Mao Trạch Đông ngàn năm công tội
Chương 24
Giương ngọn cờ chống
đảo chính để làm đảo chính
Giang Thanh |
Tháng 4-1966, Mao yêu cầu họp Bộ
Chính trị mở rộng để giải quyết vấn đề Bành Chân, Lục Định Nhất, La Thụy Khanh,
Dương Thượng Côn, những người tham dự đều có quyền biểu quyết. Mao muốn đưa các
nhân vật cánh “tả” Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên, Vương Lực,
Quan Phong, Thạch Bản Vũ đến hội nghị đế thị uy. Lưu Thiếu Kỳ nhấn mạnh biến
động nhân sự quan trọng trong Đảng phải được Hội nghị toàn thể Ban chấp hành
trung ương thông qua. Họp Ban chấp hành trung ương, chưa chắc Mao được đa số
ủng hộ.
Mao nhận ra điều này, nên kiên
quyết không họp Trung ương, không cho những người phụ trách các Trung ương cục,
các tỉnh và thành phố trực thuộc đến dự, Mao nắm chặt quân đội, quyết tâm dùng
“súng chỉ huy đảng” khi cần thiết để cứu vãn tình thế. Nắm quân đội chủ yếu là
lôi kéo Lâm Bưu, thiết lập liên minh Mao-Lâm, để áp đảo Thường vụ Bộ Chính trị,
Bộ Chính trị và Ban chấp hành trung ương. Nhưng Mao cũng đề phòng Lâm Bưu, nên
không sử dụng bộ đội thân tín của Lâm. Nước cờ then chốt nhất là Mao nắm Quyền
Tổng tham mưu trưởng Dương Thành Vũ. Trong những năm tháng chiến tranh, Lâm và
Dương từng có bất đồng. Quân đoàn 63 và Quân đoán 65 là bộ đội Hoa Bắc mà Dương
từng chỉ huy. Dương bị cuốn hút bởi niềm hy vọng thay thế toàn diện La Thụy
Khanh, đứng vào hàng ngũ những người lãnh đạo quan trọng của Đảng, Chính phủ và
Quân đội, lúc đó ông ta tuyệt đối trung thành với Mao. Ngày 22-2-1966, Mao chỉ
thị cho Diệp Kiếm Anh và Dương Thành Vũ sáp nhập Cảnh sát vũ trang vào Quân đội
bởi La Thụy Khanh từng nhiều năm làm Tư lệnh kiêm Chính uỷ lực lượng này. Ngày
15-5, Mao quyết định thành lập Tổ công tác Thủ đô, gồm Tổ trưởng Diệp Kiếm Anh.
Hai Tổ phó Dương Thành Vũ, Tạ Phú Trị và 8 thành viên khác, trong đó Dương
Thành Vũ giữ vai trò quyết định. Dương giới thiệu Đinh Lai Phu và Vương Thọ
Nhân, Chính uỷ và Tham mưu trưởng Quân đoàn 63, làm Bí thư thứ nhất Đảng uỷ và
Phó Cục trưởng Cục phát thanh, kiến nghị đưa hai sư đoàn thuộc các Quân đoàn 63
và 65 từ Thạch Gia Trang và Trương Gia Khẩu vào Bắc Kinh làm nhiệm vụ cảnh vệ,
đều được Mao phê chuẩn. Dựa vào ưu thể vũ lực, Mao đã áp đảo đa số trong Thường
vụ Bộ Chính trị, đánh bại ý đồ triệu tập Hội nghị Trung ương của Lưu Thiếu Kỳ:
Ngày 4-5-1966, Hội nghị Bộ Chính
trị mở rộng họp tại Bắc Kinh, các thành viên Tổ Cách mạng văn hoá trung ương
đều tham gia. Mao chỉ định hội nghị do Lưu Thiếu Kỳ chủ trì, nhưng lại do Khang
Sinh giữ vai trò liên lạc với Mao để chì đạo như vậy Lưu chỉ còn là người giới
thiệu chương trình. Hai ngày đầu, Khang Sinh truyền đạt những ý kiến của Mao từ
tháng 9-1962 tới tháng 3-1966, chủ yếu là phê phán Bành Chân, Lục Định Nhất,
giao nhiệm vụ ủng hộ phái tả, tiến hành Đại cách mạng văn hoá. Xuyên suốt nội
dung truyền đạt là Trung ương đã xuất hiện chủ nghĩa xét lại, như Bành Chân, La
Thụy Khanh, Dương Hiến Trân, Dương Thượng Côn, Điền Gia Anh. “Thông tri của Ban
chấp hành trung ương ĐCSTQ” mà hội nghị này cần thông qua nhấn mạnh phải triệt
để phê phán tư tưởng tư sản phản động trong giới học thuật, giáo dục, báo chí,
văn nghệ, xuất bản, giành lại quyền lãnh đạo trong lĩnh vực văn hoá, đồng thời
phê phán các đại diện của giai cấp tư sản len lỏi trong đảng, chính phủ, quân
đội và lĩnh vực văn hoá, trong đó có kẻ đã được bồi dưỡng thành người thừa kế
kiểu Khrusev… Trong phát biểu ngày 18-5-1966, Lâm Bưu điểm lại các cuộc đảo
chính từ thời thượng cổ đến nay, và nói Mao đã nhiều lần cùng người phụ trách
hữu quan bàn việc đề phòng đảo chính quân sự. Lâm nói La Thụy Khanh nắm quân
đội, Bành Chân nắm rất nhiều thứ, Lục Định Nhất nắm văn hoá, tư tưởng, Dương
Thượng Côn nắm cơ yếu, tình báo, liên lạc, họ liên minh với nhau, có thể làm
đảo chính trên chiến trường cũng như trong phòng họp, do đó về tư tưởng không
thể tê liệt, trong hành động phải có biện pháp cụ thể. Lâm đề cao Mao Trạch
Đông, coi Mao là “thiên tài vĩ đại nhất của giai cấp vô sản”, vượt trên Mác,
Ăng-ghen, Lênin, Stalin.
Xin nhắc lại một sự kiện liên
quan đến nội dung phát biểu trên của Lâm Bưu là “vụ Watergate” kiểu Trung Quốc
diễn ra đầu thấp kỷ 60. Tháng 2-1961, Mao tuần du phương Nam, chuyên xa dừng
tại ga Trường Sa. Trong lúc Mao gặp Bí thư thứ nhất Tỉnh uỷ Hồ Nam Trương Bình
Hoá, các nhân viên đi dạo trên sân ga, một nhân viên vô tuyến điện hứng lên, nói
với cô gái xinh đẹp phục vụ Mao:
- Anh đã nghe thấy tiếng em trong
buồng ngủ Mao Chủ tịch.
Cô gái tái mặt, vào báo cáo:
- Có người đặt máy nghe trộm
trong buồng ngủ!
Mao bảo Trương Bình Hoá về, rồi
gọi ngay La Thụy Khanh và Dương Thượng Côn có mặt trong chuyến đi này đến hỏi:
- Ai bảo các ông đặt máy nghe
trên xe lửa?
La, Dương nhìn nhau, đành nói
thật:
- Từ Đại tiến vọt đến nay, Chủ
tịch thường tiếp một số đồng chí trên xe lửa, phát triển nhiều ý kiến, thư ký
ghi chép không đầy đủ, bỏ sót nhiều chỉ thị quan trọng. Để bám sát tư tưởng của
Chủ tịch, Ban Bí thư quyết định đặt máy nghe trên xe lửa…
Khả năng tự kiềm chế của Mao thật
ghê gớm. Biết rõ đây là lúc quyền thống trị của mình suy yếu nhất, không thể
làm căng, nhưng phải hiểu rõ tình hình, Mao bình thản nói:
- Các ông cũng tốn nhiều công
sức, tôi không trách. Thiết bị có phải do Anh Cả cung cấp không?
Dương Thượng Côn đáp:
- Thưa, lấy danh nghĩa Văn phòng
Trung ương, thông qua con đường hữu quan, nhập từ nước ngoài.
Mao nói:
- Thế thì tiên tiến lắm. Lắp đặt
từ bao giờ vậy?
- Dạ, từ tháng 1-1959 ạ.
Mao lại giật thót mình, nhưng
giọng vẫn ôn hoà:
- Ồ, đã hơn hai năm rồi dấy. Các
ông giữ bí mật khá lắm. Số nhân viên công tác của tôi có biết không?
La Thụy Khanh:
- Các thư ký đều biết, nhưng yêu
cầu họ giữ kín.
Mao cười lớn:
- Mọi người đấu biết, thì còn bí
mật gì nữa, cũng không phải là một âm mưu. - Rồi Mao hờ hững hỏi - Vậy là các
đồng chí Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình đều biết trước việc này?
Dương Thượng Côn:
- Hai đồng chí ấy tán thành. Ban
bí thư có một nghị quyết nội bộ về vấn đề trên.
- Còn Chu Ân Lai, Uông Đông Hưng?
Dương Thượng Côn:
- Thủ tướng biết, còn chỉ thị: đã
xuất phát từ lợi ích toàn đảng, thì phải làm sao để không có chuyện hiểu lầm.
Đồng chí Uông Đông Hưng bảo lưu, nhưng qua Ban bí thư giải thích, đồng chí ấy
phục tùng nghị quyết của Trung ương.
Mao cười:
- Chu vẫn suy nghĩ chu toàn. Giờ
tôi không hiểu lầm nữa, những nghi ngờ cũ xoá sạch rồi, được không?
Cuộc nói chuyện kết thúc. Dương
Thượng Côn lạnh toát mồ hôi, vội gọi điện thoại cho Lưu Thiếu Kỳ. Lưu bay ngay
xuống Quảng Châu, đón gặp Mao tại đó. Ông trình Mao nghị quyết của Ban Bí thư
tháng 12-1958 về việc đặt máy ghi âm tại buồng ngủ của Mao trên xe lửa, và giải
thích việc này chỉ nhằm bám sát, học tập chỉ thị của Mao, không có ý gì khác.
Lưu đề nghị trao cho Uông Đông
Hưng kiểm tra, tiêu huỷ toàn bộ số băng ghi âm cùng các bản chỉnh lý lưu trữ
tại phòng bảo mật Văn phòng Trung ương. Lưu nói tuy đây là chủ kiến của Ban Bí
thư, nhưng Lưu đã tán thành cho làm, nên ông xin lỗi Mao, và sẵn sàng chịu kỷ
luật. Mao giấu kín những suy nghĩ riêng, làm bộ tươi cười:
- Các ông rõ là tốt bụng mà làm
một việc không hay lắm. Sự việc đã nói rõ, coi như kết thúc. Ông yên tâm đi,
việc này làm theo ý ông. Từ nay trong Đảng không ai được nhắc lại, tôi cũng
không đề nghị Trung ương thi hành kỷ luật bất cứ ai. Việc quan trọng nhất hiện
nay là toàn Đảng đoàn kết, một lòng một dạ, ổn định lòng đảng, lòng quân, cùng
nhau vượt qua khó khăn…
Từ đó, Mao không tin cậy Lưu Thiếu Kỳ và Ban Bí thư nữa, nó là bước ngoặt khiến quan hệ Mao-Lưu trở nên thù địch.
Từ đó, Mao không tin cậy Lưu Thiếu Kỳ và Ban Bí thư nữa, nó là bước ngoặt khiến quan hệ Mao-Lưu trở nên thù địch.
Thông tri của Trung ương ĐCSTQ
ngày 16 và phát biểu của Lâm Bưu ngày 18-5-1966 đã đặt cơ sở cho Đại cách mạng
văn hoá với mục tiêu đánh đổ Lưu Thiếu Kỳ. Bỏ qua hiến pháp và Quốc hội, dùng
phong trào quần chúng được quân đội ủng hộ để phế truất nguyên thủ quốc gia,
bản thân nó là một cuộc đảo chính. Mao và Lâm đã trương lá cờ chống đảo chính
để làm đảo chính.
Phát biểu của Lâm Bưu như một quả
bom nguyên tử chính trị, tăng cường quyền uy của Mao tới mức tối đa, đẩy Mao
lên vị trí chí tôn, giúp Mao hoàn toàn thoát khỏi tình thế lúng túng, bị động
từ Đại hội 7.000 người. Không còn ai dám nghĩ đến việc truy cứu trách nhiệm làm
mấy chục triệu người chết đói. Trong tiềm thức, đông đảo cán bộ, đảng viên,
quần chúng cảm thấy chỉ có tín ngưỡng vô hạn, sùng bái vô hạn Mao Trạch Đông,
thì mới có an toàn chính trị cho bản thân và gia đình. Một cao trào sùng bái cá
nhân mang tính chất toàn dân vừa bị ép buộc, vừa tự nguyện, như một dòng thác
lũ tràn ngập nước Trung Hoa.
Mao rất hài lòng về bài nói của
Lâm. Song ngày 8-7-1966, Mao lại viết thư cho Giang Thanh phàn nàn việc Lâm chỉ
nói về đảo chính, Mao cũng tỏ ra lo ngại trước một số cách nêu vấn đề của Lâm,
nhưng đành chấp nhận, và đây là lần đầu tiên trong đời, Mao phái tán thành ý
kiến tâng bốc của người khác, trái với lòng mình. Là người giỏi ứng biến, đương
nhiên Mao biết Lâm tâng bốc ông ta như vậy nhằm đổi lấy vị trí người kế tục đổi
lấy “giang sơn xã tắc” của Mao. Sự tâng bốc này có hiệu quả nếu dùng làm một
sách lược, một thủ đoạn để tấn công Lưu Thiếu Kỳ, nhưng để đánh giá một nhân
vật lịch sử thì không thể lâu dài. Mao còn cho Chu Ân Lai xem thư trên nhằm cho
thấy giữa Mao và Lâm có khoảng cách, Thủ tướng đừng quá gần gụi Lâm. Chu Ân Lai
hiểu ngay rằng: vào lúc Mao “chúng phản, thân ly” chỉ còn mỗi Lâm Bưu là “bạn
chiến đấu thân thiết”, lại có một chiến hữu “thân thiết“ hơn Lâm, là Giang
Thanh. Chu một mặt lẳng lặng giữ khoảng cách thích đáng với Lâm Bưu, mặt khác,
bằng mọi cách giữ quan hệ bình thường với Giang Thanh, tuyệt đối không va chạm,
nhưng cũng quyết không cho phép mụ trở thành Lã Hậu. kiên quyết ngăn chặn mưu
toan của Mao truyền ngôi cho người nhà. Đó là nguồn gốc của cục diện chính trị
rối ren phức tạp, kỳ quặc xuất hiện trong cuộc đấu tranh nội bộ ĐCSTQ những năm
cuối đời Mao.
Ngày 4-10-1966, trong buồng ngủ
cách âm của vợ chồng Lâm Bưu, Giang Thanh đột nhiên hỏi Diệp Quần: “Cô nói xem,
Đại cách mạng văn hoá là gì?” Diệp Quần sững người, chưa biết trả lời ra sao,
Giang Thanh nghiến răng nói tiếp: “… là đánh đổ hết kẻ thù của ta!” Hai người
thoả thuận: Giang Thanh giúp trừng trị những kẻ thù của Diệp Quần, đổi lại,
Diệp Quần giúp đánh đổ những kẻ thù của Giang Thanh. Hành động của hai người
đàn bà trong những năm tháng tiếp theo là sự chú giải tuyệt vời cho lý luận của
hai người chồng họ.
Chương 25
Lợi dụng học sinh lật
đổ chủ tịch nước
Khi cảm thấy đã chắc chắn thao
túng được Ban chấp hành trung ương, Mao ra lệnh triệu tập Hội nghị Trung ương
11 khoá 8 từ 1 đến 12-8-1966. Trước cuộc họp, Mao gọi Chu Ân Lai, Đào Chú, Trần
Bá Đạt, Khang Sinh đến hỏi ý kiến về người thay thế Lưu Thiếu Kỳ. Mao và 4
người viết lên người đó lên bàn tay mình, khi mở ra, tất cả đều một chữ “Lâm”.
Dự Hội nghị có 141 uỷ viên và uỷ
viên dự khuyết Trung ương Đảng. Những người phụ trách các Trung ương cục, các
tỉnh và thành phố trực thuộc, các cơ quan trung ương và các thành viên Tổ Cách
mạng văn hoá trung ương được mời dự thính. Chương trình Hội nghị gồm thông qua
quyết định phát động Đại cách mạng văn hoá, thảo luận và phê chuẩn các biện pháp
lớn về các vấn đề trong nước và quốc tế từ kỳ họp trước đến nay, thông qua
thông cáo của hội nghị này, truy nhận quyết định thay đổi nhân sự của Hội nghị
Bộ Chính trị mở rộng.
Đọc báo cáo công tác, Lưu Thiếu
Kỳ chủ động nhận trách nhiệm về vấn đề cử các tổ công tác vào các trường đại
học và học viện, Mao liên tục cắt ngang với lời lẽ gay gắt.
Sau khi châm ngòi lửa Đại cách
mạng văn hoá, Mao bỏ xuống Hàng Châu nghỉ ngơi, mặc cho Lưu Thiếu Kỳ và Đặng
Tiểu Bình chủ trì công tác trung ương, đối phó tình trạng rối loạn ở Bắc Kinh
và cả nước, đây là một âm mưu lớn, một cái bẫy lớn, Lưu-Đặng làm thế nào cũng
sai, cũng bị Mao nắm thóp. Kết quả là Lưu-Đặng đứng ra lo liệu, đưa các tổ công
tác vào các trường đại học, Mao liền nói họ đàn áp quần chúng cách mạng, thực
hiện khủng bố trắng, đẩy lùi Đại cách mạng văn hoá, thực hiện đường lối tư sản
phản động, buộc họ kiểm thảo mắc sai lầm đường lối. Nếu Lưu-Đặng không đứng ra
lo liệu, đề mặc cho tình hình rối loạn. Mao sẽ nói đây là cuộc bạo loạn phản
cách mạng, Trung Quốc xuất hiện “sự kiện Hungary” do Lưu-Đặng đứng đằng sau.
Khi ấy, Mao sẽ hy sinh mấy chục vạn học sinh, đứng ra bảo vệ những người bị
hại, một lần nữa trở thành “đại cứu tinh của nhân dân”.
Mao nắm quyền phát ngôn, tiếng
nói có sức nặng ghê gớm, đó lâ chỗ lợi hại của kẻ độc tài. Nhưng Mao đã dự đoán
Lưu-Đặng sẽ không bỏ mặc cho tình hình rối loạn không kiểm soát nổi, thông qua
cuộc đấu tranh chống phái hữu, các bộ, các cấp mặc cho tình hình hỗn loạn. Mao
ung dung ngồi xem họ mắc sai lầm đường lối tư sản phản động.
Khi Diệp Kiếm Anh xen vào “Chúng
ta có quân đội, không sợ yêu ma quỷ quái”. Mao nói như quát lên: “Yêu ma quỉ
quái đang có mặt tại đây”. Chiều 5-8, trên cương vị Chủ tịch nước, Lưu Thiếu Kỳ
tiếp Đoàn đại biểu Zambia, về đến nhà liền nhận được điện thoại của Chu Ân Lai
yêu cầu ông không xuất hiện công khai, không tiếp khách nước ngoài. Lưu hiểu
đây là lệnh của Mao.
Chuẩn bị xong xuôi, tại cuộc họp
Thường vụ Bộ Chính trị, Mao tuyên bố muốn thay người kế tục, và giới thiệu Lâm
Bưu. Lưu Thiếu Kỳ đã sớm nhìn ra nước cờ này, ông lên tiếng tán thành ngay. Các
uỷ viên Thường vụ khác cũng bỏ phiếu tán thành. Ngày 8-8, Hội nghị Trung ương
thông qua quyết định về Đại cách mạng văn hoá, rồi chuyển sang phê phán Lưu,
Đặng. Hội nghị bổ sung Đào Chú, Trần Bá Đạt, Khang Sinh, Từ Hướng Tiền, Nhiếp
Vinh Trăn, Diệp Kiếm Anh làm uỷ viên chính thức, Lý Tuyết Phong, Tống Nhiệm
Cùng, Tạ Phú Trị làm uỷ viên dự khuyết Bộ Chính trị, Tạ Phú Trị, Lưu Ninh Nhất
vào Ban Bí thư, Đào Chú làm Bí thư trực, đưa Bành Chân, La Thụy Khanh, Lục Định
Nhất, Dương Thượng Côn ra khỏi Ban bí thư.
Mao Trạch Đông chuẩn bị một danh
sách Thường vụ Bộ chính trị 11 người, gồm Mao, Lâm, Chu, Đặng, Trần Bá Đạt,
Khang Sinh, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức, Trần Vân, Lý Phú Xuân, Đào Chú. Do được 100%
số phiếu, Đặng được xếp ở vị trí thứ 4. Sau đó, theo ý Giang Thanh, Mao đưa Đào
Chú lên vị trí thứ 4, đẩy Đặng Tiểu Bình xuống vị trí thứ 7, Trần Vân xuống vị
trí cuối cùng. Mao muốn cử hai Phó Chủ tịch Đảng là Lâm Bưu và Chu Ân Lai. Song
Chu đề xuất chỉ có một Phó Chủ tịch là Lâm Bưu, để nêu bật vị trí người kế tục.
Chu chủ động lùi một bước, vừa tránh được sự đố kỵ của Mao, Lâm, vừa được lòng
người.
Qua việc Giang Thanh tham gia cải
tổ Thường vụ Bộ Chính trị có thể thấy Đại cách mạng văn hoá vừa bắt đầu, Mao đã
coi Giang Thanh là người kế tục để bồi dưỡng. Sau khi Đặng Tiểu Bình bị đánh
đổ, Ban Bí thư tê liệt, Mao đã lấy Tổ cách mạng văn hoá trung ương thay thế Ban
Bí thư, vị trí và vai trò thực tế của Giang Thanh trong Đại cách mạng văn hoá
tương đương Tổng Bí thư.
Sau Hội nghị Trung ương 11 khoá
8, từ Bắc Kinh đến cả nước, đông đảo cán bộ và quần chúng tỏ ra không sao hiếu
nổi việc Mao Trạch Đông phát động Đại cách mạng văn hoá và phê phán đường lối
tư sản phản động của Lưu Thiếu Kỳ, xuất hiện tình trạng “HAI ĐẦU NÓNG, GIỮA
LẠNH” (đầu trên là Mao và Tổ Cách mạng văn hoá trung ương, đầu dưới là các
“tiểu tướng Hồng vệ binh” bị lừa dối, lợi dụng thì sôi sùng sục, còn ở giữa -
các cơ quan đảng và chính quyền các cấp đông đảo cán bộ, quần chúng - thì phát
mà không động, một trạng thái chống đối Lưu Thiếu Kỳ được đông đảo cán bộ, quần
chúng ủng hộ như vậy khiến Mao rất lo. Thế là ngày 1-10 Mao kêu gọi “triệt để
phê phán đường lối tư sản phản động”, tổ chức lực lượng mở cuộc tổng công kích
vào “Bộ tư lệnh tư sản” Lưu-Đặng. Mao kết hợp cuộc tiếp kiến Hồng vệ binh lần
thứ 4 với lễ mừng Quốc khánh thứ 17, nên có tới 1,5 triệu Hồng vệ binh tham gia
hoạt động này. Một nhóm Hồng vệ binh nhận nhiệm vụ bí mật căng trên quảng trường
Thiên An Môn khẩu hiệu lớn “Đả đảo Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình!” Họ công khai
hô khẩu hiệu đánh đổ Lưu, Đặng, công khai tuyên bố trước toàn thế giới mũi nhọn
của Đại cách mạng văn hoá chĩa vào đầu.
Trước sức ép của phong trào Hồng
vệ binh, Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình buộc phải thừa nhận đã mắc sai lầm về
đường lối. Theo nhịp điệu do Mao định ra, Lưu Thiếu Kỳ đã phủ định toàn bộ công
tác chỉnh đốn kinh tế quốc dân, ngăn chặn nạn đói lan tràn, khiến đất nước
tránh khỏi sụp đổ do ông lãnh đạo. Như vậy là Mao Trạch Đông, người phát động
phong trào Đại tiến vọt, Công xã hoá làm 37,55 triệu người chết đói lại trở
thành nhà lãnh đạo “luôn luôn đúng đắn”, còn Lưu Thiếu Kỳ, người đã đưa đất
nước ra khỏi khủng hoảng, khiến nhân dân thoát khỏi nạn đói lại là người mắc
sai lầm về đường lối, phải đánh đổ.
Phát biểu trước Hội nghị công tác
Trung ương ngày 25-10, Mao Trạch Đông đổ hết mọi trách nhiệm cho Lựu Đặng. Mao
nói: Trong 17 năm (từ 1949 đến 1966), Mao ở tuyến 2, “không chủ trì công tác
hàng ngày”, các đồng chí ở tuyến 1 “xử lý công việc không tốt lắm” (nghĩa là
đường lối chung, Đại tiến vọt, công xã nhân dân, chết đói trên 37,5 triệu
người… đều do người khác làm), thiếu sót của Mao chỉ là phân chia tuyên 1 tuyến
2, và quá tin vào Lưu, Đặng.
Do Giang Thanh đạo diễn ngày
6-1-1967 đã xảy ra vụ “dùng mưu bắt Vương Quang Mỹ” đem đến Đại học Thanh Hoa
phê đấu, sau nhờ Chu Ân Lai can thiệp, bà Vương được tha về. Đêm 13-1, Mao cho
thư ký đón Lưu Thiếu Kỳ đến gặp tại Nhà Quốc hội. Đây là cuộc gặp cuối cùng
giữa hai người. Lưu nhận trách nhiệm về “sai lầm đường lối” lần này. Ông nói
đông đảo cán bộ đều tốt, yêu cầu nhanh chóng thả họ ra để Đảng bớt bị thiệt
hại. Ông cũng xin từ chức Chủ tịch nước và uỷ viên Thường vụ Bộ Chính trị, cùng
vợ con về quê làm ruộng, để sớm kết thúc Đại cách mạng văn hoá, giảm thiệt hại
cho đất nước. Mao rít thuốc lá, lặng lẽ nghe, im lặng hồi lâu rồi khuyên Lưu
đọc cuốn “Chủ nghĩa duy vật máy móc” của Hê-ghen. Mao còn vờ hỏi thăm tình hình
con Lưu, nhắc Lưu chú ý giữ gìn sức khỏe.
Ngày 4-10, vẫn do Giang Thanh dày
công đạo diễn, Hồng vệ binh Đại học Thanh Hoa tổ chức đại hội phê phán Vương
Quang Mỹ, có 30 vạn người tham gia, lôi cả hơn 300 cán bộ thuộc “phái đi con
đường tư bản chủ nghĩa” trong đó có Bành Chân, Bạc Nhất Ba, Lục Định Nhất, Tưởng
Nam Tường ra đấu.
Từ sáng sớm, ôtô của Hồng vệ binh
đã vào Trung Nam Hải bắt người. Vương Quang Mỹ bị dẫn đến tầng 7 toà nhà chính
của Đại học Thanh Hoa, bị cưỡng bức mặc bộ trang phục hồi thăm Indonesia, và bị
choàng lên cổ một chiếc “dây chuyền” cực lớn xâu bằng những quả bóng bàn. Màn
kịch xấu xa trên đã bộc lộ hết sự hẹp hòi, đố kỵ, tâm lý đen tối và nhân cách
hạ đẳng của Giang Thanh. Hôm sau, tin ảnh về “ba lần thẩm vấn Vương Quang Mỹ”
xuất hiện trên các bản tin của Hồng vệ binh làm chấn động dư luận thế giới, sự
tôn nghiêm của Lưu Thiếu Kỳ trên cương vị Chủ tịch Nhà nước Trung Quốc bị quét
sạch trơn.
Đầu tháng 7-1967, 1,5 vạn người
đại diện cho hơn 500 tổ chức tạo phản ở Bắc Kinh và hàng chục tỉnh thành khác,
dựng trên 7.000 chiếc lều kéo dài hàng chục dặm từ cửa tây tới cửa bắc Trung
Nam Hải, tuyên bố thành lập “Bộ chỉ huy hoả tuyến đấu Lưu Thiếu Kỳ”, 500 loa
phóng thanh công suất lớn ra rả suốt ngày đêm phê phán Lưu. Mao hài lòng thấy
Lưu bị bao vây trong thiên la địa võng của Hồng vệ binh. Ngày 13-7, Mao rời Bắc
Kinh “tuần du phương Nam”. Chuyến tàu chở Mao vừa chuyển bánh, Giang Thanh liền
thúc giục Hồng vệ binh đấu Lưu Thiếu Kỳ.
Ngày 18-7, phái tạo phản đồng
thời đấu ba cặp vợ chồng Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, Đào Chú tại nơi ở của họ
trong Trung Nam Hải. Ngày 5-8, kỷ niệm một năm ngày Mao viết bài “Nã pháo vào
bộ tư lệnh”, Tổ cách mạng văn hoá tổ chức cuộc họp một triệu người tại quảng
trường Thiên An Môn, hỏi tội Lưu, Đặng. Đào, đồng thời tổ chức đấu tố họ tại
nơi ở. Hôm ấy, Lưu Thiếu Kỳ bị đánh sưng mặt, tuột cả giày.
13-9-1967 là ngày gia đình Lưu ly
tán: bà Vương Quang Mỹ bị bắt giam, ba người con ở tuổi đi học buộc phải vào
trường chịu thẩm tra, bé út 6 tuổi phải theo bảo mẫu ra khỏi Trung Nam Hải. Lưu
Thiếu Kỳ bị giam ngay trong Văn phòng Chủ tịch nước. Mao muốn giày vò Lưu ngay
trước mắt mình, muốn thấy ông ta từng bước suy sụp về tinh thần và thể chất,
từng bước đi vào chỗ chết. Lợi dụng học sinh đánh đổ Lưu Thiếu Kỳ, nhưng Mao
vẫn quan tâm đến hiến pháp và pháp luật. Mọi người thấy đấy: Mao không hề hạ
lệnh bắt Lưu, không giam Lưu vào nhà tù, không cử người ám sát hoặc ra lệnh xử
bắn Lưu; Lưu vẫn là Chủ tịch nhà nước Trung Quốc, vẫn ở trong Văn phòng Chủ
tịch của ông ta; còn việc quần chúng không ủng hộ, muốn lật đổ ông ta, thì đấy
là phong trào quần chúng tự phát, trách ai được. Nếu truy cứu vụ án bức hại Chủ
tịch nước cho đến chết thì chẳng nắm được sơ hở nào của Mao, rất khó mà định
tội. Mao không bảo Lưu phải ngừng thực thi chức quyền Chủ tịch nước, không nói
phải giam Lưu, đấu Lưu, về văn tự chẳng để lại dấu vết nào. Việc quy Lưu là
phản bội, nội gian, công đoàn vàng, thì với tư cách Chủ tịch Đảng, Mao không
ký, mà do Chu Ân Lai thay mặt Ban chấp hành trung ương ký. Thế là Mao lẩn hết
trách nhiệm. Hành động chính trị lưu manh này là sự sa đoạ về phẩm chất chính
trị của Mao. Nhưng Mao không thoát khỏi sự phán xét của Toà án đạo đức.
Năm ấy Lưu đã 69 tuổi, sự bức hại
đối với ông ngày càng gia tăng. Mấy lần đấu đá khiến ông tổn thương nặng nề cả
về tinh thần và thể chất. Tay ông bị thương trong chiến tranh, qua mấy lần bị
đánh, nay không tự do cử động được nữa, mặc một chiếc áo cũng phải mất hàng
giờ. Mỗi bữa ăn, khoảng cách đến nhà ăn chỉ chừng 30 mét, mà ông phải lê đôi
chân bị thương đi mất 50 phút. Người ta đã nhắc nhở lính canh không được đỡ
Lưu. Về sau Lưu không đi nổi, phải mang cơm tận nơi, rồi lại một lần mang cơm
cho mấy bữa, cơm thiu cũng mặc. Lưu chỉ còn 7 chiếc răng, ăn uống như vậy khiến
ông thường bị tiêu chảy, lại không thể thay quần áo, trong phòng hôi thối nồng
nặc. Ngày nào cũng bị đấu, quanh phòng đầy khẩu hiệu làm nhục ông, tên ông
chúng viết thành Lưu Thiếu Cẩu. Ông đầy lòng căm phẫn mà không nói ra được,
muốn nghỉ ngơi mà không được yên, có bệnh không được chữa chạy. dần dần tâm trí
hoảng loạn, sụp đổ về tình thần.
Khi chân lý trong tay, Mao có thể
bao dung các đối thủ, đoàn hết phe phản đối. Thường khi Mao đuối lý, phát hiện
mình sai rồi, thì ông ta không thể bao dung phái phản đối, mà quyết tâm đẩy họ
vào chỗ chết, để trừ hậu hoạ. Đó là lý do vì sao Mao tàn bạo đến tận cùng đối
với những người bạn cũ như Lưu Thiếu Kỳ, Bành Đức Hoài…
Chương 26
Nhân dân run rẩy
trong cuộc khủng bố đỏ
Ở Trung Quốc, từ khi có trường
học kiểu mới liền có phong trào học sinh. Từ thời đại Bắc Dương đến Tưởng Giới
Thạch, phong trào học sinh xuất hiện trên vũ đài lịch sử với tư thế yêu nước,
tiến bộ, cách mạng, trở thành lực lượng tiên phong thúc đẩy xã hội tiến bộ.
Chưa một nhà thống trị nào có thể lợi dụng học sinh làm điều xấu. Chỉ có Mao
Trạch Đông làm nổi việc này. Mao đã lợi dụng học sinh làm rối loạn cả xã hội,
lật đổ cơ quan đảng và chính quyền các cấp, mượn bàn tay học sinh để giày vò
các bạn chiến đấu hôm qua, đối thủ chính trị hôm nay.
Từ 18-8 đến 26-11-1966, Mao 8 lần
tiếp tổng cộng 13 triệu Hồng vệ binh từ các nơi trong cả nước đến Bắc Kinh “xâu
chuỗi”, sự cuồng nhiệt sùng bái cá nhân Mao Trạch Đông sôi lên sùng sục, Mao là
“mắt bão” làm cho cơn bão đỏ tạo phản tràn khắp Trung Hoa. Hồng vệ binh được
tâng bốc lên tận trời xanh, khiến họ nảy sinh ảo tưởng vô cùng tận. Vào lúc con
em dân thường bất bình vì các vị trí công tác tốt đều lọt vào tay con em cán
bộ, Mao kêu gọi đánh đổ “phái cường quyền đi con đường tư bản”, tức là đánh đổ
bố mẹ những học sinh được ưu đãi kìa, các học sinh xuất thân dân thường liền
đứng lên tạo phản. Để thoát khỏi thế bị động, học sinh con em cán bộ cũng tham
gia tạo phản với tư thế còn “tả” hơn, họ không lôi bố mẹ mình, mà lôi cấp trên,
đồng cấp hoặc cấp dưới của bố mẹ ra đấu. Bất kể là con em cán bộ hay dân
thường, tất cả đều phát điên. Mao ủng hộ và ra lệnh bảo vệ những hoạt động tạo
phản này. Quân đội và công an đều được lệnh cấm nổ súng vào Hồng vệ binh, kể cả
bắn doạ, bị chúng đánh cũng không được đánh trả. Hồng vệ binh kéo nhau đi lục
soát, đập phá, bắt bớ phê đấu cán bộ lâu năm, các giáo sư và văn nghệ sĩ nổi
tiếng. Họ không có sức đánh trả, nên chúng chẳng gặp nguy hiểm gì, mà lại được
nhiều không kể xiết. Đó là cơ sở tư tưởng sâu xa của phong trào Hồng vệ binh.
Khởi đầu bằng việc đập phá tượng
Thích ca mâu ni trên Phật Hương Các ở Di Hoà Viên, Hồng vệ binh đã phá hoại
4.922 trong số 6.843 di tích cổ ở Bắc Kinh. Theo thống kê chưa đầy đủ, cả nước
có 10 triệu nhà bị lục soát, trong đó Bắc Kinh 11,4 vạn, Thượng Hải 10 vạn. Nhà
riêng nguyên Bộ trưởng Giao thông Chương Bá Quân bị Hồng vệ binh chiếm làm trụ
sở, hàng vạn cuốn sách ông lưu trữ bị chúng đốt suốt ngày đêm để sưởi ấm. Hơn
200 sinh viên Đại học Sư phạm Bắc Kinh kéo về Sơn Đông “san bằng” mộ Khổng Từ.
Lăng mộ của nhiều nhân vật lịch sử hoặc danh nhân như lăng Viêm đế, mộ Hạng Vũ,
Gia Cát Lượng. Thành Cát Tư Hãn, Chu Nguyên Chương, Ngô Thừa Ân, Từ Bi Hồng… bị
đập phá.
Mao còn tạo ra cuộc khủng bố đỏ,
cho Hồng vệ binh nông dân thả sức giết hại “kẻ xấu” (địa chủ, phú nông, phản
cách mạng, phái hữu, nhà tư bản, xã hội đen) để áp chế sự phản kháng của nhân
dân. Chỉ riêng hạ tuần tháng 8-1966, nội thành Bắc Kinh đã có hàng ngàn người
bị đập chết tươi.
Nhiều người khi ấy đã được chứng
kiến những cuộc tắm máu, những kiểu giết người cực kỳ man rợ như thời trung cổ.
Ôn lại chuyện trên, cựu Hồng vệ binh Trần Hướng Dương sau này viết:
“Vì sao những đứa trẻ mười mấy
tuổi đầu lại dã man giết người không chớp mắt như vậy? Vì từ nhỏ đã được giáo
dục hận thù. Thù địa chủ, thù nhà tư bản, thù Quốc Dân Đảng: Trả thù bằng thủ đoạn tàn nhẫn là thiên kinh địa nghĩa, vấn đề
duy nhất là không biết chĩa vào đâu. Kè thù bên cạnh đã bị các bậc tiền bối
quét sạch rồi, còn lại Tưởng Giới Thạch và đế quốc lại ở quá xa, không với tới
được. Đại cách mạng văn hoá vừa nổ ra, mới đột nhiên biết quanh mình còn ẩn náu
nhiều kẻ thù, chúng tôi vui mừng đến phát cuồng, bao nhiêu sức lực dồn nén dều
bung ra. Sự cuồng loạn ấy chẳng những hiện nay không mấy ai tin, mà ngay bản
thân chúng tôi nhớ lại cũng không dám tin nữa. Những việc làm xấu xa của Hồng
vệ binh thật đáng nguyền rủa, nhưng chúng tôi cũng có đủ tư cách lớn tiếng hỏi
lại: ai đã giáo dục chúng tôi thành những thằng điên?
Băc Kình "nêu gương",
những vụ tàn sát lan ra cả nước. Huyện Đạo ở Hồ Nam là một trong những điển
hình. Khắp nơi là những bố cáo giết người của “toà án tối cao bần nông và trung
nông lớp dưới", những khẩu hiệu kêu gọi giết sạch 4 loại người, (địa chủ,
phú nông, phản cách mạng, phái hữu).
Trong hai tháng 7 và 8 năm 1967,
Quan Hữu Chí, Trưởng ban vũ trang khu Thanh Đường đã chỉ uy dân quân dùng cuốc
xẻng, súng bắn chim, gậy gộc giết hại 207 người, kể cả trẻ em. Do công lao
trên, y được bầu là “phần tử tích cực học tập và vận dụng tư tường Mao"
cấp tỉnh năm 1967. Viên Phủ Lễ, Khu trưởng Lâm Phô tổ chức 120 dân quân nòng
cốt trong ba ngày giết 569 người.
Trần Đăng Nghĩa, Chủ tịch Hội Bần
nông Đại đội sản xuất Hạ Tưởng là thủ phạm chính trong một vụ giết người, cưỡng
dâm tập thể. Thấy vợ mới cưới của con em địa chủ Trần Cao Tiêu xinh đẹp, y sinh
lòng ghen ghét và sớm có ý đồ bất lương, thì nay thời cơ đến. Tối 26-8-1967. Nghĩa
cho gọi Tiêu đến trụ sở đại đội và trói nghiến lại. Y cầm giáo đâm một nhát vào
dùi anh Tiêu, rồi khoát tay ra hiệu. 7,8 dân quân xông vào dùng gậy đập anh
Tiêu chết tươi. Để chứng tỏ mình “kiên quyết cách mạng”, y dùng mã tấu cắt đầu
anh Tiêu, cùng hai con em địa chủ, phú nông khác cũng vừa bị đánh chết. Chị
Tiêu (xuất thân bần nông) sợ quá trốn về nhà mẹ đẻ ở làng khác, Nghĩa cho dân
quân bắt chị trở lại, y tuyên bố các nơi khác vợ địa chủ đều phải “phục vụ tập
thể bần nông”.
Sau khi cơm no, rượu say, Chủ
tịch Hội Bần nông và dân quân, tất cả 12 tên, luân phiên cường hiếp chị Tiêu
khi ấy đang mang thai 3 tháng. Xong xuôi. Nghĩa không quên thực hiện “chính
sách của ĐCSTQ”: cho dân quân khiêng nạn nhân đã ngất xỉu đến nhà bần nông Trần
Nguyệt Cao, buộc chị làm vợ người nông dân già độc thân này.
Cô giáo Chu Quần ở Đại đội sản
xuất Hoành Lĩnh xuất thân bần nông, kết hôn với Tưởng Hán Chính xuất thân địa
chủ, họ đã có với nhau ba mặt con. Tưởng Hán Chính bị bắt ngay hôm đầu. Đêm
26-8-1967, Bí thư chi bộ Đường Hưng Hạo cùng Tiểu đoàn trưởng dân quân Tưởng
Văn Minh xông vào nhà bắt chị Chu đưa ra sân kho. Tại đây chị thấy dân quân
mang súng, mã tấu đang quây tròn quanh 14 người đều là con cháu địa chủ, phú
nông, họ đều bị trói giật cánh khuỷu bằng dây thép. Đường hạ lệnh dẫn họ lên
núi Mộc Phong, nơi có nhiều hang sâu hàng chục mét. Dọc đường, có người nhắc Bí
thư chi bộ vợ chồng Tưởng Hán Chính-Chu Quần còn ba trẻ nhổ, y cho người quay
lại bắt cả ba đứa mang theo. Tới nơi, y bắt mọi người đứng im không được nhúc
nhích, rồi tuyên bố: “Chúng tao là Toà án tối cao của bần nông, hôm nay tuyên
án xử tử hình tụi bay!” Bí thư chi bộ bắt đầu đọc tên, lần lượt giết từng người
một.
Lối hành hình của chúng mang “đặc
sắc bản địa”: bắt nạn nhân quỳ bên miệng hang, dùng xà beng quật vào sau não
cho gục xuống, rồi đạp xuống hang… Người thứ 3 là Tưởng Hán Chính, anh sợ hãi
không lê nổi đôi chân, bị dân quân lôi đến cửa hang. Mấy đứa trẻ sợ quá, vừa
khóc, vừa la hét. Người thứ 4 là thầy thuốc Đông y Tưởng Văn Phàm, ông ung dung
xin ngụm nước để đi vào cõi chết. Dân quân quát: “Làm gì có nước cho mày
uống?”. Ông nói: “Trước khi chết tôi xin ngụm nước có gì quá đáng đâu, ngày xưa
khi chặt đầu còn cho 3 chiếc bánh bao nóng!” Vừa nói xong đã bị đạp xuống hang
sâu.
Người thứ 8 là Chu Quần. Ba đứa
trẻ nhìn mẹ bị hại, khóc lóc thảm thiết. Không biết ngất đi trong bao lâu, Chu
Quần bỗng thấy tiếng gọi mẹ văng vẳng bên tai. Tỉnh lại, chị thấy đứa con gái 8
tuổi nằm bên, thì ra mấy cháu cũng bị ném xuống hang theo mẹ. Nhờ đống xác người
bị giết trước, hai mẹ con chị sống sót. Chị bảo con cởi trói cho mình. Hôm sau,
những kẻ giết người phát hiện dưới hang còn người sống sót, liền ném đá xuống.
Hai mẹ con từ tầng trên rơi xuống tầng dưới nơi có những góc chết. Chị phát
hiện chồng và hai đứa con trai nằm ở đó. Cả nhà may mắn thoát chết, một cuộc
đoàn tụ hiếm hoi và thảm thương trên đống xác người dưới hang sâu tối tăm, lạnh
lẽo. Anh Tưởng đã hoảng loạn, sợi dây thép trói chặt quá không làm sao cởi ra
nổi, anh đi đi lại lại trên đống xác người, miệng lảm nhảm như mê sảng. Chẳng
biết mấy ngày đêm qua đi, cả ba đứa trẻ lịm dần tất thở. Anh Tưởng khát, chị
Chu lấy áo thấm vào vũng nước trộn máu, vắt ra cho chồng uống, Song anh không
nuốt nổi, gục đầu xuống lìa đời. Sau nhờ hai học sinh đến cứu, chị thoát chết,
và vụ giết người rùng rợn này mới có ngày được phơi trần.
Theo tư liệu điều tra của tỉnh Hồ
Nam, trong 66 ngày từ 13-8 đến 17-10-1967, huyện Đạo có 4.519 người thiệt mạng,
gồm 4.193 người bị giết, 326 người bị buộc phải tự sát.
Trong cơ cấu chính trị đương
thời, số “tiện dân” nghe nói chiếm 5% này hoàn toàn không phải có thể có hoặc
không, mà nhất thiết phải có. Đó là chiến lược quan trọng để ổn định 95% kia. Ý
nghĩa của hòn đá đệm chân này là: có thể làm cho càng nhiều người về tinh thần say
sưa với vị trí “người thống trị” mà quên mất cảm giác bị trị, cảm thấy mình may
mắn thuộc 95% và lo sợ bị rơi vào 5% kia, từ đó được cân bằng tâm lý trong sợ
hãi. Nó khiến đông đảo công chúng dịu đi nỗi đau thiếu thốn vật chất và sự
nghẹt thở về tinh thần. Đó là lý do vì sao sau cải cách ruộng đất, Mao Trạch
Đông vẫn nhấn mạnh “lấy đấu tranh giai cấp làm then chốt”, kích động sự đối lập
giai cấp ở nông thôn.
Tân Tử Lăng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét