HỒ CHÍ MINH
NHỮNG NĂM THÁNG CHƯA ĐƯỢC BIẾT ĐẾN (1919‐1941)
HO CHI MINH: THE MISSING YEARS
Kỳ 2
Photo 008
Ta có thể đoán rằng những cuộc tiếp xúc không
chính thức giữa các nhân viên QTCS và sinh viên của Đại Học Lao Động Cộng Sản Phương
Đông (còn có tên là ĐH Stalin) ở Moscow đã trở thành
một diễn đàn trao đổi tư tưởng và tin tức. Nhưng ngoại trừ Hồ ra, không có người ViệtNam nào có cơ hội theo học tại đây
trước năm 1925 hoặc 1926, khi những sinh viên Đông Dương đầu tiên được gửi qua
từ Paris chính thức theo học [42]. Thành lập
vào năm 1921 với mục đích đào tạo những thành viên cộng sản cốt cán, cho đến
năm 1924 trường này giảng dạy những người Á châu nằm trong lãnh thổ của
liên bang Sô Viết và con số học sinh nước ngoài theo học ngày càng đông. Danh
sách của sinh viên đến từ miền đông và nam Á năm ấy có 56 sinh viên Triều Tiên,
109 sinh viên Trung Quốc, 6 sinh viên Mã Lai hoặc Nam Dương và 16
sinh viên Mông Cổ [43]. Không có tài liệu chính thức về việc Hồ Chí Minh nghiên
cứu tại đây trước năm 1936, mặc dù tác giả người Nga tên Yevgeny Kobelev trích
dẫn từ một bài phỏng vấn Hồ ngày 15 tháng 3 năm 1924 trong tờ báo cộng sản Ý
LʹUnità, trong đó Hồ đề cập đến việc nghiên cứu của mình tại trường này [44].
M.N.Roy cũng xác nhận rằng Hồ đã theo học tại trường [45]. Vì Hồ đến Moscow với tư cách chính thức qua Nông Dân
Quốc Tế, rất có thể ông đã học những lớp về vận động nông dân khi mới đến đây.
một diễn đàn trao đổi tư tưởng và tin tức. Nhưng ngoại trừ Hồ ra, không có người Việt
Hồ Chí Minh được phép làm việc như một ʺnhân
viên không biên chếʺ cho các cơ quan QTCS vào tháng 4 năm 1924 [46]. Một trong
những nhiệm vụ chính của ông tại Moscow là soạn thảo báo cáo về Việt Nam và viết bài cho báo chí cộng sản.
Có thể là ông đã sửa lại những bản thảo đã viết khi còn ở Pháp, đã được xuất
bản dưới cái tên Bản Án Chế Độ Thực Dân Pháp bởi Nghiệp Đoàn Lao Động tại Paris
năm 1925. Bản thảo đánh máy bằng tiếng Pháp từ bản tài liệu của Hồ về vấn đề
Đông Dương nằm trong văn khố của QTCS, nhưng không có bằng chứng là nó đã được
xuất bản. Bản tài liệu bao gồm một giới thiệu ngắn về lich sử và địa lý Việt Nam và những phần nói về việc trưng thu
đất đai của người Việt một cách vô nhân đạo của nhà cầm quyền Pháp [47]. Một
thành quả báo chí của Hồ tại Moscow là bài báo ʺLenin và Nhân Dân
Phương Đôngʺ viết năm 1924. Ông đã viết một bài dài 8 trang phân tích quan điểm
của Lenin về chủ nghĩa đế quốc và phong trào giải phóng thuộc địa. Bài viết này
có giá trị hơn là bài viết tương tự nhưng đầy cảm xúc ca tụng được in với cùng
đầu đề trên tờ Sự Thật số 27 tháng 1, 1924 sau khi Lenin qua đời. Bài viết sau
đã phản ánh trung thực nỗi ray rứt của Hồ trong giai đoạn này của đời mình ʺQuá
quen với việc bị đối xử như những người lạc hậu và thấp hènʺ, ông viết, ʺhọ
(người dân Á châu) đã thấy Lenin như hiện thân của tình huynh đệ quốc tế. (...)
họ sùng kính ông với với lòng thành của con cái đối với cha mẹʺ [48]. Luận
Cương của Lenin và những hứa hẹn của QTCS với dân tộc thuộc địa có lẽ là những
dấu hiệu đầu tiên mà Hồ tìm được về việc phương Tây thật sự quan tâm đến vấn đề
áp bức của người Pháp.
Đại Hội Quốc tế Cộng
Sản lần 5
Khi Đại Hội 5 Quốc tế Cộng Sản khai mạc tại Moscow vào tháng 6 1924, Hồ cảm thấy cần
giữ nguyên áp lực với những người cộng sản tây Âu để họ quan tâm nhiều hơn nữa
đến các thuộc địa của mình. Cả ba lần phát biểu của Hồ tại Đại Hội chủ yếu tập
trung vào việc yêu cầu có nhiều hành động hơn đối với những vấn đề thuộc địa.
Rõ ràng là Hồ vẫn còn nguyên tình yêu nước và tinh thần kiên quyết của những
tháng ngày ở Paris . Nhưng ông vẫn chỉ là một đại biểu với lá phiếu tham vấn [49]. Chỉ vừa
tròn 30 tuổi, ông đã không ngần ngại lên lớp giới lãnh đạo của cộng sản thế
giới về những thiếu sót của họ ‐ ông luôn xen vào những cuộc tranh
luận kéo dài về những vấn đề dân tộc và thuộc địa. Ông đã rất gay gắt với các
đảng cộng sản Pháp và Anh: ʺTất cả những gì mà đảng chúng ta đã làm trong lĩnh
vực này là con số không. Tại xứ Tây Phi thuộc Pháp chính sách quân dịch được
thực hiện bởi những biện pháp cưỡng chế không thể tưởng tượng, mà báo chí chúng
ta chẳng đả động gì đến. Chính quyền thuộc địa tại Đông Dương đã trở thành
những kẻ buôn nô lệ, chuyên bán dân bản xứ Bắc Kỳ cho những chủ đồn điền ở quần
đảo Thái Bình Dương; họ đã tăng hạn quân dịch của dân bản xứ từ hai năm lên bốn
năm; họ đã trao phần lớn thuộc địa cho tập đoàn cá mập... và báo chí chúng ta
vẫn một mực lặng imʺ [50]. Ông đề nghị một số biện pháp có thể áp dụng lập tức
như: một diễn đàn về thuộc địa trên báo Nhân Đạo, tăng cường việc tuyên truyền
và kết nạp thành viên thuộc địa, bảo trợ các sinh viên thuộc địa tại Đại Học
Lao Động Cộng Sản Phương Đông ở Moscow, tổ chức thành phần công nhân thuộc địa
tại Pháp, và bắt buộc các đảng viên quan tâm đến những vấn đề thuộc địa [51].
Việc tham gia lần cuối cùng của Hồ vào cuộc
tranh luận về vấn đề nông dân rõ ràng là đã được ông tính toán kỹ lưỡng. Ông
phát biểu với tư cách là một chuyên viên về nông dân thuộc địa Pháp chứ không
chỉ riêng về Đông Dương. Những nghiên cứu và bài vở của ông và đồng nghiệp từ
tờ báo Người Cùng Khổ có thể là cơ sở cho bài phát biểu. Ông đã không bỏ phí
thời gian với những lời chính trị sáo rỗng như tỉ lệ phần trăm của bần nông,
trung nông, phú nông và địa chủ. Theo ông 95% dân số thuộc địa Pháp đang bị
ʺbóc lột hoàn toànʺ [52]. Việc trưng thu đất đai của tư bản Pháp là nguồn gốc
của sự bóc lột ấy. Ông nói tại Việt Nam ʺKhi người Pháp đánh chiếm vùng đất
này, chiến tranh đã đẩy nông dân ra khỏi làng quê của mình. Kết quả là khi họ
quay về quê quán, đất đai của họ đã bị chiếm dụng bởi các chủ đồn điền theo gót
đội quân chiến thắng. Chúng đã chuyển nhượng đất đai mà dân bản xứ đã sinh sống
và lao động suốt mấy thế kỷ quaʺ
[53].
Ông đã vẽ lên một bức tranh đen tối của việc hành hạ, mà tồi tệ nhất là những
nông dân vùng châu Phi xích đạo, nơi mà ʺngười già, phụ nữ và trẻ em bị giam
giữ, hành hạ, tra tấn, bỏ đói, đoạ đày và đôi khi giết chếtʺ [54]. Hồ so sánh
việc giải phóng người dân khỏi ách thuộc địa cũng giống như cách mạng vô sản:
ʺNhiệm vụ của Quốc tế Cộng Sản là giúp đỡ tổ chức thành phần nông dân đáng
thương này. Nhiệm vụ của họ là vạch ra con đường đến cách mạng vô sản và giải phóngʺ
[55]. Ta tự hỏi rằng những kỷ niệm của ông ở Trung phần Việt Nam năm 1908 đã
ảnh hưởng nhiều như thế nào đến cái nhìn của ông về sự áp bức của người Pháp‐ những bất công
mà ông đã chứng kiến khi còn là một thiếu niên chắc chắn đã thúc đẩy ông như
thời ông còn ở Paris. Trên thực tế, trong báo cáo cho Quốc Tế Nông Dân vào
tháng 7 năm 1924 về giới vô sản Việt Nam, ông đã đề cập đến ʺsự áp bức dã man
và đẫm máuʺ của người Pháp năm 1908 [56]. Thời điểm cho cuộc cách mạng dân chủ
tư sản hay mối quan hệ công nông đối với ông không quá quan trọng vào năm 1924.
Mặc dù Đại Hội 5 đã đánh dấu sự xuất hiện chính
thức của Hồ trong chính trường QTCS, bản thân nó không phải là một diễn đàn
quan trọng để thảo luận về các vấn đề thuộc địa. Sự cách biệt ngày càng lớn
giữa Trotsky và bộ ba lãnh đạo tại Nga, cùng với thời kỳ hậu tử của cuộc cách
mạng Đức bị thất bại năm 1923, đã che phủ mọi chủ đề khác. Với mối nguy hiểm
ngày càng lớn của việc chia rẽ trong nội bộ CSQT, mọi quan tâm đều chú trọng
vào vấn đề ʺkỷ luật Bolshevikʺ. Câu khẩu hiệu ʺBolshevik hoáʺ xuất hiện lần đầu
tiên tại đại hội này ‐ những đảng thành viên của QTCS bắt buộc phải
trở thành những đảng có kỷ luật,
ʺkhông cho phép chia rẽ, nhiều khuynh hướng
hay bè pháiʺ [57]. Chúng phải được tái cơ cấu theo mô hình của đảng Bolshevik
Nga. Những thành phần chủ chốt của các đảng thành viên trong QTCS không những
phải báo cáo với lãnh đạo của đảng mình mà còn cả với Ban Chấp Hành QTCS. Ban
Chấp Hành sẽ có trách nhiệm hiệu đính cương lĩnh của các đảng cũng như tất cả
các tài liệu hoạt động khác.
Những dấu hiệu chia rẽ trong nội bộ đảng cộng
sản Nga đã xuất hiện trong cuộc thảo luận về sách lược của mặt trận thống nhất,
một thảo luận mà Zinoviev gọi là ʺvấn đề gây tranh cãi nhất trong hàng ngũ
chúng taʺ [59]. Chính Zinoviev đã đánh giá rất thấp sách lược và nguồn gốc của
nó, nhưng ông vẫn chắc chắn rằng nó sẽ tồn tại trong đường lối của QTCS cũng
như của đảng CS Nga. ʺSách lược của Mặt Trận Thống Nhất vẫn đúng đắn,ʺ ông nói
thẳng thừng. Nhưng ông lại bổ sung một điều khoản về ʺvấn đề phải đặt ra một
cách vững chắc, cá biệt cho mỗi quốc gia, phù hợp với những điều kiện thuận
lợi.ʺ Ông nhấn mạnh rằng sách lược đang đưa nước Nga trở lại tình trạng kinh tế
tương đối ổn định là một sự lùi bước:
Nhìn lại quãng đường đã qua, chúng ta có thể
thấy rằng với tổng thể Quốc tế Cộng Sản trong giai đoạn 1921‐1922, những
sách lược về mặt trận thống nhất có nghĩa là việc nhận thức rằng chúng ta vẫn
chưa chiếm được đa số tầng lớp lao động; thứ hai, phong trào dân chủ xã hội vẫn
còn rất mạnh; thứ ba, chúng ta vẫn còn trong vị thế phòng thủ và kẻ thù vẫn
đang tấn công... thứ tư, cuộc đấu tranh quyết định vẫn chưa là ưu tiên hàng
đầu. Vì thế chúng ta phải thúc đẩy khẩu hiệu:
ʺHướng tới quần chúng!ʺ và kế đến là những sách
lược của mặt trận thống nhất...
Đối với những đảng CS châu Âu, Đại Hội 5 đã
thiết lập một hướng đi về phía tả. Karl Radek, người cố vấn của đảng CS Đức đã
bị đổ lỗi cho sự thất bại của cuộc khởi nghĩa năm 1923. Cả ông ta và một cách
gián tiếp, Trotsky bị phê bình là đã hiểu lầm sách lược của mặt trận thống nhất
như là ʺmột liên hiệp hữu cơ với phong trào dân chủ xã hộiʺ [60]. Nhưng cũng
nên lưu ý rằng, theo Radek và lãnh đạo ĐCS Đức Brandler, liên hiệp này đã được
phê chuẩn bởi QTCS vào năm 1923 [61]. Việc QTCS và giới lãnh đạo Nga một mực đổ
lỗi cho những người thực hiện chính sách tại địa phương đã là điềm báo trước
cho những gì sẽ xảy ra sau đổ vỡ của mặt trận thống nhất tại Trung Quốc. Điều
nên lưu ý nữa là Trotsky không bao giờ là người ủng hộ cho việc hợp tác với
tầng lớp dân chủ xã hội. Trong bản ʺTuyên Ngôn của Đại Hội Năm QTCS Kỷ Niệm
Mười Năm Chiến Tranh Thế Giới Bùng Nổ,ʺ ông lên án những thành viên dân chủ xã
hội Đức vì vai trò của họ trong sự thất bại của cuộc khởi nghĩa 1923: ʺRõ ràng
là trong những thời khắc quan trọng, thời khắc giữa sự sống và cái chết của
giai cấp tư sản, khi tương lai của giai cấp lao động đang bị đe doạ, những kẻ
dân chủ xã hội đã hiểm ác phá hoại mặt trận thống nhất của giai cấp công nhân,
dẫn đến sự lưỡng lự trong hàng ngũ công nhân, làm ngã lòng và cô lập đảng cộng
sản, và trở thành kẻ cầm trịch cho bọn tư bản phản độngʺ [62]. Trong vài năm
sau quan điểm này đã được củng cố vững chắc trong tư tưởng của QTCS và được
Stalin truyền bá rộng rãi trong những năm 1928‐1929.
Nhận định của đại biểu người Pháp Albert Treint
về mặt trận thống nhất đã tóm tắt quan điểm đang thịnh hành trong đại hội: ʺMặt
trận thống nhất là một sách lược nhằm huy động quần chúng cách mạng và
không phải là một tổ chức liên minh với những người cầm đầu dân chủ xã hội .
(...) Những chính quyền Lao Động và Cánh Tả tạo ra bởi nền dân chủ tư sản tìm
được sự hưởng ứng từ bên trong những đảng phái của chúng ta... đấu tranh chống
lại chủ nghĩa tư sản hơn bao giờ hết là đồng nghĩa với đấu tranh chống lại dân
chủ xã hội bên ngoài, cũng như đấu tranh chống lại thành phần hữu khuynh bên
trong QTCS.ʺ Trong bài diễn văn bế mạc đại hội, ông nói:ʺĐồng thời chúng ta
cũng: Chống lại sự xóa bỏ việc Bolshevik hoá ĐCS Nga; Ủng hộ việc Bolshevik hoá
các đảng anh em, ủng hộ việc nhận thức rằng Quốc tế Cộng Sản, trong tinh thần
Lenin, phải trở thành một đảng Bolshevik quốc tếʺ [63].
Dmitry Manuisky, một thành
viên nói tiếng Pháp của QTCS từ Ukraine,
người được cho là xướng ngôn viên cho quan điểm của
Stalin, đã giới thiệu trước Đại Hội sách lược mặt trận thống nhất cho các thuộc
địa. Ông nêu lên việc ĐCS Trung Quốc đã phê phán các thành viên đảng này tham
gia vào Quốc Dân Đảng là ʺphản bội giai cấpʺ. Ông thừa nhận rằng những người
cộng sản phải khéo léo giữa việc lợi dụng những sách lược của mặt trận thống
nhất đang ʺcách mạng hoá các nước phương Đông,ʺ và việc mất đi đặc điểm riêng
biệt của giai cấp họ. Ông công khai tự hỏi rằng những người cộng sản châu Á có
nên ʺkhông những hợp tác với các đảng tiểu tư sản mà còn đi đầu trong việc tập
hợp họ lại trong những quốc gia lạc hậuʺ [64]. Căn cứ vào một bức thư ông viết
vào năm 1925 từ Quảng Đông, Hồ Chí Minh không hề băn khoăn về sách lược hợp tác
và trà trộn này. Ở phần tái bút của bức thư, viết cho các đại diện Pháp tại
QTCS, ông yêu cầu họ liên lạc với Ủy Ban Nghiên Cứu Thuộc Địa của ĐCS Pháp tại Paris để tìm hiểu xem Nguyễn Thế Truyền
có gia nhập ĐCS hay không. Nếu có, Hồ yêu cầu họ ra lệnh cho Truyền ʺgia nhập
Nhóm Lập Hiến vừa thành lập tại Paris để lũng đoạn nhóm này (pour la
noyauter)ʺ [65].
Dù sao trên tổng thể Manuilsky đã cẩn thận
không đi quá xa khi xác nhận sách lược của mặt trận thống nhất. Phần lớn những
phát biểu của ông nhắm vào những vấn đề tự quyết của các quốc gia vùng Balkan
và trung Âu. Tính hiệu quả của ông chắc chắn đã giảm thiểu vì việc M.N.Roy bị
truất phế. Từ năm 1920 Roy đã công khai bất đồng với đánh giá
của những đảng viên Sô Viết về phong trào dân tộc tại các nước thuộc địa. Roy cho rằng QTCS nên quan tâm hơn nữa
đến tầng lớp công nhân cách mạng và đặc biệt là giai cấp nông dân ở các nước
thuộc địa [66]. Khi ông trở thành thành viên với lá phiếu chính thức của Ban
Chấp Hành QTCS, ý kiến của ông đã có nhiều trọng lượng hơn. Phát biểu của Hồ
trong cuộc tranh luận mà tôi đã trích dẫn ở trên, nằm trong phiên họp thứ 22,
sau phát biểu của Roy và Katayama. Rõ ràng là Hồ
ủng hộ chủ trương về thuộc địa của QTCS, nhưng lại không trực tiếp đối
phó với vấn đề đầy tranh cãi của mặt trận thống nhất. Ông chia xẻ với Roy niềm tin rằng cách mạng châu Âu
phải dựa trên sự tiến bộ của phong trào giải phóng tại các nước thuộc địa, và
có vẻ sẵn sàng đưa ra một thảo luận về phương cách quảng bá quan điểm này. Mục
tiêu của ông là sự trì trệ của ĐCS Pháp. Ông còn đi xa hơn trong việc cảnh báo
rằng dân chúng thuộc địa đang ʺhướng về những tổ chức dân chủ cấp tiến như Liên
Đoàn Nhân Quyền... vì những thành phần này đã cố gắng đại diện hoặc ít ra là đã
cho thấy họ đã làm một cái gì đấy cho người dânʺ [67].
Sau Đại Hội 5 QTCS, Hồ Chí Minh còn tham gia
vào Đại Hội 3 Công Đoàn Quốc Tế Đỏ (Red International of Trade Unions, còn gọi
là Profintern, thành lập năm 1921). Một lần nữa, tư tưởng chủ đạo của ông vẫn
là tình cảnh khốn cùng của đất nước mình và sự mong mỏi những đồng chí người
Pháp ủng hộ những người anh em lầm than tại các vùng thuộc địa. Trong bản báo
cáo dài năm trang của ông trước Đại Hội, ông đưa ra tình hình lực lượng công
nhân trưởng thành tại Việt Nam đang chờ đợi để được tổ chức. ʺCó
những công ty với con số thợ thuyền rất cao,ʺ ông nói: 3.000 người tại một nhà
máy sợi ở Bắc Kỳ, 4.000 người tại các mỏ than ở Vịnh Hạ Long; 8.000 công nhân
hoả xa và 30.000 công nhân tại nhà máy Xi Măng Portland. Những công nhân này
làm việc trong tình trạng vô cùng khốn khó, theo lời Hồ, từ 12 đến 14 tiếng một
ngày, và còn hơn thế nữa tại các đồn điền. Không có vấn đề về hưu trí hoặc bảo
hiểm tai nạn lao động; công nhân không được phép đình công [68]. Tồi tệ hơn nữa
là tại Việt Nam đang tồn tại ba loại hình lao động
mà Hồ gọi là ʺba loại hình nô lệʺ [69]. Đầu tiên là những tù khổ sai được các nhà
máy hoặc đồn điền vay mượn ‐ họ làm việc trong khi trên người
phải đeo gông xiềng. Kế đến là những người đủ tuổi để làm phu tạp dịch ʺcỏ vêʺ
(corvée ‐ lao động công ích ‐ ND) ‐ từ 18 đến 60 tuổi. Con số nhất định
cho những ngày lao động công ích thực sự chỉ nằm trên lý thuyết, Hồ nói; ʺTrên
thực tế nó là vô thời hạn. Khi một con kênh cần đào hoặc một đoạn đường cần đắp
hoặc sửa,ʺ ông giải thích, ʺthì lại có một cuộc tổng huy động kéo dài đến vài
thángʺ. Loại hình thứ ba là những người phu được chiêu mộ để đưa sang làm việc
tại những thuộc địa của Pháp ở vùng đảo Thái Bình Dương, nơi mà theo lời Hồ, họ
bị bán cho các chủ đồn điền và xí nghiệp người Âu.
Tình trạng của công nhân vô cùng tồi tệ, nhưng
không hẳn là vô vọng, Hồ phát biểu trước Đại Hội: ʺVới sự trợ giúp của các tổ
chức cách mạng mà chủ yếu là Công Đoàn Quốc Tế, chúng ta có thể phá tan gông
xiềng áp bức của chủ nghĩa tư bản.ʺ Nhưng những người đồng chí Pháp phải có
ʺnhiệm vụ thiết thực để giúp đỡ một cách hiệu quả và thực tế chứ không chỉ bằng
lời nói mà thôiʺ. Hồ thảo ra một văn bản chính thức, kêu gọi các công đoàn Pháp
ủng hộ quyền được thành lập hội đoàn của dân bản xứ và đề nghị phân công ít
nhất là hai cán bộ tổ chức đến Đông Dương [70]. Reynauld, đại biểu Pháp tỏ vẻ
tán thành những đề nghị trên nhưng không đưa ra một hậu thuẫn chính thức đối
với kiến nghị của Hồ vì công đoàn của ông không đủ tài chánh để đưa cán bộ tổ
chức sang Việt Nam [71].
Quốc tế Cộng Sản và
Mặt Trận Thống Nhất ở Trung Quốc
Sự do dự của Quốc tế Cộng Sản đang tách xa ra khỏi
cái gọi là ʺmặt trận thống nhất thượng tầngʺ được cấu thành bởi những thương
lượng giữa tầng lớp lãnh đạo đảng, và nghiêng về ʺmặt trận thống nhất hạ tầngʺ,
tạo ra bởi việc kêu gọi sự ủng hộ những cương lĩnh và hành động của ĐCS từ các
thành phần công nhân không cộng sản và nông dân. Thật mỉa mai là đúng vào thời
điểm này, ĐCS và nhà nước Nga đang thực hiện Luận Cương về Những Vấn Đề Dân Tộc
và Thuộc Địa của Lenin bằng cách giúp tổ chức một mặt trận thống nhất hoàn toàn
thượng tầng giữa những người quốc gia Trung Quốc trong Quốc Dân Đảng và ĐCS
Trung Quốc. Chính sách này có lẽ đã không được đệ trình để thảo luận tại QTCS;
Charles McLane (Giáo sư sử người Mỹ ‐ ND) chỉ ra rằng đây là một ʺchính
sách đa tầngʺ bao gồm ĐCS và các cơ quan chính phủ Nga [72]. Dù những thảo luận
trong QTCS ít nhiều cũng được in ra toàn bộ, nhưng chắc hẳn là vì lý do chính
trị nên những chính sách về Trung Quốc đã không được thảo luận công khai. Bộ
Ngoại Giao Nga không muốn công khai hoá vai trò cố vấn của Borodin cho Tôn Dật
Tiên, vì ngại rằng nó sẽ làm lệch hướng quá trình bình thường hoá
quan hệ với các nền dân chủ phương Tây. (Những tài liệu của Nga vừa được
bạch hoá gần đây cho thấy Borodin là viên chức chính thức trong phái bộ của Bộ
Ngoại Giao Nga tại Bắc Kinh. Leo Karakhan đã cân nhắc việc rút Borodin vào cuối
năm 1923 vì sợ rằng sự công khai của Tôn Dật Tiên về vai trò cố vấn của Borodin
sẽ mang tai tiếng cho Bộ Ngoại Giao [73])
Cơ cấu tổ chức của QTCS về nhiệm vụ hành động ở
phương Đông đã liên tục thay đổi từ năm 1919 trở đi. Để tránh nhầm lẫn về khu
vực và nhiệm vụ của những văn phòng và ban bí thư của các cục Đông Phương và
Viễn Đông, tôi sẽ giải thích vắn tắt về những thay đổi này cho đến thời điểm
1924. Một Phân Cục Đông Phương của QTCS được thành lập vào tháng 12, 1919 theo
quyết định của Ban Chấp Hành, nhưng nó đã gặt hái được những gì thì không rõ
[74]. Vào tháng 7 năm 1920 một phân cục Nhân Dân Phương Đông được thành lập,
trực thuộc Phân Bộ Siberian của ĐCS Nga ở Irkutsk, trong khi đó một Phân Bộ
Đông Phương của của Ban Chấp Hành QTCS ra đời vào tháng 5 năm 1920 tại
Vladivostok [75]. Rồi vào tháng Giêng năm 1921 một bước mới được thực hiện để
liên kết các cơ quan có trách nhiệm về vùng Viễn Đông thuộc ĐCS Nga và QTCS.
Phân cục Nhân Dân Phương Đông tại Irkutsk được đổi thành ʺĐại diện của
QTCS tại Viễn Đông dưới hình thức Ban Bí Thưʺ. Đến tháng 3 năm 1921 có sáu mươi
tám nhân viên tại ban này, trong đó có nhà lãnh đạo tương lai của Mông Cổ là
Choibalsan [76]. Cho đến cuối năm 1921 ban bí thư có bốn bộ phận: Mông Cổ ‐ Tây Tạng,
Trung Quốc, Triều Tiên và Nhật [77].
Nhưng tại Đại Hội 4 vào tháng 12 1922 một bản
báo cáo cho thấy rằng bộ phận phía Đông làm việc không theo một chương trình cụ
thể nào và ʺhoàn toàn vô tổ chứcʺ [78]. Vì thế mà một chỉ thị tái tổ chức lại được
ban hành. Một cơ cấu hợp nhất được thành lập và cũng lại mang tên Cục Đông
Phương và Karl Radek được bổ nhiệm là người đứng đầu vào tháng 5 1923. Phụ tá
của ông là Grigory Voitinsky. Ba phân bộ được thành lập trực thuộc Cục Đông
Phương là: Phân Bộ Cận Đông, gồm Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập, Syria, Palestine, Morocco,
Tunisia, Algeria và Persia; Phân Bộ Trung Đông gồm Ấn Độ thuộc Anh, Đông Dương
và Nam Dương; và Phân Bộ Viễn Đông gồm Nhật, Triều Tiên, Trung Quốc và Mông Cổ
[79]. Sự lưỡng lự và cũng có lẽ là tranh chấp quyền lực làm thay đổi nhanh
chóng việc quản lý các hoạt động của Phân Bộ Viễn Đông. Ngay sau Đại Hội 4, vào
tháng 12 năm 1922, Ủy Ban Vladivostok của Cục Đông Phương QTCS được thành
lập, bao gồm Voitinsky, Sen Katayama
và Maring. Nhưng đến tháng Giêng năm
tới, Phòng Tổ Chức của Ban Chấp Hành QTCS đề xuất việc thiết lập một Ban
Bí Thư Viễn Đông để báo cáo trực tiếp với Ban Chấp Hành QTCS mà không lệ
thuộc vào Cục Đông Phương. Văn phòng Ban Bí Thư Viễn Đông có quyền lực
rộng hơn Ủy Ban Vladivostok, bị chính thức đào thải và tháng 6 1923. Ban Bí Thư
mới cũng nắm quyền quản lý nhân viên Ủy Ban này:Voitinsky, Katayama và Maring.
Mặc dù ban bí thư này rõ ràng là trực thuộc Moscow , Voitinsky và Maring giành phần lớn
thời gian làm việc tại Trung Quốc [80]. Có thể hiểu rằng sự thay đổi hệ thống
điều hành đuợc Bộ Chính Trị ĐCS Nga cho là cần thiết vì đến năm 1923 họ đã
quyết định quan tâm cặn kẽ hơn về việc Nga và QTCS hỗ trợ Trung Quốc. Điển hình
như vào năm 1923 Bộ Chính Trị và có lẽ là chính Stalin đã chọn Mikhail Borodin
nắm việc giúp đỡ Tôn Dật Tiên [81]. Ngay cả vào thời của Lenin, Ban Chấp Hành
QTCS đã bị những thành viên thuộc ĐCS Nga lũng đoạn [82].
QTCS bắt đầu tham gia vào việc cố vấn cho phong
trào cộng sản Trung Quốc vào mùa xuân năm 1920, khi Voitinsky lần đầu tiên đến
Thượng Hải để giúp Trần Độc Tú (Chen Duxiu ‐ ND) soạn thảo Cương Lĩnh Đảng Cộng
Sản Trung Quốc vào tháng 10 năm ấy [83]. Maring và một phái viên khác của QTCS
là Nikolsky có mặt tại Đại Hội thứ nhất ĐCS Trung Quốc vào tháng 7 1921 ‐ báo cáo của
Maring cho thấy rằng ông đã đưa ra vấn đề liên minh giữa cộng sản và Quốc Dân
Đảng trong chuyến đi đầu tiên của mình, nhưng đã bị đại hội bác bỏ [83]. Vì thế
mà những chủ trương ủng hộ việc liên minh với các phong trào dân tộc tại các
quốc gia tiền tư bản vẫn chỉ là một tuyên ngôn mà không có một kết quả thực
tiễn nào. Vào tháng 8 1922, Maring đã thuyết phục được 5 lãnh đạo tối cao của
ĐCS TQ chấp thuận một chính sách gọi là ʺKhối chính trị bên trongʺ [85]. chính
sách này kêu gọi tất cả các đảng viên ĐCS TQ tham gia vào Quốc Dân Đảng trong
khi vẫn giữ nguyên cơ cấu và mục tiêu của ĐCS.
Vào năm 1923, nước Nga Sô Viết non trẻ đã bắt
đầu vạch ra một cương lĩnh hành động để hỗ trợ chính quyền cộng hoà của Tôn Dật
Tiên ở miền nam Trung Quốc. Chủ trương này được phát triển từ những mục tiêu
đối ngoại của Nga ‐ tìm kiếm đồng minh và an vị bờ cõi ‐ chúng được theo đuổi với một tốc độ
nhanh hơn là những thành viên QTCS muốn. Charles McLane (Giáo sư sử người Mỹ ‐ ND) chỉ ra
rằng QTCS không trực tiếp liên quan đến những thương lượng ngoại giao dẫn đến
sự thoả thuận giữa Adolf Joffe và Tôn Dật Tiên vào tháng Giêng 1923 [86]. Thoả
Thuận Joffe‐Tôn đã chứng nhận sự trợ giúp của Moscow cũng như sự chấp nhận có điều kiện
của Tôn. Sau đó thì không những chỉ có QTCS cung cấp cố vấn cho Trung Quốc, mà
còn có cả cố vấn từ Ủy Ban Trung Ương Đảng Bolshevik Nga, Học Viện Hồng Quân,
Công Đoàn Quốc Tế và Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Quốc Tế. Sau khi Hồ chí Minh đến
Quảng Châu thì Nông Dân Quốc Tế cũng có đại diện tại đây.
Nhiệm vụ của QTCS ở Trung Quốc giống như là một
chi nhánh của lãnh sự Nga mà trong đó những quyết định cuối cùng đều trực thuộc
sự độc quyền của Stalin và Ủy Ban Trung Ương ĐCS Nga. Những chỉ thị của QTCS
với ĐCS Trung Quốc cho đến giữa năm 1923 cho thấy một biện pháp cẩn trọng đối
với những chủ đích của Tôn. Ví dụ như chỉ thị tháng 5 1923 của Ban Chấp Hành
QTCS gửi đến Đại Hội 3 ĐCS Trung Quốc yêu cầu rằng đảng này ʺphải cố gắng thiết
lập một liên minh công nôngʺ; nhưng chỉ thị này lại tiếp tục, ʺkhông cần phải
nói ra rằng quyền lãnh đạo phải thuộc về đảng của giai cấp công nhân... Để củng
cố ĐCS, biến nó thành đảng của đại đa số giai cấp vô sản, tạo ra những lực
lượng của giai cấp công nhân trong các liên minh ‐ đây là nhiệm vụ hàng đầu của các đảng
viên cộng sản...ʺ [87]. Nhưng việc tái tổ chức của các cơ quan đặc trách vùng
Viễn Đông của QTCS có thể xem là bằng chứng là những cố vấn của QTCS sẽ làm
việc sát cánh với Ủy Ban Trung Ương ĐCS Nga để thành lập mặt trận thống nhất
giữa ĐCS Trung Quốc và Quốc Dân Đảng. Như đã nói ở trên, vào tháng Giêng năm
1923, cùng thời gian bản Thoả Thuận Joffe‐Tôn được ký, thì Ban Bí Thư vùng
Viễn Đông trực thuộc Ban Chấp Hành QTCS cũng được thành lập. Khi Đại Hội 3 ĐCS
Trung Quốc chính thức thông qua chính sách Khối Chính Trị bên trong vào tháng 5
1923, hậu trường đã được sắp xếp cho để Mikhail Borodin bắt đầu nhiệm vụ
của mình tại Quảng Châu. Borodin (Mikhail Grusenberg),một một phái
viên dày dạn của QTCS, ông đã ở Mỹ 11 năm để dạy tiếng Anh cho dân nhập cư cũng
như tổ chức những người xã hội gốc Nga. Borodin rời Bắc Kinh đến Quảng Châu vào
tháng 9 1923.
Nhiệm vụ của Hồ tại
Quảng Châu
Sau Đại Hội 5 QTCS, Hồ Chí Minh cuối cùng đã
thuyết phục được Cục Đông Phương thực hiện kế hoạch đi Trung Quốc của ông.
Nhiệm vụ của ông hình như không được định nghĩa một cách rõ ràng. Dù vậy, khó
mà tin được rằng những người lãnh đạo QTCS đã không quan tâm đến yêu cầu của
ông. Những tóm lược về các sự kiện trong lá thư viết ngày 9 tháng 9 năm 1924
cho thấy rõ là ông rời khỏi Moscow với rất ít hậu thuẫn:
Sau Đại Hội 5, Cục Đông Phương thông báo cho
tôi rằng: 1) họ sẽ giới thiệu tôi với Quốc Dân Đảng và tôi sẽ phải làm việc cho
họ vì ngoài chi phí cho chuyến đi, Cục đã không có một trợ giúp tài chính nào
khác; 2) tôi đến đấy với tư cách cá nhân chứ không phải làm một phái viên của
QTCS; 3) tôi không có bất cứ liên hệ gì với đảng chúng ta [có lẽ ông ám chỉ ĐCS
Pháp vì ông vẫn là một đảng viên của nó) khi đến Trung Quốc.
Mặc dù những điều kiện trên có vẻ khó khăn
nhưng tôi vẫn chấp nhận chúng để được đi khỏi nơi đây. Để bù đắp cho điều kiện
2 và 3, tôi đã yêu cầu đảng mình gửi cho tôi một ủy nhiệm thư đến ĐCS Trung
Quốc, yêu cầu họ giúp tôi làm việc. Vì thế khó khăn trên đã được giải quyết
[88].
Dù vậy chuyến đi của ông vẫn bị dời lại, lần
này là do cuộc nội chiến vừa nổ ra tại Trung Quốc.
ʺQuốc Dân Đảng vẫn chưa trả lời bức thư của Cục
Đông Phương. Và ngày khởi hành của tôi lại bị dời lại vô hạn địnhʺ [89], ông
viết. Những khó khăn này đã không xảy ra, ông tiếp tục, nếu không vì trở ngại tài
chính. Ông đề nghị QTCS nên đơn giản là chu cấp tiền để ông sống ở Trung Quốc
vì ông vẫn đang được họ chu cấp tiền chỉ để ʺngồi chơi không ở Moscowʺ.
Vào ngày 19 tháng 9 Hồ viết thư cho Albert
Treint, một đảng viên của ĐCS Pháp đã trở thành viên tối cao của QTCS từ Đại
Hội 5. Ông là thành viên chính thức của Ban Chấp Hành QTCS cũng như Ban Bí Thư.
Trong bức thư Hồ nói rõ khó khăn của mình trong vấn đề mưu sinh tại Quảng Châu.
ʺViệc kiếm sống không là một khó khăn với tôi, ngay cả ở một nước mà tôi chỉ biết
ngôn ngữ viết chứ không biết ngôn ngữ nói,ʺ ông giải thích. ʺNhưng trong trường
hợp của tôi thì có vài trở ngại,ʺ ông bổ sung. Trước hết, ông than phiền rằng
ông phải sống bất hợp pháp trong một thành phố ʺđầy rẫy mật vụ Phápʺ. Thứ hai,
ông ʺphải được hoàn toàn tự do để làm những gì mình muốn như nghiên cứu tình
hình, gặp gỡ mọi người và tổ chức một cái gì đóʺ. Ông thỉnh cầu Treint lần cuối
cùng là nên trình bày trường hợp của ông cho Ban Chấp Hành QTCS [90]. Treint đã
trình bày với Ban Bí Thư QTCS, cơ quan có thẩm quyền để ra quyết định nhanh
chóng, ông kêu gọi Ban Bí Thư yêu cầu Cục Đông Phương xét lại đề nghị trợ giúp
tài chánh cho Hồ:
ʺTrong khi thực dân Pháp đang dùng Đông Dương
làm bàn đạp để bắt đầu can thiệp vào Trung Quốc thì đây không phải là lúc để
Cục Đông Phương cắt giảm nỗ lực tại Đông Dương nếu họ có một chút ý thức chính
trịʺ [91].
Rõ ràng là lời kêu gọi của Treint đã thành
công, vì cuối cùng Hồ Chí Minh đã đến được Quảng Châu khoảng ngày 11 tháng 11
1924. Khi ông báo cho một người bạn tại QTCS về chuyến đi của mình, ông nói là
ông đang trọ tại nhà Đồng chí Borodin với hai hoặc ba đồng chí người Trung Quốc
khác. Ông cho biết địa chỉ của mình là Lou, thuộc Văn Phòng ROSTA, Quảng Châu,
Trung Quốc [92]. Trong khoảng thời gian giữa 22 tháng 9 đến khi Hồ đến Quảng
Châu, ai đó đã sắp xếp cho ông làm công việc thông dịch cho ROSTA, Cơ Quan Điện
Báo Nga, tiền thân của thông tấn xã Tass. Vì Borodin đã đi Trung Quốc vào mùa
thu 1924, việc này không thể là do ông sắp đặt. Rất có khả năng là do công can
thiệp của Voitinsky mà Hồ tìm được nơi ở lý tưởng này tại Quảng Châu.
Voitinsky lúc ấy đã quay lại Moscow
và quay lại Trung Quốc vào tháng
11
1924[93]. Thư từ trong văn khố QTCS cho thấy
ông có một đặc vụ hoặc chỉ điểm tại Bắc Kinh tên là Sam Slepak, người
này làm việc tại ROSTA trong năm 1923. Vì Slepark
là Phó Cục Đông Phương vào năm 1922, ta có thể cho rằng một nhân viên
thường trực của QTCS và ROSTA đã được dùng như là vỏ bọc
cho hoạt động của QTCS [94]. Việc
Hồ có báo cáo trực tiếp với Voitinsky
khi ông hoạt động tại Trung Quốc hay không thì không rõ, nhưng Voitinsky rất có
thể là người thu nhận những báo cáo viết bằng tiếng Anh của Hồ từ Quảng Châu
(Cả hai Voitinsky và Slepak, cũng như Borodin, đều thông thạo tiếng Anh, một
lợi thế quan trọng để hoạt động tại Trung Quốc). Trong khi công việc thông dịch
và thông tín viên của Hồ đủ để ông chi tiêu hàng ngày nhưng nó
không tạo dựng cho ông được một vỏ bọc như là một phóng viên thực
thụ. Trong lá thư đầu tiên gửi cho Nông Dân Quốc Tế, ông yêu cầu họ tiếp tục
giữ tên ông trong danh sách Chủ tịch đoàn hoặc nếu họ quyết định rút tên ông ra
thì nên đưa ra lý do rằng ông bị bệnh ‐ ông không muốn mọi người biết
việc ông đã đến Quảng Châu vì ông đang sống bất hợp pháp tại đây [95].
Tóm lại, ta có thể khẳng định một cách chắc
chắn là Hồ Chí Minh không được gửi đến Quảng Châu như một phụ tá trực tiếp hoặc
thư ký cho Borodin như trong những giả thiết trước đây [96]. Dù vậy, vị thế và
quan hệ của ông trong QTCS giai đoạn 1923‐4 vẫn là một bí ẩn. Có rất ít cơ sở
trong văn khố của QTCS về việc Hồ là một thành viên tên tuổi trong giai tầng
lãnh đạo ngang hàng với Manuilsky, hoặc được ai đó đỡ đầu [97]. M.N.Roy,
một nhân vật đầy ấn tượng nói được nhiều thứ tiếng người gốc Brahman
Bengal đã nổi lên trong chính trường của QTCS giai đoạn từ năm 1920, chính là
đại biểu kỳ cựu cho các vấn đề thuộc địa tại Đại Hội 5 QTCS. Điều rõ rệt là Hồ
thích hợp với chủ trương mặt trận thống nhất cho các thuộc địa hơn là Roy , và vì thế đã được Manuilsky khuyến
khích ông lên tiếng tại Đại Hội. Nhưng không như Roy và những người gốc Á khác hoạt động
trong QTCS trong năm 1924, Hồ không hề đại diện cho một đảng cộng sản châu Á
nào cả. Cả hai Semaun của Nam Dương và Sen Katayama của Nhật được đề cử vào Ban
Chấp Hành QTCS năm 1924 có thể là vì họ đại diện cho những phong trào cộng sản
tương đối lớn mạnh.
Hơn nữa, sự đồng cảm Hồ đối với quan điểm của
Manuilsky không đồng nghĩa với những đặc ân. Trong một lá thư gửi Petrov, lãnh
đạo Cục Đông Phương, Hồ than phiền về giá tiền thuê nhà mà ông phải trả cho
những tiện nghi tồi tệ tại Khách sạn Lux chật chội. ʺTrong những tháng Chạp,
tháng Giêng và tháng Hai,ʺ ông viết, ʺTôi ở phòng 176, luôn có 4 hay 5 người ở
chung. Ban ngày thì không ngớt ồn ào làm cản trở công việc của tôi. Ban đêm tôi
lại bị rận cắn không thể nghỉ ngơi được.ʺ Từ tháng 3, ông được chuyển sang một
căn phòng đơn, ông nói. ʺVới diện tích chật chội và đồ đạc giản đơn trong phòng
tôi so với những phòng lớn hơn, thoải mái hơn, nhiều đèn, điện thoại, phòng
tắm, tủ quần áo, sofa, vân vân... với giá phải chăng thì số tiền họ bắt tôi
phải trả thì thật kinh khủng” [98] Với giọng điệu của kẻ bị sỉ nhục ‐ Hình như ông
cảm thấy rằng mình bị đối xử tệ hơn những người châu Âu hoặc có tầm cở như Roy.
Ấn tượng trong những thư từ liên lạc của Hồ Chí
Minh trong suốt 14 tháng sống tại Nga là nỗi bực tức về sự bất động của QTCS.
Điều này có thể phản ánh thực tế của QTCS là chính nó cũng không có
được một đường lối chắc chắn hoặc
vì việc đấu tranh bè phái giữa
Trotsky và Zinoview đã thu hút mọi quan tâm của giới lãnh đạo. Vị
thế đảng viên của Hồ trong ĐCS Pháp có thể đã làm cho tình huống của ông thêm
phức tạp ‐ Ảnh hưởng của Trotsky đối với ĐCS Pháp cũng đáng kể và đến tháng Giêng
năm 1923 ông vẫn còn giao chức cố vấn của QTCS cho ĐCS Pháp, với Jaques Doriot
là người phụ tá [99]. Trong bãi mìn chính trị này, Hồ Chí Minh có vẻ như đã học
được cách ứng xử với những cấp quyền thế để theo đuổi những mục đích của mình.
Phong cách của ông khác biệt hẳn với Roy ‐ Sở trường của Roy là tranh luận lý thuyết, và đến năm
1929 ông đã bị đẩy ra khỏi QTCS. Hồ thấy có thể quảng bá kế hoạch của mình với
Albert Treint, một người cánh tả theo phe Zinoviev, mặc dù Hồ không hoàn toàn
đồng ý với với mọi quan điểm của Treint. Khi đến Quảng Châu, Hồ đã viết thư cho
một đồng nghiệp tại Moscow rằng Treint đã ʺđấu tranh hết mìnhʺ
để ông đến được Trung Quốc [100]. Dấu hiệu đầu tiên về vị thế chính trị không
hoàn toàn vững chắc của Hồ trong QTCS chỉ xuất hiện vào khoảng cuối năm 1927 và
1928, khi ông bắt đầu chuẩn bị quay lại châu Á. Đến cuối năm 1927 Albert Treint
bị trục xuất khỏi ĐCS Pháp và những ai tỏ rõ ngọn nguồn về sự thất bại của
chính sách của Stalin về mặt trận thống nhất tại Trung Quốc đều bị đặt dưới tầm
nghi vấn.
CHƯƠNG
3:
THỜI
GIAN TẠI QUẢNG CHÂU VÀ NHỮNG HỆ QUẢ (1924‐8)
Mặc dù Hồ Chí Minh không nói được tiếng Quảng
Châu nhưng khi đặt chân đến bến cảng nhiệt đới này ông vẫn có cảm giác của một
chuyến hồi hương sau bao cách trở. Quảng Châu là một tiền đồn cho những chiến
sĩ Việt Nam tự do từ khi triều đại Mãn Châu sụp
đổ vào năm 1911. Nhưng những hy vọng ban đầu của người Việt về hậu thuẫn của
cộng hoà Trung Hoa trong việc giúp đỡ tiền bạc và vũ khí cho cuộc khởi nghĩa
chống Pháp đã nhanh chóng tiêu tan. Việc tăng cường đàn áp của Pháp tại Việt Nam trong giai đoạn Chiến Tranh Thế
Giới thứ I cộng với ảnh hưởng mờ nhạt của Tôn Dật Tiên tại Trung Quốc dẫn đến
những thất vọng đắng cay của người cầm đầu phong trào chống Pháp Phan Bội Châu.
Những hoạt động phá hoại với mục đích kêu gọi sự quan tâm của chính phủ Tôn Dật
Tiên cũng như chính phủ Đức trong thời kỳ chiến tranh đã làm mất đi một số
thành viên trung thành của Quang Phục Hội [1]. Sau vụ đặt bom giết hai đại tá
Pháp tại một khách sạn Hà Nội tháng 4 năm 1913, bảy người đã bị xử tử hình và
57 người khác bị cầm tù, trong đó có hai người em của Phan Văn Trường [2]. Bản
thân Phan Bội Châu cũng bị giam tại một nhà tù Trung Quốc trong những năm 1914‐17, sau đó ông
ẩn dật tại Hàng Châu và kiếm sống bằng cách viết bài cho tờ báo Quân Sự [3].
Hồ Chí Minh xuất hiện trong bối cảnh ấy vào
tháng 11 1924, vào lúc sự hỗ trợ quân sự của Nga tại Quảng Châu đang đến mức
tối đa với khoảng 50 giảng viên [4]. Chuyến tàu chở vũ khí đầu tiên từ cảng Vladivostok đến Quảng Châu vào ngày 8
tháng 10 [5]. Mặt trận thống nhất giữa ĐCS Trung Quốc và Quốc Dân Đảng đã được
chính thức hoá trong Đại Hội Quốc Dân Đảng lần
1 vào tháng Giêng 1924, khi việc thành lập
trường quân sự Hoàng Phố trên sông Châu Giang được phê chuẩn. Cũng thời gian đó
ba đảng viên cộng sản cũng được bầu vào Ban Chấp Hành Trung Ương Quốc Dân Đảng,
trong khi đó 6 đảng viên cộng sản khác, trong đó có Mao Trạch Đông cũng là
những thành viên ứng cử [6]. Thời gian Hồ sống tại Trung Quốc cho đến tháng 5
1927, trùng hợp với thời điểm thành công chính trị của chính phủ tại Quảng
Châu. Ông đã tận dụng được khoảng thời gian đầy lợi thế của mặt trận thống
nhất, thời gian mà những người lưu vong Việt Nam tại Trung Quốc có thể tự do
hấp thụ những bài học và ý tưởng mới từ những cố vấn người Nga, từ những vấn đề
quân sự đến lý luận chính trị và phương pháp tổ chức. Khí thế sôi sục tại Trung
Quốc đã giúp dấy lên một làn sóng hoạt động chính trị mới tại Việt Nam , nơi cũng đã cung cấp những thành
viên mới cho lực lượng nổi dậy trong tương lai ở miền nam Trung Quốc. Điểm
chính của chương này sẽ là việc Hồ đã lợi dụng những bối cảnh trên như thế nào
để tạo dựng mầm mống cho đảng cộng sản Việt Nam .
Dù thế, thật quá đơn giản nếu cho rằng những
năm tháng của Hồ tại Quảng Châu chỉ là một kẻ truyền giáo từ Moscow đến để cải đạo mọi người qua chủ
nghĩa cộng sản. Mặt trận thống nhất cũng là một kinh nghiệm đáng học cho ông
cũng như những người Việt Nam khác đã sống qua giai đoạn này. Hồ
đến vào thời điểm cao trào của khởi nghĩa nông dân tại tỉnh Quảng Châu mà ông
có nhiệm vụ phân tích và cổ vũ dưới danh nghĩa của Nông Dân Quốc Tế. Đây là lần
đầu tiên ông tiếp xúc với giai cấp nông dân châu Á kể từ thuở thiếu thời tại
Trung phần Việt Nam, và chắc chắc là nó đã đánh dấu một bước tiến quan trọng
trong quá trình chuyển biến của ông từ một tuyên truyền viên để trở thành một
nhà tổ chức cách mạng thực thụ. Mặt trận thống nhất giữa ĐCS Trung Quốc và Quốc
Dân Đảng lại là một hiện tượng chính trị phức tạp hiếm thấy mà một thời gian
sau nó vẫn bị đem ra tái thẩm định và phê phán. Cuối cùng khi mặt trận này tan
vỡ vào năm 1927, đấu đá nội bộ trở thành một phần trong cuộc đấu tranh gay gắt
cho linh hồn của phong trào cộng sản thế giới. Sự tan rã của mặt trận thống
nhất trở thành khuôn mẫu cho những người cộng sản với những mục đích khác nhau ‐ cả hai trào
lưu Stalinist và Trotskyist đều dùng nó để chứng minh rằng không bao giờ tin
vào những đồng minh tư sản. Hồ Chí Minh và những đồng hương trải qua thời kỳ
hỗn loạn này đã không hoàn toàn rút ra bài học giống nhau. Cụ thể là những học
viên Việt Nam sống tại Trung Quốc trong giai đoạn
tan rã của mặt trận thống nhất đã trở thành những người cực đoan nhất trong
giai tầng chính trị Việt Nam . Phần cuối của chương này sẽ phân
tích những hệ quả này và vị trí của phong trào cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1928.
Có ba nguồn tài liệu chính về giai đoạn này
trong sự nghiệp của Hồ Chí Minh, mỗi tài liệu phản ảnh một quan điểm khác nhau
về những hoạt động của ông. Trước hết là những báo cáo và thư từ của ông gửi
đến các cơ quan của QTCS có trách nhiệm giám sát những hoạt động của ông về
việc kết nạp những cán bộ khung cho mạng lưới cộng sản Việt Nam . Kế đến là những thư từ của ông gửi
cho Nông Dân Quốc Tế, trong đó cho thấy ông đã tích cực tham gia vào phong trào
nông dân tại Quảng Đông, đặc biệt là trong năm 1925. Nguồn tài liệu thứ ba là
tàng thư Pháp, cụ thể là những báo cáo của điệp viên Sở Liêm Phóng có tên là
Lâm Đức Thụ (còn có tên là Nguyễn Công Viễn, Nguyễn Chí Viễn hoặc Hoàng Chấn
Đông).
Là một trong những phụ tá chủ lực của Phan Bội
Châu, từng tốt nghiệp Học Viện Quân Sự Bắc Kinh, Lâm Đức Thụ (còn gọi là điệp
viên Pinot) đã sớm trở thành một thành viên trong nhóm bí mật của Hồ. Là con
trai của Nguyễn Hữu Đàn, một một đồng học với cha của Hồ tại Trường Quốc Tử
Giám ở Huế [7]. Những báo cáo của Thụ gửi cho Sở Liêm Phóng đôi khi
bao gồm những nhận định sâu sắc về phương pháp
hoạt động của Hồ, nhưng phần đông
thường là những tường thuật từ những tin
đồn gián tiếp, giống như những mật vụ khác của Sở Liêm Phóng đã
từng làm. Việc này chỉ có thể giải thích là do Thụ không lọt sâu vào được hàng
ngũ tin cẩn của Hồ ‐ nhưng cũng có thể là do Thụ đã không báo cáo tất cả với Sở Liêm Phóng.
Những cộng tác viên của Thụ, trong đó có cả hai đồng minh gần gũi nhất với Hồ
là Lê Hồng Sơn và Hồ Tùng Mậu, đều tin rằng Lâm Đức Thụ chỉ truyền đạt những
thông tin vô bổ cho người Pháp để nhận tiền thưởng đem giúp cho tổ chức[8].
Công bằng mà nói, rõ ràng là Sở Liêm Phóng cũng
đã gặt hái được nhiều thành quả từ sự hợp tác của Lâm Đức Thụ. Rõ ràng là ông
là một điệp viên vô cùng quí giá ít nhất là cho đến năm
1929. Ông rất tự tin về giá trị của mình nên đã
liên tục yêu cầu tăng tiền thưởng. Ví dụ như vào tháng Chạp năm 1926, ông than
phiền rằng tiền lương của mình bị chậm trễ ʺvà hơn thế nữaʺ, ông viết, ʺtôi
chẳng nhận được toàn bộ số tiền còn thiếu và những chi phí liên lạc đang làm
tôi phá sản” [9] Là một thợ chụp ảnh tại Quảng Châu, ông đã chụp hình rất nhiều
thành viên vừa tham gia vào nhóm hoạt động của Hồ Chí Minh [10]. Những bức ảnh
này đã được người Pháp sử dụng trong giai đoạn 1930‐1 để nhận diện
những nghi can cộng sản. Dù vậy, đến tận cuối năm 1929 những người cộng sản
miền nam Trung Quốc mới vỡ lẽ rằng lòng trung thành của Thụ chỉ dành cho người
Pháp [11]. Vào đầu năm 1925, Thụ đã tìm cách đánh động người Pháp rằng Hồ Chí
Minh đã đến Trung Quốc dưới bí danh Lý Thụy [12]. Mọi cố gắng của Hồ nhằm giữ
bí mật về sự hiện hữu của ông đối với người Pháp đã trở nên vô ích.
Bước đầu tổ chức
Hồ thông báo việc ông đến Quảng Châu cho những
đồng sự cộng sản trong một số thư từ đề ngày 12 tháng 11 năm 1924. Ông bảo rằng
ông đã đến nơi một ngày trước đó [13], mặc dù trong thư ông lại viết như ông đã
chứng kiến rất nhiều sự kiện xảy ra tại Trung Quốc lúc bấy giờ. Một trong những
lá thư có nội dung tường thuật trực tiếp việc bà Fanya Borodin, vợ của
Mikhail Brorodin, đã tổ chức phong trào phụ nữ Trung Quốc ra sao [14]. Có thể
ông đã đi xa lên đến Thượng Hải với Voitinsky, người đã từ Moscow quay lại Trung Quốc vào tháng 11.
Dù gì đi nữa, ông đã mau chóng tiếp cận và tổ chức liên lạc với Cơ quan ROSTA,
nơi chu cấp nguồn thu nhập của ông trong thời gian sống tại Quảng Châu. Vấn đề
quan tâm cấp bách nhất trong thủ đô nước cộng hoà Trung Hoa lúc ấy là chuyến đi
của Tôn Dật Tiên đến Bắc Kinh, vị tổng thống Quốc Dân Đảng hy vọng có thể
thương lượng về một hoà hoãn chính trị với các lãnh chúa phía bắc [15]. Hồ viết
bằng tiếng Anh với lối hành văn súc tích thường lệ cho một người bạn vô danh ở
QTCS: ʺTôi vẫn chưa gặp gỡ ai cả. Mọi người ở đây đều bận rộn
về chuyến du hành lên phương Bắc của Bác sĩ Tônʺ [16]. Trong bức
thư gửi cho Tomas Dombal, tổng bí thư Nông Dân Quốc Tế người Ba Lan, ông xin
lỗi vì đã không thông báo cho những uỷ viên ban chấp hành về chuyến đi Trung
Quốc của ông. ʺQuyết định cho chuyến đi từ Moscow của tôi đã được đưa ra rất đột ngột
và tôi đã không có thời gian báo cho ông biết,ʺ ông viết bằng tiếng Pháp. Sau
đó ông tường thuật việc những nông dân cùng khổ được tổ chức ra sao dưới ʺsự
bảo hộ của Quốc Dân Đảng, nhưng lại ở dưới sự chỉ đạo của những người cộng sản.
Đây là cơ hội tuyệt vời cho việc tuyên truyền của chúng taʺ [17].
Hồ đã giả danh một nữ đảng viên Quốc Dân Đảng
có tên là Loo Shing Yan để viết bài tường thuật về phong trào phụ nữ. Ông gửi
kèm với một lá thư giới thiệu cho một tờ báo‐thư phụ nữ [18]. ʺKhi tôi còn làm
việc tại QTCSʺ, ông viết, ʺTôi rất hân hạnh được hợp tác với quí báo. Hiện nay
tôi mong muốn được tiếp tục hợp tác. Nhưng vì tôi đang hoạt động bất hợp pháp
tại đây nên tôi sẽ gửi những bài báo dưới dạng ʺnhững lá thư từ Trung Quốcʺ, và
sẽ ký tên của một phụ nữ. Tôi cho rằng việc này sẽ giúp chúng giữ được tính
nguyên thuỷ và đa dạng, và đồng thời cũng để bảo đảm bí mật cho tôi.ʺ Ngay khi
Hồ nhận nhiệm vụ là một thông dịch viên và tuyên truyền viên cho ROSTA chắn hẳn
là ông đã tìm cách liên lạc với những người Việt lưu vong sống rải rác ở miền
nam Trung Quốc. Vào cuối năm 1924 những người này dường như không có một tổ
chức chặt chẽ nào. Họ đã được thu nhập vào những học viện hoặc quân đội địa
phương, cụ thể là quân đội Vân Nam của tướng Yang Ximin, đang chia sẻ quyền lực
tại tỉnh Quảng Đông cho đến giữa năm 1925. Một số khác như thủ lĩnh phiến quân
người Việt gốc Hoa là Tam Kam Say, một thổ phỉ, kết giao với bọn buôn thuốc
phiện và trộm trâu ở vùng biên giới. Ngay cả trước khi Hồ đến Trung Quốc, vị
thế của Phan Bội Châu trong thành phần lưu vong người Việt cũng đã trở nên mờ
nhạt hơn thời kỳ trước chiến tranh. Trong khoảng thời gian 1923, một số trong
họ bắt đầu gây dựng một tổ chức mới lấy tên là Tâm Tâm Xã và không mời Phan Bội
Châu tham gia. Thanh danh của ông đã bị hoen ố bởi luận thuyết về sự hợp tác
Pháp‐Việt mà ông đã viết theo chỉ thị của Phan Bá Ngọc, một người lưu vong và
bị tình nghi là chỉ điểm cho Pháp. Phan Bá Ngọc là con trai của thủ lĩnh
dân tộc Phan Đình Phùng người Nghệ Tĩnh, Ngọc bị
thuyết phục bởi những hứa hẹn cải cách của Toàn Quyền Sarraut[19]. Ông đã
bị ám sát với tội danh phản bội bởi Lê Hồng Sơn vào năm 1922 theo lệnh của
Cường Để [20].
Tâm Tâm Xã bắt đầu khôi phục lại một số mạng
lưới quyên góp trong nước của Phan Bội Châu, và vào tháng 6 1924 họ đã thực
hiện một vụ đánh bom nhằm vào Toàn Quyền Pháp Merlin đang đi qua Quảng Châu
[21]. Trong khi tài liệu của Hà Nội và hồi ký của Phan Bội Châu đều không nhấn
mạnh việc này, Lê Hồng Sơn sau này đã khai nhận với Sở Liêm Phóng Pháp về vai
trò lãnh đạo của Nguyễn Hải Thần trong vụ mưu sát. Nguyễn Hải Thần là một người
quốc gia gốc miền bắc đã tham gia phong trào Phan Bội Châu năm 1905 và là một
du sinh tại Nhật. Chuyện kể rằng ông đã tìm gặp một kẻ phản loạn người Hoa là
sĩ quan trong quân đội Vân Nam đang đồn trú tại Quảng Châu, người này đã giúp
ông chế tạo hai chiếc cặp đựng bom. Một chiếc được đặt tại khu tô giới Pháp là
Sa Diện bởi một người lưu vong tên là Phạm Hồng Thái giả dạng một nhiếp ảnh viên.
Quả bom nổ giết chết ba khách người Pháp nhưng không trúng Merlin [22].
Phạm Hồng Thái chạy trốn và bị chết đuối trên sông Châu Giang và trở thành một
anh hùng dân tộc. Điều cay đắng là vào thời điểm vinh quang này của những người
Việt quốc gia, được xem như là màn khởi đầu cho trận chiến mới chống lại người
Pháp, cũng là thời điểm mà Lâm Đức Thụ vừa chiếm được lòng tin của Liêm Phóng
Pháp. Những đồng chí của ông cho rằng chính ông đã báo trước với người Pháp về
vụ đánh bom và cũng đã giao nộp chiếp cặp đựng bom thứ hai cho họ để lấy thưởng
[23].
Việc ám sát Merlin dường như đã giúp Phan Bội
Châu gia tăng sinh lực. Ông đến Quảng Châu vào cuối mùa hè, vài tháng trước khi
Hồ đến, để hội ý với những người lưu vong Việt Nam và để tiếp xúc những cố vấn
Nga vừa được cài đặt tại Học Viện Quân Sự Hoàng Phố [24]. Vào thời điểm ấy có
lẽ ông đã giúp một số môn đệ trẻ của mình được thu nhận vào trường này nhờ sự
tận tâm từ văn phòng của một lãnh đạo
Quốc Dân Đảng là Liêu Trọng Khải (Liao
Zhongkai ‐ND) [25]. Ông cũng bàn thảo với các đồng hương lưu vong về việc đổi
Quang Phục Hội trở thành Việt Nam Quốc Dân Đảng. Họ đã thành lập một số uỷ ban,
dựa trên cơ cấu tổ chức của Quốc Dân Đảng Trung Quốc, theo trong hồi ký của ông
[26]. Nhưng đến tháng 11 1924 Phan lại quay về Hàng Châu và ở lại đấy cho đến
tháng 6 năm sau.
Trong số những học viên người Việt theo học tại
Học Viện Hoàng Phố vào mùa thu 1924 có Lê Hồng Sơn, Lê Hồng Phong và Lê Quảng
Đạt, đều là người Nghệ An [27]. Nhưng một số học viên theo học tại Hoàng Phố
khoảng giữa năm 1925 là những học viên thuộc quân đội Vân Nam trong năm 1924,
có lẽ dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Hải Thần. Những người này gồm có: Hoàng
Lương, Lưu Bích, Ngô Chính Quốc, và Liêu Khắc Thanh, theo báo cáo của Lâm Đức
Thụ. Cùng với Nguyễn Hải Thần, những người lưu vong lớn tuổi khác như Đinh Tế
Dân và Đặng Sư Mặc đã làm đến chức sĩ quan quân đội Vân Nam. Cũng nên nhớ rằng
cho đến mùa thu 1924, Hoàng Phố chỉ vừa mở cửa được vài tháng và vẫn còn trong
giai đoạn tổ chức. Vào tháng 10 1924, Ủy Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc nói rõ
rằng họ đã không vừa lòng mấy với cung cách làm việc của học viện. Họ báo cáo
với Borodin rằng những kẻ phiến loạn đang cầm đầu học viện và một số trung đoàn
kiểu mẫu vừa thành lập đã ʺnằm trong tay những người nàyʺ. ʺHọ đang sử dụng
tiền bạc của ông để làm những việc quái quỉ gì không ai biết,ʺ họ viết trong
thư [29]. Vì thế rất khó mà biết được chất lượng về quân sự và chính trị mà
những học viên người Việt thuộc những khoá đầu tiên đã học được.
Hồ Chí Minh đến Quảng Châu vào một thời điểm
thuận lợi, khi người Việt vừa nhận ra được tiềm năng của phái đoàn cố vấn Nga
nhưng lại chưa quyết định được sẽ phải làm gì sau vụ đánh bom ám sát Toàn Quyền
Merlin. Phan Bội Châu đang ở Hàng Châu, quá xa để đóng vai trò quyết định
về những công tác hàng ngày ngay cả nếu những người lưu vong trẻ sẵn lòng để
ông tham gia vào những thảo luận của họ. Là một thành viên trong phái
đoàn cố vấn Nga và là người từng sống tại nhà của Borodin, Hồ có được lợi thế
trong việc tìm kiếm hậu thuẫn cho tổ chức của những người
quốc gia mà sau này đã tiếp thu những đường
lối tổ chức chính trị Leninist của ông. Nhưng tìm được hỗ trợ
tài chính từ phái đoàn Nga thì không dễ dàng như người ta nghĩ. Hơn nữa, tình
hình nội bộ của những người Việt lưu vong cũng lỏng lẽo hơn là mọi người vẫn
nghĩ. Trong thời gian từ tháng 12 đến tháng 9 1925 Hồ đã triệu tập được một số
thanh niên cốt cán cho tổ chức cộng sản nguyên thuỷ, đa số trong họ vẫn giữ
lòng trung thành cho đến khi ông rời khỏi Quảng Châu vào năm 1927. Nhưng quá
trình này, được nhìn theo một góc độ khác như là một thắng lợi của học thuyết
Marxist‐Leninist và phương pháp tổ chức cũng như tài vận động của Hồ cùng
với giả thiết về sự phản bội của Phan Bội Châu, vẫn cần nên nghiên cứu kỹ hơn
là những tài liệu mà sử sách cộng sản Việt Nam muốn chúng ta tin vào.
Trên lý luận của những người chống cộng về việc
Hồ Chí Minh nắm quyền lãnh đạo tại Quảng Châu, thì ông đã chỉ điểm cho người
Pháp bắt Phan Bội Châu nhằm mục đích thanh toán đối thủ thật sự của mình.
Chuyện kể rằng Hồ đã mật báo cho cảnh sát Pháp về những hoạt động của Phan và
đã lừa ông đến một địa chỉ thuộc tô giới quốc tế tại Thượng Hải, và vị chí sĩ
yêu nước này đã bị bắt tại đây [30]. Ngoài lý do trừ khử đối thủ, một nguyên
nhân khác giải thích cho hành động của Hồ là ông muốn lĩnh số tiền thưởng mà
người Pháp đã treo giải cho cái đầu của Phan Bội Châu. Người ta
cũng cho rằng Hồ đã tính toán rằng việc bắt giữ Phan sẽ gây nên những phản đối
tại Việt Nam và do đó sẽ thúc đẩy phong trào kháng Pháp [31].
Nhưng căn cứ theo báo cáo của Lâm Đức Thụ thì
dường như Hồ không dính líu đến việc chỉ điểm Phan cho Sở Liêm Phóng. Những báo
cáo này nêu rõ rằng Thụ đã thông báo với người Pháp từ lâu về những hoạt động
của Phan, ít nhất là từ năm 1924 [32]. Vì thế khi người Pháp quyết định đã đến
lúc bắt Phan, họ không gặp mấy khó khăn trong việc tìm kiếm dấu vết của ông.
Ông đã bị bắt vào tháng 7 1925 (có thể là không phải vào tháng 6 như đa số giả
thiết dựa trên những hồi ức của Phan) và bị gửi trả về Hà Nội. (Lâm Đức Thụ báo
cáo rằng Phan dự định đến Quảng Châu vào cuối tháng 7 1925; lúc ấy ông vẫn chưa
bị bắt, căn cứ theo báo cáo này vào cuối tháng 6, 1925 [33]). Vào tháng 11
1925, ông bị tuyên án khổ sai chung thân. Chiến dịch phản đối bản án của ông đã
biến thành hàng loạt những cuộc bãi khoá và biểu tình trên toàn quốc mà kết quả
là đã thúc đẩy nhiều sinh viên dấn thân vào con đường hoạt động bí mật. Trên
thực tế, phiên toà xử Phan Bội Châu đã giúp quảng bá phong trào kháng chiến tại
Trung Quốc, căn cứ theo lời khai của một nhà hoạt động bị bắt năm 1931.
Người thanh niên 20 tuổi Trần Văn Thanh khai
rằng, ʺvụ án Phan Bội Châu đã mở ra cho mọi người thấy sự hiện hữu của những
nhà cách mạng Việt Nam tại Trung Quốc, đặc biệt là tại Quảng
Châu. Học sinh chúng tôi không bàn gì ngoài chuyện 5 nghìn binh lính của
quân đội Hoàng Phốʺ [34]. Đến tháng Chạp 1925 viên Toàn Quyền mới
là Alexander Varenne đã phải nhượng bộ giảm bản án của Phan xuống
thành quản thúc tại gia chung thân. Nhưng thật khó mà tin rằng Hồ đã có thể
tiên liệu trước hệ quả của việc Phan bị bắt để lợi dụng nó một cách tài tình
như người ta đã cáo buộc ông [35].
Hơn nữa, thật khó để nhìn ra vì sao Hồ lại muốn
trừ khử Phan, vì trong những bức thư của mình ông cho rằng mình đã có nhiều
thành công trong việc thuyết phục những ʺphần tử ưu tú nhấtʺ trong hàng ngũ
Việt Nam Quốc Dân Đảng nghe theo quan điểm của mình. Văn khố Pháp có lưu giữ
một lá thư của Phan Bội Châu gửi cho Hồ vào đầu năm 1925, cho thấy vị sĩ phu
già không nghĩ rằng ông và Hồ là đối thủ của nhau, ông còn cho là Hồ sẽ bảo đảm
cho công cuộc đấu tranh chống Pháp được liên tục đến thế hệ sau. ʺNgoài cháu,
còn ai có thể tin được để gánh vác trọng trách thay thế ta?ʺ Ông hỏi. ʺTa rời
tổ quốc khi đã gần tứ tuần,ʺ Phan viết, ʺvà ta không thể giũ bỏ được những gì
ta đã học ‐ vì thế mà ý tưởng hiện tại của ta cũng không khác gì ngày xưa. Cháu đã
học xa hiểu rộng và đã đi qua nhiều nơi hơn Bác ‐ mười lần, trăm lần hơn. Tư tưởng và
kế hoạch của cháu đều hơn hẳn của ta ‐ cháu có thể chia xẻ một vài công
tác với ta được không?ʺ ông hỏi, dường như với một chút mỉa mai. Phan Bội Châu
cũng là bạn cùng huyện của thân phụ của Hồ ở Nghệ An, con rể của Phan là Vương
Thúc Oánh cũng là người cùng làng với thân phụ của Hồ. Cả hai anh chị của Hồ
đều chịu án khổ sai vì đã ủng hộ những đồng chí của Phan. Hồ Chí Minh chắc hẳn
dùng Phan Bội Châu như một bù nhìn cho phong trào của mình miễn là Phan không
có hành động ngăn cản kế hoạch của ông.
Không phải là không có vấn đề cạnh tranh trong
nội bộ người Việt ở miền nam Trung Quốc. Nguyễn Hải Thần (còn có tên là Vũ Hải
Thụ, Nguyễn Cẩm Giang), chẳng bao lâu đã không có cảm tình với Lý Thụy, và đến
đầu năm 1927 đã tổ chức một nhóm kháng Pháp riêng. Ông và Hồ đã trở thành đối
thủ cho đến năm 1946. Nhưng trong những tháng đầu sôi nổi của thể chế cộng hoà
tại Quảng Châu, khi mặt trận thống nhất được xem là giải pháp cho cả hai phe
quốc gia và cộng sản, sự khác biệt trong xu hướng chính trị của họ chưa là trở
ngại cho sự hợp tác của hai bên. Hồ Chí Minh biết cách vận dụng thế lực chính
trị đồng thời nhượng bộ cho những người lưu vong khác nắm giữ những chức vụ
quan trọng trong các tổ chức mà ông thành lập. Việc quân đội Vân Nam bị đánh bại vào giữa năm 1925 cũng
góp phần tích cực cho ông, như ta thấy, bằng cách sử dụng trường Hoàng Phố như
là nguồn tiếp liệu chính trong việc đào tạo và cung cấp việc làm cho những
người Việt lưu vong. Nhìn chung, những bằng chứng do báo cáo của Lâm Đức Thụ
cung cấp cũng như những báo cáo của Hồ đến QTCS đã giúp rút ra kết luận rằng
những người quốc gia Việt Nam và những người cộng sản nguyên thuỷ đã chưa thiết
lập được những tổ chức với đường lối rõ rệt trong lần đầu Hồ đến Trung Quốc.
Những người lưu vong như Lê Hồng Sơn và Trương Văn Lềnh, hai phụ tá tin cẩn
nhất của Hồ, đã giữ quan hệ chặt chẽ với cả hai phía ít nhất là cho đến năm
1928. Thật sai lầm nếu cho rằng những người lưu vong Việt Nam đã có một quan điểm rõ ràng về sự
trợ giúp của cộng sản đối với phong trào độc lập của họ trong những năm 1924 và
1925. Một khi Hồ vẫn còn những đóng góp tích cực cho những phương cách tổ chức
và tiềm năng hậu thuẫn về tài chính thì ông vẫn có lợi thế hơn những thủ lĩnh
lớn tuổi đã bị bỏ rơi bởi người Nhật. Nhưng khi QTCS trở nên chậm chạp trong
việc đáp ứng những yêu cầu trợ giúp của ông, Hồ lo lắng rằng mình sẽ mất đi ảnh
hưởng đối với những người quốc gia. Tôi sẽ phân tích những bằng chứng liên quan
đến vấn đề này ở dưới.
Vào ngày 18 tháng Chạp
1924, Hồ viết thư cho Chủ Tịch Đoàn QTCS
báo rằng ông đã đến Quảng Châu vào giữa tháng ấy. (Không thể giải
thích được sự khác biệt về ngày đến của ông trong thư và việc trước đây ông nói
là đã đến vào ngày 11 tháng 11. Có lẽ là ông chỉ đơn giản làm theo thói quen
nhỏ giọt sự thật với những đối tượng khác nhau). Trong phần tái bút của lá thư
ông báo cho QTCS biết rằng ông đã lấy tên Trung Quốc là ʺLý Thụyʺ. Về phần
mình, Hồ Chí Minh đã đánh bóng sự khôn khéo của ông trong việc nối kết với các
phần tử Việt Nam lưu vong.
ʺTôi đã gặp một số nhà cách mạng quốc gia người
Việtʺ, ông viết, ʺtrong số họ có một người đà rời Việt Nam ba mươi năm nay và
trong thời gian ấy đã tổ chức được một số cuộc nổi dậy chống Pháp... Mục đích
duy nhất của người này là trả thù cho tổ quốc và gia đình đã bị sát hại bởi
người Pháp. Ông ta không biết gì về chính trị và càng không biết tí gì về công
tác tổ chức quần chúng. Trong những cuộc mạn đàm, tôi đã nêu lên việc cần thiết
của việc tổ chức cũng như sự vô ích của những cuộc khởi nghĩa thiếu tổ chức. Và
ông ta đã nghe theoʺ [37]. Nếu ta cho đoạn văn trên phóng đại khoảng 10 năm về
chuyện nhân vật này rời khỏi Việt Nam thì đúng là Hồ đang nói về Phan Bội
Châu. Nhưng căn cứ theo những thư từ của Phan từ đầu năm 1925, thì dường như
hai người chưa gặp nhau [38]. Một khả năng khác về danh tánh của nhân vật lưu
vong trên là Nguyễn Hải Thần hoặc Hồ Học Lãm, cũng là người
đồng hương Nghệ An như Phan Bội Châu, cha và anh của
ông đều bị Pháp giết hại. Nhưng Lãm, bác của Hồ Tùng Mậu, vẫn đang ở Hàng Châu
trong thời kỳ mặt trận thống nhất. Báo cáo của Pháp về tiểu sử chính trị của Hồ
Chí Minh vào năm 1933 cho thấy Nguyễn Hải Thần là người phù hợp nhất với miêu
tả ở trên. Báo cáo này có nói rằng khi Hồ đến Quảng Châu, ông đã ʺkhéo léo tham
khảo Nguyễn Cẩm Giang, lúc đấy đang là người nắm quyền lãnh đạo các đồng hương
của mìnhʺ [39]. Bản báo cáo nói rằng với sự trợ giúp của Nguyễn Cẩm Giang, Hồ
đã gây dựng nên một tổ chức mới, nhưng sau đó bất đồng ngày càng lớn giữa hai
người và Giang đã thành lập một tổ chức riêng với không quá 30 thành viên. Sự
chia rẽ này trùng hợp với tường thuật trong báo cáo của Lâm Đức Thụ về mối quan
hệ giữa Hồ và Nguyễn Hải Thần. Nguyễn Hải Thần, còn có tên là Nguyễn Cẩm Giang,
có vẻ là người kế nghiệp cho Phan Bội Châu cho đến khi Hồ Chí Minh xuất hiện
trong chính trường [40].
Trong lá thư viết ngày 18 tháng Chạp Hồ liệt kê
những công tác mà ông và người đồng hương trên đã cùng nhau thực hiện. Họ đã
vạch ra một biểu đồ tổ chức. Người đồng hương lập ra một danh sách của mười
người Việt Nam đã cộng tác với ông trong quá khứ; và Hồ đã chọn ra năm người từ
năm tỉnh khác nhau để đem đến Quảng Châu. Ông dự định hướng dẫn họ rồi gửi họ
về lại Đông Dương sau ba tháng đào tạo, sau đó một nhóm khác sẽ thay thế. Đây
cũng là sơ đồ hoạt động của tổ chức tương lai mang tên Việt Nam Thanh Niên Cách
Mạng Đồng Chí Hội, thường gọi tắt là Thanh Niên Hội. Nhưng Hồ chưa nói gì về
cái tên này cả, và trong hai lá thư vào tháng Giêng và tháng 2 1925 ông gọi tổ
chức của mình là Việt Nam Quốc Dân Đảng (xin xem phía dưới). Để đưa được nhóm
người đầu tiên đến Quảng Châu, ông cần khoảng 150 đồng [chắc hẳn là đô‐la Mỹ) còn lại
từ chi phí di chuyển từ Moscow . ʺNhưng sau đó thì sao?ʺ ông hỏi
thẳng thừng. ʺTôi chỉ làm việc vài giờ một ngày tại ROSTA, nhưng lương của tôi
không đủ để tôi trang trải cho các ʺhọc tròʺ, và sau khi họ đến Quảng Châu, có
khả năng là tôi sẽ dành hết hoặc phần lớn thời gian cho việc đào tạo; tình
trạng tài chính của tôi sẽ trở nên vô vọng. Vì thế tôi yêu cầu các đồng chí làm
ơn ra lệnh cho các đại diện tại Quảng Châu cũng nên giúp đỡ những người Đông
Dươngʺ [41].
Đến ngày 5 tháng Giêng 1925 Hồ đã có thể báo
cáo: ʺĐông Dương Quốc Dân Đảng đã được thành lập vào ngày 3 tháng này,
khởi đầu với 3 đảng viên.ʺ Ông viết bằng tiếng Anh, vì thế rất có thể là
ông viết cho Voitinsky vốn thông thạo Anh
ngữ. ʺMột đảng viên sẽ được điều về Annam (Trung Kỳ ‐ ND) và Lào.
Một người khác (chưa là đảng viên) sẽ được gửi đến Tonkin (Bắc Kỳ ‐ ND) để đưa năm
người khác qua Quảng Châu học công tác tổ chức... Trong lúc ấy, tôi cầu xin
đồng chí hãy ra lệnh cho các đồng chí Nga ở đây cũng nên có trách nhiệm với
những vấn đề Đông Dương bởi vì một mình tôi sẽ chẳng làm được gì nhiềuʺ [42].
Khi ông viết thư cho Chủ Tịch Đoàn QTCS vào ngày 10 tháng Giêng, lần này bằng
tiếng Pháp, ông đã có thể thông báo rằng Quốc Dân Đảng vừa kết nạp thêm thành viên
thứ tư. Nhưng ông than phiền rằng ông đã phải vay tiền từ ROSTA để trang trải
cho chi phí đi lại của các phái viên [43].
Vào ngày 19 tháng 2 1925 Hồ lại viết cho Chủ
Tịch Đoàn QTCS cho biết về những tiến triển vừa đạt được. Lần này ông báo cáo
rằng tổ chức bí mật của ông hiện có chín thành viên, hai người trong số đó đã
được gửi về Việt Nam; ba người khác đang chiến đấu trong quân đội Tôn Dật Tiên,
ông nói, và một người nữa đang thực hiện ʺnhiệm vụ quân sự cho Quốc Dân Đảngʺ.
Trong chín thành viên này, năm người cũng là đối tượng đảng của Đảng Cộng Sản
(Trung Quốc) [43]. Hồ cố gắng hạn chế đề cập đến tên tuổi của những người
này trong thư từ của ông, nhưng chúng ta cũng biết từ tài liệu của Việt
Nam năm người ấy chính là Lê Hồng Phong, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn và Lâm
Đức Thụ; Lê Quảng Đạt, một trong những học viên đầu tiên tại Hoàng
Phố, có lẽ là người thứ năm [45]. Tất cả đều xuất xứ từ Nghệ An ngoại trừ Lâm
Đức Thụ người gốc Thái Bình. Nguyễn Hải Thần dường như đã đứng bên ngoài nhóm
cốt cán của Thanh Niên Hội, có lẽ vì tư cách sĩ quan của ông trong quân đội Vân
Nam . Đến tháng 2 Hồ có vẻ đã thành công trong việc
kết nối cơ cấu hiện tại của Tâm Tâm Xã và từ đó sử dụng mạng lưới cũ của Phan
Bội Châu: ông báo cáo rằng tổ chức của mình đã có một cơ sở vững chắc tại Xiêm
để đưa đón người trong và ngoài nước. ʺCó năm mươi nông dân rất đoàn kết và từ
lâu nay họ đã phụ giúp những công tác này,ʺ ông viết.
Khi Hồ chiếm được lòng tin của những
đồng hương, những hoạch định của ông càng mang nhiều tham
vọng. Trong lá thư đề ngày 19 tháng 2 ông ước lượng những công việc cần hoàn
tất trong 1925 sẽ tốn khoảng 5.000 đô‐la. Ông cần tiền để thiết lập cơ sở
tại Quảng Châu cũng như những cơ sở thông tin tại Quảng Tây; tại vùng cực nam
của Quảng Đông; tại Bangkok; tại đoạn cuối của tuyến đường hoả xa Bangkok ‐ Tich‐kho (Udon
Thani?), nơi mà theo lời ông chỉ cần hai mươi ngày đi bộ từ Lacfach; và cuối
cùng là tại Lachfach (Thakhek?), phía tả ngạn sông Mekong (trên đất Lào), cách
Trung Kỳ khoảng mười lăm ngày đi bộ. Ông cũng dự định gửi người về Việt Nam để thâu thập và truyền bá tin tức
và cho một số khác làm việc trên những tàu thuyền giữa Trung Quốc và Đông
Dương. Cuối thư ông đã đính kèm một bản đồ Đông Dương vẽ rất rõ ràng với những
cơ sở trên được đánh dấu.
Nhưng trong một bản ghi nhớ không đề ngày với
đầu đề ʺVấn Đề Đông Dươngʺ, hình như đã được viết trong những tháng cuối năm
1925, ông vẫn không chắc chắn lắm về viễn cảnh của tổ chức. Vì nó được viết
bằng tiếng Anh, có thể là lại để gửi cho Voitinsky. Trong điểm thứ 4 của bản
ghi nhớ, cũng nhằm mục đích xin thêm tiền, ông giải thích: ʺNếu không có sự
giúp đỡ và cố vấn của các đồng chí Nga, tôi sẽ gặp khó khăn để tránh mắc phải
sai lầm. Nhưng tôi sẽ chẳng được gì cả nếu không có lệnh của đồng chí. Và họ
cũng chẳng làm được gì cho tôi với hai bàn tay trắng” [46]. Điểm chính của lời
yêu cầu là Hồ cần một điều gì để cho các đồng hương của mình thấy được bằng
chứng chắc chắn về sự trợ giúp của người Nga, từ đó ông có thể giữ được uy tín
của mình. Trong điểm 1 ông viết:ʺNếu đồng chí đồng ý tôi sẽ gửi ngay lập tức
một hoặc hai học viên, điều này sẽ cho phép tôi thực hiện tốt công tác tuyên
truyền, để có thể chứng minh được những gì Cách Mạng Nga có thể đem lại cho
nhân dân thuộc địa. Điều này cũng cho phép tôi ‐ từ giờ đến tháng 8 ‐ chiếm được
lòng tin của những phần tử tốt trong Đông Dương Quốc Dân Đảng.ʺ
Báo cáo của Sở Liêm Phóng đã giúp hoàn chỉnh
một số chi tiết không rõ ràng về hoạt động của Lý Thụy trong những tháng đầu
năm 1925. Vào ngày 4 tháng 3 Lâm Đức Thụ báo với đại diện người Pháp: ʺLý Thụy
và Nguyễn Hải Thần đang ráo riết làm việc để thành lập một tổ chức mà tôi đã đề
cập trong phần phụ chú của báo cáo số 121. Phan Bội Châu không biết gì về những
hoạt động này của họʺ [47]. Tên của tổ chức này không được nói đến trong báo
cáo hoặc trong bản tóm tắt của Pháp về những hoạt động của Lý Thụy trong việc
kết nạp thành viên từ trong nước. Đây dường như là nỗ lực đầu tiên để phát
triển một tổ chức được biết đến như Thanh Niên Hội. Bản báo cáo tháng 3 về
những hoạt động của Lý Thụy, rõ ràng là đã căn cứ vào nguồn tin của Lâm Đức
Thụ, đã do đích thân Toàn Quyền Merlin ký. Ông ghi chú rằng phương pháp chiêu
mộ thành viên đã đánh vào tâm lý của người Việt bằng cách yêu cầu thành viên
mới phải tuyên thệ trung thành với ʺđảngʺ mới, nhưng nó cũng tránh xa những ʺmỹ
từ sáo rỗngʺ của những nhà cách mạng Việt Nam cũ. ʺKhông hề thấy nhắc đến những
phương pháp cực đoan,ʺ Merlin viết.
ʺTa có thể thấy rằng Lý Thụy xem đó là bước
quan trọng đầu tiên để đưa những thành viên vào những tổ chức có kỷ luật, từ đó
sẽ tuân theo mệnh lệnh một cách mù quángʺ [48]. Merlin vô cùng ấn tượng bởi tầm
ảnh hưởng của những người ʺBolshevikʺ và phương pháp của họ. Phân tích của ông
về đường lối tổ chức cũng hệt như chính Hồ viết: ʺNhững người quốc gia đã tạo ra
vài cuộc tấn công: họ luôn thiếu đoàn kết và vẫn chưa thể chiếm được cảm tình
của đại đa số quần chúng.ʺ Ông thấy rằng đường lối chống Pháp kiểu mới có thể
làm tổn thương đến việc gây ảnh hưởng đến người Pháp ʺnếu để nó phát triển một
cách tự doʺ. Nhưng ông đã đề ra một số biện pháp ngăn chận, ông trấn an người
lãnh đạo của mình ở Paris .
Đến đầu tháng 3 Lý Thụy đã thuyết phục được
những người lưu vong đóng góp nguyệt liễm cho quỹ tuyên truyền. Lý Thụy đóng
mỗi tháng 200 đô‐la, Nguyễn Hải Thần 300, Đinh Tế Dân 100 và Lâm Đức Thụ 50 đô‐la (có thể Thụ
đã báo cáo phần đóng góp của mình ít đi). Theo lời Thụ thì Hồ mỗi tháng lĩnh
được khoảng 300 đến 400 đô‐la tiền lương từ công việc dịch
thuật của mình [49]. Thụ báo cáo vào tháng 3 rằng Nguyễn Hải Thần và Lý Thụy đã
thoả thuận thiếp lập một mối quan hệ làm việc chung. Ông giải thích:ʺMỗi
người vẫn giữ quyền tự do hoạt động. Nguyễn Hải Thần tiếp tục cổ xuý cho phương
pháp khủng bố và Lý Thụy thì thực hiện công tác tuyên truyền cộng sản. Vì cả
hai đều theo đuổi một mục đích, họ giúp đỡ lẫn nhau khi có dịpʺ [50].
Dù vậy, công tác tuyển người từ trong nước có
vẻ bị chậm trễ trong khi chính quyền cộng hoà Trung Hoa đang củng cố quyền lực
trong nửa năm đầu của 1925. Những thành viên Việt Nam duy nhất được kết nạp từ trong nước
chỉ là năm hoặc sáu người đến để tham gia các khoá học tại Học Viện Đào Tạo
Phong Trào Nông Dân, và con rể của Phan Bội Châu là Vương Thúc Oánh cũng nằm
trong số đó. Để hiểu được quá trình phát triển của những tổ chức cách mạng Việt
Nam , ta nên lưu ý đến những sự kiện nổi bật của
quá trình củng cố quyền lực này. Số phận của những người Việt Nam lưu vong phụ thuộc vào cơ cấu quyền
lực địa phương tại Quảng Châu và cả tình trạng của liên minh Quốc Dân Đảng ‐ ĐCS Trung Quốc
nói chung. Như ta đã thấy, rất nhiều người trong số họ đang phục vụ trong hàng
ngũ quân đội Trung Quốc. Hồ Chí Minh, cũng như một số người Việt khác, chỉ có
thể dành một phần thời gian của mình cho những vấn đề Việt Nam . Theo báo cáo của Lâm Đức Thụ vào
cuối năm 1925, Hồ làm việc mười sáu giờ mỗi ngày, dịch bài cho ROSTA, báo cáo
về phong trào nông dân cho Nông Dân Quốc Tế, và tổ chức các cơ sở mà sau này
trở thành hạt nhân của đảng cộng sản Việt Nam [51].
Từ tháng 2 đến tháng 5 1925 những học viên
Hoàng Phố và quân đội Quảng Châu tham gia chiến dịch tấn công lãnh chúa Trần
Quýnh Minh (Chen Jiongmin ‐ ND) tại khu vực sông Đông Giang,
Quảng Đông. Là một môi giới quyền lực địa phương tại Quảng Đông, Tướng Trần
đang đe doạ tái chiếm Quảng Châu trong khi Tôn Dật Tiên vẫn ở Bắc Kinh với sức
khoẻ đang suy sụp. Khi Tôn qua đời vào tháng 3, việc tranh giành để kế nghiệp
ông vẫn tiếp tục. Quân đội Hoàng Phố bao vây Trần nhờ sự ủng hộ của những dân
quân nông dân, những người này thực hiện công tác phá hoại cũng như cung cấp
tin tức và tuyên truyền [52]. Ba người trong số chín thành viên thuộc tổ chức
bí mật của Hồ cũng tham gia chiến đấu như Hồ đã báo cáo trong lá thư ngày 19
tháng 2. Lê Hồng Sơn phục vụ dưới quyền chỉ huy của Chu Ân Lai (Zhou Enlai ‐ ND), chính uỷ
Tập Đoàn Quân số 1 [53]. Rồi vào tháng 5 những tướng
lĩnh của quân đội Vân Nam và Quảng Tây trước đây
đã tham gia Quốc Dân Đảng là
Yang Ximin và Lau Tchauwan [Liu Chenhuan) nổi
loạn chống lại lãnh đạo nền cộng hoà. Những người lính Hoàng Phố vừa qua thử
thách lại một lần nữa ra quân và đánh bại lực lượng nổi loạn. Sự kiện này đã
dọn đường cho việc thành lập một chính phủ Quốc Dân Đảng độc lập tại Quảng Châu
do Hồ Hán Dân (Hu Hanmin ‐ ND) đứng đầu vào cuối tháng 6 1925.
Thành công chính trị của mặt trận thống nhất giữa Quốc Dân Đảng và ĐCS Trung
Quốc giờ đã lên đến đỉnh điểm. Sự chuyển giao quyền lực chính trị tại địa
phương đã đánh dấu một thời kỳ mới trong tổ chức của người Việt. Trước hết sự
thất trận của quân đội Vân Nam làm cho Nguyễn Hải Thần mất đi chỗ dựa quyền
lực. Lâm Đức Thụ đã báo cáo ngày 15 tháng 6 rằng: ʺHải Thần đã bị đánh bại. Ông
ta không còn một người lính nào cả. Ông ta quay lại Quảng Châu nhưng vẫn chưa
dám xuất hiện... ông ta đã cạn kiệt nguồn lực và có vẻ rất buồn.ʺ Những học
viên trong đoàn quân của ông đang đợi để ʺsát nhập vào đội quân Quảng Châu theo
đề nghị của Lý Thụyʺ [54]. Như đã nói ở trên, một số họ đã theo học tại trường
Hoàng Phố. Tham gia đội ngũ học viên mới có hai người từ Nghệ An, cựu học sinh
từ trường võ bị sĩ quan của Tập Đoàn Quân Quảng Tây: Trương Văn Lềnh và Lê Như
Vọng (Lê Thiết Hùng) [55].
Với quyền lực đã được củng cố tại Quảng Đông,
mặt trận thống nhất tăng cường quan tâm đến phong trào nông
dân và việc tổ chức công nhân. Phong trào đình
công ngày 30 tháng 5 tại Thượng Hải (Shanghai ‐ ND) được nhanh
chóng hưởng ứng bởi cuộc đình công tại Hương Cảng (Hongkong ‐ ND) và phong
trào tẩy chay hàng hoá Anh tại Quảng Đông. Phong trào ở Hưong Cảng được bắt đầu
bằng một cuộc tổng đình công chống lại các công ty ngoại quốc vào ngày 21 tháng
5 ‐ cùng ngày đó Hồ Chí Minh đã cho ra số đầu tiên của Thanh Niên, tuần báo
này đã tiếp tục xuất hiện cho đến tháng 5 1930. (Số đầu tiên có 60 ấn bản chỉ
có hai bài báo; đến tháng 10, 80 ấn bản được phân phối ở Xiêm, Quảng Tây, Vân
Nam, Hàng Châu và Quảng Đông [56]) Vào ngày 30 tháng 5 Hội Liên Hiệp Các Dân
Tộc Bị Áp Bức ra đời: nó là một tổ chức của những người hoạt động chống thuộc
địa gồm Việt Nam, Triều Tiên và Ấn Độ cùng với những người bảo trợ Trung
Quốc. Liêu Trọng Khải (Liao Zhongkai ‐ ND), tân
thống đốc Quảng Châu và người đứng đầu phái tả trong Quốc Dân
Đảng làm chủ tịch hội, một người Triều Tiên và Lâm Đức Thụ làm phó chủ tịch. Lý
Thụy quản lý ban bí thư và tài chính của phân bộ Việt Nam. Hội này là một cơ cấu
mới mà trong đó Hồ Chí Minh sẽ tạo ra một tổ chức cách mạng mở rộng cho người
Việt tại Quảng Châu.
Hội Liên Hiệp Các Dân Tộc Bị Áp Bức (LHCDTBAB)
thực hiện hai mục tiêu của Hồ. Mục đích chính của nó là chứng tỏ sự hậu
thuẫn của nhân dân châu Á đối với cuộc cách mạng Trung Quốc, bắt đầu là việc
tẩy chay mậu dịch với người Anh tại Hương Cảng. Những truyền đơn thành
lập Hội do Hồ viết bằng tiếng Hoa đã phản ánh rất rõ [57]. Ngoài ra phân bộ
Việt Nam trong Hội cũng hoạt động như một tổ chức cơ bản để kết nạp và đào tạo
những người Việt chống Pháp trong giai đoạn 1925. Thành viên của Hội,
trong đó có Nguyễn Hải Thần, là những người đã phát hành tờ báo Thanh Niên. Mặc
dù tháng 5 1925 thường được xem là ngày thành lập Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí
Hội, nhưng theo những bằng chứng có được, hội này đã không chính thức xuất hiện
như một đảng chính trị thật sự cho đến khoảng năm 1926. Nó vẫn chưa có một
cương lĩnh chính trị và điều lệ chính thức cho đến đầu năm 1927. Có thể Thanh
Niên Hội được thành lập trước như một tổ chức cho lớp trẻ
trong Hội LHCDTBAB và đảm đương vai trò tuyên truyền của Hội, theo
Lâm Đức Thụ [58]. Một tài liệu lịch sử gần đây của Hà Nội về những năm tháng
của Hồ tại Quảng Châu vẫn cho rằng tên chính thức Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng
Đồng Chí Hội được đưa ra vào cuối năm 1925. Tài liệu trích dẫn những hồi ký của
Vương Thúc Oánh trong đó ông cho rằng một tổ chức có tên là Thanh Niên Cộng Sản
Đoàn được thành lập tại Quảng Châu, nhưng cái tên Việt
Nam Thanh Niên Cách Mạng Hội là do chính ông và Lê Duy Điếm nghĩ ra
khi Điếm quay về từ Quảng Châu vào cuối năm 1925 [59].
Một bản tóm tắt của người Pháp về những báo cáo
của Lâm Đức Thụ vào ngày 22 tháng 7 1925 nêu rõ thế lực mới của Hồ từ giữa
1925: ʺNguyễn Ái Quốc đã quyết định nắm quyền lãnh đạo của nhóm cách mạng Việt
Nam tại Quảng Châu. Trong khi vẫn làm nhiệm vụ dịch thuật cho bộ phận thông tin
của lãnh sự quán Sô Viết, ông ta đã làm việc không mệt mỏi để sửa soạn cho cuộc
cách mạng tại Đông Dương. Là thủ quỹ của tổ chức cách mạng Việt Nam, người sáng
lập, chủ bút kiêm in ấn của tờ Thanh Niên, người tổ chức của Hội LHCDTBAB tại
Quảng Châu, hội viên của tất cả các nghiệp đoàn lao động và tổ chức cách mạng ở
Quảng Châu, ông ta tham dự hầu hết các buổi họp tại Vườn Hoa Công Cộng và Đại
Học Quảng Châu; ông gặp gỡ những vị chủ nhà danh tiếng tại nhà máy Xi Măng
Quảng Châu như Liêu Trọng Khải, Sie Yng Pak và Hồ Hán Dân. Nguyễn Ái Quốc
đã tìm thấy một môi trường hoàn toàn thích hợp cho mình tại Quảng Châuʺ
[60].
Vào cuối tháng 9 Lâm Đức Thụ mật báo với Sở
Liêm Phóng rằng Hồ, Nguyễn Hải Thần, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn và ông tại
một cuộc họp của phân bộ Việt Nam đã quyết định tái tổ chức những người cách
mạng Việt Nam ở Quảng Tây và nối lại liên lạc với những người kháng chiến
ở Bắc Kỳ (Tonkin ‐ ND). Hồ Tùng Mậu
lĩnh nhiệm vụ trên tại Quảng Tây
trong khi Nguyễn Hải Thần sẽ đi Bắc Kỳ. Thụ viết: ʺNguyễn Ái Quốc
tin rằng chúng tôi cần phải tái tổ chức những nhóm cách mạng trong nước dựa
theo những cơ sở tại Quảng Châu... những phần tử đáng nghi sẽ bị thẳng tay trục
xuất như đã làm tại Quảng Châuʺ [61].
Lê Hồng Sơn kể lại trong lời khai với Sở Liêm
Phóng năm 1933 rằng trong khoảng mùa hè 1925, một nhóm 15 người Việt Nam đã
được Hồ Tùng Mậu đưa đến Quảng Châu. Một số trong họ có lẽ đã được Nguyễn Hải
Thần và Lâm Đức Thụ chiêu mộ. Vào mùa thu, Lê Hồng Phong, hiện là một sĩ quan
trong quân đội Quảng Châu, lấy ngày phép để đưa 7 người trong nhóm quay lại
biên giới Việt Nam qua hướng Nam Ninh và Long Châu. Tại biên giới ông giao
nhiệm vụ lại cho một người buôn lậu Trung Quốc, người này dẫn họ về đến Bắc Kỳ.
Trong số 7 người này có Xuân (Nguyễn Công Thu, em trai Lâm Đức Thụ, sau này trở
thành tuyên truyền viên cho Thanh Niên Hội tại Quảng Châu), Hoàng Lùn (Lê Hữu
Lập) từ Thanh Hoá, Lê Duy Dung từ Nghệ An, và Nhân (Nguyễn Ngọc Ba)
cũng từ Nghệ An [62]. Vương Thúc Oánh, con rể của Phan Bội
Châu, người đã tạo dựng được một mạng lưới đưa người Việt sang Trung Quốc, đã
được kết nạp vào trong nhóm nòng cốt của Thanh Niên Hội vào đầu năm [63]. Những
học viên này đã tạo thành một phần của khoá huấn luyện chính thức đầu tiên của
Thanh Niên Hội mà Hồ đã nhắc đến trong thư gửi cho QTCS vào tháng 6 1926 bao
gồm 10 người [64].
Nhưng khủng hoảng chính trị đã làm gián đoạn
những kế hoạch đưa các nhóm học viên sang Quảng Châu. Bản chất hiếu chiến ngày
càng tăng của Quốc Dân Đảng ở Quảng Đông, cùng với việc tẩy chay mậu dịch với
Anh đã thúc đẩy việc thành lập một liên minh quyền lực mới tại miền nam Trung
Quốc giữa những phần tử cánh hữu trong Quốc Dân Đảng và những thế lực đế quốc.
Một trong những dấu hiệu về sự tan rã của khối đoàn kết quốc gia là vụ Liêu
Trọng Khải bị ám sát vào tháng 8. Những học viên quân sự Hoàng Phố một lần nữa
lại gồng mình chờ chiến cuộc mới sắp nổ ra, theo lời Lê Hồng Phong từ học viện
Hoàng Phố viết cho những đồng hương trong thành phố [65]. Dù vậy, một thoả hiệp
chính trị cũng đã được đưa ra trong đó bắt buộc Hồ Hán Dân, bị tình nghi là chủ
mưu trong vụ ám sát, phải lưu vong sang châu Âu. Nhân vật cánh tả Uông Tinh Vệ
(Wang Jingwei ‐ ND) sẽ nắm quyền lãnh đạo chính phủ, trong khi đó Tưởng Giới Thạch
(Chiang Kaishek ‐ ND) trở thành Tổng Tư Lệnh của Tập Đoàn Quân thứ 1 Quốc Dân Đảng đồng
thời kiêm chức giám đốc Học Viện Hoàng Phố [66]. Việc đưa Uông Tinh Vệ làm
người kế nhiệm Tôn Dật Tiên đã được hoàn toàn nhất trí tại Đại Hội Quốc Dân
Đảng Toàn Quốc lần 2 vào tháng Giêng 1926. Đại Hội xác nhận sức mạnh của mặt
trận thống nhất cũng như sự liên minh của nó với nước Nga Sô Viết [67]. Nhưng
cái chết của Liêu Trọng Khải đã làm mất đi sự ủng hộ của Quốc Dân Đảng đối với
phong trào nông dân tại Quảng Đông và có lẽ cũng là một thất bại tạm thời cho
những kế hoạch của Hồ Chí Minh. Đến giữa năm 1925, ông đã tham gia rất nhiều
việc của Nông Dân Quốc Tế, nhưng đến mùa xuân năm sau mối quan tâm của QTCS lại
chuyển sang những hướng khác. Khoá đào tạo thứ hai của Thanh Niên Hội cuối cùng
cũng đã khai mạc vào mùa thu 1926, trong khi mặt trận thống nhất chuyển hướng
chú ý đến chiến dịch Bắc Phạt (Northern Expedition ‐ ND). Trước khi
phân tích những hậu quả gián tiếp đến Thanh Niên Hội lúc ấy, ta cần nên nhìn
lại phong trào nông dân và những lực lượng chính trị phía sau đã ảnh hưởng đến
nó như thế nào.
Phong trào nông dân
Quảng Đông
Vào giữa tháng 2 1925 và tháng 3 1926, vì nhiệm
vụ của mình trong Nông Dân Quốc Tế, Hồ bị cuốn vào một trong những phong trào
ồn ào nhất của mặt trận thống nhất: phong trào nông dân Quảng Đông. Công tác tổ
chức nông dân tại tỉnh Quảng Đông đã bắt đầu ngay sau khi Đảng Cộng Sản Trung
Quốc thành lập, chủ yếu là do sự phát động của Bành Bái (Peng Pai ‐ ND), con của
một địa chủ giàu có từng du học ở Nhật. Ông đã thành lập các trường học và tổ
chức nông dân trong những năm 1922 và 1923 nhưng bị thất bại trong việc bảo vệ
chúng khỏi tầng lớp địa chủ giàu có [68]. Nhưng vào mùa xuân 1925, cán cân
quyền lực đã xoay chiều trong những vùng nông thôn ở miền đông Quảng Châu khi
binh sĩ Quốc Dân Đảng, vừa được huấn luyện và trang bị, đã đánh tan lực lượng
của lãnh chúa Trần Quýnh Minh. Những nông hội do Bành Bái thành lập đã trở
thành những tổ chức được chính phủ công nhận và được bảo đảm quyền lợi cũng như
vị trí trong phong trào mặt trận thống nhất. Họ cũng nắm được quyền tổ chức quân
đội riêng để tự vệ chống lại lực lượng Dân Quân (mintuan ‐ ND) của
những lãnh chúa mà trên thực tế là những đội quân của tầng lớp thống trị.
Những lực lượng quân sự nông dân
tại hai huyện Hải Phong (Haifeng ‐ ND) và Lục
Phong (Lufeng ‐ ND) trong khu vực sông Đông Giang được thành lập từ những lớp đào tạo
của Học Viện Đào Tạo Phong Trào Nông Dân ở Quảng Châu. Học viện được Bành
Bái thành lập vào tháng 8 1924. Ông đích thân giảng dạy hầu hết những khoá đầu
tiên và kiến thiết một chương trình có thực hành mỗi tuần tại các làng xã.
Fernando Galbiati (nhà sử học ‐ ND) viết rằng trong khoá đào tạo
thứ 2, 3, và 4 tại Học viện, ʺyếu tố quân sựʺ không ngừng được tăng cường. Khoá
đào tạo thứ 3, hình như bao gồm vài người Việt, kéo dài từ ngày 1 tháng Giêng
đến ngày 3 tháng
4 1925. Lấy theo khuôn mẫu tổ chức của một đại
đội quân sự và được huấn luyện về thăm dò và tuyên truyền [69]. Lớp đào tạo thứ
4 bắt đầu ngày 30 tháng 4 nhưng bị gián đoạn vì vụ nổi loạn tại Quảng Châu của
những tướng lĩnh trong quân đội Vân Nam và Quảng Tây. Theo Galbiati, những học
viên đã phân tán về vùng quê đến khi Học viện mở cửa lại vào tháng 7. Năm thanh
niên Việt Nam đang theo học khoá này được cho là đã chuyển sang Đại Học Quảng
Châu vào cùng tháng đó [70]. Khi chỉ có 50 học viên quay lại sau khi khoá học
bị gián đoạn, Galbiati tin rằng những học viên mới người Việt đã được thế
vào[71]. Nhóm này tốt nghiệp vào tháng 9 - 1925. Việc đào tạo của
Học viện có thể là nguồn gốc của những đội vũ trang tuyên truyền do Việt Minh
thành lập vào năm 1945. Những chủ đề trong khóa học rất thực tế ‐ chúng bao gồm
việc viết bài tuyên truyền và tổ chức Nông Hội cũng như cách chiếm cảm tình của
nông dân bằng cách sử dụng ngôn ngữ địa phương đồng thời ăn mặc và sinh hoạt
như những nông dân [72]. Khoá đào tạo thứ 5 tại Học viện do Mao Trạch Đông (Mao
Zedong ‐ ND) giảng dạy có 43 học viên từ Hồ Nam [73]. (Mặc dù Mao được cho là đã
có công sáng lập Học viện, ông chỉ trở thành hiệu trưởng vào mùa xuân 1926).
Vai trò của Nông Dân Quốc Tế trong việc chỉ đạo
phong trào nông dân thì không rõ ràng lắm. Những cố vấn người Nga giảng dạy tại
Học viện về kỹ thuật do thám và làm việc dưới quyền của Borodin như là những cố
vấn đặc biệt trong Bộ Nông Dân của Quốc Dân Đảng có thể không có quan hệ với
Nông Dân Quốc Tế [74]. Một trong những người này là S.N. Belenky, được biết
trong QTCS là ʺVolinʺ, cũng là một phóng viên của ROSTA, có lẽ ông là người
điều hành trực tiếp của Hồ Chí Minh [75]. Trong giai đoạn đầu tổ chức, bản thân
Borodin dường như đã nhúng tay rất sâu trong việc cố vấn về vấn đề giảm thiểu
ruộng tá điền và vấn đề phân phối đất [76]. Vì thế Hồ Chí Minh, người đại diện
Á châu duy nhất trong Nông Dân Quốc Tế (và thông dịch viên tiếng Pháp và tiếng
Anh], đã có thể theo dõi và tham gia phong trào nông dân Quảng Đông một cách
sát sao. Ông gửi cho Nông Dân Quốc Tế tại Pháp một báo cáo về những trở ngại
chính trong giai cấp nông dân Trung Quốc. Họ nhận được báo cáo này vào ngày 2
tháng 3 1925. Bên cạnh mật độ dân số quá cao, nông cụ thô sơ và thiên tai tàn
phá, ông còn đưa ra những khó khăn chủ yếu khác như sự tham tàn của giai cấp
địa chủ và nạn xâm lăng của tư bản ngoại quốc. Không rõ là Hồ chỉ đơn giản là
phiên dịch bản báo cáo này từ người khác hay đã tự tay soạn thảo nó. Ông chỉ đề
cập một cách vắn tắt ở phần cuối của báo cáo rằng tầng lớp nông dân đang thành
lập các nông hội dưới sự ủng hộ của giai cấp công nhân và chính phủ miền nam
Trung Quốc. Những tổ chức sau đây sẽ bị trục xuất ra khỏi các nông hội, ông
viết: địa chủ với hơn 100 mẫu đất[77]; những kẻ cho vay nặng lãi; những chức
sắc của các tôn giáo; những ai có quan hệ với đế quốc; dân cờ bạc và dân hút
thuốc phiện [78].
Vào tháng 8 1925 Nông Dân Quốc Tế gửi Hồ năm
nghìn rúp (rubles ‐ khoảng 2.500 Đô‐la lúc ấy) qua tài khoản của Borodin tại Ngân Hàng Viễn Đông. Họ chỉ thị
Hồ dùng số tiền này để (1( in bích chương cách mạng và tài liệu về những vấn đề
nông dân; (2) gửi đại diện đến các tỉnh khác để thành lập các hội liên hiệp
nông dân; (3) gửi một đồng chí đáng tin cậy người Trung Quốc đến Moscow để làm
việc trong Nông Dân Quốc Tế; và (4) cung cấp đều đặn tin tức và tài liệu về
phong trào nông dân Trung Quốc đến Moscow. Cuối cùng là những bản báo cáo lưỡng
nguyệt [79]. Hồ hồi âm bằng tiếng Anh vào ngày 17 tháng 10 rằng ông đã nhận
được tất cả thư từ của Nông Dân Quốc Tế từ tháng 8 đến tháng 9 (gồm 11 lá thư
tất cả, đa số chúng không nằm trong hồ sơ của Nông Dân Quốc Tế với những trả
lời của Hồ) vào cùng ngày 14 tháng 10 1925. Ông hứa sẽ thực hiện hầu hết các
chỉ thị của họ. Nhưng ông từ chối gửi một đồng chí đến Moscow,
ʺvì tất cả các đồng chí hiện giờ đều đang cần ở
đây, và không ai trong số họ biết ngoại ngữ.ʺ Ông cũng yêu cầu họ chấm dứt gửi
tài liệu bằng tiếng Đức, vì không có ai để dịch chúng [80].
Ngày 5 tháng 11 1925 Hồ gửi cho Nông Dân Quốc
Tế kết quả thăm dò trong các liên hiệp nông dân trong 7 huyện của tỉnh Quảng
Đông [81]. Trong bản tóm tắt kết quả, ông viết rằng nông dân ʺđồng tình với
cương lĩnh của Đảng Cộng Sản khi họ không còn lo sợ về vấn đề ʺxã hội hoá phụ
nữʺ và họ sẵn sàng hi sinh để bảo vệ giai cấp của mình hoặc ủng hộ chính quyền
cách mạngʺ [82]. Có lẽ tiếng Quảng Đông của ông lúc ấy không lưu loát để có thể
tham gia trực tiếp vào công việc thống kê; ông đã gửi các báo cáo đến Nông Dân
Quốc Tế bằng tiếng Anh. Một lá thư khác viết vào ngày 3 tháng Chạp cho thấy
rằng Hồ chủ yếu chỉ chuyển thông tin từ những người tổ chức chứ
không tự tay thu thập chúng. Hồ giải
thích rằng những đồng chí Trung Quốc
đã khuyên ông không nên có quan hệ chính thức với Ban Chấp Hành Quốc Dân
Đảng trong tư cách đại diện của Nông Dân Quốc Tế, điều mà trước đây Nông Dân
Quốc Tế đã khuyến khích. Ông viết: ʺnhững đồng chí của chúng tôi cho rằng việc
ấy không cần thiết, vì tôi có thể thu thập mọi thông tin liên quan đến vấn đề
nông dân qua các đồng chí trong Đảng Cộng Sản. (Mặc dù vị chủ tịch Hội Đồng
Nông Dân Sự Vụ là một người Quốc Dân Đảng, mọi công tác ‐ tổ chức cũng
như tuyên truyền ‐ đều được thực hiện bởi các đồng chí của ta [83]).
Sáng sớm ngày 20 tháng 3 1926 Tưởng Giới Thạch
đưa quân đánh úp các chính uỷ cộng sản tại Hoàng Phố, bắt giữ khoảng 50 người
[84]. Các cố vấn Nga tại Quảng Châu đều bị quản thúc tại gia. Để đối phó với
cuộc đảo chánh, Borodin đã ngầm thoả hiệp với những đòi hỏi của Ban Chấp Hành
Quốc Dân Đảng, trong cuộc họp vào tháng 5 đã đưa ra những yêu sách nhằm giới
hạn vai trò của cộng sản trong cơ chế Quốc Dân Đảng. Kể từ đấy, những đảng viên
cộng sản chỉ được phép chiếm một phần ba tổng số thành viên của đảng uỷ Quốc
Dân Đảng, đồng thời đảng viên cộng sản không được đứng đầu các bộ trong chính
phủ [85]. Mặc dù mặt trận thống nhất vẫn tiếp tục với hậu thuẫn của người Nga
cho đến mùa hè 1927, sự kiện ngày 20 tháng 3 đã đánh dấu buổi đầu thoái trào
của phong trào nông dân tại Quảng Đông, cho đến khi Sô
Viết Hải‐Lục Phong được thành lập vào cuối năm 1927. Theo báo cáo của Hồ Chí Minh
với Nông Dân Quốc Tế vào tháng 6 năm 1927 thì Quốc Dân Đảng đã ngưng giúp đỡ
các nông hội khi họ đã thu thập được Quảng Đông dưới trướng của mình [86]. Các
lực lượng quân sự của nông dân không đủ mạnh để chống lại lực lượng dân quân
địa chủ nếu không có sự giúp đỡ của quân đội Quốc Dân Đảng[87]. Sau này Hồ Chí
Minh cho rằng người Anh và người Pháp đã giúp trang bị cho những lực lượng dân
quân địa chủ này [88]. Vào mùa xuân 1926, khi kế hoạch Bắc Phạt đang được soạn
thảo, Mao Trạch Đông nắm quyền lãnh đạo Học Viện Đào Tạo Phong Trào Nông Dân và
mặt trận thống nhất bắt đầu lưu tâm đến tầng lớp nông dân tại Hồ Nam và Hồ Bắc.
Đến tháng 3 năm 1926 Nông Dân Quốc Tế thình
lình ngừng quan tâm đến những công việc của Hồ Chí Minh. Ông viết cho họ một
thư ngắn bằng tiếng Pháp vào ngày 8 tháng 3 năm 1926 hỏi họ vì sao những lá thư
ông gửi cho họ đều không được trả lời, và vì sao họ không gửi tiếp những tài
liệu tuyên truyền [89]. Ông cũng đã chuyển thư từ của họ đến Java, Manila, Ấn
Độ và những nơi khác. Một phần nguyên do nằm trong thư trả lời không đề ngày
của họ, họ trả lời rằng đã nhận được thư của ông. Nhưng vì họ bắt đầu trả lời
với một thành viên mới trong Ban Bí Thư, đồng chí Hồ Hán Dân, về tình hình nông
dân tại các tỉnh Sơn Đông và Vân Nam [90]. Thì ra là Hồ Hán Dân đã đến Moscow
sau khi bị trục xuất khỏi Quảng Châu và đã được bầu vào hàng ngũ lãnh đạo của
Nông Dân Quốc Tế. Tại Đại Hội 6 của Ban Chấp Hành QTCS vào tháng 3 1926 ông
được mời làm thành viên danh dự [91]. Liên minh Stalin‐Bukharin
tại Moscow đoan chắc rằng Quốc Dân Đảng, lực lượng cách mạng nòng cốt tại
châu Á, đã là nguyên nhân của nhiều sự kiện khó lường [92]. (Bukharin đã cách
chức lãnh đạo QTCS của nhân vật cánh tả Zinoviev vào tháng 10 / 1926). Người bị
cho là có trách nhiệm trong cái chết Liêu Trọng Khải, người bảo vệ phong trào
nông dân Quảng Đông, bổng chốc trở thành đại diện chính của Nông Dân Quốc Tế ở
Trung Quốc. Hồ Chí Minh lúc này bị cho là quá gần gũi với những người cộng sản
hoặc đơn giản là không còn quan trọng để làm việc nữa. Sau tháng 3 1926, không
có tài liệu về việc liên lạc giữa Hồ và Nông Dân Quốc Tế cho đế khi ông quay
lại Moscow vào tháng 6 / 1927.
Sự phát triển của
Thanh Niên
Trông chờ khởi nghĩa. Tình hình tiến triển
trong việc kết nối với quốc nội của Hồ Chí Minh chắc hẳn đã bị chậm lại vì căng
thẳng chính trị bên trong chính quyền Quảng Châu cũng như những khó khăn tài
chính của ông. Đến tháng 4 1926, mặc dù Lâm Đức Thụ báo cáo rằng đã có 30 thanh
niên Việt Nam đang nghiên cứu chính trị và khoa học quân sự tại Đại Học Quảng
Châu và Học Viện Quân Sự Hoàng Phố, đã không có một dấu hiệu của nhóm học viên
thứ hai của Thanh Niên Hội [93]. Đội ngũ cốt cán của Thanh Niên tạm thời giải
tán: Lê Hồng Sơn trở thành phái viên chính trị cho Tướng Trương Phát Khuê
(Zhang Fakui ‐ ND) tại đảo Hải Nam. Vào tháng 6 Hồ Tùng Mậu đi với một đồng chí mang
tên ʺông Sáuʺ (Lưu Hồng Khải hoặc Võ Tùng) đến Xiêm với hi vọng tổ chức một hội
tương tế [94]. Lê Hồng Phong, Tu Rue và Đặng Tu My không bao lâu đã đi Moscow
để học thêm về quân sự [95]. Trong lúc đó, mối giao hảo giữa Hồ và Nguyễn Hải
Thần đang bị đổ vỡ. Vào tháng 4 1926 Thần bị Lâm Đức Thụ cáo buộc là đã lạm
dụng ngân quỹ của phân bộ Việt Nam trong Hội Liên Hiệp Các Dân Tộc Bị Áp Bức
[96]. Hội LHCDTBAB vừa tái tổ chức trong tháng 3, có lẽ vì cái chết của Liêu
Trọng Khải và hành động của Tưởng Giới Thạch nhằm giới hạn quyền lực của những
người cộng sản. Một bài viết trong báo chí Trung Quốc về việc tái tổ chức có đề
cập đến việc hội này đang bắt đầu một đợt kết nạp thành viên mới [97]. Sở Liêm
Phóng chuyển tin tức này cùng với một phụ chú đến cho Văn Phòng Quản Lý Địa
Phương, văn phòng này cho rằng việc những người Đông Dương đến Quảng Châu ʺcó
thể không liên quanʺ đến việc tái tổ chức của Hội LHCDTBAB. Những người
lưu vong mới này có thể nằm trong số 30 người Việt đang theo học tại Hoàng Phố.
Lâm Đức Thụ báo với Sở Liêm Phóng rằng Nguyễn
Hải Thần đang hiềm tị về ảnh hưởng của Hồ Chí Minh trong tổ chức những người
cách mạng Việt Nam tại Quảng Châu. ʺNguyễn Ái Quốc đang chuẩn bị cho cuộc cách
mạng một cách có phương pháp. Ông ta chỉ ra tay khi thời điểm chín muồi. Nguyễn
Hải Thần lại theo đuổi phương pháp bạo động. Ông ta muốn thực hiện nó ngay lập
tức,ʺ người chỉ điểm này nói [98]. Trong một buổi báo cáo khác, Lâm Đức Thụ
phân tích rõ hơn về con người Hồ Chí Minh: ʺNguyễn Ái Quốc vẫn còn dính líu đến
Cơ Quan Thông Tin của USSR. Ông ta không tiết lộ là mình làm gì ở đó... ông ta
vô cùng đa nghi và chỉ hé lộ với bạn bè những gì cần thiết nhất...Hầu hết những
gì ông làm đều theo tư tưởng của ông. Những người như Hồng Sơn đề nghị ông ta
mua một mảnh đất ở Hải Nam để mở trường, nhưng ông ta bảo rằng ông sẽ chẳng bao
giờ bỏ tiền ra mua đất và vì nguyên thuỷ đất đai là của mọi người nên nó nên để
cho mọi người sử dụng một cách tự doʺ [99].
Cả nhóm Việt kiều tại Quảng Châu và những người
ái quốc trong nước đều có một trông đợi là ʺLý Thụyʺ sẽ sớm phát động một cuộc
khởi nghĩa vũ trang. Đến cuối tháng 3 1926 phản kháng chính trị tại Việt Nam đã
đạt lên mức cao nhất kể từ phong trào chống thuế năm 1908. Cái chết của nhà cải
cách Phan Chu Trinh, người đã từng dìu dắt Hồ Chí Minh, vào ngày 23 tháng 3 đã
dẫn đến một đám tang khổng lồ trên toàn cõi Việt Nam. Những lãnh đạo sinh viên
giúp tổ chức những cuộc tuần hành cho đám tang và lễ tưởng niệm đã bị đuổi học
trên khắp đất nước ‐ đối với mọi người đây là cơ hội mà chính quyền thuộc địa Pháp đã vô
tình đẩy họ vào con đường hoạt động bất hợp pháp. Nhà báo cách tân và chống
Pháp Nguyễn An Ninh bị bắt ngày 24 tháng 3. Nối tiếp cuộc biểu tình của quần
chúng chống lại bản án của Phan Bội Châu vào cuối năm
1925, đám tang Phan Chu Trinh và việc Nguyễn An
Ninh bị bắt giữ đã tạo thành một bầu không khí sôi sục.
Trong lúc đó tại Quảng Châu người Nga và Tưởng
Giới Thạch đã quyết định dẹp qua mọi khác biệt để cùng nhau tiến hành chiến
dịch ʺBắc Phạtʺ nhằm nới rộng biên giới của chính phủ quốc dân đến phía bắc của
sông Dương Tử (Yangtze ‐ ND). Một số những người kháng chiến người Việt tin tưởng rằng đây là
thời điểm để họ tấn công vào vùng biên giới Đông Dương. Người Pháp bắt đầu nhận
tin tức mật báo về những kế hoạch hành động quân sự tại vùng biên giới Hoa‐Việt
trong tháng 7 1926, vào lúc chiến dịch Bắc Phạt của Tưởng Giới Thạch vừa
mới bắt đầu. Ngày 13 tháng 7 một bác sĩ và cũng là lãnh sự của Pháp tại Bắc Hải
(Pakhoi ‐ ND) đã gửi cho Toàn Quyền tại Hà Nội một bức điện với nội dung như sau:
Một nhà cách mạng Việt Nam có tên là L.Soui ‐ Lý Thụy, bí
danh Nguyễn Ái Quốc, hiện là tuỳ viên quân sự của chính phủ Quảng Châu, người
này đã tốt nghiệp học viện quân sự ở Moscow, nghe nói đã được chính quyền Quảng
Châu bí mật hứa hẹn là sẽ trang bị 1.000 súng trường Nga để thực hiện một tấn
công bất ngờ ở biên giới Bắc Kỳ, trong vùng Móng Cái. Người Việt Nam này được
cho là đã gửi mật phái viên đến vùng Vạn Sơn (khu vực Nà Lương), nơi đó họ sẽ
cung cấp súng cho bọn thổ phỉ [100]
Một mật thám khác với bí danh ʺKonstantinʺ,
đã báo cáo về Tam Kam Say, người đã cầm đầu một cuộc khởi nghĩa vũ trang
năm 1918, cũng sẵn sàng tấn công Hòn Gai, một thị trấn phía bắc Việt Nam. Cùng
lúc ấy Konstantin đã báo tin rằng Paul Monin, một luật sư Pháp hoạt
động chống chính sách thuộc địa ở Sài Gòn, đã đến Quảng Châu để đề nghị người
Nga hỗ trợ một cuộc nổi dậy (những tài liệu khác của Pháp cho rằng cuộc gặp gỡ
này vào khoảng cuối tháng 2 đến 30 tháng 5 1926 [101]). Kế hoạch tấn công như
sau: ba nghìn lính Trung Quốc do 100 người An Nam dẫn đường sẽ đi thuyền từ Bắc
Hải và đổ bộ lên một cảng thuộc Trung Quốc trên bờ biển Nam An Nam. Konstantin,
hình như không đột nhập vào được hàng ngũ thân cận của Hồ, cho rằng kế hoạch
tấn công đã được Hồ đồng ý [102]. Nhưng trong một báo cáo khác, chắc chắn là
của Lâm Đức Thụ, cho thấy rằng Hồ không tin tưởng vào sự đánh giá của Monin và
đã từ chối ủng hộ kế hoạch của ông ta [103]. Việc Monin làm việc với đồng
nghiệp của Hồ tại Paris là Phan Văn Trường và rất được tầng lớp chống đối tại
Sài Gòn nể trọng vẫn không đủ để thuyết phục Hồ đi theo hướng của ông.
Theo mọi nguyên tắc cũ của tầng lớp phản đế
người Việt thì đây là thời điểm chín muồi cho hành động quân sự. Những truyền
thống nổi dậy này dường như đã cổ vũ cho việc tạo dựng một huyền thoại về Lý
Thụy như là một vị tổng tư lệnh. Nhưng những gì Hồ đang thực sự xây dựng thì
không có gì ngoại trừ những hạt nhân còn rất nhỏ bé của đảng cộng sản Việt Nam
tương lai. Sở Liêm Phóng tin rằng vào năm 1926 ông đã từ chối một đề nghị giúp
đỡ rất lớn của những người Sô Viết để phát động một cuộc tấn công vũ trang, vì
ông xét thấy những người khởi nghĩa Việt Nam vẫn chưa sẵn sàng [104]. Trên thực
tế, kế hoạch xây dựng một phong trào độc lập do cộng sản lãnh đạo của ông chỉ
mới vừa khởi sự.
Chi bộ Nam Kỳ ‐ Cam Bốt của Uỷ Ban Nam Dương. Rất
có thể là một số tổ chức tại Việt Nam đang chuẩn bị những cuộc khởi nghĩa bạo
lực chống lại quyền lực của người Pháp trong năm 1926. (Quan niệm về cuộc khởi
nghĩa không tránh khỏi cũng xuất hiện trong những nhóm cánh tả ở Indonesia
trong mùa hè năm đó ‐ nhưng cuộc nổi dậy ở đó chỉ chính thức bắt đầu vào tháng 11 [105]).
Việc thiết lập một chi bộ của ĐCS Trung Quốc bắt đầu vào năm 1926 có thể là một
nguyên nhân dẫn đến bức tranh khó hiểu này. Vào tháng 2 1927 tình báo Pháp nhận
được báo cáo từ một nguồn tin được cho là ʺdigne de foiʺ (đáng tin cậy ‐ ND) trong đó
nói rằng chi bộ ʺNam Kỳ ‐ Cam Bốtʺ của Uỷ Ban Lâm Thời Nam Dương thuộc ĐCS Trung Quốc có căn cứ
tại Nam Dương (Nanyang ‐ ND), Singapore ‐ đã bước vào hoạt động và đang bắt đầu tổ chức tại Bắc Kỳ. Chi Uỷ Nam
Dương hay là Uỷ Ban Lâm Thời đã được những Hoa kiều thành lập vào năm 1926 như
là một bộ phận của ĐCS Trung Quốc; nó được tin rằng đã có thành viên tại những
thuộc địa của Anh, Hoà Lan, Pháp cũng như ở Xiêm và Miến Điện [106]. Nguồn tin
của người Pháp đã căn cứ trên một báo cáo của ʺSamoyanʺ (có lẽ là Semaun) định
trình bày tại Đại Hội Mở Rộng của Ban Chấp Hành QTCS. Semaun được nhận diện là
phái viên cho Đông Dương, Nam Dương và Quần đảo Mã Lai [107]. Tôi đã không tìm
được bằng chứng vững chắc về mẫu tin này trong hồ sơ của Ban Bí Thư Cục Đông
Phương hoặc của Đại Hội Mở Rộng lần 7 Ban Chấp Hành QTCS được tổ
chức vào tháng 11 1926, thời gian thích hợp
nhất của bản báo cáo này. (Trong giai đoạn 1930‐1 có vài tài liệu về tổ chức ʺNam Kỳ
‐ Cam Bốtʺ trong văn khố QTCS). Dù thế, một báo cáo tóm tắt của Sở Liêm
Phóng về những diễn biến chính trị ở Đông Dương trong năm 1926 và đầu năm 1927
cho thấy đã có rất nhiều công đoàn công nhân gốc Hoa hoạt động tại miền nam
Việt Nam và đã có quan hệ với Quảng Châu [108]. Cũng trong thời gian ấy, những
tổ chức bạo lực bí mật đang được sự ủng hộ của Quốc Dân Đảng ở Sài Gòn [109].
Là thành phần của mặt trận thống nhất, những công đoàn và tổ chức này có thể đã
bao gồm những người cộng sản nòng cốt. Đến giữa năm 1927 những người gốc Hoa
tại Nam Việt Nam đã giúp đưa những thành viên mới người Việt tham gia các lớp
đào tạo ở Quảng Châu dưới vỏ bọc Quốc Dân Đảng [110].
Semaun nói rằng ĐCS Trung Quốc đang hoạt động
trong năm huyện của Đông Dương thuộc Pháp (có lẽ là năm khu vực trong Liên Hiệp
Đông Dương) và đảng cộng sản Nam Kỳ ʺlà một tổ chức năng hoạt nhất đang dẫn đầu
một phong trào mạnh mẽ trong quần chúng bản xứ.ʺ Một sơ đồ đính kèm trong bản
báo cáo cho thấy những có những chi bộ Nam Kỳ tại Sài Gòn, Chợ Lớn, Trà Vinh,
Sa Đéc, Cà Mau và Thủ Dầu Một. Những chi bộ tại Cambodia đặt tại Kompong Cham,
Cratie và Kampot với một chi uỷ gồm 50 thành viên tại Phnom Penh. Một hội nghị
bao gồm đại biểu từ Hải Phòng, Hà Nội và Lao Cai dự định tổ chức vào tháng 2
1927 tại Hải Phòng. Những đại biểu này hình như là người gốc Hoa, ví dụ như một
người tên ʺMông Vĩnh Hộiʺ, được xem là một nhà cách mạng nổi bật nhất ở miền
Bắc (Việt Nam). Semaun cũng đề cập đến một tổ chức cách mạng địa phương do
người bản xứ thành lập tại Vinh‐na Tinh (sic) vào tháng 5 1926,
nhưng vẫn chưa thực sự thành hình. Có lẽ ông đang muốn nói về những nổ lực kết
nạp thành viên ban đầu của Thanh Niên Hội hoặc của Cách Mạng Đảng sẽ đề cập ở
dưới. Có thể hiểu rằng những người quốc gia Việt Nam có liên hệ với tổ chức Nam
Kỳ ‐ Cambodia là những người hoạt động mạnh mẽ nhất để khởi xướng khởi nghĩa
vũ trang trong thời gian 1926. Kế hoạch của Monin có thể là một phối hợp với
những phần tử trong nhóm này ‐ Những người Hoa tại Trà Vinh có
tiếng là đã đóng góp rất nhiều trong công việc báo chí của ông [111]. Ngoài ra
còn có một tổ chức tại Bắc Ninh do Trần Huy Liệu của Việt Nam Dân Quốc, đảng
này đang dự định khởi nghĩa vào cuối năm 1926 (kế hoạch của họ bị lộ vì bom tự
chế của họ đã nổ sớm [112]). Đến cuối năm 1927 họ đã trở thành một trong những
thành viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng [113].
Khoá đào tạo thứ hai và thứ ba của Thanh Niên.
Không thể xác định sự liên hệ, nếu có, của Hồ Chí Minh và Thanh Niên Hội với
ĐCS/Quốc Dân Đảng Trung Quốc bên trong Việt Nam. Dù thế, hồ sơ lưu trữ của QTCS
và tài liệu của Pháp cho thấy Hồ đã cố gắng tránh xa những cuộc mạo hiểm vũ
trang. Sau khoảng một năm dài không liên lạc với Cục Đông Phương , vào ngày 3
tháng 6-1926 Hồ đã viết thư cho QTCS
báo rằng công việc của ông tiến
triển rất chậm vì thiếu tài chính [114].
Ông đã phải xoay trở bằng tiền lương của mình và một số đồng chí khác cùng
với một số trợ cấp từ người Nga. Một nguồn tài chính khác của Thanh Niên có thể
là từ Nông Dân Quốc Tế cung cấp qua Borodin cho những công tác của Hồ trong
phong trào nông dân. Số tiền này ít nhất đã trợ giúp cho các học viên đang theo
học tại Học Viện Đào Tạo Phong Trào Nông Dân [115]. Vào thời điểm này có thể Hồ
cũng đã nhận được quyên góp từ những người yêu nước giàu có ở miền nam Việt
Nam. Một ghi chú của Sở Liêm Phóng ngày 12 tháng 8 / 1927 viết rằng Diệp Văn
Kỳ, một chủ báo tại Sài Gòn và cũng là học trò của thân phụ Hồ Chí Minh, đã
thường xuyên gửi tiền đến một trung gian tại Quảng Châu mỗi khi Hồ Chí
Minh yêu cầu ông đóng góp [116]. Sớm hơn nữa là trong năm 1925 Lâm Đức Thụ báo
cáo rằng Hồ đã nghĩ đến việc tìm đến người bạn cũ ở Paris là Khánh Ký (Nguyễn
Đình Khánh‐ND), giờ là một nhà nhiếp ảnh tại Sài Gòn để xin tiền. Hồ cũng đề cập
đến Bùi Quang Chiêu, nhà lãnh đạo giàu có của Đảng Lập Hiến, như là một người
bảo trợ đầy tiềm năng [117]. Nếu nguồn tài chính từ miền nam đã thực sự lưu
chuyển vào năm 1926, rõ ràng là Hồ nghĩ rằng không dại gì tiết lộ điều ấy cho
người Nga biết.
Hồ tường thuật trong báo cáo tháng 6 1926 rằng
kể từ khi đặt chân đến Quảng Châu, ông đã thực hiện được những việc sau cho
phong trào cách mạng Đông Dương: (1) thành lập một hội bí mật; (2) thành lập
một tổ chức nông hội của những người Việt sống tại Xiêm; (3) lựa chọn một nhóm
ʺtiên phongʺ từ con em của nông dân và công nhân (một số trong họ đến từ Xiêm)
để đào tạo tại Quảng Châu; (4) tổ chức một nhóm phụ nữ cách mạng gồm 12 người;
và (5) thành lập một lớp tuyên truyền ở Quảng Châu cho những học viên được bí
mật đưa sang từ Việt Nam và Xiêm. Đến lúc này, lịch sử của Thanh Niên Hội mà ta
đã biết được từ những hồi ký của các nhân vật người Việt khác nhau đã trùng với
những gì chúng ta rút ra từ báo cáo của Hồ [118]. Hồ gửi báo cáo này khi ông
chuẩn bị cho nhóm học viên thứ hai đến Quảng Châu cho khoá đào tạo bắt đầu vào
tháng 9 1926. Khoá thứ nhất, Hồ báo cáo, có 10 học viên và ông hy vọng sẽ có
khoảng 30 người đến học khoá thứ hai.
Những người tham dự khoá học thứ hai của Thanh
Niên Hội rời Việt Nam để đi Quảng Châu trong tháng 7 và 8 1926. Có ít nhất 3
người trong số họ xuất thân từ một tổ chức chính trị thành lập tại Vinh do
những cựu binh của thời kỳ 1907‐8 từng bị giam cầm tại Côn Đảo
(Poulo Condor
‐ ND). Khi vừa thành lập vào năm
1925, nhóm này lấy tên là Phục Quốc, dựa trên tổ chức của Phan Bội Châu. Được
đổi thành Việt Nam Cách Mạng Đảng vào năm 1926, rồi thành Tân Việt vào năm
1928. Tổ chức này, bắt nguồn từ vùng quê của Hồ, bao gồm đa phần là những trí
thức Nho học và giáo viên trẻ, đã cung cấp những nhân vật lãnh đạo quan trọng
nhất cho đảng cộng sản trong những ngày đầu thành lập. Lãnh tụ chính thức đầu
tiên khi đảng cộng sản thành lập vào năm 1930 là Trần Phú, một giáo viên và là
một trong những thành viên sớm nhất của Phục Quốc. Một thành viên kỳ cựu khác
là Hà Huy Tập, một giáo viên từ Hà Tĩnh, đã trở thành người đứng đầu không
chính thức của đảng trong thời gian 1935 đến tháng 3 1938. Tại sao các thành
viên Phục Quốc được chọn lựa vào đội ngũ thân tín nhất của Thanh Niên là một
câu hỏi lý thú. Đó là sự tổng hợp của quan hệ gia đình thân cận, với cả hai nền
học vấn Nho và Pháp, cùng với tâm lý bất mãn đối với chế độ thuộc địa làm họ
trở thành những thành viên giá trị của Hồ. Ví dụ như Trần Phú, xuất thân từ một
gia đình đã chịu nhiều đau khổ dưới sự cai trị của Pháp. Ông là con của một vị
quan mà khi đang tại chức tại Quảng Ngãi vào năm 1908 đã tự sát thay vì bắt
buộc nông dân địa phương hợp tác với lính Pháp
ruồng bố những người chống thuế [119].
Những thành viên trẻ hơn của Phục Quốc là những thanh niên bất mãn từ
những vùng quê nghèo khổ, đã sẵn sàng đón nhận những tư tưởng cách mạng
mà Hồ mang đến. Không còn nghi ngờ gì về ưu thế của những thành viên Thanh Niên
kỳ cựu xuất thân từ phía bắc của miền trung Việt Nam, kể cả uỷ ban trung ương
từ Quảng Châu, đã tạo thành một tổ chức giống như là một hội đồng hương.
Những thành viên mới được Lê Duy Điếm đưa đến
Quảng Châu. Lê Duy Điếm là bạn học cũ của Trần Phú, xuất thân từ Hà Tĩnh. Vào
nửa cuối năm 1925, ông được Đảng Phục Quốc giao cho nhiệm vụ liên lạc với những
người Việt tại Quảng Châu để bàn về phối hợp hành động. Trước khi quay lại Vinh
ông đã gia nhập Thanh Niên Hội [120]. Việc này cũng xảy ra với hầu hết các
thành viên của Phục Quốc/Cách Mạng Đảng sau khi qua Quảng Châu: Trần Phú và học
trò của mình là Nguyễn Ngọc Ba quay về sau ba tháng học tập và đã
trở thành thành viên của Thanh Niên. (Như ta đã thấy ở trên, Lê Hồng Sơn
đã đưa Nguyễn Ngọc Ba sang học khoá thứ nhất; có lẽ ông đã tham dự cả hai khoá
học). Trong chuyện do Phan Trọng Quảng kể về chuyến đi, có những người khác từ
miền trung Việt Nam bao gồm Nguyễn Văn Lợi, Lê Mạnh Trinh, Trần Văn Đắc, Nguyễn
Văn Khang và Quảng. Hai thành viên của Phục Quốc là Tôn Quang Phiệt và Hoàng
Văn Tùng đã không đến được Quảng Châu vì họ đã bị bắt khi bị tuột lại phía sau
tại biên giới. Mãi cho đến tháng 9, sau khi đã di chuyển bằng đường thuỷ, xe
lửa và đi bộ với nhiều tuần lễ chờ đợi ở mỗi trạm, cả nhóm đã đến được trụ sở
của Thanh Niên tại Quảng Châu. Ở đó họ đã gặp những học viên đến từ Bắc Kỳ và
Xiêm. Tất cả có khoảng 20 học viên đã đến Quảng Châu, trong đó có cả vị thủ
tướng tương lai là Phạm Văn Đồng, ông bị bệnh và phải tham gia khoá học sau
[121].
Những bài giảng căn bản với những chủ đề bao
gồm từ sự tiến hoá của loài người, địa lý thế giới và lịch sử Việt Nam đến lý
luận Marxist‐Leninist, Thuyết Tam Dân của Tôn Dật Tiên và thuyết đấu tranh bất
bạo động của Gandhi do Hồ Chí Minh đứng lớp. Những giảng viên bên ngoài đôi khi
cũng được thỉnh giảng. Phan Trọng Quảng nhớ có cả Chu Ân Lai, Bành Bái và Hà
Hương Ngưng (He Xiangning ‐ ND), vợ goá của Liêu Trọng Khải.
Borodin và một phụ nữ Nga cũng đến thuyết giảng. Vào lúc bế mạc của khoá giảng
vào tháng 11, Phan Trọng Quảng kể rằng có năm học viên được bí mật chọn để kết
nạp vào Việt Nam Thanh Niên Cộng Sản Đoàn. Năm người này là Trần Phú, Nguyễn
Văn Lợi, Nguyễn Ngọc Ba, Phan Trọng Bình và bản thân Phan Trọng Quảng, tất cả
họ đều là người Trung Kỳ.
Khoá đào tạo thứ 3 bắt đầu vào cuối năm 1926 và
chấm dứt sau Tết Nguyên Đán 1927. Hoàng Văn Hoan, một thành viên khác từ Nghệ
An sau này đã trở thành nhân vật quan trọng trong đảng cộng sản, đã viết trong
hồi ký của mình rằng đã có thêm 20 học viên mới, một số trong họ vừa tham gia
vụ bãi khoá tại Nam Định [122]. Trong nhóm miền bắc này có Đỗ Ngọc Du, Dương
Hạc Đính, và Nguyễn Đức Cảnh sau này đã trở thành những người đứng đầu của
Thanh Niên Hội tại Bắc Kỳ [123]. (Hoan không nhắc đến số học sinh từ trường Bảo
Hộ Lycée, còn có tên là Trường Bưởi ở Hà Nội. Đỗ Ngọc Du và một số sau này là
học viên của Thanh Niên đã bị đuổi khỏi trường này vào năm 1926 [124]). Trong
những giảng viên Hoan có kể đến Bành Bái và Lưu Thiếu Kỳ (Liu Shaoqi ‐ ND), chuyên
giảng về phong trào công nhân. Thường thì Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn hoặc Lâm Đức
Thụ thông dịch cho những giảng viên Trung Quốc, nhưng Hồ Chí Minh có thể thay
thế hẳn nếu họ vắng mặt, Hoan kể [125]. Ông cũng nhớ lại những vai diễn trong
các vở kịch. Hồ, được những học viên biết đến với cái tên là Vương, thường đóng
vai công nhân hoặc nông dân [126]. Hoan không đề cập đến bao nhiêu học viên đã
được kết nạp vào đội ngũ cốt cán của tổ chức cộng sản, nhưng nếu con số này
cũng ít như ở khoá học trước thì số thành viên cộng sản trong Thanh Niên Hội
vẫn còn rất nhỏ. Huỳnh Kim Khánh (nhà sử học ‐ND) cho biết con số vào khoảng 24
thành viên của Thanh Niên Cộng Sản tính đến tháng 5 1929, nhưng con số này rõ
ràng là chỉ đề cập đến số thành viên đang sống tại Trung Quốc lúc ấy [127].
Tổng số bao nhiêu người Việt đã kinh qua trường
đào tạo của Thanh Niên thì khó mà xác định được. Tôi chỉ đã tìm thấy bằng chứng
chắc chắn của 3 đợt học viên chính thức; một nhóm thứ 4 đang sắp xếp tại Quảng
Châu vào tháng 3 1927 nhưng bị gián đoạn vì cuộc đảo chính tháng 4 [128]. Hồ
báo cáo với QTCS khi ông quay lại Moscow vào tháng 6 1927 rằng 75 thanh niên
Việt Nam đã được đào tạo tại ʺtrường tuyên truyềnʺ của ông ở Quảng Châu [129].
Hồi ký của một người Việt viết năm 1992 lại cho rằng có đến 10 khoá học với
tổng cộng khoảng 250 ‐ 300 học viên [130]. Một bài viết của cùng tác giả trên vào năm 1990, đã
trích dẫn một tài liệu từ Viện Lịch Sử Quảng Đông rằng có tổng cộng trên 300
người Việt đã tham gia vào những hoạt động cách mạng khác nhau tại Quảng Đông
từ 1924 đến 1927 [131]. Con số này bao gồm cả những người không gia nhập đảng
cộng sản. Con số này cũng có thể bao gồm những học sinh theo học các khoá học
chính thức vào cuối năm 1927 đến 1928, sau khi Hồ đã rời khỏi Trung Quốc. Hơn
nữa, có thể nó phản ánh thực tế là những lớp đào tạo trên có nhiều cấp bậc và
độ dài khác nhau. Ví dụ như chúng ta không biết được đã có những lớp dành riêng
cho phụ nữ hoặc những người ʺtiên phongʺ mà Hồ đã kết nạp hay không, hoặc là
cho những công nhân có học vấn thấp như Nguyễn Lương Bằng. Những nhà sử học Hà
Nội dạo gần đây đã cẩn trọng hơn trong việc nâng cao tổng số học viên của Thanh
Niên. Họ không thể xác nhận được con số 75 người mà Hồ Chí Minh đưa ra trong
tháng 4 1927, ngay cả nếu tính luôn những học viên được biết là đã theo học các
lớp sau 1927 [132].
Rõ ràng là nhóm Việt kiều đông nhất đã theo học
tại Học Viện Hoàng Phố, đến đầu năm 1927 đã có 53 học viên người Việt [133].
(Vào thời điểm này, một bộ phận dạy tiếng Việt đã được thành lập tại Hoàng Phố ‐ trước 1927,
những người Việt theo học như người Trung Quốc [134]) Nhưng chúng ta không biết
bao nhiêu trong bọn họ đã học được đầy đủ các lớp của Thanh Niên. Như Lâm Đức
Thụ đã chỉ ra, ʺNguyễn Ái Quốc chỉ thâu nhận những học viên thận trọng nhất và
chỉ giảng dạy đầy đủ cho những ai dám hy sinh cho lý tưởng cách mạng” [135]
Dường như những học viên miền Bắc theo học những lớp đào tạo của ông đã không
trở thành đảng viên cộng sản nhiều như những người Trung Kỳ, có thể vì họ được
thâu nhận bởi Nguyễn Hải Thần hoặc Lâm Đức Thụ.
Một số giáo án của Thanh Niên được in trong tập
Đường Kách Mệnh năm 1927, có thể là do Hồ thu thập trong thời gian ở Nga, và có
nội dung tương tự như những bài giảng chính trị của các chính uỷ cộng sản tại
Học Viện Hoàng Phố trước khi họ bị loại khỏi trường vào tháng 3 1926. Tập tài
liệu này trở thành thánh kinh của những thành viên cộng sản trẻ trong giai đoạn
1926 và 1927, Hà Huy Tập đã viết vào năm 1932. ʺHầu như chúng tôi đã học thuộc
lòng,ʺ ông kể [136].
Nó bao gồm những định nghĩa về các hình thức
cách mạng, những phong trào quốc tế, công đoàn, nông hội và hợp tác xã. Nó thấm
nhuần khái niệm về hai giai đoạn cách mạng như đã vạch ra trong Luận Cương về
Những Vấn Đề Dân Tộc và Thuộc Địa của Lenin. Tập tài liệu đã định nghĩa hai
giai đoạn cách mạng này là cách mạng dân tộc và cách mạng thế giới. Trong khi
cách mạng dân tộc không đề cập đến vấn đề phân biệt giai cấp, cách mạng thế
giới sẽ do giai cấp nông dân và công nhân lãnh đạo và sẽ dẹp bỏ chủ nghĩa tư
bản trên thế giới [137]. Đến năm 1932 thì khái niệm hai giai đoạn cách mạng đã
bị Quốc tế Cộng Sản loại bỏ và Hà Huy Tập cũng đã viết bài lên án tính ngây thơ
và khó hiểu của cương lĩnh Thanh Niên. Cụ thể là ông đã phê phán lý luận cho
rằng: ʺtrong giai đoạn đấu tranh phản đế, ta phải liên kết với mọi tầng lớpʺ.
ʺLý luận kiểu này chẳng có gì quan trọng hơn là sự thoả hiệp giai cấp...ʺ, ông
nói [138].
Đến tháng 2 1927 công việc tuyển người và đào
tạo của Hồ cuối cùng đã có tiến bộ. Thành công của Hồ trong việc chuyển hoá
những đảng viên Tâm Tâm Xã đã được dùng làm kiểu mẫu trong quan hệ của ông với
Phục Quốc/Cách Mạng Đảng. Bước kế đến là tạo cho Thanh Niên một chỗ dựa chính
thức, đó là đạt được sự công nhận từ QTCS, soạn thảo cương lĩnh và tìm kiếm
nguồn tài trợ vững vàng. Việc đoàn đại biểu của QTCS đến Quảng Châu vào tháng 2
1927 đã tạo cho Hồ những cơ hội mà ông đang tìm kiếm. Jacques Doriot, một nhà
hoạt động về phong trào thanh niên cộng sản mà Hồ đã gặp tại Đại Hội 6 ở
Moscow, có mặt trong đoàn cùng với Tom Mann từ Anh Quốc và Earl Browder người
Mỹ. Doriot cũng đã trở thành chủ tịch Phân Bộ Thuộc Địa của ĐCS Pháp và cũng là
nghị viên Quốc Hội Pháp. Với vai trò là tuyên truyền viên và thông dịch viên,
Hồ đã theo phái đoàn thăm viếng Quảng Châu và chiếm được sự ủng hộ của Doriot
về những công tác của ông về Việt Nam [139]. Vai trò của Doriot rõ ràng là đã
có liên quan đến việc QTCS quyết định thành lập một ban bí thư mới cho Pháp,
các thuộc địa của Pháp, Bỉ, Ý và Thụy Sĩ vào tháng 3 1926. Vào thời điểm ấy,
nhiệm vụ chủ yếu của việc xây dựng phong trào cộng sản tại Đông Dương đã được
chính thức giao cho ĐCS Pháp [140]. Vào ngày 3 tháng 3 1927 Doriot, Hồ (ký tên
là Lee) và Volin đại diện cho nhóm cố vấn Nga, đã thảo ra một bản ghi nhớ trong
đó đồng ý cho ʺLeeʺ đệ trình một yêu cầu ngân sách cho QTCS, trong khi đó
Doriot sẽ thảo Luận Cương cho Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đảng cùng với nghị
quyết hoạch định những công việc tương lai của tổ chức này [141].
Doriot đã báo cáo trong một bức thư giải thích
cho Cục Đông Phương rằng Thanh Niên Hội đã tạo dựng được những chi bộ trên khắp
Việt Nam: một tổ tại nam Kỳ, hai tại Trung Kỳ, sáu tại Bắc Kỳ và bốn tại Xiêm.
ʺChắc chắn là họ vẫn còn nhiều yếu kém,ʺ ông viết: ʺtrước hết là họ không có
một cương lĩnh chính thức, thứ hai là khuynh hướng nổi bật của âm mưu bè
phái. Hoạt động của họ giống như là một hội kín hơn là một tổ chức quần chúng
cách mạng. Ví dụ như hầu hết những thành viên của họ đều nằm tại Quảng Châu.
Điều này cho thấy mối liên hệ giữa họ với nhân dân vẫn còn yếu. Dù vậyʺ, ông
tiếp tục, ʺmột số đầu mối đã được thiết lập và đã có những cố gắng trong việc
xây dựng một tổ chức rộng lớn hơn nhằm vào học sinh, thương nhân và nông dânʺ
[142]. Doriot giải thích rằng nghị quyết của ông về hoạt động đảng đã đưa ra
những điểm sau: (1) sự cần thiết phải chuyển hoá hội kín thành tổ chức rộng
rãi; (2) mở rộng tổ chức đến số đông quần chúng trong nước; (3) tham gia nhiều
hơn nữa với tình hình chính trị Việt Nam; và (4) thành lập các công đoàn công
nhân, nông hội, hội sinh viên cũng như các hiệp hội cho các thành phần dân
chúng khác [143].
Luận cương của Doriot ‐ dưới dạng một
lá thư gửi cho ʺThanh Niên Cách Mạng Đông Dươngʺ ‐ cho thấy rõ là ông nhìn Thanh Niên
Hội như là một đảng quốc gia với những mục đích tương tự như của Trung Quốc
Quốc Dân Đảng: ʺNhân dân Đông Dương ‐ như tổ chức các bạn đã tuyên bố ‐ chỉ có
thể đi theo con đường duy nhất nếu họ muốn thay đổi tình hình: đó là con đường
đấu tranh giành độc lậpʺ [144]. Ông nhấn mạnh rằng giai cấp nông dân và công
nhân là những lực lượng tiên yếu trong cuộc đấu tranh này. Nhưng ông cũng đã
ủng hộ mạnh mẽ cho việc thành lập một mặt trận thống nhất: ʺĐừng quên rằng dưới
sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc, tất cả mọi người (công nhân, nông dân, tiểu
thương và trí thức), ngoại từ một số rất nhỏ của thành phần đầu cơ trục lợi,
đều có quyền lợi trong cuộc đấu tranh chống thực dân. Đừng nên bỏ qua một nỗ
lực nào để kêu gọi và tổ chức họ từng ngày trong cuộc tranh đấu này. Đừng nên
từ chối bất cứ sự hợp tác nào của họʺ[145]. Trong suốt bài viết, ông không hề
nhắc đến chủ thuyết cộng sản mặc dù đã dẫn ra ví dụ về cuộc cách mạng Nga như
là một kiểu mẫu của phong trào phản đế vì nó đã giải phóng nhân dân bị áp bức
ra khỏi sự thống trị của Sa Hoàng [146]. Việc QTCS mong muốn uốn nắn Thanh Niên
Hội thành một đảng quốc gia cũng đã được nhấn mạnh bằng báo cáo ngày 17 tháng 3
1927 của Lâm Đức Thụ: ʺGần đây những người cách mạng Pháp và Trung Quốc đã bắt
đầu khuyến khích ʺles amisʺ (những người bạn ‐ ND) thành lập một đảng tương tự như
đảng quốc gia Trung Quốc, với cương lĩnh, chính sách với những bộ phận tuyên
truyền và thông tin rộng khắp. Những quy chế của đảng sẽ được soạn thảo sớmʺ
[147].
Hồ đệ trình ngân sách của năm cho QTCS với tổng
số là 40.000 đồng tiền Trung Quốc. Một nửa số tiền này sẽ dùng để trang trải
chi phí đi lại và đào tạo tại Quảng Châu cho 100 học viên tương lai. Ngoài ra
ông còn yêu cầu 1.500 đồng cho 10 tuyên truyền viên làm việc toàn thời gian
trong một năm. Chi phí xuất bản, thông tin, thành lập một cửa tiệm nhỏ để làm
vỏ bọc cho việc liên lạc chiếm hết 8.500 đồng. Chi phí vận chuyển 100 học viên
khác đến học tại Hoàng Phố tốn khoảng 5.000 đồng nữa. Theo giải thích của Hồ
trong ghi chú đính kèm thì Hoàng Phố đã hứa đào tạo 100 người này nếu chi phí
đi lại của họ được lo liệu [148]. 5.000 đồng còn lại được dự trữ cho những
trường hợp bệnh tật hoặc cấp bách.
Đến tháng 3 1927, với sự hỗ trợ của Doriot và
hai nhóm học viên mới đã được đưa về Việt Nam, tổ chức của Hồ Chí Minh xem ra
đã có thể tự phát triển. Đã có những thương lượng để chính thức liên kết với
đảng Phục Quốc tại trung phần Việt Nam, đảng này từ giữa năm 1926 đã đổi tên
thành Cách Mạng Đảng. Hai nguồn tài liệu về việc thương lượng đã mâu thuẫn với
nhau về việc này có được theo đuổi thật lòng hay không. Hà Huy Tập đã viết vào
năm 1932 ở Moscow rằng Lê Duy Điếm quay về Việt Nam vào tháng 3 / 1927 với chỉ
thị từ Quảng Châu để chuẩn bị cho việc hợp nhất. Điếm tham dự các cuộc họp địa
phương của hai đảng tại miền bắc và trung Việt Nam và sau đó là một hội nghị
hợp nhất toàn quốc tại Huế vào tháng 7. Tập viết rằng lần đầu tiên cả hai đảng
đã nhận được cương lĩnh và quy chế trên giấy tờ, trong đó bao gồm những qui chế
cho các công đoàn, nông hội, hội sinh viên và những hiệp hội khác [149]. Tiến
triển của những sự kiện có thể là hệ quả hợp lý của việc Doriot đến thăm Quảng
Châu. Nhưng mọi việc không trôi chảy như Hồ hy vọng. Theo Hà Huy Tập, hai đảng
đã quyết định chấp nhận danh xưng của Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí
Hội, vẫn được biết đến như Thanh Niên hoặc VNTNCMĐCH. Hai tổ chức sẽ thực
hiện việc thống nhất từ trên xuống, hợp nhất tất cả những tổ đảng dưới một uỷ
ban trung ương lâm thời. Các chi uỷ lâm thời cũng đã được thành lập tại miền
bắc và miền trung, việc còn lại là thành lập một chi uỷ lâm thời Nam Kỳ. Nhưng
những thành viên của Thanh Niên từ miền Nam, vì không tham dự được hội nghị
toàn quốc ở Huế, đã không chịu thừa nhận quyết định của hội nghị tháng 7. Đến
thời điểm sau tháng 7 1927, Hà Huy Tập viết rằng miền nam đã có số thành viên
Thanh Niên đông nhất trong cả nước. Đây là một thay đổi lớn so với tình trạng
đầu năm 1927, khi Doriot báo cáo là chỉ có một chi bộ Thanh Niên thành lập tại
Nam Kỳ, và đã cho thấy nỗ lực xây dựng tổ chức này thành một đảng quần chúng.
Tập tự nhận rằng sau khi bị đuổi việc dạy học ở Vinh, ông đã vào Sài Gòn vào
tháng 3 - 1927 để khởi sự những công tác
chính trị như tổ chức các lớp học buổi tối cho công nhân [150].
Một nhóm khoảng 10 người lưu vong từ Nam Kỳ
hoặc Trung Kỳ, chủ yếu là dân lao động, đã đến Quảng Châu vào tháng 5 hoặc đầu
tháng 6 1927, theo lời của Lâm Đức Thụ [151] Nhóm này có lẽ bao gồm Tôn Đức
Thắng, một nhà tổ chức công đoàn và chủ tịch tương lai của Bắc Việt Nam. Ông đã
từ Quảng Châu về Nam Kỳ vào khoảng nửa sau năm ấy [152]. Như ta đã thấy, cũng
có một nhóm 9 người miền nam được sự bảo trợ của Quốc Dân Đảng đã đến Quảng Châu
vào tháng 7. Sự phát triển của Thanh Niên tại miền nam có lẽ là do phối hợp của
tổ chức Nam Kỳ ‐ Cam Bốt trực thuộc ĐCS Trung Quốc. Tài liệu của Việt Nam cho rằng Tôn
Đức Thắng đã làm công tác tổ chức công nhân Sài Gòn từ 1925, vì thế rất có thể
là ông đã làm việc với uỷ ban nội thành của Trung Quốc này [153].
Một bằng chứng khác cho thấy Thanh Niên đã có
nỗ lực trong việc cắm rễ vào miền nam Việt Nam vào năm 1927. Hà Huy Giáp, em
của Hà Huy Tập, nhớ lại trong hồi ký của mình rằng ông đã dời vào Sài Gòn vào
năm 1926 để tìm đường đi Pháp. Nhưng vào đầu năm 1927, Nguyễn Văn Lợi và Phan
Trọng Bình, hai thành viên của Thanh Niên Cộng Sản từ khoá đào tạo thứ hai về
đến Sài Gòn và đã thuyết phục ông ở lại làm việc cho Thanh Niên. Hai học viên
từ Quảng Châu này lưu lại miền nam và làm nghề giáo [154]. Giáp cũng cho thấy
mối quan hệ rất quan trọng giữa những nhà hoạt động miền nam và miền trung:ông
cho rằng Nguyễn An Ninh bị giam tại Sài Gòn vào năm 1926 cùng với Tú Kiên, một
trong những tù nhân Côn Đảo đã tham gia vào âm mưu thành lập đảng Phục Quốc năm
1818. Giáp kể rằng cả hai người đều theo đuổi những tư tưởng của Hồ Chí Minh.
Theo lời Giáp thì Nguyễn An Ninh đã bàn giao ʺnhiệm vụʺ lại cho Tú Kiên vì Tú
Kiên ra tù trước. Tú Kiên ra lại Vinh và được Lê Huân, một bạn tù Côn Đảo ngày
xưa, chính thức kết nạp vào Cách Mạng Đảng. Sau đó ông quay lại miền nam, với
bề ngoài là tìm kiếm thêm thành viên cho Cách Mạng Đảng, nhưng có thể đã bí mật
làm việc cho Thanh Niên [155]. Một ghi chú của Sở Liêm Phóng vào tháng 5 1928 đã
nói về Tú Kiên (Nguyễn Đình Kiên) như là một liên lạc viên cho người Việt tại
Quảng Châu và Sài Gòn [156]. Khi ông bị bắt lại vào năm 1929, người Pháp đã tìm
thấy hình của Marx và Lenin trong nhà ông.
Những cuộc hợp nhất đảng phái khác có thể đã
được khởi sự từ tháng 3 theo đề nghị của Doriot nhằm tăng số lượng thành viên
của Thanh Niên ‐ Ví dụ như một số thành viên của ʺĐảng Thanh Niênʺ (còn có tên là Jeune
Annam (Thanh Niên An Nam ‐ ND)) thành lập vào tháng 3 1926, đã
trở thành chi nhánh của Thanh Niên. (Hai tên đảng giống nhau chỉ là do tình
cờ). Vào giữa năm 1926 Hồ Chí Minh đã gửi một báo cáo đầy lạc quan đến QTCS về
nhóm Jeune Annam này vì nó đã rất thân cận với Phan Văn Trường và Nguyễn An
Ninh, và cả hai người đều đã từng làm việc tại Paris trong Công Đoàn Thuộc Địa
Quốc Tế [157]. Sự liên hệ của họ với Thanh Niên, có lẽ là qua ĐCS Pháp thì cần
phải tìm hiểu thêm. Nhìn chung, chúng ta không biết được nhiều về sự thật của
những tiếp xúc giữa Quảng Châu và những nhà cách mạng miền nam trong giai đoạn này.
Nhưng điều chắc chắn là đến giữa năm 1927 những nhà hoạt động từ Trung phần
Việt Nam đã bắt đầu xây dựng những tổ chức có liên hệ chính thức với những nhân
tố đã có sẵn trong mạng lưới quen biết cá nhân.
Kế hoạch hợp nhất với Thanh Niên vào tháng 7 /
1927 đã gây nên những xáo trộn trong Cách Mạng Đảng: theo Hà Huy Tập thì mãi
đến tháng 7 / 1928 nó vẫn duy trì cái tên Thanh Niên cùng với những quy chế và
phương pháp tổ chức [158]. Theo quan điểm của ông thì hai đảng này không mâu
thuẫn về nguyên tắc, nhưng bị trì trệ vì những dị biệt cá nhân khi đề cập đến
những vấn đề tổ chức.
Một cái nhìn phức tạp hơn về mối quan hệ giữa
hai đảng đã được đề cập đến trong hồi ký của Hoàng Đức Thi, một thành viên Cách
Mạng Đảng, do Sở Liêm Phóng phát hành vào năm 1933. Ông thừa nhận rằng trong
năm 1927, đảng ông đã tiếp thu phương pháp tổ chức kiểu chi bộ theo kiểu mẫu
của Thanh Niên, và họ giả vờ như hai đảng đã hoà nhập dưới sự lãnh đạo của uỷ
ban trung ương Thanh Niên tại Quảng Châu [159]. Ông giải thích hành vi lập lờ
này là nhằm lôi kéo lại những thành viên đã sang học ở Trung Quốc. Nhưng ta có
thể ngầm hiểu ông không muốn nói thật về giai đoạn đầy hiểm nguy này trong quá
khứ chính trị của mình. Năm 1933 người bạn cũ của ông là Trần Phú đã trong tù
tại Sài Gòn, và bản thân Hà Huy Tập một thành viên quan trọng của Cách Mạng
Đảng từ năm 1927, đang trên đường trở về từ Moscow và trở thành một thế lực
mạnh mẽ trong hàng ngũ lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Đông Dương. Trong khi Hoàng
Đức Thi không hoàn toàn chấp nhận việc kết hợp hai đảng nhưng sự tồn tại của nó
là có thật. Theo Thi thì sự đổ vỡ của những thảo luận cho việc hợp nhất là do
lỗi của các thành viên Thanh Niên vì họ đã phản đối việc hợp nhất những chi bộ
địa phương với miền trung và miền bắc[160]. Cả ông và Hà Huy Tập đều đồng ý
rằng Vương Thúc Oánh đã đóng vai trò chính trong sự đổ vỡ này.
Tình trạng phức tạp này cũng có thể là do Hồ
Chí Minh ưa chuộng chiến lược nắm giữ phong trào từ bên trong. Hà Huy Tập đã kể
lại cái mà ông gọi là ʺnhững ví dụ điển hìnhʺ của việc hợp tác giữa hai đảng:
ʺĐồng chí H. của Thanh Niên cũng là phó bí thư của uỷ ban trung ương Cách Mạng
Đảng; đồng chí Nguyễn Sĩ Sách, một đại diện trung gian của uỷ ban trung
ương Cách Mạng Đảng, cũng là thành viên của chi bộ Thanh Niên tại Trung Kỳ”
[161] Tập không cho biết là bản thân ông có là thành viên lưỡng đảng hay không,
mặc dù ông đã nói rõ rằng ông là một người cộng sản (ông cũng ở chung nhà với
ʺmột vài thành viên của Chi Uỷ Nam Kỳ của Thanh Niênʺ]. Hồi ký của Hoàng Đức
Thi xác nhận là tuy rằng những học viên Thanh Niên không có liên hệ trước đây
với Cách Mạng Đảng nhưng họ đã ʺxin được phục vụʺ cho đảng này sau khi từ Quảng
Châu trở về [162]. Ta có thể hiểu rằng họ đã làm theo chỉ thị của giới lãnh đạo
Thanh Niên ở Trung Quốc.
Sự tan rã của Mặt Trận
Thống Nhất
Tiến trình của công tác tổ chức mà Doriot khi
sang thăm đã trình bày cho Thanh Niên đã bị giảm thiểu vào thời gian thương
lượng hợp nhất với Cách Mạng Đảng bị thất bại. Vừa lúc công cuộc xây dựng đảng
và vận động hậu thuẫn từ CSQT của Hồ Chí Minh đang bắt đầu cho kết quả thì mặt
trận thống nhất tại Quảng Châu thình lình tan rã. Cuộc đảo chính của Tưởng Giới
Thạch ngày 12 tháng 4 1927 đã phá vỡ phong trào công nhân cánh tả tại đây và
đẩy ĐCS Trung Quốc vào hoạt động bí mật. Những diễn biến tương tự cũng đã xảy
ra tại các thành phố của Trung Hoa Dân Quốc ‐ việc bắt bớ hàng loạt và hành hình
những nhà hoạt động công đoàn đã bắt đầu khoảng ngày 14 tháng 4 tại Quảng Châu.
Lúc ấy Hồ Chí Minh hoặc đã chạy lên miền bắc hoặc đang trú ẩn tại lãnh sự quán
Nga. Ông giải thích với QTCS sau khi quay lại Moscow rằng người Nga duy nhất
còn lại Quảng Châu ʺđã không giúp đỡ hoặc cố vấn được gì cho chúng tôi, hay ít
ra là tiếp tục trả lương thông dịch cho tôi vì tôi hoàn toàn không thể tìm được
việc làm... Tôi không còn cách nào khác là để mình bị bắt hoặc tiếp tục
công tác tại Xiêm sau khi quay lại Moscowʺ [163]. Mật thám Constantin báo cáo
rằng Hồ và những người cộng sản Việt Nam khác đã bị các thành viên của nhóm yêu
nước đối lập tại Quảng Châu tố giác. Nhóm này do Tam Kam Say (Dam Giam Tay)
[164] đứng đầu, có sự tham gia của Nguyễn Hải Thần, là một tổ chức có tư tưởng
cách mạng dân tộc thuần tuý tại Quảng Châu. Hai đồng chí của Lý Thụy đã bị bắt
giữ, cùng với bốn hoặc năm người Việt khác vừa từ Bắc Kỳ đến, theo báo cáo của
Konstantin. Lâm Đức Thụ đã phải liều thân đứng ra để bị bắt chung với Hồ Tùng
Mậu nhằm che dấu vỏ bọc mật thám của mình. Ông viết cho liên lạc viên Sở Liêm
Phóng vào ngày 13 tháng 5 1927 rằng ông đã bị giam từ ngày 15 tháng 4. ʺSự hiện
diện của Hồ Tùng Mậu là một cản trở trong việc viết và chuyển thư từ của tôi,ʺ
ông giải thích. ʺNgài có hiểu được lòng tôi không, thưa Ngài? Vào lúc này tôi
vẫn chưa manh động vì tôi luôn đặt lòng tin vững chắc của mình vào Ngài.ʺ Đến
giữa tháng 6 họ đã được trả tự do, và Lâm Đức Thụ lại tiếp tục công việc mật
báo về những nhà cách mạng [165].
Mối quan hệ giữa Hồ Chí Minh và Nguyễn Hải Thần
trở nên xấu hẳn khi căng thẳng trong mặt trận thống nhất ngày càng tăng. Nguyễn
Hải Thần trở nên gần gũi hơn với nhóm kháng chiến đối lập, những người này chú
trọng hơn về hành động quân sự hơn là Hồ. Như Lâm Đức Thụ đã tường thuật Tam
Kam Say và Phạm Nam Sơn ʺrất chuyên nghiệp trong việc tiêu thụ tiền giả và buôn
lậu thuốc phiện và đã lợi dụng Nguyễn Hải Thần để thành lập đảng nàyʺ [166].
Lâm Đức Thụ báo cáo vào cuối tháng Giêng rằng Nguyễn Hải Thần đang thảo luận
với Tam Kam Say và những thành phần khác để thành lập một đảng mới [167]. Đến
tháng 3 Thụ báo cáo rằng Lý Thụy đã chấm dứt việc tham khảo ý kiến với Hải Thần
[168]. Lâm Đức Thụ cũng nói rằng việc điều hành những vấn đề liên quan đế tài
chính một cách quá bí mật của Hồ đã đánh mất lòng tính nhiệm của những đồng chí
khác: ʺHầu như mọi chi phí của tập thể đều do Lý Thụy thanh toán theo một
phương pháp rất tài tình: ông đưa tiền cho Hồng Sơn hoặc Tùng Mậu để họ chi trả
bằng ngân khoản của mình... Cách này làm cho những
người Trung Kỳ tin cậy lẫn nhau và không tin tưởng vào
những đồng hương đến từ những vùng khác trong khối Liên Hiệp Đông Dương, và
việc không tin tưởng nhau này đã đẩy Hải Thần và Phạm Nam Sơn thành lập tổ chức
riêng của họ.ʺ (tiền này là từ chính phủ Quảng Châu chi trả, Thụ viết, dưới sự
yêu cầu một tuỳ viên Nga [169]).
Dù thế hai nhóm này vẫn tiếp tục hợp tác trong
khuôn khổ của Học Viện Hoàng Phố. Đến tháng 2 1927 Thụ cho rằng đã có 53 người
Việt theo học tại Hoàng Phố kể từ tháng 12 năm trước.
Những học viên tốt nghiệp trong đó có Lê Hồng
Sơn và Lê Như Vọng (Lê Thiết Hùng) được chọn để hướng dẫn các học viên người
Việt mới, và một bộ phận đặc biệt dạy tiếng Việt đã được lập riêng cho họ
[170]. Sự thật là Thanh Niên vẫn còn bám lại tại Quảng Châu sau cuộc đảo
chính tháng 4 bằng cách giữ gìn quan hệ với phong trào giải phóng dân tộc không
cộng sản bao gồm những người cánh tả trong Trung Quốc Quốc Dân Đảng. Trường hợp
những thành viên như Trương Văn Lềnh, ông trà trộn hoàn toàn vào tổ chức đối
lập, theo mật báo của Lâm Đức Thụ cho Sở Liêm Phóng vào ngày 8 tháng 4 [171].
Trương Văn Lềnh đã tìm cách giữ được việc làm trong chính quyền Quảng Châu, đầu
tiên là một cai đội và sau đó là đại đội trưởng cảnh sát đến cuối tháng 10
1927. Sau đó ông phục vụ trong quân đội của tướng Quốc Dân Đảng Tương Phát
Khuệ[172] Sự nghiệp chính trị của Lê Hồng Sơn thì cũng dính dáng một phần đến
Trương Phát Khuê ‐ ông làm việc dưới quyền của Trương từ 1926 khi đóng quân tại đảo Hải
Nam.
Tung tích của Hồ Chí Minh vào giai đoạn ấy là
nguồn gốc của những đồn đãi ít nhất là cho đến tháng 12 1927. Có thể ông đã chỉ
thị cho Lê Hồng Sơn và Hồ Tùng Mậu để họ đưa ra những tin tức sai lạc trong
cộng đồng Việt kiều. Ví dụ như Konstantin đã báo cáo vào ngày 1 tháng 5 rằng Lý
Thụy đã bị bắt cùng với những thành viên khác của Thanh Niên. Sau đó Lâm Đức
thụ lại báo rằng ông đã trốn đi Hán Khẩu (Hankou ‐ ND) [173] và cuối năm đó gia nhập
quân đội của Diệp Đĩnh (Ye Ting ‐ ND) tại Sán Đầu (Swatow hay Shantou
‐ ND) [174]. Một thiếu nữ người Quảng Châu mà Hồ đã ʺcướiʺ vào tháng 10
1926 tên là Tuyết Minh, đã không được cho biết ông đã đi đâu [175]. Theo báo
cáo của chính Hồ với QTCS về hành tung của mình thì chúng ta biết được ông đã
rời Quảng Châu và trực chỉ đến Thượng Hải. Có lẽ ông đã đi qua ngõ Hán Khẩu,
nơi có cuộc họp của Nghiệp Đoàn Thái Bình Dương vào cuối tháng 5 hoặc đầu tháng
6. Nhưng ông không hề đề cập đến việc này. Ông đã đi đường biển từ Thượng Hải
đến Vladivostok cùng với Jacques Doriot và đến Moscow vào khoảng tháng 6 [176].
Tại Vladivostok ông gặp Voitinsky, ông này đã tìm cách thuyết phục Hồ
quay lại Thượng Hải để hoạt động cùng những người Pháp và người Việt tại đó.
Nhưng Hồ dường như đã quyết định yêu cầu thêm ngân sách để tiếp tục mở các lớp
đào tạo chính trị tại Xiêm. Tại Moscow ông chỉ có một tiếp xúc ngắn ngủi với
những người Việt tại Đại Học Lao Động Phương Đông, những người này đã thành lập
một chi bộ cộng sản với 5 thành viên. Họ là ʺFon‐Shonʺ
(Nguyễn Thế Rục, một người miền bắc họ hàng với
Nguyễn Thế Truyền]; ʺLe‐manʺ (Ngô Đức Trì, con của học giả và cựu tù nhân chính trị Ngô Đức Kế
người Hà Tĩnh]; ʺJia‐oʺ (Bùi Công Trừng, một ký giả và nhà hoạt động trẻ từ miền trung Việt
Nam, trước đây tham gia hội Jeune Annam tại Sài Gòn]; ʺMin‐Khanʺ (Bùi Lâm,
một thuỷ thủ và thợ in từ Hải Phòng, thành viên ĐCS Pháp tại Paris); và ʺLequyʺ
(Trần Phú), người được bầu làm bí thư chi bộ [177]. Trong một mẫu thư ngắn Hồ
chỉ thị cho chi bộ cộng sản này phải học tập chính trị tốt. Vào ngày 25 tháng 6
ông cũng đã gửi báo cáo cho Nông Dân Quốc Tế về phong trào nông dân tại Quảng
Đông [178]. Sau một thời gian nằm viện để điều trị bệnh lao, vào tháng 11 ông
được gửi về Paris với những chỉ thị mới của QTCS [179].
Những thành viên còn lại của phái bộ Borodin
rời khỏi nơi trú nạn ở Trung Quốc vào tháng 7 1927 sau khi cố gắng tập hợp một
mặt trận thống nhất với những người cánh tả trong Quốc Dân Đảng bị thất bại.
Một lần nửa ảo tưởng thoả hiệp với lãnh đạo Quốc Dân Đảng là Uông Tinh Vệ đã
tan biến, và ĐCS Trung Quốc phải tự tìm ra sách lược mới để bảo toàn những
thành quả có được từ những năm tháng trong mặt trận thống nhất. Sau 3 năm phục
vụ trong hàng ngũ quân đội do Quốc Dân Đảng chỉ huy, những người cộng sản Trung
Quốc giờ đây phải tự huy động lực lượng chiến đấu riêng trong vòng chỉ vài
tháng. Stalin và QTCS thình lình thay đổi chính sách vào tháng
7, sau khi những người đầu tiên trốn
thoát cuộc đảo chính tháng 4 về đến Moscow
báo cáo (trong số đó có một nhân vật tên ʺFreyerʺ đã đệ trình một báo cáo dài
cho Nông Dân Quốc Tế về Phong Trào Nông Dân cũng như về Hồ Chí Minh [180]).
Trong một nghị quyết ra ngày 14 tháng 7, Ban Chấp Hành QTCS tuyên bố, ʺVai trò
cách mạng của chính quyền Vũ Hán (Wuhan ‐ ND) đã chấm dứt; nó đang trở thành
một lực lượng phản cách mạng. Đây là một đặc điểm mới mà tầng lớp lãnh đạo của
ĐCS Trung Quốc cần nên quan tâm rõ ràng và đầy đủ.ʺ Dù thế những đảng viên cộng
sản vẫn được khuyên là nên lưu lại trong hàng ngũ Quốc Dân Đảng để thiết lập
chiến lược của một mặt trận thống nhất từ ʺdưới lênʺ: để ʺtăng cường hoạt động
trong khối quần chúng vô sản... xây dựng các tổ chức công nhân... củng cố công
đoàn... giúp quần chúng lao động sẵn sàng có hành động quyết định... phát triển
cách mạng ruộng đất... vũ trang cho giai cấp công nhân và nông dân... tổ chức
một cuộc đấu tranh cân sức với những thành phần phá hoại đảngʺ [181].
Kể từ sau vụ tàn sát chống cộng do Quốc Dân
Đảng phát động vào tháng 4, lãnh đạo ĐCS Trung Quốc cuối cùng đã phản công. Cố
gắng đầu tiên của họ nhằm giành lại quyền lực từ phe Quốc Dân Đảng ʺphản độngʺ
xảy ra vào ngày 1 tháng 8, khi hai tướng Diệp Tĩnh (Ye Ting ‐ ND) và Hạ Long
(He Long ‐ ND) khởi quân tại Nam Xương (Nan Chang ‐ ND), thủ phủ của Giang Tây (Jiang
Xi ‐ ND). Chu Ân Lai chính là nhân vật chủ chốt trong cuộc khởi nghĩa Nam
Xương. Sự kiện này đã tạo dựng nền móng cho Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân Trung
Quốc, theo các nhà sử học của ĐCS Trung Quốc, bắt đầu thời kỳ lãnh đạo quân đội
độc lập của những người cộng sản. Cuộc nổi dậy bị dập tắt trong vòng 3 ngày,
khi tướng Trương Phát Khuê mà những người cộng sản nghĩ là đồng minh của họ, đã
tấn công quân nổi loạn bằng lực lượng của mình. Quần chúng nông dân đã không
đến tiếp ứng cho những người cộng sản đang bị bao vây và họ bắt buộc phải rút
về phía nam thành phố Sán Đầu, phía đông bắc tỉnh Quảng Đông. Nơi đó họ đã tìm
cách dựng lên một thủ đô mới để rồi bị đánh bại vào đầu tháng 10. Trong lúc đó
Uỷ Ban Trung Ương ĐCS Trung Quốc họp vào ngày 7 tháng 8 tại Hán Khẩu, trong dịp
ấy lãnh đạo đảng Trần Độc Tú đã bị lên án là kẻ ʺthoả hiệp cánh hữuʺ, ông đã
trở thành vật tế thần cho sự thất bại của mặt trận thống nhất. Hội nghị tuyên
bố chính sách mới về cách mạng ruộng đất và vũ trang chống lại Quốc Dân Đảng.
Giới lãnh đạo lâm thời ʺquyết định biến công tác huy động nông dân cho cuộc
khởi nghĩa Trung Thu là nhiệm vụ trọng tâm của Đảngʺ [182]. Besso Lomidadze,
đại diện mới của QTCS, đã đóng vai trò chủ động trong việc hình thành
quyết định trên. Dù thế, mãi cho đến ngày 19 tháng 9 Bộ Chính Trị Uỷ Ban Trung
Ương mới quyết định sẽ không còn làm ra vẻ chiến đấu dưới ngọn cờ của Quốc Dân
Đảng Cánh Tả. Từ đó về sau ĐCS Trung Quốc đã chiến đấu cho quyền lực sô viết
dưới ngọn hồng kỳ của họ [183]. Trong một cuộc họp vào tháng 11 / 1927 của Bộ
Chính Trị Lâm Thời ĐCS Trung Quốc, những người cộng sản đã xác nhận con đường
tả khuynh của mình, lần nữa dưới ảnh hưởng của Lominadze. Mặc dù số lượng
thành viên của họ đã giảm thiểu một cách đáng kể từ tháng 4, họ vẫn quyết định
rằng ʺtình hình cách mạngʺ vẫn đang ở điểm cao
và chiến lược kháng chiến vũ trang
vẫn nên tiếp tục [184].
Những người cộng sản Việt Nam tham gia lực
lượng Quốc Dân Đảng chắc hẳn đã lâm vào tình huống khó xử ‐ có thể là vào
năm 1927 họ đã không có đủ thời gian để tìm được một lựa chọn rõ rệt là nên
chiến đấu dưới ngọn cờ cộng sản hay dưới quyền chỉ huy của nhân vật khó
hiểu Trương Phát Khuê. Dù sao chúng ta đã biết được từ những báo cáo của Lâm
Đức Thụ rằng một trong những người hùng của nhóm Việt Nam là Lê Hồng Sơn cùng
một số thành viên Thanh Niên khác vẫn còn liên hệ với Trương Phát Khuê mãi cho
đến tháng 11 1927. Lâm Đức Thụ báo cho Sở Liêm Phóng ngày 13 tháng 11 rằng vẫn
còn ʺmột số đông đảng viên cộng sảnʺ nằm trong quân đội của Trương Phát Khuê,
trong đó có cả Lê Quảng Đạt và Trương Văn Lềnh. Đạt lãnh lương 200 đồng Đông
Dương (Piastre ‐ ND) và Lềnh 150 đồng mỗi tháng [185]. Tại Quảng Châu, việc thanh trừng
cộng sản đang được tiến hành bởi Tướng Lý Tế Thâm (Li Ji Shen ‐ ND), người mà
theo báo cáo của Hồ Chí Minh gửi cho Nông Dân Quốc Tế, đã chống phá dữ dội các
tổ chức nông dân địa phương [186]. Vì thế khi quân đội Trương Phát Khuê tổ chức
đảo chính tướng Lý vào ngày 17 tháng 11, thành
phần lãnh đạo Thanh Niên đã cảm
thấy vô cùng nhẹ nhõm. ʺ...những thành viên trong
nhóm Tùng Mậu rất vui mừng vì việc những đồng chí của họ trở lại sẽ giúp họ tìm
được việc làm và hậu thuẫn dễ dàng hơn...,ʺ Lâm Đức Thụ phán đoán về vụ đảo
chính [187].
Trong giai đoạn thay đổi chính trị này, những
người Việt vẫn tiếp tục đến học tập tại Quảng Châu. Họ bao gồm một số người từ
Bắc Kỳ sau này trở thành lãnh đạo của một nhóm cấp tiến ly khai khỏi tổ chức
Thanh Niên vào năm 1929: Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Trịnh Đình Cửu và Nguyễn
Hội [188]. Thật vô cùng khó khăn để ta biết sự thật ngoại trừ phán đoán về việc
họ đã chịu ảnh hưởng chính trị từ đâu sau tháng 4 1927 vì tình hình chính trị
trong Thanh Niên cũng như tại Quảng Đông trở nên rất phức tạp. Có những sự việc
dường như mâu thuẫn nhau. Trong nội bộ Thanh Niên đã có những nỗ lực hoà giải
với những tổ chức quốc gia đối lập, trong khi đó trong ĐCS Trung Quốc lại có
khuynh hướng khởi nghĩa. Trong khi đó, những thành viên còn lại của Thanh Niên
tại Quảng Châu đã bắt đầu tìm cách phối hợp việc kết nối lại với Nguyễn Hải
Thần đang bị bỏ rơi trong mùa thu năm 1927. Lâm Đức Thụ đã báo cáo hai cuộc họp
ngày 18 và 24 tháng 10 nhằm thống nhất hai đảng. ʺNgày Chủ nhật hôm qua,ʺ ông
viết ʺNgô Thanh và Đinh Tế Dân đã gặp Tùng Mậu, Văn Lềnh và Quảng Đạt tại công
viên. Họ đã thảo luận sự cần thiết phải chấm dứt những xung đột giữa hai bên.ʺ
Tùng Mậu cho rằng họ đã giải quyết được những bất đồng [189]. Tiểu sử của
Nguyễn Đức Cảnh nói rằng trong tháng 9 1927 ông đã đến Quảng Châu để gặp Uỷ Ban
Trung Ương của Thanh Niên Hội để phối hợp hoạt động giữa hai phong trào. Là
người quê Thái Bình, sinh năm 1908, Cảnh bị đuổi học tại Nam Định vào năm 1926
vì đã tổ chức bãi khoá. Ông là thành viên của Nam
Đồng Thư Xã, hội này vào tháng 12 1927 đã chuyển
thành Việt Nam Quốc Dân Đảng [190]. Cũng như những học viên trước đó, ông đã
đầu quân vào Thanh Niên sau khi tham gia các khoá học dựa trên cương lĩnh của
Hồ Chí Minh. Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Hội cũng có thể đang ở Quảng
Châu cùng lúc với Nguyễn Đức Cảnh. Tiểu sử chính thức của Ngô Gia Tự viết
rằng ông cũng ở Quảng Châu giữa năm 1927. Ta không biết được là ông có theo dõi
cuộc đảo chính tháng 4 hay không.
Những học viên người Việt cũng đã biết được
những sự kiện xảy ra tại hai huyện Hải Phong và Lục Phong phía đông Quảng Châu.
Một số quân lính rút lui từ Nam Xương về Sán Đầu đã tái hợp tại các huyện này,
nơi xảy ra những thắng lợi đầu tiên của phong trào nông dân Quảng Đông. Những
người lính này bắt đầu nổi dậy vào ngày 25 tháng 10 để thành lập Sô Viết. Sau cuộc
tấn công tàn bạo của quân đội Lý Tế Thâm, những người nông dân và lãnh đạo cộng
sản của tỉnh này hình như đang muốn trả thù. Chính quyền cách mạng lâm thời
được thiết lập tại Hải Phong và Lục Phong ʺhoàn toàn thuộc cộng sản
và vũ trang đầy đủʺ, Fernando Galbiati viết[191]. Ông đã trích dẫn một lá
thư của Tỉnh Uỷ Quảng Đông trong đó viết rằng ʺviệc tiêu diệt bọn địa chủ phải
được tiếp tục cho đến khi không còn tên nào. (...) Để chứng tỏ vấn đề đánh
chiếm Hải‐Lục‐Phong không phải là mong manh như ngôi nhà trên cát” [192] Như
Galbiati chỉ ra, phong trào Sô Viết Hải‐Lục‐Phong đã được quản chế chắc
chắn, được điều khiển bởi ʺmột tiểu tổ trung ương, mệnh lệnh của nó được thực
hiện bởi những thành viên của Nông Hộiʺ. Những người trong ĐCS Trung Quốc
vẫn giữ bí mật tối trọng và chỉ được biết đến trong Sô Viết như là những
ʺzuzhiʺ (cơ cấu ‐ ND) [193].
Sự ra đời của Sô Viết nông dân Hải‐Lục‐Phong đã
khích lệ hàng ngũ lãnh đạo ĐCS Trung Quốc tổ chức một cuộc nổi dậy tại Quảng
Châu. Nguyên nhân tiên khởi chính là sự cạnh tranh giữa Trương Phát Khuê và Lý
Tế Thâm, vì thế vào ngày 26 tháng 11 những người cộng sản Quảng Châu đã nhận
định rằng sự tranh chấp giữa các tướng quân phiệt đã tạo ra một cơ hội thuận
lợi để tổ chức khởi nghĩa. Ngày hành động được quyết định là 13 tháng 12.
Nhân vật cộng sản người Đức là Heinz Neumann, người chuyển giao các chỉ
thị của Stalin tại Quảng Châu, đã ra quyết định cuối cùng cho việc khởi nghĩa,
có lẽ là vì áp lực của Stalin đã muốn có một thắng lợi ở Trung Quốc nhân dịp
Đại Hội thứ 15 của Đảng Cộng Sản Sô Viết. Cuộc khởi nghĩa ba ngày đã bị đè bẹp
bởi những lãnh binh Quốc Dân Đảng vừa lên kết lại với nhau, một lần nữa đã gây
ra hậu quả là sự trả thù dã man đối với những người cộng sản và dân lao động đã
tham gia khởi nghĩa. Nó đã trở thành một huyền thoại động viên cho ĐCS Trung
Quốc, cho dù nó không được chuẩn bị kỹ lưỡng cũng như đã thiếu sự hỗ trợ của
tầng lớp lao động. Nhưng nó đã ảnh hưởng như thế nào đến những người cộng sản
Việt Nam đang ở tại Quảng Châu hoặc đang theo học tại Học Viện Hoàng Phố?
Theo tài liệu sử chính thức của ĐCS Việt Nam
thì những thành viên của Thanh Niên Hội đã tham gia vào cuộc nổi dậy và có 24
người bị bắt [194]. Những người trong hàng ngũ học viên sĩ quan tại Hoàng Phố
rất có thể đã tham gia, vì đây là lực lượng quân sự duy nhất lúc ấy có thể bảo
vệ các công xã. Một người Việt là Phùng Chí Kiên được kể là đã rút về Sô Viết
Hải‐Lục‐ Phong sau khi cuộc nổi dậy bất thành, và trở thành chỉ huy một đơn vị
vũ trang cộng sản [195]. Nhưng theo lời khai của một người cộng sản miền nam
quen biết Phùng Chí Kiên ở Trung Quốc thì sau khi tham gia khởi nghĩa Quảng
Châu, ông đã trở về lại Hoàng Phố đến khi bị bắt đi tù vào đầu năm 1929. Chỉ
sau khi ra tù vào mùa thu 1929 Kiên mới tham gia ĐCS Trung Quốc và gia nhập Hồng
Quân tại Đông Khu (Dong Kiang ‐ ND), Quảng Đông với chức đại đội
trưởng [196]. Một học viên sĩ quan Hoàng Phố khác bị bắt sau khởi nghĩa là Trần
Văn Cung (Quốc Anh), người này vào năm 1929 đã cầm đầu một tổ chức ly khai khỏi
Thanh Niên [197]. Một nguồn tin tại Hà Nội cho biết rằng Trương Văn Lềnh là một
trong trong những lãnh đạo công xã, sau đó đã thay đổi tên họ và quân phục để
trà trộn vào quân đội quốc dân [198]. Cũng rất có thể là ông đã tham gia quân
đội Trương Phát Khuê ở ngoại ô Quảng Châu. Không may là báo cáo của Lâm Đức Thụ
đã không đề cập đến những gì đã xảy ra. Nhưng vào tháng 5 1928 ông đã báo rằng
24 người Việt Nam vẫn đang học tập hoặc giảng dạy tại Hoàng Phố. Trong số đó có
Lê Duy Nghĩa (Lê Duy Điếm) và Mạnh Văn Liễu (một bí danh khác của Phùng Chí
Kiên). Những thành viên Thanh Niên bị bắt trong thời gian khởi nghĩa đã được
thả vào ngày 13 tháng 5, đa số đều trong tình trạng sức khoẻ kém [199]. Tài
liệu lịch sử công xã cho biết rằng một học viên sĩ quan người Việt tên Đỗ Huy
Liêm đã chết trong cuộc nổi dậy [200]; nhưng thực ra ông đã lưu lại Hoàng Phố
cho đến cuối năm 1928 và quay lại làm việc tại Thanh Niên rồi cho Đông Dương
Cộng Sản Đảng tại Bắc Kỳ cho đến khi ông bị bắt vào năm 1930 [201]. Dù thế, đối
với những thành viên và học viên mới, công xã và phong trào Sô Viết Hải‐Lục‐Phong là một
kinh nghiệm mới mẻ cho họ. Vào lúc này, ĐCS Trung Quốc đang trên con đường khởi
nghĩa: việc thành lập các Sô Viết tại thành phố và nông thôn là nhiệm vụ ưu
tiên hành đầu. Nhưng ngược lại với tiêu chuẩn của Hà Nội về hình ảnh của năm
1928, Thanh Niên đã tìm cách tiếp tục hoạt động và đào tạo quân sự cho đến cuối
năm, khi làn sóng đàn áp phong trào cộng sản lần thứ hai bắt đầu.
Đến cuối năm 1927, cộng sản Việt Nam đã chia làm hai luồng tư tưởng
trong nhóm Việt kiều tại Trung Quốc. Một nhánh tiếp thu chủ thuyết mặt trận
thống nhất của những năm trước, trong khi nhánh kia lĩnh hội chiến lược vũ
trang mới của ĐCS Trung Quốc. Vì đã không còn cơ cấu của QTCS tại Quảng Châu
vào cuối năm 1927 nên những người Việt đã không còn nguồn chỉ thị hoặc tư tưởng
chủ đạo nào khác ngoài ĐCS Trung Quốc. Vì Hồ Chí Minh đã rời khỏi Trung Quốc
nên ông không bắt buộc phải theo bên nào. Sau chuyến trở về Moscow ông rút vào hoạt động bí mật và có
vẻ đã đứng ngoài những tranh chấp đã chia rẽ phong trào cộng sản Việt Nam vào năm 1929. Mặc dù người Pháp
tiếp tục nhận được tin tức về những kế hoạch nổi dậy trong suốt năm 1927 nhưng
dường như Hồ đã không dính dáng gì đến những kế hoạch này. Ông vẫn giữ nguyên
là một nhà tổ chức thận trọng và kiên nhẫn bất chấp kết quả đầy bạo lực của
cuộc thử nghiệm về phong trào thống nhất. Khi Grigory Voitinsky đề nghị tại Vladivostok rằng ông nên quay về Thượng Hải để
làm việc với những toán quân Việt Nam thì ông đã từ chối. ʺChúng tôi có
nên tập hợp vài người lính Việt Nam ở Thượng Hải (những người này đã
nói với tôi rằng họ đang tính quay về tổ quốc), và huỷ bỏ những công việc vừa
được bắt đầu tại Đông Dương?ʺ ông đã hỏi trong một báo cáo gửi cho Moscow . Ông đề nghị được chuyển công tác
đến Xiêm để:
ʺlàm việc hay đúng hơn là tiếp tục công việc về
Đông Dương ‐ cho dù kết quả sẽ xa vời và ít hiển thị hơn ‐ thì vẫn quan
trọng hơn bởi vì những đồng chí khác có thể thay thế tôi ở Thượng Hải, nhưng ở
Xiêm thì không thể. Và vì tin tức từ những phản ứng của người Trung Quốc đang
được thực dân Pháp loan truyền rộng rãi, đã gieo thêm những bi quan cho người
Việt, và nếu chúng ta ngưng hoạt động bây giờ thì những gì chúng ta đã làm được
trong ba năm qua sẽ mất cả, và sẽ rất khó khăn để làm lại từ đầu, trên tinh thần
của những người Việt thì họ đã bị thất vọng vài lần rồiʺ [202].
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét