trọng của Hồ Chí Minh. Nó đã giúp ông tạo ra một
cơ chế vững mạnh trong đó bao gồm chủ thuyết chống thực dân và mong muốn về
công bằng xã hội của mình. Nhưng những luận điểm của Lenin về chủ nghĩa đế quốc
và các vấn đề thuộc địa không chỉ là một công cụ lý luận ‐ việc khám phá
và chuyển tải những luận điểm ấy đã là một cơ sở quan trọng cho vai trò chính
thống của ông trong phong trào cộng sản Việt Nam . Khi những lý thuyết trên bị thay
thế bởi một cơ sở lý luận mới vào những năm 1928‐9, vai trò lãnh đạo của Hồ đã bị đặt
vấn đề. Như đã nói đến trong phần Giới Thiệu, những đối thủ tranh giành quyền
lực thường luôn tìm cách chứng tỏ rằng họ thấu hiểu cặn kẽ hơn hệ tư tưởng và
đường lối của Quốc tế Cộng Sản. Đường lối này vào lúc ấy có thể chỉ là một cóp
nhặt rất hời hợt những tư tưởng của Marx, Plekhanov, Lenin, Trotsky,
Stalin và những nhà tư tưởng tiền cộng sản khác, nhưng điều ấy đã không
làm giảm đi tính quan trọng của nó như là một phương pháp để chiếm ảnh hưởng.
Như Arno Mayer (nhà sử học người Mỹ ‐ ND) từng nói, ʺTư tưởng là mạch máu
của cách mạng.ʺ ʺNó gắn liền với nhu cầu của một thành phần xã hội [mới] để
phản ánh hình ảnh của chính mìnhʺ [2]. Tầm quan trọng của sự tinh thông về lý
thuyết trong việc biến mình thành người dẫn đầu có thể có liên quan đến văn hoá
Khổng Giáo trong đó đặt trọng khả năng viết lách chính thống lên trên những kỹ
năng thực hành khác.
Những mâu thuẫn ban đầu về hệ tư tưởng bên
trong tổ chức cộng sản Việt Nam đã tiếp tục diễn ra trong suốt sự nghiệp chính
trị của Hồ. Trong khi đối với phương Tây những nỗ lực của Hồ trong giai đoạn
sau Thế Chiến thứ Hai nhằm tạo ra hình ảnh của mình như một người theo chủ nghĩa
quốc gia đã gặp phải những nghi ngờ thì bên trong nội bộ ĐCS Đông Dương thái độ
thiếu thành tâm với ʺchủ nghĩa cộng sản vô sảnʺ đã tiếp tục bị xem như là một
nhược điểm của ông. Trong giai đoạn từ 1931 đến 1935, lần đầu tiên Trần Phú và
Hà Huy Tập kêu gọi đặt vấn đề về giá trị tư tưởng của Hồ, sau đó thì những phê
bình cũ từ các đảng viên khác về quan điểm quốc gia của Hồ cũng đã được đem ra
thảo luận trong giai đoạn 1948‐9, nếu không nói là sớm hơn. Cho đến
lúc ấy cơ quan thay thế Quốc tế Cộng Sản là Ban Thông Tin Cộng Sản (Communist
Information Bureau viết tắt là Cominform ‐ ND) đang được thành hình và thế
giới đang chia ra thành hai khối. Hy vọng về việc Hoa Kỳ hậu thuẫn cho chính
phủ vừa thành lập của Hồ Chí Minh đã tiêu tan.
Về quan điểm thiên tả trong ĐCS Đông Dương về
những đường lối quốc gia của Hồ trong giai đoạn Chiến Tranh Thế Giới thứ Hai và
việc ông giải tán đảng cộng sản vào tháng 11 năm 1945, ta có thể theo bước chân
của Trần Ngọc Danh, đại diện của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà tại Pháp từ năm 1945
đến 1948 (ông cũng là một học viên từ Moscow và là em trai của Trần Phú). Ông
đã thình lình đóng cửa văn phòng đại diện tại Paris vào cuối năm 1948 và bỏ chạy sang Prague [3]. Tại đây ông đã gửi ít nhất hai
bức thư đến Moscow . Một trong những bức thư ấy viết rằng:
Sau phê bình của Ban Thông Tin Cộng Sản, hiện
nay tôi hoàn toàn không đồng ý với đường lối quốc gia và cơ hội mà đảng tôi
đang theo đuổi từ khi nó chính thức bị giải tán. Việc giải thể này, đi ngược
lại những nguyện vọng đã được đề cập vài lần từ các đồng chí của chúng tôi, đã
không thể được thực hiện mà không có sự can thiệp tích cực của đồng chí Hồ Chí
Minh, hiện là Chủ Tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Uy tín của đồng chí Hồ
đối với nhân dân Việt Nam thì chắc chắn là rất lớn; họ xem
ông như là biểu tượng của cuộc đấu tranh chống đế quốc và là người khởi xướng
chính cho những thành quả dân chủ của chúng tôi. Sự tin tưởng này được củng cố
bởi việc những người cộng sản Việt Nam vẫn xem ông là cựu đại diện của Ban
Chấp Hành Trung Ương Quốc tế Cộng Sản; hoặc nói theo kiểu của người Việt, ʺÔng
là người của Quốc Tếʺ. Và chính sách thoái hoá hiện nay đã bắt nguồn
từ học thuyết của ông, bắt nguồn từ Hội Nghị Tours
năm 1929.[4]
Trong một bức thư khác đề ngày 10 tháng 1 năm
1950 gửi đến cho ʺĐồng Chí Iudinʺ (người sau khi Zhdanov chết đã trở thành nhà
tư tưởng chính trong nhóm thân cận Stalin] Danh đã viết rằng ĐCS Đông Dương đã
bị chiếm lĩnh bởi ʺnhững thành phần quốc gia, tiểu tư sảnʺ, họ ʺthiếu niềm tin
vào lực lượng cách mạng vô sản. Tính cách của Hồ Chí Minh chính là yếu tố quyết
định gây chia rẽ. Điều này có nghĩa là nó đủ ảnh hưởng đến chính sách của ĐCS
Đông Dương vào năm 1941, tức là vào thời điểm ông trực tiếp bước vào đấu trường
chính trị của Đông Dươngʺ [5].
Những đối thủ của Hồ Chí Minh ‐ từ thành phần
nguyên thuỷ của ĐCS Đông Dương năm 1929 cho đến Trần Ngọc Danh ‐ tất cả đều
muốn chứng minh tài lãnh đạo yếu kém của ông bằng cách chỉ ra những ʺsai lầmʺ
từ tư tưởng của ông. Theo biên niên ký của Trần Ngọc Danh, những sai lầm này
bắt đầu từ việc Hồ tiếp thu Luận Cương Về Những Vấn Đề Dân Tộc Và Thuộc Địa mà
theo Danh là vào năm 1921 nhưng dường như đến cuối năm 1920 đã trở thành
ʺchuyện đã rồiʺ (nguyên văn: fait accompli ‐ ND), ngay cả trước Hội Nghị Tours
vào tháng 12 1920. Bản thân Quốc càng trở nên cùng nhịp, nếu không nói là theo
hẳn đường lối của giai đoạn 1920‐7 và đã tận hưởng được một thời kỳ
mới từ 1938‐47 mà ông được cho là ʺcó tư tưởng đúng đắnʺ, khi phong trào cộng sản do
Liên Xô dẫn đầu đã chọn chủ nghĩa cộng sản dân tộc và quyền tự quyết có giới
hạn của các đảng thành viên. Nhưng cho đến những năm 1949‐50, Stalin đã
tái lập việc kiểm soát tư tưởng của mình lên hầu hết phong trào cộng sản
thế giới và đã khuyên những người cộng sản Việt Nam nên tìm hướng chỉ đạo
từ ĐCS Trung Quốc đang có nhiều thắng lợi. Khi Hồ viếng thăm Moscow vào năm
1950 với tư cách là thành viên của phái đoàn Mao Trạch Đông, Stalin đã tiếp đón
ông một cách vô cùng hờ hững [6].
Khi tiểu sử của ông xuất hiện lần đầu tiên vào
năm 1948 (trong một bản viết tay bằng tiếng Hoa], chắc hẳn Hồ đã tìm cách củng
cố vị thế chính trị của mình. Cuốn sách nhỏ này đã nhấn mạnh cả tính chất vô
sản ‐ cuộc đời thuỷ thủ và lao công ‐ lẫn thành tích lãnh đạo đất nước
của ông. Vì thế dường như nó đã được dùng để phục vụ hai chức năng: chiếm lấy
tình cảm của người dân trong nước và đồng thời cũng để thuyết phục những thành
viên cộng sản còn hoài nghi như Trần Ngọc Danh rằng Hồ là một người vô sản thực
sự.
Trong khi việc cố gắng vạch đường lối cho những
bộ phận cấu thành ĐCS Đông Dương trong năm 1941 hoặc 1948 thì đầy mạo hiểm, ta
vẫn có thể thấy rằng những nguồn gốc chống đối quyền lãnh đạo
của Hồ đã bắt đầu rất sớm từ phong trào vô sản hoá được hình thành tại Bắc Kỳ
vào năm 1928. Trong số những người cầm đầu của nhóm này đến Quảng
Đông học tập vào những năm 1920, hầu như tất cả đều đến sau khi Hồ đã
chuyển đi Moscow . Vì thế họ đã không có quan hệ cá nhân với Hồ như là đồng hương hoặc
học trò của ông. Một trong những khó khăn không giải đáp được trong quá trình
nghiên cứu này là việc nhận diện những thế lực nào đã ảnh hưởng đến nhóm người
này từ năm 1927 đến 1929. Nhưng những bằng chứng gián tiếp đã cho thấy rõ ràng
rằng đã có một mối liên hệ nào đấy giữa thành phần ĐCS Đông Dương tại Bắc Kỳ và
Uỷ BAn Nam Dương của ĐCS Trung Quốc từ năm 1928 đến 1930.
Dù sao, như ta đã thấy được, một số người Việt
được đào tạo tại Moscow cũng đã phản đối đường lối của Hồ. Sau Đại Hội
Lần 7 của QTCS vào năm 1935, những nhà tư tưởng trẻ như Hà Huy Tập đã thấy rằng
thật khó để hoà giải với liên minh những người quốc gia mà ban đầu Lê Hồng
Phong và sau này là Hồ đã chủ trương. Lằn ranh chủ chốt chia rẽ Hồ và những đối
thủ của ông, như quá trình nghiên cứu này đã liên tiếp chỉ ra, chính là thái độ
của họ đối với mâu thuẫn giai cấp. Khi Hồ bắt đầu sự nghiệp chính trị của mình
tại châu Âu, Việt Nam vẫn còn trong giai đoạn đầu của quá
trình phát triển công nghiệp; giai cấp vô sản chỉ vừa bắt đầu hình thành.
Nhưng Hồ lại liệt kê đại đa số thành phần người Việt ‐ những nông dân
và học giả nghèo cũng như thành phần lao động thành thị ‐ là những công
nhân đang bị chủ nghĩa đế quốc bóc lột. Có lẽ bởi vì Hồ xem Việt Nam như là một khối đồng nhất nên ông
đã không có vấn đề gì trong việc hợp tác giai cấp để đánh bại người Pháp. Cho
đến những năm 1929‐31, đương nhiên là việc ông không nhấn mạnh vấn đề đấu tranh giai cấp đã
làm cho ông trở thành một tàn dư lỗi thời của mặt trận thống nhất tại Trung
Quốc dưới con mắt của những học viên trẻ từ Moscow .
Chúng ta vẫn còn lâu
mới có thể đưa ra được đánh giá cuối cùng về những năm tháng cầm quyền
của Hồ. Đơn giản là đang có quá ít bằng chứng vững chắc về quá trình soạn thảo
những quyết định tại Hà Nội. Nhưng trong những năm tháng được phân tích ở đây,
ta không còn nghi ngờ gì về sự tận tâm và khả năng tài tình của một nhân vật
đấu tranh vì độc lập, người đã nỗ lực rất nhiều để đưa vấn đề giải phóng thuộc
địa ra trước lịch trình chính trị của người Pháp. Từ Hội Nghị Hoà Bình Paris
cho đến sự kiện tuyên bố độc lập của ông vào năm 1945, ông đã được thúc đẩy bởi
tình yêu nước chân thành và lòng căm thù sâu sắc đối với chủ nghĩa thực dân
Pháp. Nhưng ông cũng không phải là một con người cộng sản thần thánh. Ông đã ăn
ở với những phụ nữ trong nhiều giai đoạn, thoả hiệp và lũng đoạn những đảng
phái quốc gia khác. Ông đã không luôn là người thẳng thắn ‐ trong
rất nhiều trường hợp ông đã cho rằng thành thật về lập trường chính trị là một
việc dại dột. Lòng tin của ông về chủ nghĩa cộng sản thì khó mà lường được bao
sâu ‐
điều duy nhất ta có thể khẳng định là ông đã không coi trọng chủ nghĩa giáo
điều. Con đường mà ông đã theo thường được chắt lọc ra từ hàng loạt những
lựa chọn bị giới hạn bởi những sự kiện vượt ngoài tầm kiểm soát của ông.
Điều trớ trêu là trong
những năm 1990, sau khi những đảng cộng sản tại Đông Âu đã bị hất khỏi quyền
lực, đảng cộng sản Việt Nam vẫn giữ nguyên vị trí chính thống của mình bằng
cách nhận rằng họ đại diện cho ʺTư Tưởng Hồ Chí Minhʺ. Một tài liệu xuất bản
năm 1995 về Tư Tưởng Hồ Chí Minh của Học Viện Chính Trị Quốc Gia Hồ Chí Minh
định nghĩa đấy như là một tiến triển mới của học thuyết Marxist-Leninist
[7]. Nhưng khẳng định này đã gặp phải một số ý kiến giễu cợt vì rất nhiều
người Việt thừa hiểu rằng Hồ Chí Minh đã không để lại bất cứ một học thuyết nào
trên giấy tờ. Ông có thể được nhìn nhận một cách công bằng là một chính trị gia
và một nhà ngoại giao tài giỏi, một người đã để lại cho đất nước mình một khuôn
mẫu về việc xây dựng liên minh và thoả hiệp mà mọi quốc gia đương thời đều đánh
giá cao.
Bằng chứng từ tài liệu của
Moscow lẫn của Pháp đều cho thấy rằng Quốc tế Cộng Sản đã không hề là một công
cụ đắc lực để truyền bá quyền lực của cộng sản mà giới khoa học chính trị và
lịch sử thời Chiến Tranh Lạnh muốn chúng ta tin vào. Nó cũng đã không nhất quán
trong việc ủng hộ những phong trào chống thuộc địa. Nhưng mối liên hệ mà Hồ đã
tạo dựng với Quốc tế Cộng Sản đã đóng một vai trò chủ đạo trong việc phát triển
chủ nghĩa cộng sản cũng như phong trào độc lập quốc gia tại Việt Nam. Quốc tế
Cộng Sản đã cung cấp cho Hồ và những đồng chí của ông phương pháp cũng như tài
chánh trong việc đào tạo những cán bộ tổ chức và tuyên truyền; nó đã giúp họ
phân tích để hiểu được tình trạng của họ trong tay của người Pháp. Mặc dù sự
can thiệp và cố vấn của nó không luôn được chấp nhận, khi còn hoạt động nó vẫn
giữ được vị thế trọng tài tối cao trong những tranh chấp chính trị quốc tế,
điều này đã giúp đảng cộng sản phần nào giữ vững tính đoàn kết. Nó cũng đã cung
cấp nơi nương tựa cho những học viên cộng sản tại Moscow để họ có thể quay về
Việt Nam xây dựng lại ĐCS Đông Dương vào những năm đầu
1930. Ngay cả việc Hồ bị
đối xử lạnh nhạt tại Moscow từ năm 1934 đến 1938 cũng đã cứu sống ông để tiếp
tục chiến đấu. Nhưng nếu cho rằng Hồ Chí Minh và ĐCS Đông Dương chỉ
đơn thuần là những sản phẩm của Quốc tế Cộng Sản thì điều này đã bóp méo sự
thật. Họ tồn tại một cách song song trong những phạm vi khác nhau ‐ xã
hội truyền thống của Việt Nam, đế chế Pháp, tổ chức Nam Dương và cộng đồng thế
giới mà trong những năm 1920 và 1930 đã bị bó gọn bởi những phương tiện thông
tin hiện đại, việc phụ thuộc lẫn nhau về giao thông và kinh tế. Chính khả năng
có thể chuyển vận giữa những lĩnh vực khác nhau của Hồ Chí Minh cuối cùng đã
giúp ông giữ vững được vị thế của mình như là một nhà lãnh đạo thành công nhất
trong công cuộc đấu tranh giành độc lập.
HẾT
Tác giả: Bà Sophie Quinn-Judge
Bản tiếng Anh: University of California Press , 2002
Dịch giả: Diên Vỹ và Hoài An
Hiệu đính: Hồ Gươm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét