Tìm
hiểu về cuộc đời
Hồ
Chí Minh
Kỳ
3
Phụ lục 1
Ảnh của Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh
trong hồ sơ
Ảnh chụp trong hồ sơ Nguyễn Ái Quốc
1/ Ảnh chụp năm
1923 tại Pháp trong "Truyện Hồ Chí Minh"
của William J. Duiker.
2/ Ảnh chụp năm 1923 tại Nga Xô trong "Truyện Hồ Chí Minh" của
William J. Duiker.
3/ Ảnh Hồ Chí Minh không rõ xuất xứ và thời
gian. Đây là tấm ảnh nghi vấn trong "Truyện Hồ Chí Minh" của William J. Duiker.
4/ Tấm ảnh này của Nguyễn Ái Quốc được chụp năm
1925 tại Nga Xô
5/ Ảnh Nguyễn Ái Quốc trong nhà triển lãm ở Việt Nam
Ảnh truyền thần của của Nguyễn Sinh Huy, thân
phụ Nguyễn Ái Quốc.
6/ Tấm ảnh này
chụp năm 1924 tại Liên Xô trong "Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh,
1919- 1941" của Sophie Quinn Judge.
Ảnh trong
hồ sơ Hồ Tập Chương
6/ Ảnh Hồ Chí Minh
năm 1934 tại Mạc Tư Khoa trong "Truyện Hồ Chí
Minh" của William J. Duiker.
9/ Tấm ảnh này do
Andred Roth chụp đăng trong "Tân Việt Nam " năm 1946 tại
Việt Bắc.
Phụ lục 2
"Hồi ức Trịnh Siêu Lân - Truyện
Phó Đại Khánh"
Sau khi các lưu học sinh theo phái Troskism (Thác phái)
từ Mạc Tư Khoa về, lần lượt tổ chức thành 3 nhóm:
1- Đầu tháng giêng
năm1928, Sử Đường (Thi Thúc Vân), Lương Cán Kiều, Trần Diệc Mưu thành lập
"Trung Quốc đệ nhất Thác phái" (Phái phản đối chủ nghĩa Bolshevik
Lenin tại Trung Quốc).
2 - Phái Troskism phản đối
bí mật của lưu học sinh Trung Quốc tại Liên Xô, sau khi họ về nước, phia Liên
Xô cung cấp danh tính, nên toàn bộ đã bị khai trừ hoặc tự ly khai Đảng. Vương
Văn Nguyên, Lưu Nhân Tĩnh, Ngô Quý Nghiêm, Lê Thái Liên đều ở trong số đó.
Tháng giêng năm 1930, Lưu Nhân Tĩnh, Vương Văn Nguyên thành lập "Liên minh
cộng sản Phái Tả Trung Quốc" - "Thập nguyệt xă".
3 - Nhóm Triệu Tế, Lưu Dân, Vương Bình gồm 7 người, sau
khi từ Mạc Tư Khoa về, thành lập tổ chức "Chiến đấu xã".
Trong nội bộ Đảng Cộng sản Trung Quốc, Trần Độc Tú, Doãn
Khoan, Bành Thuật Chi, Trịnh Siêu Lân phát hiện Vương Bình trong nhóm lưu học
sinh từ Mạc Tư Khoa về, chẳng những đã tiếp
thu lý thuyết của Léon Troski mà còn mang theo tài liệu nghiên cứu, đồng thời có ý
kiến khác biệt đối với tiến trình cách
mạng Trung Quốc. Từ đó, trong Đảng Cộng sản Trung Quốc đã hình thành phái
Troskism do Trần Độc Tú cầm đầu. Thật ra, lúc ấy, Đảng Cộng sản Trung Quốc chưa
có một tổ chức cụ thể mà chỉ tập hợp xung quanh Trần Độc Tú một số thành viên
thường xuyên trao đổi với nhau về những vấn dè chính sách của Đảng mà thôi.
Trong tình hình ấy, nhòm Trần Độc Tú đề nghị gia nhập nhóm "Đối
thoại" nhưng nhiều lần bị cự tuyệt, đến tháng chín năm 1929 thành lập
"Đảng Cộng sản Trung Quốc phái Tả phản đối phái", xuất bản
"Người vô sản" được gọi là "Vô sản giả xã".
Bốn phái Troskism sau được thống nhất thành một tổ chức.
Ngày 1 tháng năm năm 1935, triển khai Đại hội gồm 17 đại biểu chính thức, 4 đại
biểu dự thính, đại diện cho 482 đảng viên. Tại Đại hội, Trần Độc Tú đọc báo cáo
cương lĩnh chính trị của "Đảng Cộng sản Trung Quốc phái Tả phản đối
phái" gồm 5 phần:
1- Nhiệm vụ thời kỳ quá dộ của Phản đối phái.
2 - Bài học kinh nghiệm về sự thất bại của Đảng Cộng sản
Trung Quốc.
3 - Chính sách của Đảng trong thời kỳ quá độ.
4 -Tiền đồ cách mạng Trung Quốc.
5 - Nhiệm vụ trước mắt của Phản đối phái.
Cương lĩnh xác định, xã hội Trung Quốc thành phần tư bản
chủ nghĩa chiếm ưu thế so với tư bản chủ nghĩa xã hội, do đó mà xuất hiện tính
chất của cách mạng Trung Quốc là cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai cấp vô sản
lãnh đạo nông dân lật đỏ chính quyền tư sản, "kiến lập giai cấp chuyên
chính vô sản'. Trung Quốc phải hoàn thành nhiệm vụ Cách mạng dân chủ tư sản rồi
mới tiếp tục tiến trình Cách mạng vô sản, chuyên chính giai cấp. Nhiệm vu trước
mắt là, triệt để thực hiện khẩu hiệu dân chủ theo hướng Cách mạng lần thứ ba
(Sau này đề xuất lấy "Tổng tuyển cử quốc dân hội nghị" làm khẩu hiệu
trung tâm đấu tranh đòi dân chủ, vận động quần chúng ủng hộ cách mạng), lạt đổ
chính phủ Quốc dân đảng. Đại hội thông qua dự thảo cương lĩnh, bầu ủy viên
Trung ương, cử 5 người vào Ban Bí thư do Trần Độc Tú làm Tổng Bí thư, Trịnh
Siêu Lân là trưởng ban Tuyên truyền, chủ nhiệm báo Đảng là Vương Văn Nguyên,
trưởng ban Thư ký là Tống Phùng Xuân. Đại hội biểu quyết thông qua tên đảng là
"Đảng cộng Tả phái tả phản đối phái" còn gọi là " Đảng cộng sản
Bolshevik-Lenin Trung Quốc", là một phái riêng của những người cộng sản
Trung Quốc.
Năm 1933, phái
Troskism ly khai Đảng Cộng sản, tiến hành cải tổ đảng theo đương lối riêng. Năm
1935 chuẩn bị thành lập Quốc tế cộng sản mới. Cũng
trong năm này, Đại hội đại biểu phái Troskism tại Thượng Hải quyết định đổi tên
thành "Liên minh Cộng sản chủ nghĩa Trung Quốc". Từ đó, phái Troskism
Trung Quốc, một lần nữa không coi mình là một phái lệ thuộc Đảng cộng sản và
cũng không cùng là một chính đảng cộng sản chủ nghĩa của Đảng Cộng sản.
Trong một hoàn cảnh
đặc biệt, tôi gặp được Phó Đại Khánh. Đó là thời gian vào giữa mùa hè và mua
thu năm 1931. Khi ấy tôi đã bị Đảng Cộng sản khai trừ, vì hoạt động Troskism,
bị Quốc dân đảng bắt giam ở Bộ tư lệnh Cảnh bị Long Hoa (tác giả nhận định: địa
điểm ở gần khuôn viên lăng liệt sĩ Long Hoa, đường Tào Khê, Thượng Hải), chờ
đợi phán quyết. Tôi ở "Nhân tự gian", nơi có rất nhiều tù chính trị.
Một hôm, cai ngục dẫn vào một phạm nhân đến từ Quảng Châu. Thoạt nhìn, tôi xuýt
nữa tôi nhảy dựng lên bởi người này chính là Phó Đại Khánh. Phó Đại Khánh lướt
nhìn hết lượt phạm nhân nhưng đều không nhận ra ai quen, bỗng trông thấy tôi,
vội vàng chạy đến, khẽ bảo: "Có chút việc muốn báo về Trung ương". Rõ
ràng ông không biết tôi đã bị khai trừ, tuy nhiên lúc này cũng chẳng cần phải
nói mình thuộc phái Troskism. Tôi đống ý, ông ấy bèn nói cho biết.
Nguyên là Phó Đại Khánh làm báo tiếng Anh ở Calcutta, Ấn
Độ. Tờ báo bị đóng cửa, Phó bị bắt, dẫn độ về Nam Kinh thẩm vấn. Lúc bị giam ở
nhà lao Quảng Châu, ông ta có gặp Hồ Chí Minh. Hồ nhờ ông ta thông báo đến
Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc tìm cách giải cứu, vì thế ông ta mới đề nghị
tôi giúp đỡ. Vì nghĩa không thể từ chối, hơn nữa, tôi và Hồ Chí Minh đã từng
quen biết nhau, chỉ có điều, làm cách nào chuyển tin cho Đảng Cộng sản Trung
Quốc đây? Tôi suy nghĩ và dự đoán, ở nhà giam Long Hoa nhất định phải có chi bộ
Đảng bí mật, có thể truyền đạt được tin này. Nhưng tôi lại không biết người phụ
trách là ai. Trong số các chính trị phạm ở "Nhân tự gian", tôi chỉ
biết hai người là Trần Vi Nhân và Quan
Hướng Ứng. Đắn đo mãi, cuối cùng tôi tìm gặp Trần Vit Nhân, nói: "Phạm
nhân Phó Đại Khánh bị bắt ở Ấn Độ, vừa được giải đến, sẽ được đưa về Nam Kinh.
Ông ấy có một báo cáo quan trọng với Trung ương, nhờ tôi chuyển đến ông".
Trần Đạt Nhân lập tức đứng lên. Tôi đem lời Phó Đại Khánh nói không sai một
chữ. Nghe xong, Trần Vi Nhân không nói một lời. Tôi hiểu mình đã đạt được mục
đích. Ba ngày sau, Phó Đại Khánh bị giải đi.
THIÊN III
Những năm tháng phiêu bạt
Màn
một
Hồ Chí Minh ở Liên Xô (1933 - 1938)
Sau năm 1923, có đến
bảy, tám lần Hồ Chí Minh đến Mạc Tư Khoa. Thời gian lưu lại thường không quá
một năm, duy chỉ có lần từ năm 1933 đến năm 1938 là ở đến 5 năm. Trong 5 năm
ấy, phong trào cách mạng Việt Nam chống Pháp vô cùng sôi nổi, vậy vì sao Hồ Chí
Minh lại bị giam lỏng ở Mạc Tư Khoa, dùng thời gian
nhàn rỗi để nghiên cứu chủ nghĩa Marx mà không trở về nước cùng các đồng chí của
mình chỉ đạo quần chúng đấu tranh? Việc này nếu đem so sánh với phong cách hoạt
động tích cực của Nguyễn Ái Quốc thì hoàn toàn khác nhau. Vì sao Hồ Chí Minh không
báo cáo với Quốc tế cộng sản về hoàn cảnh của
mình? Kỳ lạ hơn nữa, trong 5 năm ấy, những ghi chép về Hồ Chí Minh khiến người ta đặt
ra đặt dấu hỏi nghi ngờ về thân phận cũng như các mối quan hệ của ông khá bí
hiểm và phức tạp. Ví như, thời gian nào Hồ Chí Minh đến Mạc Tư Khoa? Vì sao hói đầu và bị phán quyết tử hình? Vì sao
bị cưỡng chế học tập cải tạo? Vì sao ở Đại hội VII Quốc tế cộng sản chỉ đóng
vai im lặng? Lại vì sao nhẫn nhục chịu đựng khi mà vợ mình kết hôn với người
khác? Năm 1938 rời khỏi Mạc Tư Khoa theo chỉ thị của ai? Vì sao trên đường ngàn
dặm tìm đến Diên An Trung Quốc mà không quay về Việt Nam ? Vô số những điều nghi vấn đặt ra chứng tỏ bên trong ẩn giấu
nhiều bí mật.
Nhiều hồ sơ đã được Quốc tế cộng sản giải mật nhưng không phải
là tất cả. Thành ra, như William J. Duiker nói: "Rõ ràng những tài liệu
quan trọng đã có ở đó nhưng trước sau vẫn không thấy". Đơn cử như trường hợp
Hồ Chí
Minh bị phán xử tử hình hiện tại ở đâu? Vì sao "Hồ Chí Minh tự
truyện" hai lần xuất bản lại có năm sinh khác nhau là 1890 và 1893? Hồ sơ
lưu của Quốc tế cộng sản có một phần từ 17
tháng tư năm 1938 viết, bút danh P. C. Lin trong tự truyện có phải tự truyện của
Nguyễn Ái Quốc hay là tự truyện của Hồ Tập Chương? Vợ Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn Thị Minh
Khai v́ sao lại tự ḿnh điền vào bản khai cá nhân đã kết hôn, chồng tên là Lin
(Lâm), trong khi ấy, ngay trước mặt Lin lại làm lễ thành hôn với Lê Hồng Phong?
Có quá nhiều những dấu hiệu không bình thường ấy đã chứng tỏ, những ghi chép về
thân phận Hồ Chí Minh có vẻ như đã bị sửa chữa hoặc thay đổi. Vì sao Quốc tế cộng sản phải làm như vậy? Căn cứ vào những manh mối
qua các ghi chép mơ hồ mà phân tích, chỉ có một khả năng là, người ta đã cố ý
đem Hồ
Tập Chương hoán đổi thành Nguyễn Ái Quốc để đạt mục đích "mượn xác hoàn
hồn".
Hồ Chí Minh đến Mạc Tư Khoa vào thời gian nảo?
Hồ Chí Minh rời Thượng Hải đi Mạc Tư Khoa khi nào? Có nhiều ý kiến khẳng định là không thể xác định được
thời gian cụ thể. William J. Duiker cho rằng vào mùa xuân năm 1934. Sophie Quinn Judge
căn cứ vào chữ ký "Lin" trong "Tự truyện" dẫn lời Hồ Chí
Minh kể, tháng bảy năm 1934, ông mới đến Mạc Tư Khoa" nhưng lại tỏ ra nghi ngờ, không có bất cứ tài liệu nào
làm rõ, từ mùa thu năm 1933 đến những tháng đầu năm 1934 ông ở đâu? Cả William
J. Duiker lẫn Sophie Quinn Judge đều cho rằng, thời gian Hồ Chí Minh đến Mạc Tư Khoa căn cứ vào lúc Hồ Chí Minh rời Thượng Hải đi Mạc Tư Khoa chỉ là suy đoán. Tuy nhiên, thời gian Hồ Chí Minh rời Thượng Hải, bản thân nó vẫn là một câu đố. Riêng quan điểm cá
nhân, tôi cho rằng, thời gian ấy vào cuối năm 1933, muộn lắm cũng không quá mùa
hè.
Thời gian Hồ Chí Minh đến Mạc Tư Khoa liệu có khó xác minh đến như vậy không? Vào lúc Hồ Chí Minh đến Mạc Tư Khoa, phô trương náo nhiệt, được Bí thư thứ nhất Cục
Viễn Đông đón tiếp như nghi thức của bậc anh hùng, khó có thể làm thủ tục xuất
nhập cảnh nếu không có những ghi chép của hải quan về nhân thân. Những năm ba
mươi của thế kỷ XX, Nga Xô đang ở vào thời kỳ đại thanh trừng. Mọi công dân đều
bị giám sát, có thể bị điều tra, bắt giữ hoặc xử tử bất cứ lúc nào nếu được gán
cho tội danh "kẻ thù của nhân dân". Tác phẩm "Chân dung bạo
chúa" của An Đông Lạc Phu. Áo Phí Thân Khoa (2) đã viết:
"Từ năm 1935 đến năm 1940, Liên Xô đã bắt giữ 19 triệu 840 nghìn người,
trong đó có 7 triệu người bị chết". Mạc Tư Khoa là trung tâm cao độ giám
sát, khống chế một cách ráo riết mọi lời nói và hành vi của người dân".
Những tài liệu ghi chép về thời kỳ Hồ đến Mạc
Tư Khoa rất dễ dàng nhận biết, vậy vì sao Quốc tế cộng sản không có tài liệu
khi ông nhập cảnh? Nhất định là phải có nguyên nhân đặc biệt không thể tiết lộ
nên đã giấu kỹ thậm chí tiêu hủy. Lại như, vào đầu năm 1923, khi Nguyễn Ái Quốc
đến Mạc Tư Khoa thì trong truyện có viết không? Đến năm 1938, nghĩa là 15 năm
sau, tuyệt nhiên chẳng có trang nào ghi chép sự kiện này. Thời gian nào Hồ Chí Minh bị phán
xử tử hình? Hồ sơ điều tra vụ án này hiện ở đâu? Từ rất nhiều những chi tiết
bất hợp lý trên, tôi suy đoán là, các hồ sơ liên quan đều đã bị tiêu hủy.
Căn cứ vào thời gian Hồ Tập Chương rời Thượng Hải và suy
đoán, ông đến Mạc Tư Khoa vào khoảng từ mùa xuân đến
mùa hè năm 1933.
Sự thật về sự kiện Hồ Chí Minh bị kết án tử hình
Theo Sophie Quinn Judge, vào năm 1992, cùng với Anatoly
Voronin là cựu Ủy viên Trung ương Bộ Quốc tế, nói chuyện về những tư liệu đã
được ghi chép: "Hồ Chí Minh chịu sự điều tra của tổ 3 người gồm Dmitry
Manuilsky, Vera Vasilieva và trùm dặc vụ Trung Quốc Khang Sinh. Dmitry
Manuilsky thuộc thành phần trung lập, trong khi Khang Sinh giữ quan điểm đề
nghị xử tử Hồ Chí Minh. VeraVasilieva lấy lý do phải làm theo trình tự để tránh
sai lầm do mình còn thiếu kinh nghiệm, đã thay Hồ Chí Minh bào chữa. Đến năm
1935, Khang Sinh mới tin Hồ Chí Minh bị bắt vào năm 1931 nên đã đề nghị khai
trừ ông ra khỏi đảng. Tuy nhiên vẫn còn thiếu một số tài liệu quan trọng có khả
năng đã bị Cục An ninh Liên Xô giấu đi, vì thế chúng ta không thể nào biết được
Hồ Chí Minh bị chỉ trích nghiêm trọng đến mức nào.
Do nhu cầu chính trị, Hồ Chí Minh đã có những quyết sách nhiều khi vượt ra
ngoài phạm vi quyền hạn, đặc biệt vào giai đoạn những năm 1930. Cũng có khả năng
Hồ Chí Minh ngả theo con đường Lý Lập Tam khiến Khang Sinh nghi ngờ, nhưng
Dmitry Manuilsky và Vera Vasilieva vẫn giữ quan điểm. Vì thế, khi biểu quyết
hình thức kỷ luật, trùm đặc vụ Trung Quốc bị thiểu số". Đoạn ghi chép trên
là của Sophie Quinn Judge trong tác phẩm "Những năm tháng mất tích của Hồ
Chí Minh, 1911-1941", trang 207.
Án tử hình của Hồ Chí Minh đối với Nguyễn Ái Quốc hoàn
toàn không liên quan. Đối tượng bị điều tra không phải là Nguyễn Ái Quốc. Tôi xin
nhấn mạnh một lần nữa, vào mùa thu năm 1932, Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bệnh lao
phổi. Khoảng giữa xuân hè năm 1933, người từ Thượng Hải đi Mạc Tư Khoa là Hồ Tập Chương mà không phải Nguyễn Ái Quốc. Huống
nữa, Quốc tế cộng sản đã cử đại biểu đến làm lễ truy điệu
Nguyễn Ái Quốc, làm sao có thể truy cứu trách nhiệm để xử án một người đã chết?
Án đặc biệt điều tra Hồ Chí Minh, phần quan trọng nhất, có liên quan đến việc chấp
hành công tác được Quốc tế cộng sản giao phó thời kỳ năm
1930. Đó
Ảnh chụp Nguyễn Ái
Quốc vào năm 1934 tại Mạc Tư Khoa (lấy từ tác phẩm "Tóm tắt về sự nghiệp Hồ
Chí Minh", NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2007
là ông đã truyền đạt sai lạc chỉ lệnh về công tác liên lạc giữa Trung cộng và Việt
cộng.
Rất có khả năng là vào năm 1930, Hồ Chí Minh tham gia Hội
nghị "Liên minh Trung Quốc phản đối chủ nghĩa đế quốc" của Lý Lập Tam
và ngả theo đường lối sai lầm của họ Lý ảnh hưởng đến Việt Nam, làm cho Trần
Phú và một số lãnh đạo cao cấp của Đảng Cộng sản Đông Dương bị bắt. Đây là
nguyên nhân khiến cho Lý Lập Tam và Khang Sinh đối với nhau như kẻ thù không
đội trời chung, dẫn đến hệ lụy là Hồ Chí Minh bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản
Trung Quốc, thậm chí trùm đặc vụ còn đề xuất mức án tử hình. Trong khi ấy,
Khang Sinh và Nguyễn Ái Quốc chưa từng quen biết nhau, lại không có mâu thuẫn
gì trong quan hệ để khép một người đã qua đời vào trọng tội.
Trong quá trình điều tra, Hồ Chí Minh bị hói đầu, nhưng
tấm ảnh lưu trong hồ sơ so với ảnh chụp Nguyễn Ái Quốc lại không giống nhau (Hồ
Chí Minh bị hói đầu trong tấm ảnh bên có đóng dấu và chữ ký). Đặc biệt, tại bản
báo cáo điều tra về Hồ Chí Minh năm 1934, ông dã tự điền vào bản khai là sinh
năm 1903, so với Nguyễn Ái Quốc sinh năm 1890 thì chênh nhau 13 năm. Nhân vật
vào năm 1934 vào học trường Đại hoc Lenin, bí danh P.C.Lin là Hồ Chí Minh mà
nhân viên điều tra đã viết như sau: "Ông ta không có gia đình, vợ con, không
nghề nghiệp chuyên môn, không biết bất cứ ai là lãnh đạo, cũng không biết mình
có thể làm được công tác gì". Phần tử bị điều tra này so với Nguyễn Ái
Quốc hoàn toàn trái ngược nhau. Bất cứ một điều tra viên nào của Quốc tế cộng sản cũng không thể tin được mình đang điều tra về
Nguyễn Ái Quốc. Huống chi, từ năm 1923 đến 1927, Nguyễn Ái Quốc đã hai lần lưu
lại Mạc Tư Khoa, có hồ sơ lưu trữ tại Quốc tế cộng sản. Thân phận chân chính của
Hồ Chí
Minh đã bị Quốc tế cộng sản che giấu nên đã nảy
sinh vô số câu hỏi nghi vấn. Từ sự kiện điều tra về án tử hình, chính là bằng
chứng rõ ràng khẳng định Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh là hai người khác
nhau. Hồ Chí Minh đã được Vera Vasilieva ra sức bảo vệ may mắn thoát khỏi kiếp
nạn.
Quốc tế cộng sản đạo diễn vở kịch "Mượn xác hoàn hồn"
Từ năm 1929 đến 1933,
Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh phân biệt nhau hoạt động ở vùng Đông Nam Trung
Quốc, Xiêm La và Singapore. Nội dung
hoạt động của họ không giống nhau, chỉ là ghi chép vào hồ sơ duy nhất một danh
xưng Hồ Chí Minh làm lịch sử bị lẫn lộn. Đặc biệt vào năm 1930, hai người cùng
tổ chức thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, năm 1931, một người bị bắt ở Hương
Cảng, một người bị bắt ở Quảng Châu. Chuyện sờ sờ trước mắt nhưng lại bị Quốc tế cộng sản cùng với Trung cộng, Việt cộng che giấu
quy về cho một Hồ Chí Minh. Thậm chí, mùa thu năm 1932, Nguyễn Ái Quốc đã chết
vì bệnh lao phổi, vậy mà đến đầu năm 1933 tự nhiên được dựng dậy, sau đó dùng
Hồ Tập Chương thay Nguyễn Ái Quốc, tạo ra một nhà cách mạng mới là Hồ Chí Minh
tiếp tục vai diễn trên vũ đài chính trị. Ai đã ra lệnh cho Hồ Tập Chương thay
thế Nguyễn Ái Quốc và đạo diễn vở kịch "Người chết sống lại"? Ai đã
chỉ đạo Hồ Chí Minh tiếp tục diến xuất trên vũ đài lịch sử và tính toán để lại
cho hậu thế một loại hồ sơ chắp vá, một tiểu sử lắp ghép về Hồ Chí Minh?
Căn cứ vào trước tác của các nhà nghiên cứu về Hồ Chí
Minh, kiên trì tìm kiếm, cuối cùng tôi cũng phát hiện ra vô số điều bất hợp lý
trong lịch trình hoạt động của Hồ Chí Minh, mới tìm được cái cần tìm trong cả
mớ bòng bong tư liệu thật giả lẫn lộn ấy. Như vén mây thấy mặt trời, tôi nhìn
ra chân tướng lịch sử, và phần nào giải thích được mối quan hệ nhân quả của
giai đoạn lịch sử này, đồng thời khâm phục thủ pháp cao tay của đạo diễn đứng
sau sân khấu. Ấy là những tay tổ của Quốc tế cộng sản, Trung cộng và Việt cộng chóp bu đã phối hợp nhịp nhàng
với nhau, tạo ra một nhân vật Hồ Chí Minh đầy bí hiểm.
Vera
Vasilieva và Hồ Chí Minh
Vera Vasilieva là người chịu trách nhiệm chính trong ban
lãnh đạo Quốc tế cộng sản về những vấn đề Việt
Nam , từ khi Nguyễn Ái Quốc bị bắt ở Hương Cảng đã tham gia vào
công tác giải cứu. Trên đường đi, không ngờ, Nguyễn Ái Quốc bị bệnh qua đời.
Vera Vasilieva được cử làm người bào chữa cho Hồ Tập Chương, do vậy mà phát
hiện ra Nguyễn Ái Quốc và Hồ Tập Chương là hai người khác nhau, có hoàn cảnh
khá giống nhau, thân thế, ngoại hình, ngôn ngữ gần nhau, và nhất là thông thạo
nhiều ngoại ngữ. Hai ngýời này từ nãm 1929 ðến 1931 cùng công tác tại Cục Viễn Đông Quốc tế cộng sản, cùng được giao những công việc
quan trọng, và đặc biệt là lại cùng bị bắt vào năm 1931.
Tuy vậy, Xung quanh sự kiện Nguyễn Ái Quốc rời Thượng Hải đến Mạc Tư Khoa, ngoài
quan điểm cho rằng ông đã qua đời trên đường đi vì bệnh lao phổi, còn một ý kiến
khác là cuộc trốn chạy thành công, có điều những chứng cứ đưa ra đều rất khó
thuyết phục, trong khi báo chí cộng sản đã đồng loạt đăng tin nhà cách mạng đã
chết, thậm chí đại biểu Quốc tế cộng sản còn đến dự lễ truy điệu. Từ những hoàn
cảnh và điều kiện phức tạp như vậy, Vera Vasilieva nảy ra ý nghĩ, đề nghị Hồ Tập Chương thay
thế vai trò của Nguyễn Ái Quốc, tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ của ông. Hơn thế
nữa, Hồ Tập Chương lại biết tiếng Nhật, có kinh nghiệm đấu tranh chống Nhật,
càng phù hợp với nhiệm vụ chống Nhật trước mắt của Liên Xô.
Vera Vasilieva bèn xin ý
kiến Cục Phương Đông, lên kế hoạch giáo dục 5 năm đào tạo Hồ Tập Chương thay
thế cho Nguyễn Ái Quốc. Việc làm của Vera Vasilieva cùng với hồ sơ
ghi chép của lịch sử dể lại đã chứng minh, Quốc tế cộng sản đã bí mật chơi trò
"phục sinh" cho người đã chết.
Các tấm ảnh này được lấy trong
"Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh, 1911-1941", của Sophie
Quinn Judge ở phần phụ lục. Bên trái là Vera Vasilieva, bên phải là Hồ
Chí Minh. Ảnh chụp tại Mạc Tư
Khoa, Liên Xô, năm 1934.
1- Cuối tháng chín
năm 1931, Ban Hồ sơ Quốc tế cộng sản chuyển cho
Vera Vasilieva một bản tin với nội dung: "Sự kiện Nguyễn Ái Quốc bị đuổi
ra khỏi Đông Nam Á đã bị cự tuyệt". Vera Vasilieva vô cùng phấn khởi vội
thông báo với các bạn bè, đồng chí của Nguyễn Ái Quốc về tin này, đồng thời viết
ba bản tin bằng tiếng Nga ký tên Vasilieva.
2 - Mùa thu năm 1932, báo
chí cộng sản lần lượt đưa tin Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bệnh lao phổi cùng với
tin nhóm lưu học sinh Việt Nam tại Mạc Tư Khoa đã tổ chức tang lễ và Quốc tế cộng
sản cử đại biểu đến truy điệu. (tác giả nhận xét: Chủ nhiệm Ban Việt Nam Vera
Vasilieva chắc là sẽ cử một người không quen biết Nguyễn Ái Quốc đến viếng
tang, ít ra bà cũng đã biết việc Nguyễn Ái Quốc bị bệnh chết).
3 - Mùa hè năm 1934, Hồ Chí Minh từ
Thượng Hải đến Mạc Tư Khoa, Vera Vasilieva, Dmitry Manuilsky và
trùm đặc vụ Trung cộng Khang Sinh tạo thành nhóm ba người điều tra, phán xét Hồ
Chí Minh. Do được Vera Vasilieva bảo vệ, Hồ Chí Minh thoát
khỏi án tử hình nhưng bị giữ lại Mạc Tư Khoa học tập cải tạo, một
mặt vào học trường Đại học Lenin, mặt khác nghiên cứu về vấn đề dân tộc và chủ
nghĩa thực dân thuộc địa.
4 - Tháng ba năm 1935, Hội
nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam họp tại Áo Môn thông qua một Báo
cáo chính trị dài 32 trang. Hội nghị đã bầu bổ sung 13 ủy viên Trung ương do Lê
Hồng Phong làm tổng bí thư gồm 8 đại biểu công nhân, 3 đại biểu trí thức, 1 đại
biểu dân tộc thiểu số. (Tác giả nhận xét: Hồ Chí Minh xếp cuối cùng trong số 13
ủy viên Trung ương tuyệt nhiên không phải Nguyễn Ái Quốc. Xét về tiểu sử và quá
trình hoạt động, thứ bậc của Nguyễn Ái Quốc xếp quá xa so với Lê Hồng Phong
trong danh sách các Ủy viên Trung ương đặt ra một vấn đề đạo lý. Cho nên phải
hiểu người xếp cuối cùng ấy là Hồ Tập Chương, bí danh P.C.Lin. Bởi vì, lúc ấy,
Nguyễn Ái Quốc đã chết, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai cùng P.C.Lin ở Mạc Tư Khoa tham gia Hội nghị VII Quốc tế cộng sản. Đưa
P.C.Lin vào danh sách Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam hoàn
toàn do Vera Vasilieva chủ trương).
5 - Tháng tư năm 1935, Đảng Cộng sản Việt Nam gửi Ban bí
thư Cục Phương Đông công khai khiển trách Hồ Chí Minh, yêu cầu không để Hồ Chí
Minh tham gia Hội nghị VII Quốc tế cộng sản. Tổng bí thư
Đảng Cộng sản Xiêm La còn cho biết, trước năm 1930, Hồ Chí Minh không phải là đảng
viên cộng sản. Sau khi đọc văn bản kiến nghị, Vera Vasilieva trả lời Đảng Cộng
sản Việt Nam như sau: "Hồ Chí Minh đã dành ra 2 năm học tập nghiên cứu,
không có thời gian làm công việc khác, sau khi Hội nghị kết thúc, chúng tôi sẽ
có kế hoach đặc biệt giao cho ông ta". Ít lâu sau, Vera Vasilieva gửi một
bức thư cho lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc nói: "Đối với Nguyễn Ái
Quốc, sau hai năm học tập, nhất định sẽ hiểu được nội dung và mục đích của
chương trình đào tạo, vì vậy, không có lý do gì xử lý kỷ luật ông ta. Trong
thời gian tới, chúng tôi sẽ có kế hoạch đặc biệt sử dụng".
6 - Cuối năm 1935,
Hồ Chí Minh trở lại trường Đại học Lenin, năm 1936 chuyển sang Đại học Stalin
làm giảng viên bộ môn Đông Nam Á bằng tiếng Việt. Tháng tư năm 1936, một bản
báo cáo đã chỉ rõ, Hồ Chí Minh và Vera Vasilieva hợp tác xây dựng khóa trình
giảng dạy bộ môn Đông Nam Á. Vera Vasilieva nhận xét về vai trò giảng viên của
Hồ Chí Minh như sau: "Được làm việc với ông tôi thật vinh dự. Ông nghiên
cứu về thực trạng xã hội trong nước rất công phu, chỉ có điều chưa được hệ
thống lắm. Ông vốn có nhiều kinh nghiệm hoạt động cách mạng, nhưng cũng có lúc
phạm phải sai lầm như sai lầm của người dân vùng Đông Nam Á. Chúng tôi sẽ nghiên cứu cải tiến, nâng cao, chắc chắn ông sẽ
tiến bộ".
Trước khi kết thúc năm
1936, Vera
Vasilieva lên kế hoạch chi 3000 dollars để bồi dưỡng
cho 10 học viên Đông Nam Á dự khóa huấn luyện hai tháng. "Chúng tôi đã quyết
định là, có nên cử Hồ Chí Minh đã tốt
nghiệp Học viện Mạc Tư Khoa đến tổ chức và chỉ đạo
khóa học này hay không?".
Nhưng ghi chép trên đã được
lưu giữ tại Hồ sơ Quốc tế cộng sản ở Mạc Tư Khoa. Trong "Truyện Hồ Chí
Minh" của William J. Duiker và "Những năm
tháng mất tích của Hồ Chí Minh, 1911-1941", của Sophie Quinn Judge đều đã
viết rất rõ ràng về sự kiện trên. Việc công khai bí danh P.C.Lin là Hồ Chí Minh
vào năm 1934, chắc chắn không phải là Nguyễn Ái Quốc. Quốc tế cộng sản yêu cầu Hồ Tập Chương lấy bí danh P.C.Lin để tiếp tục nhiệm
vụ của Nguyễn Ái Quốc mà chủ nhiệm đề tài Vera Vasilieva chính là người đạo
diễn màn kịch "mượn xác hoàn hồn", "dời hoa tiếp cây".
Việc
học tập và cải tạo của Hồ Chí Minh
Trong thiên "Ve sầu thoát xác thật giả kiếp
người", tôi đã trình bày kỹ: "Mùa xuân năm 1932, Nguyễn Ái Quốc đã
chết vì bệnh lao phổi, khoảng giữa mùa xuân và mùa hè năm 1933, người từ Hạ Môn
đến Thượng Hải rồi đi Mạc Tư Khoa không phải Nguyễn
Ái Quốc mà là Hồ Tập Chương". Hồ Tập Chương đến Mạc Tư Khoa, Vera Vasilieva, Dmitry Manuilsky, và trùm đặc vụ Trung
cộng Khang Sinh, lập thành tổ đặc biệt ba người điều ra về ông, chỉ cần sai
phạm một điểm là bị tuyên án tử hình. May mà được Vera Vasilieva bảo vệ, Hồ Tập
Chương mới thoát nạn. Tuy nhiên sau đó ông phải mất gần 5 năm học tập, cải
tạo để sau này thay thế vai trò Nguyễn Ái Quốc. Trong 5 năm học tập cải tạo
này, nhân vì Nguyễn Ái Quốc và Hồ Tập Chương liên quan đến việc chuyển đổi thân
phận, nên hồ sơ của Quốc tế cộng sản không thể ghi
chép rõ ràng. Vì thế, chí có thể căn cứ vào những tài liệu liên quan, ta mới hiểu
được trong 5 năm ấy, Hồ Tập Chương, học tập cải tạo như thế nào.
Trong "Hồ Chí Minh ở Trung
Quốc", trang 81, 82, giáo sư Tưởng Vĩnh Kính có nói đến: "Từ năm 1933
đến mùa thu năm 1938, Hồ Chí Minh ở Mạc Tư Khoa, bị bắt buộc học tập
cải tạo. Thứ trưởng Bộ Văn hóa Việt Nam Nguyễn Khánh Toàn nhớ lại: 'Lúc ấy,
không khí khủng bố bao trùm, Hồ Chí Minh muốn gặp gỡ các đảng viên Cộng sản Việt Nam
đều phải xin phép nhà đương cục Mạc Tư Khoa. Nếu trước khi được
phép mà tự động gặp nhau thì không được nói chuyện'. Nguyễn Khánh Toàn kể tiếp:
'Các đồng chí Việt Nam ở Mạc Tư Khoa lúc ấy đều không biết Hồ Chí Minh đã đến
Liên Xô. Có một nữ bí thư trong "Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và
thuộc địa", nhân việc gặp một đồng chí phụ trách "Tổ Việt Nam"
nói chuyện, mới biết tin ấy. Nữ đồng chí phụ trách "Tổ Việt Nam" này
cũng là cán bộ Quốc tế cộng sản. (Tác giả nhận định:
đồng chí nữ bí thư chỉ Nguyễn Thị Minh Khai), xem "Chị Minh Khai", phần
2, mục 13, còn đồng chí nữ cán bộ Quốc tế
cộng sản phụ trách "Tổ Việt Nam", chỉ Vera Vasilieva). Sau mấy năm,
tôi gặp Hồ Chí Minh trên phố, nhưng do nguyên tắc tổ chức cũng không thể nói
chuyện với nhau. Mãi mấy năm sau nữa, chúng tôi mới chính thức được làm quen
với ông. Hồ Chí Minh một mặt học tập tại Học viện Lenin, mặt khác lại làm việc
ở Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa. Học viện Lenin là trường
Đảng huấn luyện cán bộ đảng viên các nước. Hồ Chí Minh khi ở học viện này dùng
bí danh bằng tiếng Nga là "Linov", nhưng tại Viện Nghiên cứu các vấn
đề dân tộc và thuộc địa thì lại dùng tên "Lin" lãnh đạo tiểu tổ Việt
Nam học tập. Tố chất học sinh Việt Nam rất kém, trình độ thấp, phần lớn họ đến
từ Pháp, có tiền sử thường là đầy tớ hoặc thủy thủ. Hồ Chí Minh chỉ đạo nhóm này
học tập chẳng khác gì dạy học sinh tiểu học. Mùa Thu năm 1934, Viện Nghiên cứu
các vấn đề dân tộc và thuộc địa lại thành lập thêm một tiểu tổ. Tiểu tổ này do
một người mới đến Mạc Tư Khoa là Lê Hồng Phong cùng
Nguyễn Thị Minh Khai và ba đảng viên cộng sản Việt Nam hợp thành. Lê Hồng Phong
phụ trách công tác Đảng, Hồ Chí Minh kiêm nhiệm chỉ đạo học tập. Vì lý do bảo
mật, hai tổ học tập Việt Nam bị cách ly hai địa điểm, không được liên lạc với
nhau. Sau Đại hội đại biểu Quốc tế cộng sản VII, trước mắt
Stalin, Hồ Chí Minh hiển nhiên không có vai trò gì dáng kể. Ông ta chẳng những
không phải là Ủy viên chấp hành Quốc tế cộng sản mà còn mất đi
địa vị lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, thậm chí còn bị coi là phần tử không
đáng tin cậy. Bị buộc phải lưu lại Mạc Tư Khoa học tập cải tạo, Hồ Chí Minh chẳng
những không thực hiện được nguyện vọng của mình mà còn rơi vào hoàn cảnh bị đối
xử lạnh nhạt.
Sau khi Lê Hồng
Phong và Nguyễn Thị Minh Khai lần lượt trở về Việt Nam, Hồ Chí Minh lại theo
học "Ban nghiên cứu lịch sử" thuộc "Viện Nghiên cứu các vấn đề
dân tộc và thuộc địa" một năm. Lúc này, phong trào cách mạng Việt Nam và
thế giới đang sôi sục, Hồ Chí Minh làm sao có thể yên tâm ngồi học tập? Trong "Truyện Hồ Chí Minh", trang 212, William J. Duiker
có dẫn ra hồi ức của một học sinh là Nguyễn Khai Quyền như sau: "Nguyễn Ái
Quốc được chỉ làm giảng viên của 144 học sinh, văn phòng đặt tại tầng bốn của
ngôi nhà thuộc đại lộ Ulyanovsk Mạc Tư Khoa. Có một số thanh niên trẻ không hài
lòng hoặc tỏ ra ngạo mạn, thường chỉ vì một vài việc lặt vặt mà to tiếng với
nhau. Lúc ấy thường là Nguyễn Ái Quốc phải đến hòa giải". Ngoài ra, ở trang
227, tác giả cũng nói đến: "Mùa Thu năm 1936, tại Viện Nghiên cứu các vấn
đề dân tộc và thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc sau khi soạn xong bài giảng, lại từ Học
viện Lenin trở về căn phòng nhỏ của minh trong ngôi nhà thuộc đường phố Bố Lỗ
nạp Nhã(3) (布魯納雅街). Học trình gồm triết học, lịch sử và Nga văn. Thế nhưng, Bí
thư thứ nhất Cục Viễn Đông lại giao cho ông nghiên
cứu về vấn đề nông dân, đồng thời phiên dịch 'Tuyên ngôn của Đảng cộng sản' của
Karl Marx và 'Bàn về sự ấu trĩ của phái cực tả' của V.I. Lenin sang tiếng Việt.
Trong niên học 1937-1938, Nguyễn Ái Quốc vừa soạn giáo trình, vừa làm việc tại
văn phòng Bí thư thứ nhất Cục Viễn Đông, lại vừa giảng dạy tại lớp, chuẩn bị
cho công trình nghiên cứu về ruộng đất Đông Nam Á".
Sophie Quinn Judge
trong "Những năm tháng mất tích của Hồ Chí Minh, 1911-1941", trang
217 có nói đến: "Cuối năm 1935, Hồ Chí Minh trở lại Học viện Lenin, năm
1936 chuyển đến Học viện Stalin phụ trách giảng dạy bộ môn Đông Nam Á bằng tiếng Việt. Tháng tư năm 1936, một bản báo
cáo chỉ rõ Hồ Chí Minh và Vera Vasilieva hợp tác xây dựng khóa trình giảng dạy bộ môn
Đông Nam Á. Vera Vasilieva lên kế hoạch chi 3000 dollars để bồi dưỡng cho 10 học viên Đông Nam Á dự
khóa huấn luyện 2 tháng. "Chúng tôi đã quyết định là, có nên cử Hồ Chí Minh đã tốt nghiệp Học viện Mạc Tư Khoa đến tổ chức và chỉ đạo khóa học này hay không?". Năm 1937, Học viện
Stalin sắp xếp lại tổ chức, đưa những học sinh nước ngoài về bộ môn "
Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa". Hồ Chí Minh thuộc hệ Lịch sử
(kỳ thứ nhất), vừa là giảng viên, vừa là học sinh, tuy nhiên không có biểu hiện
gì là nhiệt tình trong học tập. Thành tích của ông ta đối với các môn "Chủ
nghĩa duy vật biện chứng", "Lịch sử cổ đại" cùng với "Lịch
sử trung đại" đều thuộc loại trung bình, chỉ có "Lịch sử hiện
đại" là xuất sắc. Với tư cách giảng viên, ông chỉ dùng Việt văn để giảng
khóa trình "Nghiên cứu Đông Nam Á".
Trong tác phẩm "Chị
Minh Khai", tác giả Nguyệt Tú đã viết ở trang 73: "Đồng chí Nguyễn Ái
Quốc dùng 'Linov' làm bí danh tại 'Viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc
và thuộc địa'. Được sự ủy nhệm của Viện, đồng chí đến Đại học Phương Đông giảng
cho học sinh Việt Nam về lịch sử và tổ chức của Đảng Cộng sản Liên Xô. Trong
nhận thức của chị Minh Khai, đồng chí Nguyễn Ái Quốc phân tích về quan điểm tư
tưởng cộng sản Lenin vô cùng sâu sắc. Minh Khai và 5 học sinh Việt Nam ở Đại
học Phương Đông cũng biết Nguyễn Ái Quốc đã gửi Cục Phương Đông Quốc tế cộng sản một lá thư, đề cập đến việc giáo dục cộng sản
còn thiếu phần lý luận của chủ nghĩa Marx - Lenin, khiến cho công tác tuyên
truyền của các đảng gặp nhiều khó khăn, thậm chí còn phạm sai lầm nghiêm trọng.
Vì thế việc xuất bản sách giáo dục lý luận về Đảng Cộng sản dưới nhiều hình thức
là điều cấp thiết phải làm. Đó cũng là điều mà Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh
Khai hết sức quan tâm.
Thành quả 5 năm học tập
cải tạo
Như trên đã nói, từ năm 1933 đến 1938, Hồ Tập Chương học
tập cải tạo ở Mạc Tư Khoa. Quốc tế cộng sản tích cực
bồi dưỡng Hồ Tập Chương thành một đại biểu Việt Nam của Quốc tế cộng sản, tham gia Đảng Cộng sản Việt Nam, hướng đến cách mạng giai cấp vô
sản thế giới, thay thế Nguyễn Ái Quốc mà không một ai hoài nghi. Hơn thế nữa,
Vera Vasilieva đã hết sức đào tạo ông thành một nhà lý luận kiêm thực tiễn cúa
Chủ nghĩa Cộng sản. Trong 5 năm học tập và rèn luyện này, Hồ Tập Chương, ngoài
việc nghiên cứu lý luận của Chủ nghĩa Cộng sản và lịch sử văn hóa Việt Nam, ông
còn tích cực học tập môn tiếng Pháp và tiếng Việt, nắm rõ từng chi tiết nhỏ
nhất trong hồ sơ lý lịch Nguyễn Ái Quốc. Hồ Chí Minh học Việt văn và Pháp văn
đến mức có thể nghe, đọc, viết, nói thành thạo, thậm chí còn phiên dịch cả
"Tuyên ngôn của đảng cộng sản" và "Luận về sự ấu trĩ của phái
cực tả" từ tiếng Anh sang tiếng Việt.
Chỉ cần đọc mấy bài
viết ở tập 3 trong "Hồ Chí Minh toàn tập" dưới đây, độc giả sẽ thấy
rõ ràng Hồ Tập Chương đã làm mọi cách để tạo ra dấu vết Nguyễn Ái Quốc:
1 - Ngày 12 tháng mười năm 1937, Hồ Tập Chương dùng tên
Nguyễn Ái Quốc ký vào một bức thư viết bằng tiếng Pháp gửi một người bạn Pháp
là Marcel Gabriel, tỏ lòng vô cùng thương tiếc về việc Paul Vaillant Couturier từ trần. Tôi đã tra cứu văn bản thư tín đối ngoại
của Hồ
Chí Minh (bao hàm cả Nguyễn Ái Quốc) từ năm 1921 đến năm 1937, không có bất cứ
một bức thư nào gửi Paul Vaillant Couturier hoạc Marcel Gabriel.
Nguyễn Ái Quốc cũng không gửi một bức thư nào chia buồn với các đồng chí Việt
Nam đã hy sinh vì tổ quốc. Trái lại, đột nhiên vào thời điểm này lại gửi thư
tới Marcel Gabriel chia buồn về việc Paul Vaillant Couturier qua đời,
ắt không tránh khỏi người ta nghi ngờ cố ý ngụy tạo. Hồ Tập Chương có khá nhiều bài
viết với dụng ý hai mặt, một là bịa đặt P.C.Lin (Hồ Tập Chương) thành Nguyễn Ái
Quốc, một là Quốc tế cộng sản kiểm tra trình độ tiếng
Pháp của Hồ Tập Chương. Trong bức thư có một đoạn như sau:
"Đồng chí
Marcel Gabriel thân mến! Chúng tôi vô cùng đau đớn được tin đồng chí Paul Vaillant Couturier từ trần. Đây là một tổn thất lớn đối
với Đảng Cộng sản Pháp, với giai cấp vô sản Pháp và vô sản các nước thuộc địa
cùng giai cấp vô sản thế giới. Vào lúc được tin đồng chí qua đời, lòng tôi vô
cùng thương cảm. Đối với tôi mà nói, Paul Vaillant Couturier là một người đồng
chí, một người anh em thân thiết. Chúng tôi quen biết nhau không thể nào quên tại
Đại hội Tour. Đến năm 1934, chúng tôi cùng nỗ lực nghiên cứu về 'Chủ nghĩa thực
dân' mà đồng chí đặc biệt quan tâm. Đồng chí là đại biểu tổ chức 'Hội nghị hòa
bình phản chiến' và đã đến Viễn Đông, do vậy, chúng tôi gặp nhau tại Trung Quốc.
Và lần ấy là một cơ hội, dồng chí đã giúp tôi thoát khỏi cảnh khốn khổ.
Mùa hè năm ấy chúng tôi gặp
nhau, cùng thảo luận về vấn đề thực dân, đặc biệt là vấn đề Đông Dương. Giai cấp
vô sản các nước thuộc địa mất đi một chiến sĩ, một người bạn chân chính. Paul
Vaillant Couturier đã mất nhưng sự tận tụy công tác, phong cách mẫu mực và tinh
thần dũng cảm, bất khuất mãi mái sống trong lòng chúng ta. Học tập phẩm cách
cao quý của đồng chí, chúng tôi nguyện kiên trì đấu tranh cho đến khi sự nghiệp
cách mạng thanh công. Ngày 12 tháng mười năm 1937, Nguyễn Ái Quốc".
Ngày 6 tháng sáu năm
1938, cùng lúc dùng cả tên Nguyễn Ái Quốc và P.C.Lin ký vào bức thư bằng tiếng
Pháp gửi một đồng chí Quốc tế cộng sản:
"Đồng chí thân mến! Hôm này là kỷ niệm 7 năm ngày tôi bị
cảnh sát Hương Cảng bắt giữ, nghĩa là dã 8 năm nay tôi không có bất cứ hoạt động nào. Dịp này viết thư
gửi đến đông chí, thỉnh cầu đồng chí giúp đỡ tôi để có thể thay đổi hoàn cảnh
hiện tại. Phân công tôi về địa phương hay giữ tôi ở lại, mong đồng chí triệt để
sử dụng. Đề nghị đồng chí không nên để tôi xa rời tổ chức Đảng quá lâu. Tôi rất
cảm kích nếu đồng chí cho phép được gặp mặt. Mong đồng chí hãy tiếp kiến một
người anh em cộng sản trung thành, tận tụy. Ngày 6 tháng sau năm 1938, Lin
(Nguyễn Ái Quốc).
(Tác giả nhận xét: Bức
thư bằng tiếng Pháp gửi một đồng chí Quốc tế cộng sản chính là gửi cho Vera
Vasilieva. William J. Duiker, trong "Truyện Hồ Chí Minh", trang 228 có viết: "Hồ Chí Minh thông
qua Vera Vasilieva nhờ giúp đỡ mới rời khỏi được Mạc Tư Khoa).
"Hồ Chí Minh toàn
tập", văn bản chính thức của nhà nước Việt Nam
Bộ "Hồ Chí Minh toàn tập" có
một số bản in màu đẹp, tôi đã dùng bộ sách 12 tập do Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia in năm 2002 để nghiên cứu. "Hồ Chí Minh toàn tập" gồm
những bài viết và nói bằng tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Việt và Hán văn trong
cuộc đời hoạt động chính trị của ông. Nội dung văn bản ngắn thì chỉ có vài chục
chữ đối với thư chúc mừng, dài thì hàng ngàn vạn chữ đối với các chuyên khảo
như "Binh pháp Tôn Tử", "Chiến tranh du kích" v.v... Trước
tác của Hồ Chí Minh phần lớn là các bài viết đăng báo, tạp chí, ngoài ra còn có
một số lượng không nhỏ thư từ, thơ qua lại giữa bạn bè với nhau. Tôi đã căn cứ
vào thời gian, số bài, đặc trưng ngôn ngữ phân loại, chỉnh lý. Lấy năm 1932 làm
chuẩn để phân định, so sánh những bài
viết trước với bài viết sau, kết quả phát hiện ra hai điểm quan trọng, một là, tiếp tục khẳng định
Nguyễn Ái Quốc đã chết vào năm 1932, và một là, Nguyễn Ái Quốc không thông thạo
Hán văn. Nay, tôi đem những bài viết được đưa vào "Hồ Chí Minh toàn tập", căn cứ thời gian, sau khi chỉnh lý, kê ra được
một bản dưới đây:
Bảng thồng kê các
tác phẩm của Hồ Chí Minh
Năm
|
Số bài
|
Ngữ văn
|
Loại hình
|
1919
|
7
|
Tiếng Pháp
|
Chuyên văn 3, thư
từ 3, phỏng vấn 1
|
1920
|
2
|
Tiếng Pháp
|
Chuyên văn 1, bài
giảng 1
|
1921
|
14
|
Tiếng Pháp
|
Chuyên văn 12,
thư từ 1, báo cáo 1
|
1922
|
35
|
Tiếng Pháp
|
Chuyên văn 33,
thư từ 2
|
1923
|
35
|
Tiếng Pháp
|
Chuyên văn 30,
bài giảng 2, thư từ 2, phỏng vấn 1
|
1924
|
62
|
Pháp 13, Anh 1,
Nga 8
|
Chuyên văn 44,
thư từ 12, bài giảng 5, phỏng vấn 1
|
1925
|
24
|
Pháp 13, Anh 9,
Nga 2
|
Chuyên văn 13,
thư từ 8, bài giảng 2, chuyên khảo 1 (100 trang)
|
1926
|
19
|
Pháp 10, Anh 4,
Nga 2, Trung 1
|
Chuyên văn 10,
thư từ 8, bài giảng 1
|
1927
|
11
|
Pháp 8, Anh 3
|
Chuyên văn 9, thư
từ 2, sách 1 "Đường kách mệnh", 52 trang
|
1928
|
12
|
Pháp 11, Anh 1
|
Chuyên văn 7, thư
từ 5
|
1929
|
0
|
|
Nguyễn Ái Quốc ở
Xiêm La chữa bệnh
|
1930
|
18
|
Pháp 5, Anh 11,
Việt 1, Nga 1
|
Chuyên văn 6, thư
từ 12, trong đó có 4 bài không rõ ngôn ngữ nào, tạm xếp vào tiếng Anh
|
1931
|
9
|
Pháp 3, Anh 5,
Việt 1
|
Chuyên văn 3, thư
từ 6
|
1932
|
0
|
|
Nguyễn Ái Quốc bị
bắt ở Hương Cảng sau đó trốn khỏi Hương Cảng
|
1933
|
0
|
|
Hồ Chí Minh lưu
vong ở Trung Quốc, Việt
|
1934
|
0
|
|
Thời gian Hồ Chí
Minh lưu vong ở Mạc Tư Khoa
|
1935
|
|
Tiếng Pháp 1
|
"Báo
cáo"(thời kỳ Hồ Chí Minh lưu vong ở Mạc Tư Khoa)
|
1936
|
0
|
|
Thời kỳ Hồ Chí
Minh lưu vong ở Mạc Tư Khoa
|
1937
|
1
|
Tiếng Pháp
|
Thời kỳ Hồ Chí
Minh lưu vong ở Mạc Tư Khoa (thư)
|
1938
|
2
|
Tiếng Pháp
|
Thư và báo cáo (8
trang)
|
1939
|
11
|
Pháp 3, Trung 8
|
Chuyên văn 3, thư
từ 8 (Thời kỳ Hồ Chí Minh ở Mạc Tư Khoa)
|
1940
|
12
|
Tiếng Trung 12
|
Chuyên văn 11,
thư từ1 (Viết từ TQ gửi về VN)
|
1941
|
12
|
Trung 3, Việt 9
|
Chuyên văn 10,
thơ 2
|
1942
|
19
|
Trung 5, Việt 14
|
Chuyên văn, thơ (
Trung 2, Việt 8), giảng nghĩa: "Du kích chiến", Thơ: "Nhật ký
trong tù" 134 bài
|
1943
|
2
|
Việt văn 2
|
Chuyên văn 1, thư
từ 1
|
1944
|
8
|
Trung 2, Việt 6
|
Chuyên văn 3, thư
4, sách "Phương pháp chiến tranh du kích", 13 chương
|
1945
|
86
|
Anh 8, Trung 5,
Việt 73
|
Sách "Binh
pháp Tôn Tử" 13 chương, "Thư Tổng khởi nghĩa", "Tuyên
ngôn độc lập", chuyên văn, thư từ, bài nói chuyện
|
1946
|
175
|
Tiếng Việt 175
|
Thư từ, chuyên
khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt
|
1947
|
164
|
Việt163, Pháp1
|
Thư từ, chuyên
khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt
|
1948
|
108
|
TiếngViệt104,
tiếng Trung 4
|
Thư từ, chuyên
khảo, phỏng vấn, điện báo, thơ chữ Hán 4 (đăng trên báo chí Việt
|
1949
|
114
|
Tiếng Việt 114
|
Thư từ, chuyên
khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt
|
1950
|
81
|
Việt 79, Trung 2
|
Thư từ, chuyên
khảo, phỏng vấn, điện báo, thơ chữ Hán 2 (đăng trên báo chí Việt
|
1951
|
120
|
Tiếng Việt 120
|
Thư từ, chuyên
khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt
|
1952
|
116
|
Tiếng Việt 116
|
Thư từ, chuyên
khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt
|
1953
|
79
|
Tiếng Việt 79
|
Thư từ, chuyên
khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt
|
1954
|
96
|
Tiếng Việt 96
|
Thư từ, chuyên
khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt
|
1955
|
73
|
Tiếng Việt 73
|
Thư từ, chuyên
khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt
|
1956
|
86
|
Tiếng Việt 86
|
Thư từ, chuyên
khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt
|
1957
|
99
|
Tiếng Việt 99
|
Thư từ, chuyên
khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt
|
1958
|
98
|
Tiếng Việt 98
|
Thư từ, chuyên
khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt
|
1959
|
150
|
Tiếng Việt 150
|
Thư từ, chuyên
khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt
|
1960
|
109
|
Tiếng Việt 109
|
Thư từ, chuyên
khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt
|
1961
|
85
|
Tiếng Việt 85
|
Thư từ, chuyên
khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt
|
1962
|
78
|
Tiếng Việt 78
|
Thư từ, chuyên
khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt
|
1963
|
71
|
Tiếng Việt 71
|
Thư từ, chuyên
khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt
|
1964
|
64
|
Tiếng Việt 64
|
Thư từ, chuyên
khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt
|
1965
|
86
|
Tiếng Việt 86
|
Thư từ, chuyên
khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt
|
1966
|
83
|
Tiếng Việt 83
|
Thư từ, chuyên khảo,
phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt
|
1967
|
65
|
Tiếng Việt 65
|
Thư từ, chuyên
khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt
|
1968
|
60
|
Tiếng Việt 60
|
Thư từ, chuyên
khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt
|
1969
|
36
|
Tiếng Việt 36
|
Thư từ, chuyên
khảo, phỏng vấn, điện báo (đăng trên báo chí Việt
|
Thuyết minh:
* Ngữ văn: Ghi chú Tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng Nga và tiếng
Việt là căn cứ vào "Hồ Chí Minh toàn tập", phần cuối cùng có chú
thích "Tư liệu tiếng Pháp", "tư liệu tiếng Anh", "tư
liệu tiếng Trung". Tác giả dựa vào nơi công bố như báo, tạp chí, nhà xuất
bản, ví dụ: Hà Nội, báo "Độc lập", Nhà xuất bản Sự thật, xếp vào mục
"Tư liệu tiếng Việt".
* Từ năm 1919 đến
1923, bài được công bố trên các báo, tạp chí, nói chuyện, bài giảng, thư từ,
bên dưới đều ghi chú: "Tư liệu đánh máy tiếng Pháp" hoặc công bố trên
báo, tạp chí tiếng Pháp.
* Năm 1924 có 8 bài
công bố trên mục "chuyên luận" các tạp chí tiếng Nga có một bản viết
tay bằng tiếng Anh, c̣n lại đều ghi là "Tư liệu đánh máy tiếng Pháp"
hoặc "Đã công bố trên báo và tạp chí tiếng Pháp".
* Năm 1925, có một
thiên gần trăm trang, chia thành 12 chương tố cáo và lên án chế độ thực dân
Pháp. Từ năm 1925 đến 1927, Nguyễn Ái Quốc lấy bí danh là Vương Đạt Nhân, thời
kỳ ở Quảng Châu đã xuất bản tờ báo "Thanh niên" gửi về Việt Nam
truyên truyền, ghi chú là chuyển dịch từ bản tiếng Pháp.
* Đầu năm 1926, có
2 thiên được ghi chú dẫn từ bản thảo của Viện Bảo tàng Cách mạng Quảng Châu,
trong đó, một thiên là bức thư gửi Đoàn chủ tịch Đại hội đại biểu toàn quốc
Quốc dân đảng Trung Quốc, chưa xác định được là tư liệu bằng ngôn ngữ nào.
Ngoài ra, một thiên bản thảo diễn giảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc Quốc dân
đảng Trung Quốc lần thứ II có ghi chú: "Tư liệu chữ Hán. Bộ "Hồ Chí
MInh toàn tập" phần trước năm 1932 này, chỉ duy nhất có 1 tư liệu chữ Hán,
tuy nhiên không biết có phải Nguyễn Ái Quốc viết hay không., tôi rât nghi ngờ.
Cũng trước đó khong
lâu, Nguyễn Ái Quốc c̣n phải học Trung văn từ Đặng Dĩnh Siêu, vậy mà trong Đại
hội lại tự mình diễn giảng thì chắc là nói bằng tiếng Pháp thông qua tư liệu
Trung cộng do Lý Phú Xuân phiên dịch.
Khoảng tháng mười
một đến tháng mười hai năm 1926, có 8 bài với tiêu đề "Sự biến Các Thung
của Trung Quốc", miêu tả tình hình Quốc Cộng hợp tác
* Năm 1927, ở Quảng
Châu xuất hiện cuốn sách "Đường kách mệnh" 52 trang, chia thành 16
tiêu đề, theo tư cách của nhà cách mạng bàn đến việc hợp tác quốc tế. Phần ghi
chú không thấy nói đến tư liệu được viết bằng ngôn ngữ nào, nhưng theo nội dung
là gửi về để tuyên truyền cách mạng ở Việt Nam . Tác giả nghiên
cứu, suy đoán thấy văn chương của cuốn sách thuộc dòng báo "Thanh niên", vốn được viết
bằng tiếng Pháp.
* Năm 1929, Nguyễn
Ái Quốc không còn lưu lại bài viết nào. Ngô Đức Trị nói, sau khi nhận được báo
cáo của Nguyễn Ái Quốc: "Ông ta đi Xiêm La già một năm, không làm được bất
cứ việc gì". Từ đó ta có thể thấy, trong năm ấy Nguyễn Ái Quốc không có
một liên lạc nào với Quốc tế cộng sản, chỉ đến khi
"Thanh niên đồng chí hội" cử người đến Xiêm La yêu cầu ông ta đến Hương Cảng hòa giải
việc tranh chấp giữa các đảng phái, đầu năm 1930, Nguyễn Ái Quốc mới về Quảng
Châu để sang Hương Cảng.
* Đầu năm 1930, viết 5 bài: "Chính cương của
đảng", "Sách lược của đảng", "Chương trình của đảng",
"Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam", "Lời kêu gọi". Những bài
này đều không ký tên, cũng không ghi rõ nguồn gốc văn bản, rất chung chung.
(Dẫn từ "Văn kiện của Đảng"). Tác giả xác định, 5 bài viết trên,
tương ứng với thời kỳ Hồ Tập Chương gửi báo cáo lên Quốc tế cộng sản. Đặc biệt bài "Lời kêu gọi", phần cuối có ghi
tên Nguyễn Ái Quốc, bút tích bằng tiếng Anh, hình như không phù hợp với phong
cách văn chương Nguyễn Ái Quốc. Thông thường, lúc liên lạc hay viết báo cáo
Nguyễn Ái Quốc mới sử dụng tiếng Anh, còn phần lớn đều viết bằng tiếng Pháp. Rất
khó có chuyện, viết bài kêu gọi đồng bào trong nước đấu tranh chống thực dân, đế
quốc lại dùng thứ tiếng nước ngoài trong khi hầu hết nhân dân đều không biết chữ.
Lại nói, "Lời kêu gọi"có một đoạn cường điệu, chứng tỏ "lạy ông
tôi ở bụi này" (nguyên văn "thử địa vô ngân tam bách lượng"):
"Tôi là Nguyễn Ái Quốc, trân trọng ngẩng cao đầu nói với đồng bào thuộc
các thành phần công nhân, nông dân, binh sĩ, thanh niên, học sinh bị áp bức! Các
anh chị em! Các đồng chí!"...là thứ ngôn ngữ chưa bao giờ Nguyễn Ái Quốc sử
dụng, đặc biệt là đoạn mở đầu: "Chấp hành chỉ thị của Quốc tế cộng sản, giải
quyết vấn đề cách mạng ở nước ta, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ, đồng thời còn nhận
trách nhiệm chuyển sang cho anh chị em, cho các đồng chí". Cường điệu "chấp
hành chỉ thị", "giải quyết vấn đề cách mạng ở nước ta" v.v... đều
rất không phù hợp với cách sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Ái Quốc.
Lại nữa, ngày 28 tháng
hai năm 1930, Nguyễn Ái Quốc gửi một bức thư cho các đồng chí Liên Xô:
"Người An Nam, đặc biệt là người lao động luôn hướng về nước Nga cách mạng.
Phàm là báo chí có liên quan đều bị chế độ hà khắc của thực dân Pháp cấm đoán,
huống hồ, đại bộ phận công nhân và nông dân An nam mù chữ, cho dù có biết chữ,
thì người An nam chỉ đọc được chữ An Nam mà thôi. Chúng ta có nhiệm vụ là giới
thiệu cho mọi người hiểu biết về tổ quốc và giai cấp của nhà nước Cộng sản này.
Để hoàn thành nhiệm vụ, chúng ta nên có kế hoạch dùng chữ An Nam viết một cuốn
sách...". Điều đó chứng tỏ khả năng vận dụng ngôn ngữ của Nguyễn Ái Quốc
khác hẳn với ngôn ngữ của Hồ Chí Minh thay thế ông hoạt động sau này. Những bài
viết từ năm 1930 trở về sau còn lưu lại, phần lớn là do Hồ Tập Chương chấp bút.
Phàm là những ghi chép bằng tiếng Anh, thư gửi Quốc tế cộng sản đều không phải do Nguyễn Ái Quốc viết. Điều này rất cần sự
nỗ lực nghiên cứu, giám định, phân tích của các nhà chuyên môn có hứng thú với
chuyên đề Hồ Chí Minh.
* Từ đầu năm 1931
đến 24 tháng tư năm 1931 ngừng viết, có 9 bài. Thời kỳ Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí
Minh cùng xuất hiện, cùng hoạt động với nhau, trong đó, phần lớn các bản báo
cáo đều do Hồ Tập Chương chấp bút. Có một bức thư phần cuối chỉ ghi năm mà
không có ngày tháng bằng tiếng Anh gửi Quốc tế cộng sản, theo phán đoán cũng là do Hồ Tập Chương viết.
* Từ năm 1932 đến năm 1934, không có bất cứ bài viết nào
lưu lại. Tháng sáu năm 1931, Nguyễn Ái Quốc bị bắt giam, năm 1932, mùa thu,
chết vì bệnh lao phổi, trong khi đó, Hồ Tập Chương bị bắt giam từ tháng bảy năm
1931, sau đó thoát được, đến Mạc Tư Khoa vào khoảng giữa
mùa xuân đến mùa hè.
* Năm 1935, chỉ có 1 bức thư còn lưu tại Ủy viên hội Phương
Đông Quốc tế cộng sản, ký tên P.C.Lin bằng tiếng Pháp. Nội dung là,
"P.C.Lin" hoặc "Lin", từ những kinh nghiệm hoạt động có được
ở Hoa Nam Trung Quốc, Việt Nam , Xiêm La và Mã Lai Á, gửi kiến nghị đến các đồng chí Việt Nam . Cái người có bí danh "Lin" này hẳn là mượn bí
danh của Nguyễn Ái Quốc thời kỳ hoạt động 1930, 1931, gửi báo cáo lên Quốc tế cộng
sản. Nói cách khác, đây chính là Hồ Tập Chương, lấy "Lin" làm bí danh. Các bản
báo cáo bằng tiếng Pháp chính là kết quả nghiệm thu của Quốc tế cộng sản trong việc hoán đổi Hồ Tập Chương thành Nguyễn Ái
Quốc
* Năm 1936 đến 1938, chỉ có 3 bài viết. Năm 1936 không có
bài viết nào. Năm 1937, bức thư gửi Marcel Gabriel tuyệt đối không phải Nguyễn
Ái Quốc. Trong mục "5 năm học tập cải tạo", tôi đã phân tích kỹ, xin
được lướt qua. Năm 1938 có 2 bức thư, một viết tại Mạc Tư Khoa, rất ngắn bằng tiếng Pháp, nội dung báo cáo về thành quả
nghiên cứu cá nhân. Chỉ có điều, bức thư này biểu thị những nét rất khác nhau
là, P.C.Lin và Nguyễn Ái Quốc cùng ký tên. Thời gian vào ngày 6 tháng sáu lại
càng phù hợp, trừ việc cùng với Nguyễn Ái Quốc bị bắt ở Hương Cảng một ngày ra,
lại còn khớp cả với thời gian P.C.Lin chuẩn bị rời khỏi Mạc Tư Khoa, cũng là ngày thành lập "Mặt trận Việt Minh,
ngày viết thư gửi đồng bào toàn quốc mà Nguyễn Ái Quốc ký tên. Có thể nói, ngày
6 tháng sáu là một ngày có quá nhiều sự kiện đáng cho ta phải suy nghĩ. Bức thư
thứ hai viết năm 1938 bằng chữ Hán vào tháng mười hai, ký tên P.C.Lin tại Quảng
Tây, Trung Quốc "Người Nhật Bản muốn khai thác Trung Quốc như thế
nào?" gửi đến Việt Nam, (đăng tại tạp chí "Tiếng nói của chúng
ta"), nội dung là một thiên bình luận dài "Người Nhật Bản xâm lược
Trung Quốc tàn bạo như thé nào?" và "Tân tứ quân" của Đảng Cộng sản Trung
Quốc", "Bát lộ quân anh dũng chống Nhật". Vào lúc ấy, P.C.Lin tự
xưng là người Trung Quốc.
Năm 1939, có 11 bài viết đều ký tên P.C.Lin. Trừ 3 bài
bằng tiếng Pháp gửi Mạc Tư Khoa, 8 bài còn lại đều
bằng Trung văn theo hình thức "Thư gửi từ Trung Quốc" đến Việt Nam
đăng trên tạp chí "Tiếng nói của chúng ta" và tập san tiếng Việt
"Dân chúng". Bảy bài viết, trừ 2 bài tố cáo hành vi xâm lược Trung Quốc
tàn bạo của Nhật Bản, 5 bài còn lại thì, một là báo cáo tình hình kháng Nhật của
nhân dân Trung Quốc, một bài kiểm điểm về hoạt động quân sự của Việt Nam hai
năm gần đây, ba bài giới thiệu về Chủ nghĩa Trosky và phái Troskism hoạt động tại
Trung Quốc. P.C.Lin trong thời gian này, ngoài việc tự xưng là người Trung Quốc
ra, còn lại đều viết bằng tiếng Việt, vậy mà đột nhiên lại biến thành người
thông thạo tiếng Nhật. Tám bài trong trong "Thư gửi từ Trung Quốc" và
các bài viết trong năm 1940 đăng trên "Cứu vong nhật báo" bao gồm 13
chuyên đề sẽ dược phân tích kỹ ở mục "Hồ Chí Minh ở Trung
Quốc".
* Năm 1940 có 11 bài, trong dó, 1 bài gửi Quốc tế cộng sản Mạc Tư Khoa, không ký tên, sử dụng lối văn tả
rất đặc biệt. Nội dung báo cáo về tình hình Việt Nam hiện tại như hoàn cảnh địa
lý, tài nguyên, dân tộc, kinh tế, quốc phòng, các đảng phái chính trị, trong đó
không ít tư liệu được dẫn từ báo chí Nhật Bản. Ngoài 11 bài chuyên đề dùng bút
danh "Bình Xuyên" viết bằng Trung văn đăng tải trên "Cứu vong nhật
báo", thể hiện quan điểm về thời cuộc và Chiến tranh thế giới thứ hai, đặc
biệt thái độ phản đối kịch liệt đối với Phát xít Nhật và đế quốc Pháp xâm lược.
Phần lớn văn chương đều sử dụng thủ pháp cường điệu đề cao mối quan hệ đồng
minh Trung -Việt trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
* Năm 1941, các bài viết
đều có những nét đặc biệt. Đó là 2 bài thơ ngắn, một đề ngày 6 tháng sáu năm
1941, ký tên Nguyễn Ái Quốc, dưới hình thức thư từ nước ngoài "gửi toàn thể
đồng bào". Tiếp đó là 9 bài bằng tiếng Việt đăng trên báo "Việt Nam độc
lập", ngoài ra, chưa thấy các báo
chí Việt Nam lúc ấy đăng các bài bằng tiếng Việt của ông.
* Năm 1942, các bài viết
đều không ký tên, hầu hết đều đăng tải trên "Việt Nam độc lập", trong
đó 2 bài thơ ngắn, 2 bài dưới dạng bút ký, 2 bài giải nghĩa về chiến tranh du
kích. Một điều đặc biệt chú ý là, danh xưng Hồ Chí Minh bắt đầu được sử
dụng từ thời kỳ này, và từ đó về sau, không dùng bí danh nữa. Cũng trong năm
này, Hồ Chí Minh bị Quốc dân đảng bắt giữ, trong tù, ông đã viết 134 bài thơ
chữ Hán lấy tên là "Nhật ký trong tù".
* Năm 1943, Hồ Chí Minh bị giam trong ngục, trừ việc viết
"Nhật ký trong tù", còn có bài thơ ngắn gửi bạn bè, một bài giới thiệu về nước Syria làm thế nào để thoát khỏi
bàn tay ma quỷ của chủ nghĩa đế quốc, một
bài là "Máu và nước mắt trong giữ gìn tổ quốc độc lập" và bài "Đồng
chí, đồng bào Việt Nam hãy cố gắng". Các bài này đều đăng trên tờ "Đồng
minh báo" của "Việt Nam Cách mạng đồng minh hội" tại Liễu Châu,
Trung Quốc, bút danh Hồ Chí Minh.
* Năm 1944 có 2 bài được ghi chú là Hán văn, bút danh Hồ
Chí Minh đăng ở mục "chuyên đề" của "Đồng minh báo" Liễu Châu. Ngoài ra còn có bài "Phương pháp
chiến tranh du kích" lấy bút danh "Việt Minh". Bài "Phương
pháp chiến tranh du kích" này, tương ứng vào thời kỳ năm 1939, Hồ Chí Minh lúc ấy
ở Hành Sơn, Hồ Nam , tham gia khóa
huấn luyện cán bộ du kích, giải nghĩa cải biên thành.
* Năm 1945, trước tháng tám, Việt Nam gọi là "Cách
mạng tháng Tám thành công", Việt Minh suy tôn Hồ Chí Minh làm Chủ tịch
Chính phủ lâm thời. Ngày 2 tháng chín năm 1945, tại Ba Đình Hà Nội, ông đọc
"Tuyên ngôn độc lập", từ đó ba chữ "Hồ Chí Minh" nổi tiếng
trên toàn thế giới.
* Từ năm 1946 đến 1969, trong "Hồ Chí Minh toàn
tập" đã đưa vào hầu hết các loại hình tác phẩm của ông, gồm thư tín,
chuyên đề, nói chuyện, điện báo v.v... đều ký tên Hồ Chí Minh, từng đăng tải
trên các báo, tạp chí hoặc công bố trên Đài phát thanh rất rõ ràng. Trong số
này, tuy đôi lúc có chen vào một, hai bài thơ chữ Hán hoặc thư từ bằng tiếng
Pháp, tiếng Anh nhưng chủ yếu vẫn là các tư liệu tiếng Việt.
Tổng hợp các tác phẩm của Hồ Chí Minh trong "Hồ Chí
Minh toàn tập", có thể quy về một số đặc điểm sau:
1- Từ năm 1919 đến 1923, thời kỳ Nguyễn Ái Quốc ở Pháp,
các bài viết đều dùng tiếng Pháp.
2 - Từ năm 1924 đến 1927, cho dù Nguyễn Ái Quốc
đã đến Quảng Châu, chủ yếu vẫn sử dụng tiếng Pháp để viết bài. Tuy nhiên, cũng
có một bài viết bằng Trung văn, hiện lưu giữ ở Viện bảo tàng Cách mạng Quảng
Châu", có điều không chắc đấy là bút tích của Nguyễn Ái Quốc. Càng kỳ lạ
hơn lá, bài viết gửi về Việt Nam đăng trên tờ báo "Thanh niên" hoặc
cuốn "Đường kách mệnh", Nguyễn Ái Quốc đều dùng tiếng Pháp chứ không
dùng tiếng Việt.
3 -Từ năm 1929 đến
1931, những bài viết còn lại rất ít, hầu hết đều bằng tiếng Pháp và tiếng Anh.
Thời kỳ Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương) cùng ở Thượng Hải, Hương
Cảng, Singapore, Xiêm La hoạt động, mà thời gian này Nguyễn Ái Quốc bị bệnh
phổi nghiêm trọng, nên hầu hết các báo cáo, thư từ gửi Quốc tế cộng sản đều do Hồ Tập Chương viết.
4 - Từ năm 1932 đến
năm 1934, không còn bất kỳ bài viết nào lưu lại. Mùa thu năm 1932, báo chí cộng
sản đã đưa tin Nguyễn Ái Quốc chết vì bệnh lao phổi. Tin này là chính xác, mà
Hồ Tập Chương lúc ấy, cuộc sống vô cùng khó khăn.
5 - Từ năm 1935 đến
1938, thời kỳ này Hồ Chí Minh ở Mạc Tư Khoa, hầu như không để
lại bất cứ bài viết nào. Người lúc ấy mang bí danh P. C.Lin có thể xác định được
chính là Hồ Tập Chương. Một số bút tích, thư tín, chứng tỏ lúc ấy Hồ Tập Chương đã
biến đổi thân phận, tiếp tục vai trò hoạt động của Nguyễn Ái Quốc.
6 - Từ năm 1938 đến
năm 1945, đột nhiên dùng Trung văn để viết những lài trường thiên, chuyên đề,
sáng tác thơ, viết thư pháp...càng cho thấy P.C.Lin chính là Hồ Tập Chương, rất
uyên bác văn hóa Hán, có khả năng phân tích được tình hình quân đội Nhật qua
các tư liệu báo chí.
Đại hội đại biểu Quốc tế cộng sản lần thứ VII
Ngày 25 tháng bảy năm
1935, Hội nghị VII Quốc tế cộng sản khai mạc tại Mạc Tư Khoa, khai trừ Bí thư
thứ nhất Ban chấp hành Quốc tế cộng sản Lev Kamenev và cựu Bí thư thứ nhất Ban
chấp hành Quốc tế cộng sản Grigori Zinoviev ra khỏi đảng, đồng thời tiến hành
xét xử, cuối cùng cả hai đều bị tử hình.
Mục tiêu hàng đầu của Hội
nghị VII là vạch ra sách lược mới cho phong trào cộng sản thế giới để đối phó mới
những nguy cơ của các thế lực mới đang trỗi dậy. Trước khi tiến hành hội nghị,
tình hình thế giới đối với Liên Xô vô cùng bất lợi. Quân phiệt Nhật Bản nêu cao
chính sách "diệt cộng" đã đem quân đánh chiếm vùng Đông Bắc Trung Quốc,
với ý đồ thâm hiểm xâm lăng toàn bộ lục địa Trung Hoa, thực hiện cái gọi là
"Chính sách Đại Đông Á". Chính phủ Adolf Hitler ở Đức xưng bá chủ
châu Âu, lớn tiếng hô hào thành lập "Đế quốc thứ ba" chống lại chủ
nghĩa Marx- Engels. Điện Kremli đã nhìn thấy đảng Nazi của nước Đức phát xít mỗi
ngày một mạnh, cùng với quân đội Nhật Bản hiếu chiến, lúc nào cũng giương cao
ngọn cờ chống cộng. Liên Xô đang đứng trước nguy cơ đất nước bị xâm chiếm,
Stalin quyết định hủy bỏ sách lược của
phái cực tả đã được thông qua tại Hội nghị VI Quốc tế cộng sản năm 1928.
Bí thư thứ nhất Quốc tế cộng sản Grigori Dimitrov chủ trì hội nghị đề xuất
cương lĩnh "Thống nhất chiến tuyến" để các đại biểu thông qua. Quốc tế
cộng sản chuyến sang sách lược toàn thế giới phản đối chủ nghĩa phát xít, cùng
với lực lượng dân chủ, tổ chức thành liên minh thống nhất chống chủ nghĩa phát
xít và quân phiệt Nhật Bản.
Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị
Minh Khai cùng Hoàng Văn Nọn là ba đại biểu chính thức của Đảng Cộng sản Đông
Dương tham gia Hội nghị VII Quốc tế cộng sản. Ban tổ chức chỉ đạo, mỗi đại biểu
Việt Nam đều được đọc tham luận. Nguyễn Thị Minh Khai phát biểu về
"Người phụ nữ châu Á bị chế dộ thực dân áp bức". Hoàng Văn Nọn nói về
"Phong trào đấu tranh của nhân dân Việt Nam với chủ nghĩa thực dân
Pháp", còn trưởng đoàn Lê Hồng Phong có bài "Những thiếu sót của Đảng
Cộng sản Đông Dương những năm qua và nhiệm vụ cấp bách trước mắt". Sau khi
Hội nghi bế mạc, Lê Hồng Phong được bầu là Ủy viên thường vụ Ban chấp hành Quốc
tế cộng sản.
Hồ Chí Minh lấy "P.C.Lin" hoặc "Lý Nặc
Phu" làm bí danh, lúc ấy là Bí thư Cục Viễn Đông, đến hội nghị với tư các quan sát viên, không có quyền phát
biểu, chỉ giữ vai trò im lặng, rất không phù hợp với tác phong của một cán bộ từng
đảm nhiệm chức vụ phát ngôn viên dày dạn kinh nghiệm của Quốc tế cộng sản Đông
Nam Á. Việc Lê Hồng Phong trúng cử vào Ban chấp hành Quốc tế cộng sản, trở
thành lãnh tụ mới của Đảng Cộng sản Đông Dương, cùng với tiếng vang của những bản
tham luận tại Hội nghi VII, chắc chắn sẽ tác động đến tâm lý Hồ Chí Minh, một
người gần như bị gạt ra ngoài lề mọi sự kiện chính trị lúc ấy.
Hội nghi kết thúc không lâu, Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai làm lễ thành hôn
tại Mạc Tư Khoa.
Từ nghị quyết Hội nghị
VII, để hóa giải nguy cơ trước mắt, Quốc tế cộng sản hiệu triệu giai cấp vô sản
thế giới, chuyển sang liên minh với các lực lượng dân chủ, hợp thành trận tuyến
rộng lớn, chống lại chủ nghĩa phát xít ngày càng bành trướng. Cử hành lễ cưới
xong, Lê Hồng Phong về Thượng Hải trước,
đến năm 1936 thì triệu tập Hội nghị trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương truyền đạt những nhiệm vụ chủ yếu mà Hội nghị VII
Quốc tế cộng sản đã đề ra, đồng thời giải thích sự thay đổi chính sách của Mạc
Tư Khoa.
Tôi đã nghiên cứu, thẩm định, Lê Hồng Phong trở về Thượng Hải với một
nhiệm vụ đặc biệt quan trọng là, truyền đạt cho Đảng Cộng sản Trung Quốc như
sau: "Đảng viên cộng sản Hồ Tập Chương, trong hai năm đã ra sức học tập,
rèn luyện đạt được thành tịch tốt, sau này sẽ thay thế vai trò Nguyễn Ái Quốc,
vì hai đảng anh em ra sức phấn đấu, tuy nhiên, thân phận của Hồ Tập Chương phải
được tuyệt đối giữ bí mật".
Hồ Chí Minh, P.C.Lin, Lý nặc Phu, với tư cách quan sát
viên tham dự Hội nghị VII Quốc tế cộng sản chỉ lẳng
lặng ngồi nghe không nói một lời. Nếu đem đối chiếu với Hội nghị V Quốc tế cộng
sản, Nguyễn Ái Quốc ung dung lên diễn đàn, tranh thủ tối đa hoàn cảnh để phát
biểu, thì hai người khác nhau một trời một vực. Nếu xem Hồ Chí Minh như là
Nguyễn Ái Quốc, vậy thì vì sao, trong hội nghị lại không được phát biểu, hơn
thế nữa, lại để cho người vợ yêu dấu của mình là Nguyễn Thị Minh Khai công nhiên tổ chức hôn lễ với Lê Hồng Phong? Trường hợp này, chỉ có một khả năng giải thích, người tham
gia Hội nghị VII này, không phải là Nguyễn Ái Quốc mà là đảng viên Đảng Cộng
sản Trung Quốc Hồ Tập Chương, đến từ Đài Loan, là phái viên liên lạc của Quốc tế cộng sản. Ông cũng là Hồ Chí Minh, đã trải qua khóa
học tập cải tạo của Quốc tế cộng sản 5 năm ở Mạc
Tư Khoa
Hồ
Chí Minh rời khỏi Mạc Tư Khoa
Hồ Chí Minh phải qua 5 năm học
tập cải tạo ở Mạc Tư Khoa, không phải vì nguyện vọng
cá nhân mà là bị cưỡng bách, không biết làm thế nào, đành phải chấp nhận. Vào
lúc Nguyễn Thị Minh Khai và Hoàng Văn Nọn sắp trở về Việt Nam đã đến từ biệt Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh chính là giảng viên đã dạy họ
ở Mạc Tư Khoa, đã từng chỉnh sửa, bổ sung các bản tham luận
của họ để đọc tại Hội nghị VII Quốc tế cộng sản. Ông cũng sẽ là đại biểu được
phái đến Việt Nam trong thời gian tới. Vào lúc chia tay, Hồ Chí Minh đã hướng dẫn Hoàng Văn Nọn và Nguyễn Thị Minh Khai về cách thức liên
lac với các đảng phái trong và ngoài nước, đồng thời truyền đạt chỉ thị của Quốc tế cộng sản, giao cho Lê Hồng Phong ba việc như sau:
1 - Chính phủ Pháp hiện
nay do Mặt trận Bình dân năm giữ, nhất định sẽ dẫn đến thay đổi cục diện chính
trị ở Bán đảo Đông Dương. Các Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đang ở
nước ngoài phải lập tức về nước ngay để chỉ đạo phong trào đấu tranh của quần
chúng, chỉ lưu lại một vài đồng chỉ để duy trì liên lạc.
2 - Các phần tử Troskism ở
các nước và Việt Nam , bản chất là phản động và phản bội, đảng của chúng ta phải kiên quyết ly
khai chúng, không được có bất cứ sự thỏa hiệp nào.
3 - Nhất định phải tập trung hình thành trận tuyến
chống chủ nghĩa phát xít và phản đối chiến tranh, chỉ có điều, trong khi tổ chức
liên minh này, không được quên lấy lợi ích của giai cấp cần lao làm nhiệm vụ
hàng đầu.
Vào lúc mọi người đã rời khỏi Mạc Tư Khoa, hiển nhiên là Hồ Chí Minh có cảm
giác trống văng nhưng không thể làm gì khác. Trong một cuộc trả lời phỏng vấn
vào năm 1935, ông nói chuyện với nhà bào Liên Xô Ilya Erenburg là, trước mắt chỉ có một hy vọng được trở về tổ quốc.
Ngay sau Hội nghị VII kết thúc, Hồ Chí Minh đã đề nghị được tạm thời về nước, chỉ vì
tình hình nội bộ Đông Nam Á lúc ấy rất phức tạp nên đã bị
cự tuyệt. Cho đến mùa hè năm 1936, ông lại đề nghi được qua Berlin và Pháp trở về Việt Nam , cuối cùng do nội chiến Tây Ban Nha liên quan đến nước Pháp
nên kế hoạch lại bị hủy bỏ. Năm học 1937 - 1938, ngoài việc soạn thảo, tu sửa một
số giáo trình, Hồ Chí Minh còn làm việc ở Cục Viễn Đông. Hoàn cảnh hiện tại của ông khá là buồn thảm. Đối với phái
hành động thiếu lý luận mà nói, qua thời gian phiên dịch tác phẩm của các nhà cộng
sản chủ nghĩa và thảo luận về hình thái ý thức, nhất định là một sự thử thách
gian nan. Tháng sáu năm 1938, Hội nghi VII Quốc tế cộng sản đã qua được ba năm,
Hồ Chí
Minh tuyệt vọng, viết thư gửi một cán bộ trong ban lãnh đạo Quốc tế cộng sản như sau: "Tôi bị bắt giữ đến nay đã 7
năm, tức là đã 8 năm tôi không được hoạt động. Tôi thỉnh cầu được sự giúp đỡ để
thoát khỏi tình thế đáng buồn này. Đưa xuống địa phương hay giữ lại thì nên sử
dụng khả năng chuyên môn của tôi, chỉ xin đừng để tôi xa rời hoạt động quá
lâu". Vì việc này nên Hồ Chí Minh yêu cầu được gặp người phụ trách của Quốc tế cộng sản, ông ta rất cần sự đồng tình của Vera
Vasilieva. Cuối cùng nguyện vọng rời Mạc Tư Khoa đã được chấp nhận.
Sau khi nhận được mật lệnh,
ngày 6 tháng sáu, Hồ Chí Minh đáp xe lửa về Trung Quốc với bí danh
"Lin" là "học sinh đã hoàn thành khóa học". Vì sao Hồ Chí
Minh được phóng thích sau nhiều năm bị
quản chế ở Liên Xô dưới danh nghĩa học tập cải tạo?
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, nội bộ Mạc Tư Khoa không muốn để ông ra đi. Thế
nhưng, vào thời kỳ những năm 1930, hồ sơ liên quan đến Hồ Chí Minh còn lại rất ít, cho nên, để biết được nguyên nhân và động cơ
thoát khỏi Mạc Tư Khoa của ông, ta chỉ có thể suy đoán. Tuy vậy, không thể biết
Quốc tế cộng sản đã giao cho Hồ Chí Minh nhiệm vụ gì? Chỉ thấy ông ta hầu như đặt
nhiều hy vọng vào Cộng sản Trung Quốc tích cực can thiệp đối với nhà đương cục Mạc Tư Khoa. Hồ Chí Minh báo về với người phụ trách mới
của Mạc Tư Khoa ở Trung Quốc, tiếp đó là giúp đỡ ông thực hiện nhiệm vụ vận động
cách mạng ở Việt Nam .
William J. Duiker cho rằng,
việc Hồ
Chí Minh rời Mạc Tư Khoa năm 1938 là do Quốc tế cộng
sản cho phép, giao phó một mật lệnh, làm xong sẽ báo cáo giải trình. Vì sao
lãnh tụ cách mạng Việt Nam không trực tiếp trở về nước tham gia chỉ đạo phong
trào, mà lại trải qua ngàn dặm xa xôi đến tận căn cứ địa cách mạng Diên An,
Trung Quốc, sau khi bàn mưu tính kế với trùm đặc vụ Khang Sinh mới cùng Diệp Kiếm
Anh về làm việc ở Bát lộ quân Quảng Tây Trung cộng? Tôi có nhận xét, William J. Duiker giải thích: " Căn cứ vào khoảng thời
gian từ mùa thu năm 1938 đến tháng năm năm 1943, có thể phán đoán những hoạt động
của Hồ
Chí Minh tại Trung Quốc, mà chủ yếu là cung cấp tin tức về Mạc Tư Khoa". Giải thích như thế xem ra có vẻ hợp tình hợp
lý nhưng rất không chính xác. Vì sao Hồ Chí Minh lại phải đi theo Diệp Kiếm Anh một chặng đường dài đến làm việc ở Cơ quan Bát lộ quân Quế
Lâm, Quảng Tây? Duyên cớ gì trong thời gian 5 năm, ông chỉ hoạt động ở các tỉnh
vùng biên giới Trung Quốc như Quế, Kiềm, Điền cùng với lãnh đạo cao cấp của
Đảng Cộng sản Trung Quốc Chu Ân Lai, Diệp Kiếm Anh, Khang Sinh, Lý Khắc Nông
bàn mưu tính kế? Nội dung những vấn đề cơ mật là gì? Tôi cho rằng thân phận
đích thực của Hồ Chí Minh có liên quan đến việc Quốc tế cộng sản giao cho ông nhiệm vụ bí mật. Căn cứ vào những hồ sơ ghi
chép về những hoạt động của Hồ Chí Minh tại Trung Quốc, tôi đã thấy xuất hiện một
vài manh mối mới. Kết hợp với những tài liệu lưu trữ trong gia tộc, tôi đem so
sánh, đối chiếu, và, phần nào đã phục hồi được sự thật lịch sử.
Màn
hai
Hồ Chí Minh ở Trung Quốc (1938
- 1945)
Ngàn dặm xa xôi đến Diên An.
Đầu năm 1938, Hồ Chí Minh rời Mạc Tư Khoa bằng xe lửa xuyên qua vùng lãnh nguyên phía nam
nước Nga, lưu lại Alma-Ata,
thủ phủ của nước Cộng hòa Kazakhstan, sau đó tiếp tục đến vùng biên giới Trung
Quốc, nhập vào một đoàn thương gia, qua Urumchi (Ô Lỗ Mộc Tề) rồi về Lan Châu.
Tại Lan Châu, Hồ Chí Minh gặp được người của Đảng Cộng sản Trung Quốc giúp
đỡ tiếp tục hành trình tới Tây An. Đến Tây An, ông lại được thủ trưởng cơ quan
Giải phóng quân nhân dân Tây An Ngũ Tu Quyền tiếp đón. Hồi ký Ngũ Tu Quyền
viết: "Các đồng chí lãnh đạo cao cấp phân công tôi tiếp đón một nhân vật
rất quan trọng. người châu Á, tuy không biết họ tên nhưng được lệnh phải tiếp
đãi chu đáo, sau đó bảo vệ cẩn thận để ông ta đến Diên An an toàn". Tại
Tây An, Hồ Chí Minh đợi hai ngày, sau đó nhập vào một đoàn xe trâu và xe ngựa,
đi lên phía bắc chừng hơn trăm dặm thì đến sơn khu Diên An. Trên đường đi gặp
khá nhiều quân đội Quốc dân đảng. Hồ Chí Minh cải trang thành người đánh xe đi cùng đoàn dân phu, vì thế,
phần lớn hành trình đều phải đi bộ.
Cuối tháng mười, Hồ Chí Minh đến nhà khách "Vườn
Táo" do đặc vụ Khang Sinh tiếp đón. Lúc ấy, Khang Sinh là Bộ trưởng Bộ Xã hội, phụ trách công việc an toàn
điều tra, Lý Khắc Nông là Phó bộ trưởng kiêm nhiệm thủ trưởng Cơ quan Bát lộ
quân Quế Lâm, Quảng Tây. Thật là, ở đời người ta gặp nhau khó lường. Những
tưởng vào khoảng năm 1934, tại Mạc Tư Khoa, Khang Sinh đã đề
xuất mức án xử tử Hồ Chí Minh, vậy mà ngày nay, tại "Vườn Táo", ông
ta lại trở thành khách quý của trùm đặc vụ. Căn cứ vào những bằng chứng có được,
Hồ Chí Minh và Khang Sinh bàn mưu với mật lệnh do Quốc tế cộng sản giao phó là
có liên quan đến, một là, quét sạch chủ nghĩa Trosky và những phần tử theo chủ
nghĩa Trosky, hai là, chấp hành tuyệt đối không được để lộ bí mật cho người
ngoài biết". Trong tập 3 "Hồ Chí Minh toàn tập", có bức thư Hồ
Chí Minh gửi "Tiếng nói của chúng ta" ở Việt Nam (Ngã môn chi thanh), năm 1939, nội dung đề cập đối với chủ
nghĩa Trosky là phải phân định rạch ròi, có đầy đủ chứng cứ. Nhiệm vụ bí mật có
thể liên quan đến thân phận người Đài Loan của Hồ Chí Minh. Theo quan niệm người
đời "chết mà sống", "nghèo mà quý", vật đổi sao dời, họa
phúc sớm chiều, thì rất khó dự đoán.
Sau khi đến nhà khách "Vườn Táo" một tuần, Hồ Chí
Minh cải trang thành lính cần vụ của Diệp Kiếm Anh trên hành trình dặm trường
cát bụi đến Cơ quan Bát lộ quân Quế Lâm, Quảng Tây. Đây là bước đi đầu tiên trong sự
nghiệp vinh quang của Hồ Chí Minh sau này. Thời kỳ Hồ Chí Minh đến Cơ quan Bát lộ quân Quế Lâm, Quảng Tây
không có cách nào tra cứu chính xác. Tài liệu Trung cộng th́ ghi là cuối năm
1938. Căn cứ vào giáo sư Hoàng Tranh trong bài phỏng vấn Hà Khải Quân ngày 23
tháng chín năm 1982 như sau: "Vào khoảng cuối năm 1938 đến đầu năm 1939.
lúc ấy, tôi và Hồ Chí Minh,
bí danh là Hồ Quang, cùng làm việc tại Tổng bộ Bát lộ quân Quế Lâm,
Quảng Tây, hết giờ lại về ở trong một căn phòng lớn phía tây đường Mạc Thôn.
Nghe giọng nói, tôi biết ông là người Quảng Đông.
Hồ Chí Minh phụ
trách công việc vệ sinh kiêm viết báo tân văn, vì thế cũng là một vị lãnh đạo
cơ quan. Ông còn phụ trác biên tập tờ nội san "Sinh hoạt tảo báo"
(Sinh hoạt buổi sáng). Tất nhiên chúng tôi hoàn toàn không biết thân phận của
ông, sau này mới phát hiện ra, Hồ Quang có rất nhiều nét đặc biệt. Có một lần,
tôi phê bình ông ấy một vài vụ việc nho nhỏ, đến ngày thứ hai, Lý Khắc Nông phụ
trách "Bát biện" (Quế Lâm Bát lộ quân biện sự xứ), tìm gặp hỏi tôi phê
bình Hồ Quang về việc gì? Sao lại dám tự tiện phê bình như vậy? Đến lúc ấy tôi
mới biết thân phận Hồ Quang không đơn giản. Ông là người rất có khí thế".
Cơ
quan Bát lộ quân Quế Lâm.
Cơ quan Bát lộ quân Quế Lâm đóng tại nhà số 96, đường
Trung Sơn Bắc, thành phố Quế Lâm, tỉnh Quảng Tây, cũng gọi là Cơ quan Tập đoàn
quân 18 Quốc dân cách mạng quân, là một cơ quan bí mật của Cục Phương Nam Trung
cộng. Hạ tuần tháng mười một năm 1938, căn cứ vào chỉ thị của Trung ương, sau
khi Chu Ân Lai cùng Quốc dân đảng Quế Lâm hiệp thương, Lý Khắc Nông lấy tư cách
Bí thư trưởng Cục Phương Nam kiêm chủ nhiệm Cơ quan Bát lộ quân, toàn quyền phụ
trách Quế Lâm. Từ tháng mười hai năm 1938 đến tháng năm năm 1939, Chu Ân Lai đã
ba lần đến Quế Lâm tực tiếp chỉ đạo, giao nhiệm vụ cho Cơ quan Bát lộ quân và
lãnh đạo Cục Phương Nam, tích cực tuyên truyền chủ trương kháng Nhật, đoàn kết
các nhân sĩ yêu nước kháng nhật, hợp thành mặt trận thống nhất, triển khai các
hình thức vận động cứu quốc.
Ngày 20 tháng giêng năm 1941, xảy ra sự biến "Miền
nam An Huy" (Hoãn Nam sự biến), ảnh hưởng đến vận mệnh Cơ quan Bát lộ quân
Quế Lâm, nên buộc phải triệt hồi rút về Diên An. Thời gian này, Diệp Kiếm Anh,
Diệp Đĩnh, Quách Mạt Nhược, Hạ Diễn cũng đã rút về đây tiếp tục hoạt động.
Từ cuổi tháng mười hai năm 1938, sau khi Chu Ân Lai đến
Cơ quan Bát lộ quân Quế Lâm chỉ đạo công tác, Hồ Chí Minh cũng được bố trí là
Phó chủ nhiệm "Cứu vong thất" kiêm Ủy viên phụ trách vệ sinh và Ủy
viên biên tập báo tường. Lúc ấy, trừ chủ nhiệm Lý Khắc Nông ra, rất ít người
biết Hồ Chí Minh là Ủy viên Đông Phương
bộ, Quốc tế cộng sản và thân phận thực của ông. Hồ
Chí Minh là bạn rất thân thiết của Chu Ân Lai, tích cực vận động Diệp Kiếm Anh phụ trách quân sự và Lý Khắc Nông phụ trách đặc
vụ, nên đã thành lập được "Đảng bộ Hải ngoại" của Đảng Cộng sản Việt
Nam, hoạt động rất có hiệu quả.
Ban huấn luyện cán bộ chiến tranh du kích
Hành Sơn, Hồ Nam .
Tháng hai năm 1939,
người chỉ huy quân sự của Đảng Cộng sản Trung Quốc là Diệp Kiếm Anh chuyển từ Quế Lâm về phía đông bắc khoảng hai trăm dặm, đến
phía nam dãy núi Hành Sơn, thành lập "Trung tâm huấn luyện cán bộ du
kích". Kế hoạch này hình thành từ 25 tháng mười một năm 1938, khi tại Hành
Sơn, triệu tập Hội nghị quân sự, đề xuất "hai giai đoạn kháng chiến".
Hội nghị nhận thấy, chiến tranh du kích có ưu thế hơn chiến tranh chính quy nên
đã quyết định thành lập. Giai đoạn thứ nhất của Ban huấn luyện cán bộ du kích
bắt đầu từ ngày 15 tháng hai năm 1939. Giai đoạn thứ hai từ 20 tháng sáu đến 20
tháng chín năm 1939.
Hồ Chí Minh sau 6 tháng rời Quế Lâm, lấy bí danh Hồ
Quang, tham gia giai đoạn hai lớp huấn luyện cán bộ du kích. Chương trình huấn
luyện đã cung cấp cho Hồ Chí Minh rất nhiều phương tiện và kiến thức bổ ích.
Sau này, khi rời khỏi sơn khu Tĩnh Tây, Hồ Chí Minh đã sử dụng những kiến thức
và kinh nghiệm quý đó, về căn cứ địa Việt Bắc, mở lớp huấn luyện chiến tranh du
kích và lập ra một chi đội giải phóng quân vũ trang đầu tiên.
Một mặt tham gia huấn luyện "Du kích ban", mặt
khác, Hồ Chí Minh còn đảm nhiệm công việc điện báo viên điện đài, nghe các
thông tin từ đài phát thanh nước ngoài, đặt trụ sở trong một trang viên phía
tây thành Nhạc Dương. Hồi ký của Ngô Khê Như, một người từng là giáo viên giảng
dạy tại "Du kích ban", viết về Hồ Chí Minh như sau: "Đồng chí Hồ
Chí Minh tham gia khóa học Huấn luyện cán bộ du kích vài tháng, cũng kiêm nhiệm
luôn công việc phiên dịch, chức danh là Trưởng ban thông tin cơ quan Quế Lâm,
thường gọi là Ngoại công". Hồi ký của Lý Bội Quần cũng viết: "Hồ Chí
Minh nói chuyện bằng tiếng Quảng Đông rất giỏi nhưng tiếng phổ thông thì không
được lưu loát. Khi ấy, các đồng chí được Đảng Cộng sản cử đến Ban huấn luyện
cán bộ du kích ở Nhạc Dương rất ít người biết tiếng Quảng Đông, nhưng Hồ Chí
Minh chỉ thích nói chuyện với chúng tôi bằng tiếng phổ thông".
(Tác giả nhận
định, Lý Bội Quần là liên lạc viên giao thông Cơ quan Bát lộ quân Quế Lâm, sau
khi khóa "Huấn luyện cán bộ du kích Hành Sơn" kết thúc, Hồ Chí Minh
được đưa đến Long Châu Quảng Tây để liên lạc với người của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Những người chạp, không hoạt bát khó có thể làm liên lạc. Lý Bội Quần nói
"Hồ Chí Minh nói tiếng Quảng Đông rất giỏi" chính là nói tiếng Khách,
bởi Lý Bội Quần cũng là người Khách nên rất thông thạo thứ ngôn ngữ này. Vào
năm 1930, Chu Ân Lai đã biết rõ Hồ Tập Chương là người Khách đến từ Đài Loan,
cho nên, năm 1931, Hồ Tập Chương trốn khỏi Quảng Châu, một người Khách khác là
Đào Chú đã cử một nữ đảng viên Khách Gia đi cùng để bảo vệ. Năm 1932, vào lúc
Hồ Tập Chương đang lẩn trốn ở Long Châu, lại cùng một người Khách Gia khác là
Đặng Tiểu Bình bàn mưu tính kế cho cuộc khởi nghĩa Long Châu. Năm 1938, lúc từ
phía nam Diên An xuống Quế Lâm, Hồ Chí Minh được bố trí làm lính cần vụ cho một
người Khách Gia khác là Diệp Kiếm Anh. Hàng loạt những
sự việc trùng hợp nhau hoàn toàn không đơn giản, bởi lẽ đều là có sự sắp xếp từ
trước).
Trong một cuốn sách
nhỏ nhan đề "Thông tin về đợt hai Ban huấn luyện cán bộ du kích quân huấn
Bộ Tổng tham mưu, Ủy viên quân sự hội", có đăng tải công khai hồ sơ Hồ Chí
Minh như sau:
Họ tên: Hồ Quang
Chức vụ: Thiếu tá, nhân viên Đài tân
văn.
Tuổi: 38
Quê quán: Quảng Đông
Đơn vị: Tập đoàn quân 18.
Từng làm công tác:
Giáo viên trung học, hiệu trưởng trường ngoại ngữ.
Đảng bộ Hải
ngoại Đảng Cộng sản Đông Dương.
Tháng 9 năm 1939, sau khi lớp "Huấn luyện cán bộ du
kích" kết thúc, Hồ Chí Minh lại trở về Cơ quan Bát lộ quân Quế Lâm. Tháng
mười hai năm 1939, ông được điều dến Cơ quan Bát lộ quân Quý Dương giúp việc
cho đồng chí cấp dưỡng. Mọi người đều hoan hỷ đón tiếp Hồ Chí Minh. Ông cũng
thường dạy mọi người tiếng Nga và tiếng Anh, vào lúc có tiền thì bỏ ra một ít
mua rau quả mời mọi người cùng ăn.
Đầu năm 1940, Hồ Chí Minh ở thôn Hồng Nham thuộc Cơ quan
Bát lộ quân Trùng Khánh, đã có vài lần cùng Chu Ân Lai và Diệp Kiếm Anh bí mật bàn bạc. Tháng hai năm 1940, Hồ Chí Minh đến Côn
Minh, với sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đã liên lạc được với Đảng bộ
Hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương. Đảng Cộng sản Đông Dương dưới danh
nghĩa Việt Kiều ở Côn Minh đã sớm xây dựng tổ chức, triển khai hoạt động. Thời
kỳ năm 1939, tại Côn Minh đã thành lập được bộ phận hải ngoại của Đảng Cộng sản
Đông Dương, những người lãnh đạo gồm Phùng Chí Kiên, Vũ Anh (bí danh Trịnh Đông
Hải), Hoàng Văn Hoan (bí danh Lý Quang Hoa). Tháng năm năm 1940, Hồ Chí Minh
cùng nhóm Phùng Chí Kiên tại Vân Nam (tỉnh Điền) đi xe
lửa về Côn Minh. Lúc này, Phạm Văn Đồng (bí danh Lâm Bá Kiệt), Võ Nguyên Giáp
(bí danh Dương Hoài Nam ) đã từ Việt Nam đến Côn Minh. Sau khi đến trụ sở Đảng bộ Hải ngoại,
nhóm này được gặp Hồ Chí Minh tại công viên Thúy Hồ. Lúc ấy họ hoàn toàn không
biết Hồ Chí Minh đã đề nghị Đảng Cộng sản Đông Dương thu nhập Đảng bộ Đảng Cộng
sản Đông Dương hải ngoại, đồng thời cử họ đi Diên An học tập. Đầu tháng sáu,
Cao Hồng Lĩnh dẫn đường đưa Hoàng Văn Hoan và Võ Nguyên Giáp đến Cơ quan Bát lộ
quân Qúy Dương chờ để đi Diên An học tại "Đại học kháng Nhật Tây Nam"
do trùm đặc vụ Khang Sinh chủ trì.
Ngày 27 tháng sáu năm 1940, quân đội Hitler dánh chiếm
thủ đô Paris , nước Pháp đầu hàng. Ngày 22
tháng chín năm 1940, đại tướng Decoux vừa nhậm chức Toàn quyền Đông Dương, đã
thỏa thuận ngầm cho quân đội Nhật vượt qua ải Nam Quan tiến xuống Hải Phòng. Hồ
Chí Minh suy nghĩ, tình hình này sẽ đẩy Việt Nam và Đông Dương đến một cục diện
mới, liền triệu tập Đảng bộ Hải ngoại, đề xuất chuyển địa bàn hoạt động về vùng
biên giới Quảng Tây-Việt Nam, sau đó về nước trực tiếp chỉ đạo đấu tranh vũ
trang. Mọi người đều đồng ý kế hoach này. Sau đó, Hồ Chí Minh từ Côn Minh đi
Trùng Khánh gặp Chu Ân Lai, một tháng sau lại trở về Côn Minh.
Thời gian này,
Đảng bộ Hải ngoại nhận được thư của Hồ Học Lãm do Văn phòng ủy viên quân sự Quế
Lâm của tướng Lý Tế Thâm chuyển cho. Trong thư, Hồ Học Lãm nói, Tư lệnh trưởng
Đệ tứ chiến khu Liễu Châu có một sĩ quan người Việt là Trương Bội Công, nhận
được chỉ lệnh quan trọng của Quốc dân đảng là quân đội Trung Quốc sắp tiến vào
Việt Nam. Để đối phó với sự kiện này, Trương Bội Công đã tiến hành chiêu mộ
nhân sĩ Việt Nam , tổ chức tại biên
giới một đội công tác. Hồ Học Lãm cũng đề nghị các đồng chí ở Đảng bộ Hải ngoại
từ Côn Minh sang Quảng Tây để tiện khống chế Trương Bội Công. Hồ Chí Minh nhận
thấy đây là thời cơ thuận lợi, lập tức yêu cầu Phùng Chí Kiên, Vũ Anh, Hoàng
Văn Hoan phải nhanh chóng sang Quảng Tây, đồng thời thông báo đến Quý Dương cho
Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp tạm thời không đi Diên An mà trở lại Quảng Tây.
Việc tếp theo là chuyển trụ sở Đảng bộ Hải ngoại về đóng tại Cơ quan Bát lộ
quân Quế Lâm, coi như trung tâm chỉ huy tác chiến, thành lập căn cứ địa cách
mạng, triển khai phương thức đấu tranh mới.
Tháng mười năm 1940, Hồ Chí Minh trở lại Quế Lâm. Không
lâu sau, Phùng Chí Kiên, Vũ Anh, Hoàng Văn Hoan, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp
cũng từ chố Trương Bội Công ở Liễu Châu về Quế Lâm. Có Hồ Chí Minh tại Cơ quan
Bát lộ quân ngầm yểm trợ, Vũ Anh, Phạm Văn Đồng làm liên lạc, đảng bộ Đảng Cộng
sản Đông Dương Hải ngoại đã tổ chức được lực lượng. Trong khi ấy, ở Quế lâm, Hồ
Chí Minh thành lập cơ quan "Việt Nam độc lập đồng minh
hội" do Hồ Học Lãm làm Chủ nhiệm, Phạm Văn Đồng làm Phó chủ nhiệm. Hồ Chí
Minh lại bố trí Hoàng Văn Hoan, Phạm Văn Đồng gặp gỡ Lý Tế Thâm, đồng thời mở
tiệc chiêu đãi thư ký của ông ta để cho "Việt Nam độc lập đồng minh
hội" được thành lập từ ngày 8 tháng mười hai năm 1940. Từ nay, những người
cộng sản Việt Nam tại Quế Lâm đã có
một tổ chức hoạt động công khai, hợp pháp.
Như vậy, mọi hoạt động của "Việt Nam độc lập đồng
minh hội", thực tế là do Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam Hải ngoại chỉ đạo,
đồng thời, Hồ Chí Minh còn thông qua quan hệ với Cơ quan Bát lộ quân Quế Lâm để
Hồ Học Lãm, Phạm Văn Đồng tiếp xúc với giới ký giả tân văn, nhân sĩ văn hóa,
với mục đích quảng bá rộng rãi cho cách mạng Việt Nam. Tiếp sau đó lại thành
lập "Trung Việt văn hóa công tác đồng chí hội' nhằm triển khai các hoạt
động của "Việt Nam độc lập đồng
minh", kiên trì dường lối đấu tranh giải phóng dân tộc.
Mặt trận Việt Nam
độc lập Đồng minh.
Sau khi thành lập được "Việt Nam độc lập đồng minh
hội", dưới sự yểm trợ của Hồ Chí MInh, Đảng bộ Hải ngoại Đảng Cộng sản
Việt Nam lại tổ chức thành công "Trung Việt văn hóa công tác đồng chí
hội'" để có chỗ dựa, đã tranh thủ lợi dụng hoàn cảnh, tạo điều kiện tối đa
cho các đảng viên Đảng bộ Hải ngoại hoạt động công khai.
Thời kỳ này, những người cộng sản Việt Nam lợi dựng sự kiện
Pháp Nhật xung đột ở Lạng Sơn để tổ chức cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn. Sau đó không lâu, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên
Giáp, Hoàng Văn Hoan chuyển về huyện Tĩnh Tây, thành lập "Việt Nam dân tộc
giải phóng ủy viên hội" vào tháng bảy năm 1940 tại Liễu Châu với lời phát
biểu "Tuyên ngôn thành lập" kêu gọi các dân tộc Việt Nam vùng lên đấu
tranh thoát khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp, phát xít Nhật. Có được nguồn kinh
phí do Trương Bội Công xin được từ Quốc dân đảng, "Việt Nam dân tộc giải
phóng ủy viên hội" mở lớp huấn luyện cán bộ thanh niên Việt Nam, làm nòng
cốt cho công cuộc giải phóng dân tộc. Đầu năm 1941, Hồ Chí Minh đem "Việt Nam dân tộc giải phóng
ủy viên hội" phân chia làm hai tổ. Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Hoàng
Văn Hoan ở lại Tĩnh Tây, Phùng Chí Kiên, Vũ Anh, Lê Quảng Ba về Cao Bằng làm cơ
sở nòng cốt công tác. Sau khi thành lập cơ quan tại thôn Bắc Pha thuộc huyện Hà
Quảng, Cao Bằng, Hồ Chí Minh lần này cải tên là Thu Ông, từ Tĩnh Tây về Bắc
Pha. Bắc Pha là một thôn nhỏ hẻo lánh vùng núi cao, cư dân toàn là người Nùng.
Đây là lần đầu tiên Hồ Chí Minh đến Việt Nam trực tiếp lãnh đạo
cách mạng. Nhóm Phạm Văn Đồng lưu lại Tĩnh Tây vẫn sử dụng mối quan hệ giữa
Trương Bội Công và Quốc dân đảng làm chỗ dựa, đến ngày 12 tháng tư năm 1941 thì
chính thức thành lập "Việt Nam dân tộc Giải phóng đồng minh hội".
Đến lúc này, những
tổ chức thành viên do Đảng Cộng sản Việt Nam lập ra và chỉ đạo
gồm có Đảng Dân chủ Việt Nam và "Việt Nam độc lập đồng minh
hội". "Việt Nam dân tộc Giải phóng đồng minh hội" thành lập
không lâu, Hồ Chí Minh lại thành lập Cơ quan Trung ương chỉ huy bí mật của Đảng
cộng sản Đông Dương. Ngày 10 tháng năm năm 1941, tại Bắc Pha, triệu tập Hội
nghị VIII Đảng Cộng sản Đông Dương do Hồ Chí Minh chủ trì. Tham gia Hội nghị gồm
có Hoàng Văn Thụ, Trường Chinh (Đặng Xuân Khu), Phùng Chí Kiên, Hoàng Văn Hoan,
Hoàng Quốc Việt. Hội nghị quyết định thành lập và phát triển căn cứ địa du
kích, thành lập "Mặt trận Việt Minh", lấy "Việt Nam độc lập đồng
minh" làm trung tâm cùng 16 tổ chức "Cứu quốc hội". Ngày 19
tháng năm năm 1941, thành lập "Mặt trận Việt Nam độc lập đồng
minh", gọi tắt là "Việt Minh". Hội nghị suy tôn Hồ Chí Minh là
Tổng bí thư Đảng, trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, tuy nhiên Hồ Chí Minh
kiên quyết từ chối, đề nghị chuyển chức vụ này cho Trường Chinh, người đã có
nhiều năm hoạt động bí mật trong nước. Cương lĩnh của Việt Minh quy định, mục
tiêu phấn đấu trước mắt của nhân dân Việt Nam là, sau khi lật đổ phát xít Pháp,
Nhật, sẽ thành lạp Chính phủ cách mạng của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa,
đồng thời sử dụng cờ đỏ sao vàng làm quốc kỳ.
Bị bắt ở Quảng Tây và tập thơ
"Nhật ký trong tù".
Sau khi kết thúc Hội nghị VIII Ban chấp hành Trung ương
Đảng Cộng sản Đông Dương và thành lập "Mặt trận Việt Nam độc lập đồng
minh", trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, thời gian này, Hồ Chí Minh
thường qua lại giữa Bắc Pha và Tĩnh Tây. Ngày 6 tháng sáu năm 1941, Hồ Chí Minh
viết bức thư nhan đề "Thư hiệu triệu gửi dồng bào Việt Nam", ký tên
Nguyễn Ái Quốc, nguyên văn bằng chữ Hán, qua phương thức "thừ từ nước
ngoài gửi về" kêu gọi đồng bào cả nước đứng lên, thành lập "Hội cứu
quốc", đánh đổ đế quốc Nhật, Pháp xâm lược. Bức thư hiệu triệu này rất
nhanh chóng lan truyền đến các đia phương, cổ vũ mãnh liệt tinh thần yêu nước
của nhân dân Việt Nam, làm cho không khí cách mạng lan rộng khắp các tỉnh, các
giới nhân sĩ tham gia các "Hội cứu quốc" mỗi ngày một đông.
(Tác giả nhận định, căn cứ vào lời giáo sư Tưởng Vĩnh
Kính, 16 tổ chức "Hội cứu quốc" dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Đông Dương bao gồm các đoàn thể: công
nhân, nông dân, quân nhân, văn hóa, thanh niên, phụ nữ, nhi đồng, phụ lão, phật
giáo, thiên chúa giáo, thương nhân v.v... Mặt trận Việt Minh có sức lan tỏa
rộng khắp, ảnh hưởng ngày càng lớn đến quần chúng nhân dân, nguyên nhân cũng
bởi hình tượng Nguyễn Ái Quốc bỗng nhiên sống lại trong lòng nhân dân Việt Nam
sau 10 năm vắng bóng vì cái tin ông đã
chết do bệnh lao phổi vào mùa thu năm 1932. Lần đầu tiên cái tên Nguyễn Ái Quốc
xuất hiện công khai trước báo chí quốc tế.
Hạ tuần tháng tám năm 1942, được Lê Quảng Ba dẫn đường,
Hồ Chí Minh lại mọt lần nữa rời Bắc Pha sang Trung Quốc. Mục đích sang Trung
Quốc của ông lần này là để di Trùng Khánh gặp Chu Ân Lai báo cáo tình hình Việt
Nam hiên tại và trao
đổi về tình hình thế giới.
(Tác giả nhận định,
Hồ Chí Minh sau khi bị Quốc dân đảng bắt giữ, trong tập "Nhật ký trong
tù" của ông có bài "Tưởng công huấn từ" (Lời dạy của Tưởng
công), đã bị giải thích thành "Lần này đến Trung Quốc để gặp Tưởng Giới
Thạch" là sai lầm. Từ những năm 1929, Chu Ân Lai đã sớm biết Hồ Tập Chương
là người Đài Loan, cũng biết Nguyễn Ái Quốc đã chết năm 1932, và đến năm 1935, Quốc tế cộng sản dùng Hồ Tập Chương thay thế thân
phận Nguyễn Ái Quốc. Năm 1938, Hồ Tập Chương đến "Cơ quan Bát lộ quân Quế
Lâm", họ Chu đã dành cho Hồ Quang sự giúp đỡ đặc biệt. Từ năm 1940 đến
1941, Hồ Quang và Chu Ân Lai nhiều lần gặp nhau tại Trùng Khánh bàn việc cơ
mật. Được các Cơ quan Bát lộ quân Quế Lâm, Quư Châu, Trùng Khánh hết sức yểm
trợ, Hồ Quang đă có nhứng sáng tạo mới làm thay đổi sự nghiệp cách mạng. Về
điểm này, chắc Hồ Tập Chương ghi nhớ rõ
từng chi tiết trong lòng, cho nên đã nhiều lần xưng hô với Chu Ân Lai là
"Ân ca". Tình cảm bạn bè giữa hai người còn hơn cả tình đồng chí).
Trước khi đi, Hồ
Chí Minh đóng dấu tên mình, ở giữa là ba chữ Hồ Chí Minh, hai bên phải trái
viết các chữ "Tân văn ký giả" và "Việt Nam Hoa kiều". Danh
xưng Hồ Chí Minh này được bắt đầu dùng từ ngày 25 tháng tám khi ông đến Ba Mông
Thành, huyện Tĩnh Tây, ở lại nhà người anh em kết nghĩa Từ Vĩ, vui vẻ đón tết
rằm tháng bảy. Sáng sớm ngày 27 tháng tám, Hồ Chí Minh được một người dân biên
giới là Dương Đào dẫn di Trùng Khánh. Vào lúc hai người đang trên đường đến Túc
Vinh, huyện Đức Bảo thì bị đám hương cảnh thuộc Sở Cảnh sát bắt giữ. Khi hương
cảnh Dương Phúc Mậu tra vấn Hồ Chí Minh, đối chiếu với lai lịch của ông, người
này tỏ vẻ hoài nghi, phát hiện ngoài những giấy tờ chứng minh là hội viên
"Phân hội quốc tế phản xâm lược" còn mang theo thẻ phóng viên
"Trung Quốc thanh niên tân văn ký giả", thông tín viên đặc biệt
"Quốc tế tân văn xã" cùng với giấy thông hành quân đội do Tư lệnh
trưởng Đệ tứ chiến khu cấp. Những giấy tờ này đều được cấp vào năm 1940, đã hết
hạn sử dụng, chứng tỏ lại lịch Hồ Chí Minh rất phức tạp, có khả năng là gián
điệp nên bắt lại, giải đến trụ sở hương, giao cho điều tra viên Mã Hiển Vinh,
sau đó, ông được chuyển đến cơ quan quân sự tối cao Quảng Tây thẩm vấn. Từ ngày
27 tháng tám bị bắt ở Túc Vinh, Hồ Chí Minh bị giả qua Tĩnh Tây, Nam Ninh, Liễu
Châu, Quế Lâmv.v... tất cả 13 huyện, hương, trấn, tạm giam ở 18 nhà ngục. Tính
ra, Hồ Chí Minh bị giam trong ngục 14 tháng, trong tù, ông dùng Hán văn viết
tập thơ "Nhật ký trong tù" gồm 133 bài. Giáo sư Hoàng Tranh nhận xét:
"Nhật ký trong tù" gồm thơ thất luật (thất ngôn bát cú), thất tuyệt
(thất ngôn tứ tuyệt), ngũ luật (ngũ ngôn) và tạp văn, nội dung phần lớn đều để
thư giãn đầu óc hoặc phản ảnh hiện thực, lúc hứng lên thì ngâm ngợi. Thơ ông
thường xuất khẩu mà thành, không có sự gia công chỉnh sửa nhưng rõ ràng, dễ
hiểu. 134 bài thơ (tính gộp cả bài "Mới ra tù tập leo núi") trong tù,
không đơn giản chỉ là thơ, mà là một bộ sử thi tự họa chân dung của một nhà
cách mạng. Mỗi bài thơ trên hành trình đều phản ánh một cách sinh động tư thế
ung dung tự tại, một trí tuệ lớn của nhà cách mạng lão luyện, kiên nghị - hình
tượng Hồ Chí Minh".
Sau khi Hồ Chí Minh
bị bắt, Việt cộng Trung ương vô cùng hoang mang, đã nhiều lần điện báo hỏi
chính phủ Quốc dân đảng, lại thông qua các hãng thông tấn REUTERS Anh Quốc, AFP của Pháp và TASS của Liên Xô loan
báo tin tức, tạo dư luận. Họ dùng trăm phương ngàn kế gây áp lực với nhà đương
cục Trung Quốc, yêu cầu phóng thích Hồ Chí Minh, nhưng chính phủ Quốc dân đảng đều
không chấp nhận. Lúc ấy, Chu Ân Lai ở Trùng Khánh biết tin, phải nhờ đến Phùng
Ngọc Tường và Lý Tông Nhân, còn Tưởng Giới Thạch thì gây áp lực với các địa
phương, đến cuối tháng giêng năm 1943, ra lệnh cho Đệ tứ chiến khu phóng thích
Hồ Chí Minh, giao cho Ban chính trị thẩm tra, xử lý. Hồ Chí Minh từ nhà tù Quế
Lâm đến trại tạm giam quân đội Liễu Châu. "Nhật ký trong tù" có 2 bài
ghi lại sự việc xảy ra lúc ấy. Bài 108, nhan đề"Đến Ban chính trị Đệ tứ
chiến khu":
Quảng Tây giải khắp
mười ba huyện,
Mười tám nhà lao đã
ở qua,
Phạm tội gì đây ?
Ta thử hỏi,
Tội trung với nước,
với dân à ?
Và bài: "Nhà giam của Cục chính trị":
Ba thước chiều dài
hai thước rộng,
Bốn người chen chúc
ở bên trong.
Duỗi chân một tí
cũng không thể,
Nhà hẹp mà người
lại quá đông.
Ngày 10 tháng chín
năm 1943, Hồ Chí Minh từ nhà tạm giam quân đội dược trả tự do.
Trở
lại Bắc Pha, tháng tám khải ca.
Ra khỏi ngục không
lâu, Hồ Chí Minh được Tư lệnh trưởng Đệ tứ chiến khu Trương Phát Khuê ngưỡng mộ
đề nghị tham gia hoạt động "Việt Nam cách mạng đồng minh hội" và cử
làm Phó chủ tịch (Chủ tịch là Nguyễn Hải Thần). Tổ chức có sự hiệp trợ của nhân
sĩ các đảng phái Việt Nam tại Đệ tứ chiến khu,
được thành lập từ tháng mười năm 1942. Tháng ba năm 1944, "Việt Nam cách mạng đồng
minh hội" khai mạc Hội nghị đại biểu "Hải ngoại cách mạng đoàn
thể", bầu ta ban chấp hành. Tháng sáu năm 1944, Hoàng Văn Hoan sang Liễu
Châu hội kiến với Hồ Chí Minh báo cáo về tình hình cách mạng Việt Nam và những hoạt động
của Việt Minh. Hồ Chí Minh nhân thời cơ khi Hội nghị đại biểu "Hải ngoại
cách mạng đoàn thể" kết thúc, nói với Trương Phát Khuê ý định trở lại Việt
Nam, đồng thời đệ trình ông ta một bản dự thảo tổng quát kế hoạch công tác là
phát triển "Việt Nam cách mạng đồng minh hội", giành độc lạp hoàn
toàn cho Việt Nam. Sau khi Trương Phát Khuê đồng ý, Hồ Chí Minh bèn tổ chức
"Chiến địa công tác tổng đội", chọn được 18 thanh niên ưu tú rời Liễu
Châu vào ngày 9 tháng tám năm 1944 về Bắc Pha.
Ngày 27 tháng chín năm 1940, phát xít Nhật đánh chiếm
Lạng Sơn, quân Pháp thua trận rút lui qua Bắc Sơn về Thái Nguyên. Phùng Chí
Kiên, Chu Văn Tấn, Lương Văn Chi lấy danh nghĩa Đảng Cộng sản Đông Dương, lãnh đạo nhân dân Bắc Sơn khởi nghĩa, đánh bại
quân pháp, thu vũ khí, xây dựng căn cứ địa cách mạng Bắc Sơn - Vũ Nhai. Năm
1943, tại căn cứ Bắc Sơn -Vũ Nhai, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn
Hoan, Vũ Anh lãnh đạo xây dựng Cao Bằng thành căn vứ địa cách mạng trung ương.
Hồ Chí Minh và các lãnh đạo cao cấp của Đảng Cộng sản Đông Dương nghiên cứu, khảo sát tình thế cách mạng, quyết định
thành lập "Đội tuyên truyền Việt Nam giải phóng quân" vào ngày 22
tháng mười hai năm 1944 do Võ Nguyên Giáp làm chỉ huy trưởng, Hoàng Văn Thái
làm chính trị viên, đặt nền móng cho lực lượng quân đội Cộng sản Việt Nam sau
này.
Ngày 4 tháng sáu năm 1945 "Việt Nam cứu quốc
quân" và "Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân" hợp nhất thành
"Việt Nam giải phóng quân". Cũng trong tháng tám, chớp được thời cơ
quân đội Nhật đầu hàng Đồng Minh, cao trào cách mạng bùng phát, Võ Nguyên Giáp,
Chu Văn Tấn, Hoàng Văn Thái chỉ huy đội "Việt Nam giải phóng quân"
tiến về thủ đô Hà Nội, không mất một viên đạn, một người lính.
Trung tuần tháng tám năm 1945, Hồ Chí Minh sau khi được
tin Nhật Bản đã chấp nhận "Tuyên bố Potsdam", từ ngày 13 đến 15
tháng tám năm 1945, tại Tuyên Quang, Đảng Cộng sản Đông Dương triệu tập hội nghị chuẩn bị công tác vũ trang khởi nghĩa.
Ngày 15 tháng tám, Nhật Bản
đầu hàng. Ngày 16 tháng tám, Tổng bộ Việt Minh tổ chức "Hội nghị toàn quốc"
thông qua nghị quyết, tập trung toàn bộ lực lượng, phát động tổng khởi nghĩa
toàn quốc. Sau khi giành được hoàn toàn độc lập, sẽ thành lập nhà nước "Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa", thực hiện cải cách dân chủ với 10 chính sách lớn,
suy tôn Hồ Chí Minh làm chủ tịch, quyết định trước khi quân đội Đồng Minh tiến
nhập lãnh thổ Việt Nam, phải giành được chính quyền từ tay quân đội Nhật. Ngày 16 tháng tám, "Việt Nam giải phóng quân" tiến dánh Thái Nguyên, mở đầu cho cuộc
tổng khởi nghĩa. Ngày 19 tháng tám năm 1945, Hà Nội khởi nghĩa giành chính
quyền. Ngày 23 tháng tám, tại Trung bộ, Huế khởi nghĩa. Ngày 25 tháng tám, Sài
G̣n khởi nghĩa. Từ 16 đến 28 tháng tám, khởi nghĩa đã nổ ra ở sáu mươi tỉnh
trong cả nước, từ Bắc đến Nam đều thành lập chính quyền mới.
Ngày 27 tháng tám, thành lập Chính phủ Lâm thời
"Việt Nam , dân chủ cộng
hòa", đề cử Hồ Chí Minh là chủ tịch. Ngày 30 tháng tám, tại triều đình
Huế, vua Bảo Đại tuyên bố thoái vị. Cách mạng tháng Tám toàn quốc thắng lợi,
ngày 2 tháng chín năm 1945, Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời, tại Quảng
trường Ba Đình Hà Nội, đọc bản "Tuyên ngôn độc lập", tuyên bố chấm
dứt ách thống trị tám mươi năm của thực dân Pháp và chế độ chuyên chế nghìn năm
phong kiến, đồng thời tuyên bố nước Việt Nam độc lập và thành lập nhà nước
"Việt Nam Dân chủ Cộng hòa".
Con người thật của Hồ Chí Minh.
Trong Thiên I
"Hài kịch tráo rồng đổi phượng" tôi đã dành khá nhiều trang phản
biện, chứng minh Nguyễn Ái Quốc đã chết vào mùa thu năm 1932 do bệnh lao phổi.
Ở Thiên II "Ve sầu thoát xác, thật giả kiếp người", tôi cũng chỉ ra
từ năm 1929 đến 1933, có hai vị Hồ Chí Minh đồng thời xuất hiện, một người là
Nguyễn Ái Quốc, còn ngýời kia là Hồ Tập Chýõng. Và Thiên IV, Màn một, "Hồ
Chí Minh ở Liên Xô", tôi cũng ðã làm rõ, Hồ Tập Chương tiếp tục thân phận
của Nguyễn Ái Quốc theo phương pháp "dời hoa tiếp cây" là bởi kế
hoạch của Quốc tế cộng sản, đồng thời cũng là
âm mưu của lãnh đạo Trung cộng, Việt cộng và bản thân Hồ Chí Minh phối hợp với
nhau. Trong thiên này, tôi viết, Hồ Chí Minh từ năm 1938 đến 1945, những năm
tháng ở Trung Quốc đã từng bước chứng minh thân phận của ông, chính là Hồ Tập
Chương đến từ Đài Loan.
Vì sao vào tháng mười năm 1938, Hồ Chí Minh đi hàng ngàn
dặm đường xa xôi để đến căn cứ địa Diên An mà không trở về Việt Nam ? Tại nhà khách
"Vườn Táo" Diên An, Hồ Chí Minh đã mật đàm những gì với trùm đặc
vụ Khang Sinh? Vì sao lại vội vàng theo
Diệp Kiếm Anh về "Cơ quan Bát lộ quân Quế Lâm"? Vì sao đến Quế Lâm
lại đột nhiên mất tích nửa tháng? Vậy trong nửa tháng ấy Hồ Chí Minh ở đâu?
Trên đường đi Quế Lâm là biên giới Việt Trung, vậy vì sao không trực tiếp về
Việt Nam mà lại theo dự
"Lớp huấn luyện cán bộ du kích Hành Sơn, Hồ Nam "? Vì sao phải
nhiều lần thông qua liên lạc Trung cộng mới gặp mặt phía Việt cộng? Càng kỳ lạ
hơn nữa là, vào những năm 1938, 1939, phần lớn các bài viết của Hồ Chí Minh đều
bằng Hán văn, điều mà trước đây hầu như chưa từng có. Những chuyện này khiến
người ta không khỏi nghi ngờ là trong đó còn che giấu những chuyện bí mật
chăng?
Thực ra, thời kỳ từ
năm 1938 đến 1945, Hồ Chí Minh ở Trung Quốc, lãnh đạo cao cấp Trung cộng đã
biết rõ về lai lịch của ông, nhưng vì lợi ích tối cao của Đảng Cộng sản, ngoài
việc giúp đỡ Hồ Chí Minh tạo ra một nước Việt Nam cộng sản độc lập, Trung cộng
luôn che giấu thân phận Hồ Chí Minh nhằm mạo dụng thân phận Nguyễn Ái Quốc. Vì
thế, những hồ sơ, tài liệu có liên quan đến lai lịch Hồ Chí Minh trong thời kỳ
này đều không hợp tình hợp lý, không phản ánh dúng diện mạo lịch sử, cho dù
chúng đã được các học giả nổi tiếng viết thành truyện ký, tiểu sử, tuy vậy, tất
cả đều là những lầm lẫn lớn, hoặc vô
tình, hoặc cố ý, biến Hồ Tập Chương thành Nguyễn Ái Quốc, tạo nên một huyền
thoại Hồ Chí Minh lừa dối người đời.
Đọc tiếp: Kỳ 4 - http://to-quoc01.blogspot.fr/2013/01/ho-tuan-hung-4_887.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét