Mao Trạch Đông ngàn năm công tội
Chương 7
Các nhà tư bản gióng
trống, khua chiêng đi lên chủ nghĩa cộng sản
Hồng Quân |
Sau mùa mùa hè năm 1955, “cao
trào” hợp tác hoá nông nghiệp ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc cải tạo xã hội chủ
nghĩa trong ngành thủ công nghiệp và công thương nghiệp tư bản tư doanh. Đến
cuối năm 1956, ngành này đã cơ bản hoàn thành việc chuyển sang kinh tế tập thể,
92% số người làm nghề thủ công đã
được tổ chức trong gần 10.000 hợp tác xã. Từ
cuối năm 1955, Thượng Hải, tiếp đó là Bắc Kinh, Thiên Tân, cùng nhiều tỉnh và
thành phố khác đã xuất hiện cao trào công ty hợp doanh trong toàn ngành công
thương. Đến tháng 6-1956, đã hoàn thành toàn diện công cuộc cải tạo xã hội chủ
nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp và công thương nghiệp tư bản trong
cả nước.
Xoá bỏ chế độ tư hữu về tư liệu
sản xuất ở nước Trung Hoa 600 triệu dân, một biến đổi xã hội long trời lở đất
như vậy mà Mao Trạch Đông đã làm xong trong thời gian ngắn ngủi. Sức hấp dẫn
chính trị của ông ta quả đáng thán phục. Tạo ra được một tình thế chính trị đặc
biệt, trào lưu xã hội đặc biệt, để các nhà tư sản “gióng trống, khua chiêng” đi
lên chủ nghĩa cộng sản, Mao Trạch Đông quả là một cao thủ trong đấu tranh chính
trị.
Xét về chính trị, công cuộc cải
tạo XHCN đối với công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa và cải tạo các nhà tư sản
của ĐCSTQ rất thành công: không đổ máu; không “tước đoạt”, mà thực hiện chính
sách “trưng mua”, đều là việc chưa từng có trong lịch sử. ĐCSTQ tự hào về điều
đó. Nhưng người ta nghi ngờ tính tất yếu và tiến bộ của biện pháp này, xét về
kinh tế về giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất về sáng tạo văn minh vật
chất và thúc đẩy tiến bộ xã hội…
Kinh điển để Mao cải tạo xã hội
chủ yếu là “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”. Tư tường chủ nghĩa xã hội không tưởng của
“Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” kết hợp với quan diềm “đại đồng” của Trung Quốc hình
thành mô hình chủ nghĩa xã hội không tưởng Mao Trạch Đông. Sự phát triển của nó
là Mác + Tần Thuỷ Hoàng, thêm thắt nhiều thứ mang tính chất phong kiến, cuối
cùng biến chất thành chủ nghĩa xã hội phong kiến.
Vừa cầm quyền liền tính chuyện
tiêu diệt chế độ tư hữu, tiêu diệt giai cấp tư sản, tiêu diệt phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa, vội vã tiến hành ba cuộc cải tạo, dựa vào chính quyền
nhà nước lấy bạo lực làm hậu thuẫn, không sợ giai cấp tư sản dân tộc chống lại,
không sợ nông dân không nghe lời. Một số ý kiến và quan điểm của Mao về cải tạo
xã hội chủ nghĩa và cách mạng xã hội chủ nghĩa có vẻ đúng đắn, song khảo sát
tổng hợp thì đây là hệ thống tư tưởng chủ nghĩa xã hội không tưởng. Sai lầm cơ
bản là nghiêm trọng xa rời thực tế, đi ngược lại quy luật kinh tế, chủ quan
muốn đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất, trên thực tế đã phá hoại và huỷ
diệt hàng loạt lực lượng sản xuất, bóp nghẹt, cản trở lực lượng sản xuất ra đời
và phát triển. Tuy chế độ tư bản chủ nghĩa có hàng ngàn, hàng vạn tội ác, đáng
bị lật đổ hàng trăm lần, nhưng nó có cái hay như đã nêu trong “Tuyên ngôn Đảng
cộng sản” là sáng tạo ra lực lượng sản xuất cao hơn tổng lực lượng sản xuất của
mọi thời đại trước đây. Mao muốn làm tuyệt chủng chủ nghĩa tư bản và sản xuất
nhỏ, nhưng không làm nổi. Mao có thể tổ chức quân tình
Động cơ cá nhân khiến Mao Trạch
Đông vội vã từ bỏ lý luận đúng đắn của chủ nghĩa dân chủ mới và đường lối đúng
đắn của Hội nghị Trung ương 2 khoá 7 là ông ta nôn nóng muốn làm lãnh tụ của
Phong trào Cộng sản quốc tế. Sau khi Stalin từ trần, Mao cho rằng Trời sẽ trao
nhiệm vụ lớn cho ông ta, chỉ có Mao đủ tư cách lấp chỗ trống do Stalin để lại.
Muốn lãnh đạo Phong trào cộng sản và phe xã hội chủ nghĩa, mà nước mình lại thực
hiện chủ nghĩa dân chủ mới, hình thái xã hội lạc hậu một thời đại so với các
nước xã hội chủ nghĩa, thì không đủ tư cách lãnh tụ, do đó, phải nhanh chóng
trở thành một nước XHCN hùng mạnh. Đó là nguồn gốc tư tưởng khiến Mao mắc phải
chứng bệnh nóng vội trong vấn đề xây dựng.
“Ba cuộc cải tạo lớn” là việc làm
rất sai lầm và ngu xuẩn của Mao với động cơ cao cả và lý luận thiêng liêng.
Cả đời Mao chưa hề đến thế giới
tư bản chủ nghĩa chưa nhìn thấy phương thức sản xuất qui mô lớn và nền văn minh
vật chất của chủ nghĩa tư bản. Khái niệm của ông về chủ nghĩa tư bản cố định ở
mỏ than An Nguyên năm 1921. Ông chưa chuẩn bị đầy đủ về lý luận cho xây dựng
kinh tế. Là những người tham gia quyết sách tối cao, Lưu Thiếu Kỳ và Chu Ân Lai
cung có phần trách nhiệm về những sai lầm của Mao làm cho đất nước rối tung
lên.
Chương 8
Đường lối Đại hội 8
sát thực tế
Đại hội 8 ĐCSTQ họp tháng 9-1956 trong tình hình quốc tế và trong nước phức tạp. Đại hội 20 Đảng Cộng sản Liên Xô phê phán Stalin làm cho Mao Trạch Đông rất vui vì Stalin từng ủng hộ Vương Minh chống lại Mao, nhưng cũng khiến ông ta lo ngại làn sóng chống tệ sùng bái cá nhân trên thế giới sẽ ảnh hưởng đến vị trí của mình trong ĐCSTQ. Mao cho rằng sau khi Stalin qua đời, không ai đáng ngồi vào chiếc ghế lãnh tụ Phong trào cộng sản quốc tế hơn ông ta, Nhưng với sự kiện trên, một số cách nghĩ và cách làm của ông ta phải chậm lại.
Muốn làm lãnh tụ thế giới, làm
người cầm cờ của Phong trào cộng sản, phải làm tốt mọi việc của Trung Quốc, tạo
ra kỳ tích chấn động thế giới trong thời gian ngắn.
Đại hội đã đề ra đường lối thực
tế xây dựng chủ nghĩa xã hội gồm 10 chính sách lớn với đặc điểm lấy mô hình
phát triển kế hoạch 5 năm của Liên Xô làm mẫu, lấy xây dựng kinh tế làm trung
tâm.
Theo chỉ thị của Mao, Điều lệ
đảng không nêu “Tư tưởng Mao Trạch Đông” nữa, bởi nội dung của nó đồng nhất với
chủ nghĩa Mác-Lenin. Mao làm như vậy không phải do khiêm tốn, mà vì ông sợ bên
ngoài hiểu lầm, cản trở ông ta trở thành lãnh tụ thế giới bởi sau thế chiến II,
danh tiếng của Stalin lớn hơn Mao nhiều, mà Stalin chỉ nêu chủ nghĩa Mác-Lenin,
không nêu chủ nghĩa hoặc “tư tưởng Stalin”.
Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành
trung ương mới gồm 97 uỷ viên chính thức, 73 uỷ viên dự khuyết. Ban chấp hành
trung ương đã bầu ra Bộ Chính trị gồm 37 uỷ viên chính thức, 6 uỷ viên dự
khuyết. Thường vụ Bộ Chính trị gồm Chủ tịch Đảng Mao Trạch Đông, 4 phó Chủ tịch
Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Chu Đức, Trần Vân. Tống Bí thư Đặng Tiểu Bình.
Khi bầu Chủ tịch Đảng, Mao không
được 100% số phiếu, kiểm tra nét chữ trên các lá phiếu, phát hiện Mao không bầu
mình, mà bỏ phiếu cho Lâm Bưu, dẫn đến nhiều phỏng đoán. 20 tháng sau, tại Hội
nghị Trung ương 5 khoá 8, Lâm Bưu được bầu làm Phó Chủ tịch Đảng và Thường vụ
Bộ chính trị.
Điều đáng tiếc nhất là Mao đã
quay lưng lại với đường lối thực tế của Đại hội 8. Trong mấy năm sau đó, Mao
lần lượt lật đổ 10 chính sách lớn, thay bằng 10 chính sách tương phản, hình
thành đường lối chủ nghĩa xã hội không tưởng của ông ta.
Chương 9
Địa ngục văn chương
lớn nhất trong lịch sử loài người
Tháng 11-1956, Mao Trạch Đông
tuyên bố chuẩn bị chỉnh phong, chống các bệnh chủ quan, bè phái, quan liêu.
Ngày 27-4-1957, Trung ương ĐCSTQ
chính thức ra chỉ thị tiến hành chỉnh phong. Ngày 30-4, Mao gặp gỡ các nhà lãnh
đạo các đảng phái dân chủ và đại diện giới trí thức, động viên họ góp ý kiến
với ĐCSTQ, giúp chỉnh phong, sửa chữa khuyết điểm, sai lầm. Nhiều cuộc họp đã
được tổ chức để lấy ý kiến phê bình. Đông đảo trí thức ngoài đảng từ giáo viên
tiểu học tới giáo sư đại học, nhiều nhân vật có tên tuổi không những ở Trung
Quốc mà cả trên thế giới đã thẳng thắn, chân thành, thiện chí vạch ra những yếu
kém, sai lầm của ĐCSTQ từ trung ương đến địa phương. Thông tin về các cuộc họp
này được đăng tải trên báo chí hàng ngày. Trưởng ban Mặt trận thống nhất trung ương
Lý Duy Hán ba ngày một lần báo cáo Mao và Thường vụ Bộ Chinh trị. Tình hình
diễn biến xem ra không như Mao mong đợi. Đến khi Lý phản ánh ý kiến của La Long
Cơ rằng ở Trung Quốc hiện nay “tiểu trí thức của chủ nghĩa Mác-Lenin lãnh đạo
đại trí thức của giai cấp tiểu tư sản, người mù chỉ đường người sáng mắt”, thì
Mao nổi giận dữ dội. Mao vốn định thông qua cuộc vận động này để từng bước xác
lập vị trí lãnh đạo tư tưởng của mình trong giới trí thức, nay thấy họ khác
công nông, trong khi các nhà lãnh đạo cấp cao đều coi Mao là nhà lý luận và nhà
tư tưởng vĩ đại, thì họ lại coi ông là “tiểu trí thức”. Xem ra không thể làm
cho những người này sùng bái mình. Thế là Mao quyết tâm đánh đổ “những phần tử
đại trí thức của giai cấp tư sản”, dùng quyền lực tạo dựng quyền uy của bản
thân. Ông ta tiếp tục cho tổ chức các cuộc hội đàm nhằm “dụ rắn ra khỏi hang”,
khiến phong trào chỉnh phong nửa đường biến chất, không còn là thành tâm phát
động quần chúng góp ý kiến cho đảng cầm quyền, mà là trị những quần chúng góp ý
kiến, lùng bắt phái hữu trong số đó. Mao dựng lên “vụ án chống đảng Chương-La”,
(Chương Bá Quân, Chủ tịch Đảng Dân chủ Công Nông, Bộ trưởng Giao thông; và La
Long Cơ, Phó Chủ tịch Đồng minh Dân chủ, Bộ trưởng Lâm nghiệp, lãnh tụ tinh
thần của giới trí thức từ Âu Mỹ về). Theo thống kê chính thức, trong cuộc đấu
tranh này, có 552.877 trí thức bị qui là phái hữu, bị đầy đoạ trong 20 năm
trời. Đến khi sửa sai (1980), chỉ có 96 người thật sự là phái hữu, chiếm 1,8
phần vạn, nghĩa là trong 1 vạn người chưa đến 2 người.
Chương 10
Hai đảng lớn Trung-Xô
từ bạn thành thù
Giữa năm 1957, sau khi loại “tập
đoàn chống đảng” Molotov, Malenkov, Kaganovic ra khỏi Trung ương, Khrusev cử
Mikoyan sang Hàng Châu gặp Mao Trạch Đông, thông báo những thay đổi trong nội
bộ ĐCSLX, được Mao cam kết ủng hộ. Đáp lại, Khrusev đồng ý giúp Trung Quốc phát
triển bom nguyên từ, tên lửa, và nghiên cứu chế tạo máy bay tiêm kích kiểu mới.
Ngày 15-10 sau 35 ngày thương lượng, hai nước ký hiệp định về việc Liên Xô viện
trợ kỹ thuật tên lửa và hàng không cho Trung Quốc. Ngày 2-11, Mao dẫn đầu Đoàn
đại biểu Trung Quốc tới Moskva dự kỷ niệm 40 năm Cách mạng Tháng Mười và Hội
nghị các đảng cộng sản và công nhân thế giới.
Tại cuộc họp các đảng cầm quyền
13 nước xã hội chủ nghĩa từ 14 đến 16-11, Mao đã giúp Khrusev khẳng định và ghi
vào tuyên ngôn của hội nghị vấn đề “Liên Xô đứng đầu Phe xã hội chủ nghĩa”. Mao
chẳng coi Khrusev ra gì, nhưng Trung Quốc còn yếu, Mao muốn giành cho mình “vị
trí thứ 2 trên danh nghĩa, vị trí thứ nhất trên thực tế”. Khi khởi thảo tuyên
ngôn, phía Liên Xô nêu vấn đề “quá độ hoà bình từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội”. Mao coi đây là quan điểm phi mác xít. Qua tranh luận, sửa hai
điểm lớn: một là trong khi chỉ ra khả năng quá độ hoà bình, cũng chỉ ra con
đường quá độ không hoà bình; hai là trong khi tranh thủ đa số trong nghị viện,
cũng triển khai cuộc đấu tranh quần chúng bên ngoài nghị viện.
Từ 16 đến 19-11-1957, Khrusev chủ
trì Hội nghị 64 đảng cộng sản và công nhân. Khi phát biểu, mọi người đều lên
bục, riêng Mao cứ ngồi nói tại chỗ, để thể hiện thân phận mình khác người. Mao
nói về quan hệ đồng chí, chiến lược sách lược chiến tranh thế giới, tình hình
Trung Quốc. Một số người lắc đầu nhưng nhiều người giỏng tai nghe, coi Mao như
Lenin thời nay. Với quá trình hoạt động truyền kỳ, vị trí lãnh tụ nước lớn, học
vấn uyên bác, phong độ lãnh tụ không ai sánh kịp, Mao trở thành trung tâm của
hội nghị này. Tuyên ngôn viết “Liên Xô đứng đầu, nhưng trong hội nghị Mao là
trung tâm”.
Mỗi buổi họp kết thúc, Mao đứng
dậy mọi người mới đứng dậy, và họ đứng yên chờ Mao đi trước. Đó là điều Khrusev
không chịu nổi. Chuyến đi này khiến Mao rất hài lòng, cảm thấy lãnh tụ Phong
trào cộng sản quốc tế trong tương lai chẳng thể là ai khác ngoài ông ta. Vấn đề
là kinh tế Trung Quốc khiến Mao lực bất tòng tâm, xem ra không thể phát triển
kinh tế theo con đường thông thường, thế là Mao nghĩ ra con đường mới là “Đại
tiến vọt”.
Trong cuộc luận chiến sau đó,
không phải Liên Xô hiếp đáp Trung Quốc, Khrusev ức hiếp Mao Trạch Đông, mà do
Mao cố tình gây ra, nhằm giành giật vị trí minh chủ Phong trào cộng sản quốc
tế. Do cần Mao Trạch Đông ủng hộ, trong quan hệ với Trung Quốc, Khrusev đã
không tỏ thái độ kẻ cả như Stalin trước đây, mà thận trọng khiêm nhường, có gì
trục trặc liền giải quyết qua con đường hiệp thương.
Khrusev đã từ bỏ một số đòi hỏi
của Stalin đối với Trung Quốc, như đưa Tân Cương và khu Đông Bắc Trung Quốc vào
phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô, áp đặt công ty hợp doanh không bình đẳng. Ông cử
chuyên gia sang giúp Trung Quốc phát triển vũ khí hạt nhân và công nghiệp quân
sự. Tám tháng sau cuộc gặp gỡ Moskva, “tuần trăng luật” Xô-Trung lên đến tột
đỉnh, rồi bắt đầu xấu đi, kể từ chuyến thăm Trung Quốc của Khrusev.
Ngày 31-7-1958, Khrusev tới Bắc
Kinh. Mao Trạch Đông bất chấp mọi lễ nghi ngoại giao tối thiểu, bố trí hội đàm
với nhà lãnh đạo Liên Xô ngay cạnh bể bơi riêng trong Trung Nam Hải. Khi được
mời vào, Khrusev thấy Mao mặc quần tắm, khoác khăn tắm, nhàn nhã hút thuốc lá,
giống như Quốc vương Roma gặp sứ thần thuộc quốc, khác một trời một vực với sự
tôn trọng và lễ nghi đặc biệt ông dành cho Mao mùa đông 1957 tại Moskva. Cách
làm cố ý chọc tức này nhằm làm xấu quan hệ Trung-Xô, buộc đối phương trở mặt
trước.
Tháng 9-1959, trước khi Khrusev
sang thăm Mỹ, mượn cớ Xô-Mỹ đang thảo luận ký Hiệp ước cấm thử vũ khí hạt nhân,
Liên Xô quyết định huỷ hợp đồng cung cấp mẫu bom nguyên tử và tư liệu kỹ thuật
sản xuất bom nguyên tử cho Trung Quốc, khiến ĐCS và nhân dân Trung Quốc rất tức
giận, sự tan vỡ giữa hai bên không còn cứu vãn được nữa. Sau chuyến thăm Mỹ,
Khrusev điểu chỉnh chính sách, về đối ngoại đề xướng chung sống hoà bình, thi
đua hoà bình, quá độ hoà bình; về đối nội đề xướng xây dựng đảng toàn dân và
nhà nước toàn dân, làm mờ nhạt màu sắc chuyên chính của Nhà nước và màu sắc
giai cấp của Đảng.
Lúc đó, trong ĐCSTQ tuyên truyền
“thuyết trung tâm cách mạng, chuyển dịch”: thế kỷ 19 ở Đức, nửa đầu thế kỷ 20
chuyển dịch sang Nga, sau khi Stalin qua đời chuyển dịch sang Trung Quốc; ĐCSTQ
do Mao lãnh đạo giương cao ngọn cờ Mácxít-Leninnít, phê phán chủ nghĩa xét lại
Khrusev sẽ hoàn thành sự chuyển dịch này. Đầu năm 1960, nhân kỷ niệm 90 năm
ngày sinh Lenin, Trung Quốc mở màn phê phán toàn diện Liên Xô. Nhưng Trung Quốc
rất cô lập, ở châu Âu chỉ có Anbani ủng hộ, ở châu Á chẳng có ai. Mao Trạch Đông nghĩ đến Việt Nam.
Từ 1950 đến 1954, Trung Quốc đã
giúp Việt Nam 116.000 khẩu súng các loại, 420 khẩu pháo, nhiều khí tài thông
tin và công binh. Năm 1956, Trung Quốc ưu tiên viện trợ Việt Nam 50.000 khẩu
tiểu liên và súng trường nửa tự động vừa định hình sản xuất, chưa kịp trang bị
cho quân đội Trung Quốc. Từ năm 1953 đến 1963, Trung Quốc đã giúp Việt Nam xây
dựng 6 tiểu đoàn pháo cao xạ, 1 trung đoàn công binh, 1 trung đoàn cầu nổi, 1
trung đoàn xe tăng, 1 trung đoàn máy bay tiêm kích, bổ xung nhiều vũ khí trang
bị quân sự khác. Trung Quốc còn giúp 90.000 khẩu súng máy và súng trường để
triển khai chiến tranh du kích ở miền Nam. Nhằm lôi kéo Việt Nam ủng hộ Trung
Quốc trong cuộc đấu tranh với Liên Xô, Mao cử Đặng Tiểu Bình sang Hà Nội, mang
theo lời hứa giúp Việt Nam 20 tỉ NDT (tương đương 20% thu nhập quốc dân hoặc
60% thu nhập tài chính của Trung Quốc năm 1963), nhưng vẫn không lôi kéo được
Việt Nam. Mao Trạch Đông cho rằng cuộc đấu tranh Trung-Xô sẽ diễn ra lâu dài,
nên tiếp tục tác động đến Hồ Chí Minh, chính Mao nói với ông Hồ: “Chúng ta là
người một nhà, cần người có người, cần vật tư có vật tư, cần bao nhiêu có bấy
nhiêu. Việt Nam thiếu máu chữa chạy thương binh, Mao Trạch Đông chỉ thị: “Mạng
người là quan trọng, viện trợ 2 triệu lít. Số máu này được chuyển tử Thượng Hải
đến Côn Minh, qua Hà Khẩu, rồi đưa sang thị xã Lào Cai. Nó không như lúa mạch
có thể nhập khẩu, mà là từng giọt máu rút từ cơ thể những người may mắn sống
sót sau một nạn đói lớn.
Tháng 5-1965, Mao Trạch Đông tiếp
Hồ Chí Minh tại Hàng Châu, phía Việt Nam đề nghị Trung Quốc giúp sửa đường bộ.
Mao nhận lời ngay. Tám vạn công binh ăn cơm Trung Quốc, làm việc cho Việt Nam
trong ba năm trời, quả thật là viện trợ vô tư. Do nhu cầu đấu tranh chống địch
trên vùng biển Vịnh Bắc Bộ, Mao Trạch Đông còn khinh suất cho Bắc Việt Nam sử
dụng đảo Bạch Long Vĩ, thuộc Hải Nam, trên đảo có 2.000 dân Trung Quốc sinh
sống, vùng biển xung quanh là mỏ dầu lớn trữ lượng dồi dào. Đến nay lâu ngày
qua đi, nảy sinh ý kiến khác về chủ quyền. Thế là tình hữu nghị “vừa là đồng
chí, vừa là anh em” cũng không giữ nổi.
(Tác giả Tân Tử Lăng sai ở đoạn này. Năm 1955, theo hiệp nghị Genève,
sau khi quân đội Pháp rút khỏi Bắc Việt nam phải giao lại đảo Bạch Long Vĩ
(cách Hải Phòng 350 km) cho chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, và thuộc
tỉnh Hải Phòng cho đến tận ngày hôm nay. Từ ngàn năm trước đến hiện giờ, chưa
có một phút nào Bạch Long Vĩ thuộc quyền của Trung Quốc - Chú thích của người
gõ Mõ Hà Nội)
Sau thất bại của phong trào “Đại
tiến vọt”, Mao vẫn chưa từ bỏ dã tâm làm lãnh tụ cách mạng thế giới, ngược lại,
ông ta còn cho rằng đó là lối thoát để đánh lạc hướng chú ý của nhân dân, thoát
khỏi tình thế khó khăn của bản thân. Trong 5 năm 1957-1962, Trung Quốc viện trợ
nước ngoài tổng cộng 2,36 tỉ NDT, riêng 2 năm 1961-1962 là 1,37 tỉ; trong đó
phần viện trợ các nước XHCN Anbani, Triều Tiên. Việt Nam, Cuba, Mông Cổ là 0,87
tỉ, các nước châu Phi 500 triệu NDT.
Tuy nhiên, vẫn không hình thành
được trung tâm Phong trào cộng sản quốc tế mới do Mao lãnh đạo, cũng không mua
nổi hư danh “lãnh tụ cách mạng thế giới”. Họ chỉ thừa nhận Mao là “lãnh tụ vĩ
đại của nhân dân Trung Quốc”.
Tháng 3-1970, tập đoàn Lon Nol
thân Mỹ đảo chính lật đổ chính phú Vương quốc Campuchia, Sihanouk trở thành con át chủ bài trong tay Mao. Quân đội
cộng sản Campuchia được Trung Quốc và Việt Nam nâng đỡ đối đầu với quân đội
Lonnol do Mỹ ủng hộ, chiến tranh kéo dài 4 năm, đến 17-4-1975 giải phóng Phnôm
Pênh. Tháng 6 năm đó, Pol Pot sang triều kiến Mao Trạch Đông. Sau khi về nước,
thực hiện chỉ thị của “lãnh tụ vĩ đại”. Pol Pot tuyên bố xoả bỏ tiền tệ, đóng
cửa thị trường, thực hiện chế độ cung cấp trong cả nước, đuổi 3 triệu dân thành
thị kể cả sư sãi và giáo sư đại học về nông thôn làm ruộng. Mọi hành động của
ĐCS Campuchia sau khi giành được chính quyền đều mang dấu ấn “tả khuynh” của
Mao. Bi kịch “Đại tiến vọt ở Trưng Quốc cuối thập kỷ 50 đã tái diễn ở Campuchia.
Tân Tử Lăng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét