Thi Ca Trào Phúng Thời Xã Hội Chủ Nghĩa
Đả đảo Thiệu Kỳ
Mua cái gì cũng có
Ủng hộ Hồ Chí Minh
Mua cây đinh cũng phải
xếp hàng
Trong
văn chương truyền khẩu ca dao chiếm một địa vị quan trọng, đi sâu vào văn học
Việt Nam muốn tìm hiểu văn chương phải tìm hiểu về ca dao là một kho tàng văn học
phong phú vô tận. Ca dao thường ca tụng tình yêu nam nữ, tình cảm, phong tục
con người.
Bộ Thi Ca Bình Dân Việt Nam là “lâu đài” văn hoá dân tộc của Nguyễn
tấn Long và Phan Canh biên soạn. Rất ít tìm thấy những câu ca dao ta thán, châm
biếm chính quyền, nhưng sau ngày 30/04/1975 văn học dân gian phản ảnh về kinh tế,
chính trị qua lời ca phổ biến âm thầm để nói về chế độ CSVN, được lưu truyền
qua người nầy đến người khác. Những câu ca dao xuất hiện vào thời điểm đổi đời,
đánh dấu một giai đoạn thi ca truyền khẩu, đã và đang tồn tại với đời sống văn
học, dù những đoạn ca dao nầy không được in thành sách ở Việt Nam, đúng là:
Đảng
lãnh đạo Dân tiến nhanh
Trăm
năm bia đá thì mòn
Ngàn
năm bia miệng vẫn còn trơ trơ
Thành phố Sài gòn có hơn 300 năm, nay đã bị đổi mất tên,
nhưng trong tâm hồn của dân tộc cái tên Sài Gòn vẫn còn muôn thuở. Dù đổi
tên nhưng người ta nói xuống, về Sài Gòn chơi chứ không ai nói về thành phố Hồ,
những còn đường xưa quen thuộc nhiều thế hệ chúng ta từng đi qua, cũng bị thay
đổi tên như đường Công lý và Tự Do:
Nam Kỳ khởi Nghĩa, tiêu Công lý
Đồng Khởi vùng lên, mất Tự Do
Chiến tranh chấm dứt niềm vui chưa trọn vẹn, dân miền Nam bị
chới với trước việc đổi đời, đời sống dân miền Nam sung túc trước kia sau 75 trở
nên nghèo đói, phải „đăng ký“ ghi tên xếp hàng trước hợp tác xã để mua thực phẩm,
gạo thiếu phải ăn hột bo bo là thứ thức ăn cho ngựa. Nhiều gia đình phải bán dần
đồ dùng trong nhà để sống qua ngày, người đi làm lương không đủ sống:
Lương
chồng, lương vợ, lương con
Đi
ba buổi chợ chỉ còn lương tâm
Lương
tâm đem chặt ra hầm
Với
rau muống luộc khen thầm là ngon
Chính
phủ thôi rồi Chú phỉnh thôi,
Chiến
khu để của Chú khiên rồi,
Thi
đua kháng chiến thua đi mãi,
Kháng
chiến lâu rồi khiến chán thôi!
Bố
cạn tiền rồi cán bộ ơi
Đổi
tiền mà sao đến nỗi nầy
Chưa
tiêu đã hóa tiêu đi hết
Chú
phỉnh tôi rồi, chính phủ ơi
Nhân
dân thì chẳng cần lo
Nhà
nước lo sẵn bo bo mỗi ngày
Hãy
chăm tay cấy tay cầy
Nhịn
ăn nhịn mặc chờ ngày vinh quang
Cái
đạp cái đồng cái đài
Có
ba cái ấy đời ta huy hoàng
Đã
thế lại còn vinh quang
Lại
còn theo gót con đường Bác đi.
Lương giáo viên mỗi tháng khoảng 80 đến 100 dollar, ngày dạy
tối về nhà phải chấm bài vất vả, hội họp phê bình kiểm điểm liên tu, nhưng đồng
lương quá thấp, thời kinh tế thị trường “gạo châu củi quế” nên họ phải làm thêm
như dạy kèm, chở rau ra chợ vào buổi sáng sớm trước khi đến trường, có người phải
chạy xe ôm…
Thầy
giáo lãnh lương ba đồng
Làm
sao sống nỗi mà không đi thồ
Nhiều
thầy phải đạp xích lô
Làm
sao xây dựng cơ đồ học sinh
Hàng
ngày mặt trời chưa ló dạng, đã nghe tiếng phát thanh oang oang kêu gọi nào: thi
đua sản xuất, lao động là vinh quang, gọi đi họp tổ dân phố, biểu tình hoan hô,
chào mừng theo lệnh của chính quyền, dù bụng đói cũng phải thi hành gọi là “hồ
hởi”:
Dân
đói mà đảng thì no
Sức đâu ủng hộ hoan hô suốt ngày
Đảng béo mà dân thì gầy
Độn bắp độn sắn biết ngày nào thôi
Anh Đồng, anh Duẩn, anh Chinh
Ba anh có biết dân tình cho không?
Rau muống nửa bó một đồng
Con ăn bố nhịn, đau lòng thằng dân.
Một năm hai thước vải thô
Nếu
đem may áo cụ Hồ ló ra
May
quần thì hở lá đa
Chị
em thiếu vải hóa ra lõa lồ
Vội
đem cất ảnh bác Hồ
Sợ
rằng bác thấy tô hô bác thèm
Có
áo mà chẳng có quần
Lấy
gì hạnh phúc hỡi dân cụ Hồ?
Có
đói mà chẳng có no
Lấy
gì độc lập, tự do hỡi người?
Đuổi
dân ra khỏi cửa nhà
Bắt
đi kinh tế thật là xót xa
Không
sao sống được cho qua
Nên
đành lại phải trở ra Sài Gòn
Chẳng
ai giúp đỡ chăm nom
Cùng
nhau vất vưởng, lom khom vỉa hè
Màn
sương chiếu đất phủ che
Sinh
ra bệnh tật khò khè ốm đau
Nhưng
mà có sống được đâu
Bộ
đội kéo đến hàng xâu xúc liền
Chúng
đem bỏ tại Tam Biên
Rừng
sâu núi thẳm oan khiên buộc vào.
Những lời hứa hẹn của cộng sản, đảng lo hết không đụng đến
cây kim sợi chỉ, “giải phóng” đem lại no cơm ấm áo cho toàn dân, đã làm nhiều
người tin theo ủng hộ, … Nhưng thực tế phũ phàng, sau khi chiếm miền Nam những
lời hứa đó bay theo mây khói. Nhiều gia đình có công với “cách mạng” cũng bị
đánh tư sản mại bản, đuổi đi kinh tế mới:
Hôm qua Đảng hứa quyết lòng:
“Cái
kim sợi chỉ, Đảng không tơ hào.”
Hôm
nay ma quỉ ập vào
Cái
kim để lại, bạc vàng cào đi.
Dân
khờ trố mắt xầm xì:
“Hôm
qua thế ấy, hôm nay thế này.”
Đảng
rằng: “Đảng có dối chi,
Vàng
bạc quý giá, báu gì cái kim?”
Con
ơi nhớ lấy câu nầy
Cướp
đêm kiểm soát, cướp ngày kiểm kê
***
Nhân
dân thì chẳng cần lo
Nhà
nước lo sẵn bo bo mỗi ngày
Hãy
chăm tay cấy, tay cày
Nhịn
ăn nhịn mặc chờ ngày vinh quang
Ngày
xưa chống Mỹ chống Tây
Ngày
nay chống gậy ăn mày áo cơm
Ngày
xưa Mỹ thối, đảng thơm
Ngày
nay cộng sản thối om cõi bờ
***
Việt
Nam dân chủ cộng hòa
Đồ
đạc bán trước, cửa nhả bán sau
Ăn
cơm chỉ có mắm, rau
Chớ
ăn thịt cá mà đau dạ dày.
Cám ơn đồng chí công an!
Có những
người còn ở trong hoàn cảnh nghiệt ngã, nghe lời nhà nước ra sức lao động, như ở
miền Trung mưa nắng khắc nghiệt, mồ hôi đổ xuống mảnh vườn khô cằn trồng miá
làm đường; các tỉnh cao nguyên trồng tiêu, điều, café hy vọng bán nông phẩm cải
thiện đời sống, nhưng chính quyền không biết quản lý về kinh tế, thương mãi để
cho nông dân gặp trường hợp bế tắc không bán được,
gây nên cảnh nợ nần khánh tận
Trồng mía, trồng ớt, trồng hành
Vì nghe lời đảng mà thành bể niêu
Trồng tiêu, rồi lại trồng điều
Vì nghe lời đảng mà niêu tan tành
Thi đua làm việc bằng hai
Để cho cán bộ mua đài mua xe
Thi đua làm việc bằng ba
Để cho cán bộ xây nhà lát sân
Bắt trồng mà chẳng thu mua
Tại sao đảng nỡ dối lừa nhân dân?
Tiền cày, tiền giống, tiền phân
Một trăm thứ thuế đổ thân gầy gò
Dân đói mà đảng thì no
Kêu trời, kêu đất, kêu Hồ chí Minh !
Nước Việt Nam chúng ta ngày xưa, phần lớn sống về
nông nghiệp, có giai cấp địa chủ bóc lột. Dân nghèo thiếu ruộng thiếu vườn canh
tác, phải làm tá điền… Địa vị giai cấp là đối tượng đấu tranh của con người
trong xã hội. Phong trào giải phóng dân tộc, đánh đuổi thực dân phong kiến, trở
thành cao trào từ năm 1945 mọi người đã hưởng ứng, hy sinh xương máu… Hết chiến
tranh, Việt nam độc lập, chỉ có người Việt cai trị người Việt, nhưng bản chất
thật sự của giới lãnh đạo cộng sản đã hiện nguyên hình:
Nhà nào giàu bằng nhà cán bộ
Hộ nào sang bằng hộ đảng viên
Dân tình thất đảo bát điên
Đảng viên mặc sức vung tiền vui chơi
Khẩu hiệu
tuyên truyền của CSVN, đảng là đầy tớ, còn nhân dân làm chủ, chỉ còn là một cái
bánh vẽ mà thôi, trên thực tế ai có quyền thì người đó hưởng phúc lợi giàu
sang, ai nghèo thì vẫn nghèo rớt mồng tơi, còn là nạn nhân bị cưỡng ép đi vùng
kinh tế mới
Ai
về tới tỉnh Nam hà
Xem
lũ đầy tớ xây nhà bê tông
Tớ
ơi! mầy có biết không
Chúng
ông làm chủ mà không bằng mầy
Nhà
của tư bản đỏ Trầm Bê
Xã hội nào cũng có nạn tham nhũng nhiều hay ít, trước năm
1975 cũng có phong trào chống tham nhũng, vạch trần 4 tướng tham nhũng trong
quân đội VNCH, nhưng ngày nay dưới chế độ cộng sản tham nhũng đã trở thành quốc
nạn. Nếu đọc những báo điện tử trong nước, ngày nào cũng có tin Tổng Giám đốc,
Giám đốc quan chức nhà nước lớn nhỏ thường thâm thủng hàng triệu dollar. Báo
chí quốc tế cũng viết Việt Nam là nước tham nhũng, công việc gì đầu tiên phải
có tiền hối lộ, đã làm ngưng trệ việc đầu tư và phát triển…
Phong lan, phong chức, phong bì
Trong ba thứ ấy thứ gì quý hơn
Phong lan ngắm mãi cũng buồn
Phong chức thì phải cúi luồn vào ra
Chỉ còn cái phong thứ ba
Mở ra thơm nức cả nhà cùng vui
Cũng có những
đoàn thanh tra, để tỏ ra tiến bộ nhưng chỉ là một hình thức thu tiền bỏ túi:
Thanh cha, thanh mẹ, thanh gì
Hễ có phong bì, thì nó thanh kiu
(thank you)
Đi làm hợp tác hợp te
Không đủ miếng giẻ mà che cái L.
ôn
Đản là chợ vua quan
Vân
Hồ là chợ những gian nịnh thần
Đồng
Xuân là chợ thương nhân
Viả
hè là chợ “nhân dân anh hùng”
Thời chúng ta còn trong nước từng thấy cán bộ, thủ trưởng
còn ôm tập đi học bổ túc văn hoá, một năm hai lớp. Nhưng ngày nay nếu chúng ta
về thăm quê hương, những người đó trước đây có nhiều bằng cấp đại học “giảm”, để
cầm quyền có cơ hội “ăn trên ngồi trước”, nhưng trình độ kiến thức thì chả ra
gì:
Ông
Mười thiến lợn bỏ nghề (Đỗ Mười)
Bây
giờ cố vấn, ê hề đô-la
Của
dân là của đảng ta
Nếu
không tham nhũng sao là bí thư?
Ông
Phiêu đề xuất tự phê (Lê Khả Phiêu)
Xưa
nay tự kiểm là nghề trung ương
Đảng
ta giữ vững lập trường
Quốc
doanh tham nhũng chẳng nhường cho ai.
Dốt
như chuyên tu, ngu như tại chức.
Năm
đồng đổi lấy một xu
Thằng
khôn đi học, thằng ngu làm thầy
Trồng
miá, trồng ớt, trồng hành
Vì
nghe lời đảng mà thành bể niêu
Trồng
tiêu rồi lại trồng điều
Vì
nghe lời đảng mà niêu tan tành
Mất
mùa là bởi thiên tai
Được
mùa, là bởi thiên tài đảng ta.
Lâm
tặc lắm tiền là Đoàn Nguyên Đức
Trí
mà không thức là Ngô Bảo Châu
Anh
dũng sống lâu là Võ Nguyên Giáp
Sặc
mùi bá láp là ông Đỗ Mười
Chưa
nói đã cười là Nguyễn Minh Triết
Giả
danh Mác xít là Lê Khả Phiêu
Tham
nhũng làm liều là cậu y tá (3Dũng)
Con
người trí trá là Nguyễn Sinh Hùng
Ăn
nói lừng khừng là Tô Huy Rứa
Không
bộ nào chứa là Nguyễn Thiện Nhân
Vì
gái quên thân là Nông Đức Mạnh
Thức
thời, né tránh là Nguyễn Hải Chuyền
Miệng
lưỡi dịu mềm là Vương Đình Huệ
Thiểu
năng trí tuệ là Đinh La Thăng
Định
hướng tối tăm là Nguyễn Phú Trọng
Trường
kỳ thủ đoạn là Lê Đức Anh
Phát
biểu lăng nhăng là Phạm Vũ Luận
Quen
đánh giặc miệng là Trương Tấn Sang
Hán
tặc chính danh là Hoàng Trung Hải
Ăn
vụng nói dại là Đinh Thế Huynh
Nhiều
vợ lắm con là chú Lê Duẩn!
Trong sinh hoạt đời sống, áo cơm thường chi phối mọi tình cảm,
tình yêu gia đình, tình yêu đôi lứa, bị ảnh hưởng và biến đổi tâm tình đó qua
nhiều trạng thái:
Có
con mà gả chồng gần
Có
bát canh cần, nó cũng mang qua
Có
con mà gả chồng xa
Một
là mất giỗ, hai là mất con
Trong giới bình dân cũng nhận định được khả năng lý trí,
không thể đặt tâm tư con người ra ngoài ảnh hưởng đời sống vào thời gian và
không gian… một số ít gia đình có con lấy chồng ra ngoại quốc hay vượt biên,
may mắn có đời sống khá hơn, đã dành dụm gởi tiền về giúp gia đình:
Có
con mà gã chồng gần
Nửa
đêm xe đạp mang phần cho cha
Có
con mà gã chồng xa
Tháng
tháng nó gởi đô la kìn kìn
Huyền Trân công chúa kết duyên cùng Chế Mân vua Chiêm
Thành, theo lệnh của Phụ Hoàng để có sự bang giao tốt đẹp, thêm đất là 2 Châu Ô
và châu Lý, nhưng ca dao thời đó cũng đã thương tiếc cho Huyền Trân Công Chuá:
Tiếc
thay cây quế giữa rừng
Để
cho thằng Mán thằng Mường nó leo
Nhưng ngày nay trong vấn đề hôn nhân, lấy chồng ngoại quốc
trở thành một phong trào, những người dân quê bình dân mộc mạc, sống trên thửa
ruộng nương dâu. Họ không thể tách rời cuộc sống, được mùa thì ấm no sung túc,
ngược lại thiên tai mất muà đói khổ! Không có cơ hội tiếp xúc với thế giới bên
ngoài, chỉ nghe những lời đồn đại của bọn buôn người. Bọn nầy làm trung gian
rao tìm con gái gả cho đàn ông Đài Loan, Đại Hàn. Hạng đàn ông nầy bên quê nhà
của họ không thể tìm vợ để xây tổ ấm uyên ương, vì họ it học bị tật nguyền hay
là loại sở khanh lường gạt. Họ bỏ tiền mua gái quê trong trắng từ Việt nam về vừa
phục vụ tình dục vừa làm nô lệ…
Tiếc
thay cây quế còn soan
Để
cho đám mọi Đài Loan nó rờ
Tìm
em như thể tìm chim
Chim
bay biển Bắc anh tìm biển Đông
Tìm
chi cho phải mất công
Đài
Loan, Hàn Quốc em dông mất rồi
Tệ nạn xã hội lường gạt, đĩ điếm từ thôn quê cho đến thành
thị, đều có quán ăn nhậu, bia ôm, đủ thứ ôm để khai thác làm phương tiện sống,
thành phố Cần Thơ với sông nước thiên nhiên, ghe thuyền tấp nập nhưng về đêm
chúng ta không khỏi chạnh lòng, những cô gái buôn hoa bán phấn, tuổi đời còn
non trẻ đã mời chào du khách…
Chiều
chiều ra bến Ninh Kiều
Dưới
chân tượng Bác, đĩ nhiều hơn dân
Trăm
năm bia đá cũng mòn
Bia
chai cũng vỡ, chỉ còn bia ôm
Bây
giờ em hiểu anh rồi
Những
lời ngon ngọt, hạng người phú ông
Nói
như trao núi cho sông
Mà
mảnh mo quạt thì ông cố giành
Bây
giờ em hiểu anh rồi
Trái
tim trót đã trọn đời theo anh
Chỉ
thương những mái đầu xanh
Ngây
thơ, vẫn cứ bị anh dối lừa
Muốn phản ảnh tốt về trạng thái xã hội, người làm ca dao cần
phải luôn luôn sát với cuộc sống, xã hội lệ thuộc nặng về vật chất, thì giá trị
tinh thần bị lu mờ. Ngày xưa sống ở trong rừng núi, bưng biền, người ta chia
nhau cũ sắn miếng dưa, nhưng về thành mạnh ai nấy sống, tiền là cứu cánh làm
phương tiện tiến thân. Cái huy chương anh hùng dân tộc bán không ai mua:
Tiền
là Tiên là Phật
Là
sức bật con người
Là
nụ cười tuổi trẻ
Là
sức khoẻ người già
Là
cái đà danh vọng
Là
cái lọng che thân
Là
cán cân công lý
Đồng
tiền thật hết ý!
Thời toàn dân kháng chiến chống Pháp, Việt Nam Quốc Dân Đảng
đã phản đối bọn thực dân và tay sai, đã lợi dụng mộ phu đi làm đồn điền cao su.
Nhiều người nghèo tin đi làm, mong đời sống tốt hơn. Họ bỏ nhà cửa ruộng nương,
đi lao động ở các vùng thiếu tiện nghi, bị bóc lột đánh đập… Ngày nay đất nước
Việt Nam thống nhất tài nguyên phong phú “rừng vàng bể bạc” nhưng nhà nước xuất
cảng người đi lao động để thu tiền, các địa phương những ngài chủ tịch còn hơn
bọn cường hào ác bá, cướp đoạt đất đai, quốc hữu hoá, sau đó bán giá đắc hơn để
thủ lợi:
Ngày
xưa giặc Pháp mộ phu
Ngày
nay đảng bán dân ngu lấy tiền
Đảng
ta là đảng cầm quyền
Đảng
bán ruộng đất lấy tiền đảng tiêu
Vẻ
vang thay lãnh tụ ta
Đem
dân xuất khẩu bán ra nước ngoài
Đảng
ta là đảng thần tiên (thân tiền)
Đa
lô (đô la) thì được, đa nguyên thì đừng
Ngày
xưa chửi Mỹ hơn người
Ngày
nay nịnh Mỹ hơn mười lần xưa
Ngày
xưa đánh Mỹ không chừa
Ngày
nay con cái lại lùa sang đây
Ngày
xưa Mỹ xấu, Ðảng hay
Ngày
nay Ðảng ngửa hai tay xin tiền !
Các nước theo Chủ nghiã Xã hội, trước đây thường dựng tượng
Lénin ở những công trường, vườn hoa để tôn vinh chủ nghiã cộng sản. Hơn 20 năm
qua các nước Đông Âu từ bỏ chế độ cộng sản độc tài, thì tượng Lénin bị đập bỏ,
ngày nay nếu còn tượng Lenin chỉ ở Việt Nam, Bắc Hàn, Cu ba và Trung Cộng mà
thôi:
Ông
Lê Nin ở nước Nga
Sao
ông lại đứng vườn hoa nước nầy
Ông
ưỡn ngực, ông chỉ tay
Ông
xem như thể nước nầy của ông
Ông
Lê Nin ở nước Nga
Cớ
sao lại đứng vườn hoa nước nầy
Ông
vênh mặt, ông chỉ tay
Tự
do hạnh phúc lũ mày còn xa
Kià
xem gương của nước Nga
Bảy
mươi năm lẻ có ra đếch gì!
Trong văn học dân gian, giữa nội dung và hình thức có sự
tương quan mật thiết, trong quá trình phát triển của xã hội, từ tư tưởng, tình
cảm xã hội được phản ảnh qua thi ca, xưa kia ca dao thường nói về ngoại cảnh
ngoại vật, cây đa đầu làng dặm liễu bờ tre, những đêm trăng non trên đồng lúa
xanh tươi… Hiện nay ca dao mới bước xa hơn nói về thực trạng xã hội của 34 năm
qua nhiều chuyển biến, ca dao tất nhiên thay đổi nội dung và hình thức nghệ thuật:
Bác
Hồ chết phải giờ thiêng,
Để
cho con cháu nửa điên nửa khùng
Bác
Tôn chết phải giờ trùng
Nên
bầy con cháu nửa khùng nửa điên
Không
khùng thì đã vượt biên
Ùy
viên Đảng bộ toàn điên với khùng.
Miền
Bắc có lắm thằng điên
Trong
túi nhiều tiền nó bảo rằng không
Suốt
ngày nó chạy lông nhông
Nói
thánh nói tướng, nhưng không làm gì
Nhưng
mà nó được cái lì
Nó
học Nghị quyết cái gì cũng thông
Miền
Trung có lắm thằng khôn
Nó
đi ngõ trước, nó luồn ngõ sau
Một
khi nó quyết làm giàu
Nó
đi đúng chỗ, nó câu đúng người
Sinh
ra nghèo tự mấy đời
Nên
học nghị quyết biết xơi điều gì
Miền Nam có lắm thằng tham
Nó ăn như phá, nó làm như điên
Trong túi nó có đồng tiền
Nó có một vợ, nghĩ liền vợ hai
Suốt ngày nó thích lai rai
Có một Nghị quyết học hoài không
xong!
Chúng ta không lạ gì chủ nghiã cộng sản, lúc nào cũng tuyên
truyền những từ ngọt như đường cát mát như phèn, nhưng đụng vào thực tế đối đầu
với chế độ chua hơn dấm, dưới chế độ CS người dân bị đàn áp, thiếu tự do… nên
những thập niên về trước, nhiều người liều chết vượt đại dương ra đi tìm tự do,
nếu chẳng may bị công an bắt, kết án là Việt gian, phản bội tổ quốc, bị tống
giam đày ải. Tuy nhiên cộng sản không thể chậm bắt hết làng sóng người vượt
biên hay các địa phương bán bãi lấy tiền, nên nhiều người vượt thoát được. Các
quốc gia trên thế giới với lòng nhân đạo đón nhận, người Việt với bản tính cần
mẫn chịu khó học hành đi làm, ổn định đời sống gởi tiền về giúp thân nhân hàng
năm lên tới 7-8 tỷ dollar. Một phúc lợi lớn cho chế độ CSVN, nên chúng thay đổi
chính sách mở cửa kêu gọi Việt kiều về đầu tư, nhưng Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam
ông cho rằng Nhà cầm quyền Việt Nam “chưa nỗ lực đủ và cần làm nhiều hơn nữa để̉
hòa giải với cộng đồng người Mỹ gốc Việṭ”:
Ngày
đi đảng gọi Việt gian
Ngày
về thì đảng chuyển sang Việt kiều
Chưa
đi phản động trăm chiều
Đi
rồi thành khúc ruột yêu ngàn trùng
Việt
Minh, Việt Cộng, Việt kiều
Trong
ba Việt ấy, đảng yêu Việt nào
Việt
Minh tuổi đã khá cao
Việt
Cộng ốm yếu xanh xao gầy mòn
Việt
Kiều tuổi hãy còn non
Đảng
yêu đảng quý như con đầu lòng
Chưa
đi chưa biết Nha Trang
Đi
rồi mới biết nó sang hơn mình
Sáng
tắm biển chiều tắm sình..
Chưa
đi chưa biết Sài Gòn
Đi
rồi trong túi chẳng còn một xu
Đêm
nằm ngẫm lại thấy ngu…
Cái
miệng ăn ít, con cu ăn nhiều
Việt
gian, Việt Cộng, Việt kiều
Ba
việt họp lại tiêu điều Việt Nam
Lịch sử cận đại, đặc biệt là giai đoạn từ năm 1975. Cộng sản
Việt Nam hay viện dẫn lịch sử lý luận và tự hào đã có công lao giải phóng dân tộc,
chiến thắng thực dân Pháp và Mỹ giành độc quyền lãnh đạo. Để có nhận xét công
minh để các thế hệ sinh sau thấy rõ công và tội của đảng cộng sản Việt Nam, đảng
đã tuyên truyền sai lệch về lịch sử, không thể lấy thúng úp voi, hơn 3 thập
niên qua đất nước còn chậm tiến và lạc hậu:
Tiên
sư cộng sản Việt Nam
Cuối
đời bán cả giang san nước nhà
Nhục
thay, Đảng-Bác nhà ta
Cúi
đầu dâng đảo Hoàng Sa cho Tàu
Tàu
giết dân, đảng làm thinh bỏ mặc
Tàu
cướp đất, đảng cúi mặt lặng câm.
Dân
xuống đường chống Chệt xăm lăng
Đảng
hung hăng bạo tàn đuổi đánh!
Ôi,
đảng bác mùa thu tháng tám
Hiện
nguyên hình một đám việt gian
Từ
buổi ngồi “trị quốc an dân”
Đảng
bao lần dâng Tàu nước Việt?.
Lịch sử điạ lý từ ngàn xưa thường nói từ Ải Nam Quan đến
mũi Cà Mau, biên giới lãnh thổ lãnh hải Việt Nam, đã bị mất một phần đất biển về
phiá Trung cộng, ngày nay mốc biên giới phải sửa lại từ Lạng Sơn? chứ Ải Nam
Quan đâu còn nữa! Đời sống người dân đã khổ vì thiên tai, những nạn dịch gia cầm,
nhưng người ta chờ đợi và mơ ước cái dịch đảng chết tiệt, may ra đời sống khá
hơn:
Dịch
heo, nối tiếp dịch gà
Bao
giờ dịch đảng, cho bà con vui
Chiến tranh chấm dứt đất nước có phát triển nhưng còn giới
hạn, xã hội băng hoại đạo đức suy đồi tham nhũng lan tràn, mức chênh lệch giàu
nghèo càng ngày cách biệt, đời sống nông dân chân lấm tay bùn còn bần cùng khốn
khổ… nhiều người bán tài sản góp tiền xin đi lao động nước ngoài, gái quê mong
lấy chồng ngoại quốc dù làm tôi tớ nô lệ! Trường học, bệnh viện không xây dựng
thêm, nhưng nhà hàng, hợp đêm thì mọc lên như nấm. Chúng ta không ngạc nhiên
trước những suy đồi hư đốn trên, tôi chứng kiến được những sự kiện, đời sống hiện
nay ở Sài Gòn chỉ làm cho chúng ta bi quan về tương lai đất nước. Đi đâu tôi
cũng nghe người ta than thở, chê trách đảng viên, cán bộ cấp cao chiếm một tỷ số
không nhỏ, đã tham nhũng hối lộ.. Trong bản báo cáo hàng năm về tự do tôn giáo
thế giới. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã nêu tên ba nước cộng sản Việt Nam, Trung Quốc,
Bắc Hàn và chính quyền quân nhân Miến Điện vi phạm nặng nề tự do tôn giáo.
Vì thế, từ rất lâu rồi, ngay từ thời HCM khai sinh ra nước
Việt Nam cộng sản, nhân dân ở ngoài Bắc đã tiên đoán về cái nghèo cái đói:
Mồng
2 tháng 9 – Vườn hoa Ba Đình
Bác
Hồ ở tít trên cao
Tôi
nói có rõ, đồng bào nghe không?
Bác
Hồ mặc áo nâu sòng
Đầu
không đội mũ, chân không mang giày
Xem
ra cơ sự thế này
Nước
Nam ắt sẽ ăn mày thêm đông!
Bác
Hồ rồi lại Bác Tôn!
Cả
hai đều thích ôm hôn nhi đồng
Nước
da hai bác màu hồng
Nước
da các cháu nhi đồng màu xanh
Giữa
hai cái mặt bành bành
Những
khăn quàng đỏ quấn quanh cổ cò
(Nguyễn
Chí Thiện)
Ở Bình Dương xuất hiện một tên tư bản đỏ, tục danh Dũng lò
Vôi xây ngôi chùa rất bề thế, nguy nga tráng lệ (người ta cho rằng tài sản đó của
gia đình cố T.T Võ Văn Kiệt). Du khách rất ngạc nhiên vì trong chánh điện, có
hình bán thân ông Hồ làm bằng vàng. Có thể ông Hồ ở Ba Đình hiện hồn về báo mộng
muốn vào chùa tu cho thoát kiếp tục luỵ? theo truyền thống Phật giáo thế giới
ngoài đức Phật và các vị bồ tác La Hán. Không thể có hình tượng người khác như
ông Hồ vào ngồi ngang với Phật, có chăng chỉ ở Bình dương Việt Nam!
Bác
sống thời lăng loàn dâm dối
Chết
vào chùa sám hối là đây.
Kiếp
sau chớ có tay sai
Tàn
dân mãi quốc, đoạ đày Việt Nam.
Bác
Hồ đã vào chùa chầu Phật
Thói
dâm dật chắc cũng tiêu tan
Còn
dư đảng Bác tàn tham
Ta
cùng đứng dậy đập tan cho rồi!.
Về văn chương, thi phú nhà nước Việt Nam cho xuất bản nhiều
tác phẩm như: Khảo luận văn chương, Tục ngữ Ca dao, Dân Ca Việt Nam, Tuyển tập
Tục ngữ Ca dao, Bình giải ca dao… thêm phần ca dao chống Mỹ và viết nhiều về
“tư tưởng bác đảng”, không ngoài mục đích ca tụng và đánh bóng chế độ CS để che
dậy tội dâng đất, dâng biển của tổ tiên cho ngoại bọn Tàu cộng. Tuyển tập thi
ca phát hành sau 1975 không có phần ca dao mới, như phần trên tôi đã sưu tầm,
tuy nhiên dân Sài Gòn, Hà Nội họ đều biết.
Thành thật tri ân ký giả lão thành Lê Liên ngoài 80 tuổi
nhưng ông còn minh mẫn, rất hài hước đọc cho tôi ghi chép những câu ca dao mới,
chắc chắn còn thiếu sót. Mong quý vị độc giả đóng góp cho thêm phần phong phú.
Nguyễn Quý Đại
Munich
2003
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét