Mao Trạch Đông ngàn năm công tội
Chương 31
Lâm Bưu đắc ý, lăm le
kế tục
Ngày 1-4-1969, Đại hội 9 ĐCSTQ
khai mạc tại Bắc Kinh.
Phần cương lĩnh chung trong Điều
lệ mới của Đảng qui định Lâm Bưu là bạn chiến đấu thân thiết và người kế tục
của Mao Trạch Đông.
Trong cuộc bỏ phiếu bầu cơ quan
lãnh đạo ngày 24-4 với 1.510 đại biểu có mặt, Mao được 100% số phiếu, Lâm Bưu
kém 2 phiếu, do vợ chồng Lâm không bỏ cho mình (để biểu thị không thể ngồi sánh
ngang Mao). Giang Thanh nhẩm tính trừ 2 phiếu (Mao và Giang) không bỏ cho mình,
bà ta sẽ được 1.508 phiếu, nhưng thực tế chỉ có 1.502, thiếu 6 phiếu.
Về sau bí mật điều tra, mới biết
6 người không bỏ phiếu cho Giang là Lâm Bưu, Diệp Quần, Hoàng Vĩnh Thắng, Ngô
Pháp Hiến, Lý Tác Bằng, Khưu Hội Tác.
Trong 279 uỷ viên và uỷ viên dự
khuyết Trung ương mới, chỉ có 53 uỷ viên và uỷ viên dự khuyết Trung ương khoá
8, tức 19%. Nhiều nhà lãnh đạo có công lao nổi bật bị đào thải, nhiều tên cầm
đầu phải tạo phản mới vào đảng tham gia Ban chấp hành trung ương.
Trần Bá Đạt thuật lại:
- Chưa đầy một tuần sau Đại hội
9, Mao gọi Lâm Bưu, Chu Ân Lai, Trần Bá Đạt. Khang Sinh, Tạ Phú Trị đến thảo
luận xem cần tiến hành Đại cách mạng văn hoá bao lâu nữa. Chu nêu các vấn đề
kinh tế đình đốn, xã hội vô chính phủ, hàng loạt cán bộ bị đánh đổ. Lâm Bưu tán
thành ý kiến của Chu, và nói phải phát triển kinh tế, quốc phòng, chỉnh đốn các
phe phái trong xã hội. Trần Bá Đạt nói đường lối của Mao đã giành thắng lợi
triệt để, cần phát triển kinh tế, đoàn kết số đông. Mao nói: “Cuộc vận động
đấu-phê-cải vừa bắt đầu, đấu tranh còn lặp đi lặp lại. Thắng lợi triệt để ư? Có
cần cách mạng nữa không? Xem ra hôm nay tôi lại bị thiểu số rồi”. Khang Sinh,
Tạ Phú Trị vội vàng tán thành ý kiến của Mao. Chu Ân Lai tự phê bình “lĩnh hội
rất kém sự dạy bảo và tư tưởng của Chủ tịch, phải nghiêm túc tổng kết, kiểm
điểm, nếu không lại mắc sai lầm”. Mao nói: “Thủ tướng đừng miễn cưỡng kiểm
điểm. Trong Đảng có lập trường, quan điểm khác nhau, tôi không ngán đâu”. Rồi
Mao bỏ ra ngoài đi bách bộ. Bữa cơm tối dự định giữa Mao và mấy người thế là
tan.
Trong mắt Mao, Đại cách mạng văn
hoá là quá trình chạy tiếp sức đi tới người kế tục, Lâm Bưu chỉ là chặng đầu,
phải từng chặng, từng chặng chuyển cây gậy tiếp sức để cuối cùng tới tay Giang
Thanh, thì Đại cách mạng văn hoá mới hoàn thành, và lúc đó mới đặt ra vấn đề
xây dựng kinh tế.
Nhưng Lâm Bưu không hiểu ý Mao,
gậy tiếp sức vừa đến tay đã muốn ngừng cuộc đua. Vì vậy trong lúc đang diễn ra
Đại hội 9, cuộc đấu tranh giữa tập đoàn Giang Thanh và tập đoàn Lâm Bưu, trên thực
tế là giữa Mao Trạch Đông và Lâm Bưu, đã bắt đầu. Giang Thanh ra sức tâng bốc
Lâm Bưu nhằm đổi lấy việc Lâm đề cử Giang vào Thường vụ Bộ chính trị. Nhưng Lâm
lại chỉ đề cử Hoàng Vĩnh Thắng. Mao không thể cho phép Lâm có hai phiếu trong
Thường vụ Bộ Chính trị, liền gạt cả Giang Thanh và Hoàng Vĩnh Thắng, cuối cùng,
Thường vụ chỉ có 5 người: Mao, Lâm. Chu, Trần Bá Đạt, Khang Sinh.
Sau Đại hội 9, để tìm hiểu ý đồ
của Lâm, Mao phá bỏ thông lệ không đi thăm cấp dưới, dẫn theo Trương Xuân Kiều
đến biệt thự Tô Châu thăm Lâm Bưu. Sau mấy câu hàn huyên, Mao hỏi thẳng: “Tôi
già rồi, ông cũng không khỏe, ông chuẩn bị sau này chuyển giao quyền lực cho
ai?” Lâm Bưu ngớ người ra.
Sau phút im lặng ngắn ngủi, Mao
lại hỏi: “Ông thấy Trương Xuân Kiều thế nào?” Ý thật của câu trên là: “Ông thấy
Giang Thanh thế nào?” Lâm Bưu không hiểu câu nói quan trọng nhất này, liền nói
vòng vo:
- Vẫn phải dựa vào Hoàng Vĩnh
Thắng, Ngô Pháp Hiến, Lý Tác Bằng, Khưu Hội Tác, những người từ nhỏ đã theo Chủ
tịch làm cách mạng. Phải đề phòng giai cấp tiểu tư sản nắm quyền.
Đây là bước ngoặt Mao, Lâm chia tay nhau về chính trị.
Đây là bước ngoặt Mao, Lâm chia tay nhau về chính trị.
Gần đây một số học giả cho rằng
vụ 13-9 là Mao Trạch Đông ép Lâm Bưu trở mặt. Tôi thấy không thể lật lại vụ án
Lâm Bưu. Từ Đại tiến vọt tới Đại cách mạng văn hoá, Lâm Bưu là tội nhân giúp
Mao lộng hành. Cuộc đấu tranh giữa Mao và Lâm là mâu thuẫn giữa hai phe phái
phong kiến, có kẻ thắng người thua, không có người sai kẻ đúng. Tiếp tục vương
triều họ Mao hãy thiết lập vương triều họ Lâm đều không phải là cái phúc của nhân
dân Trung Quốc, Lâm Bưu phản đối phe Giang Thanh tham gia triều chính đương
nhiên là đúng, nhưng Lâm Bưu muốn bồi dưỡng Lâm Lập Quả thành người kế tục, nếu
triều đình nhỏ này được thiết lập, Trung Quốc sẽ biến thành Bắc Triều Tiên, sẽ
là một nền chuyên chính phát xít ghê gớm hơn. Tập đoàn Lâm Bưu bị đập tan đã
loại trừ trở ngại lớn ngăn cản Trung Quốc đi tới nền hiến chính dân chủ, vừa
loại bỏ được khả năng thiết lập vương triều họ Lâm, vừa làm suy yếu khả năng
kéo dài vương triều họ Mao. Đó là việc có lợi để Trung Quốc tiến tới cải cách,
mở cửa, đi tới nền hiến chính dân chủ.
Sau khi cướp quyền trong cả nước,
thế lực của tập đoàn Lâm Bưu tăng lên rất mạnh. Trong các ghế lãnh đạo số 1, số
2 ở 29 tỉnh thành trong cả nước, phe Lâm Bưu chiếm 16 ghế. Người thuộc Dã chiến
quân thứ 4 (cánh quân của Lâm Bưu) chiếm 54 vị trí trưởng và phó trong các đại
quân khu, và chiến tỉ trọng khá lớn trong Ban chấp hành trung ương khoá 9. Mưu
kế được che đậy rất kỹ của Mao Trạch Đông là thiết lập vương triều họ Mao,
người kế tục thật sự là Giang Thanh. Lâm Bưu chỉ là cầu thủ “chuyền 2”, giành
được bóng từ tay Lưu Thiếu Kỳ là hoàn thành nhiệm vụ.
Lâm Bưu không thấy rõ điều này,
sau Đại hội 9 không hộ giá để thiết lập vương triều họ Mao, mà chỉ lăm le kế
tục, lập tức trở thành trở ngại lớn ngăn cản Mao Trạch Đông thiết lập thể chế
gia đình trị. Mao bắt đầu cuộc đấu tranh nhằm lật người kế tục thứ 2.
Tháng 8-1969, Lâm Bưu dẫn vợ con,
Ngô Pháp Hiến và trên 100 nhân viên công tác và cảnh vệ lên thăm lại khu căn cứ
Tỉnh Cương Sơn thuộc tỉnh Giang Tây nhằm khoa trương thanh thế, thề hiện phong
độ lãnh tụ. Diệp Quần còn bảo Chu Nhạn, một văn nhân được tuyển vào làm việc
trong Soái phủ, cùng lên núi để sáng tác thơ văn ký tên Lâm Bưu, nhằm cho thiên
hạ thấy “khí chất văn thơ” của Lâm.
Ngày 2-3-1969, bộ đội biên phòng
Trung Quốc và Liên Xô xung đột vũ trang trên đảo Trân Bảo (Damansky), chiến
tranh lớn giữa hai nước có thế xảy ra bất cứ lúc nào. Mao kêu gọi sẵn sàng
chiến đấu. Chi phí chuẩn bị chiến tranh tăng 34% so với năm trước. Lâm Bưu điều
chỉnh bộ máy chỉ huy, cử Diêm Trọng Xuyên, nguyên Trưởng phòng tác chiến thời
chiến tranh giải phóng làm Trưởng ban tác chiến Bộ Tổng Tham mưu. Có tin trong
quân đội Liên Xô có người chủ trương tấn công Trung Quốc bằng vũ khí hạt nhân,
Trung ương ĐCSTQ quyết định sơ tán các nhà lãnh đạo Đảng, Chinh phủ và Quân đội
về các tỉnh. Những người bị đánh đổ như Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, Chu Đức,
Trần Nghị… cũng bị đưa khỏi Bắc Kinh.
Ngày 17-10, Lâm Bưu sơ tán về Tô
Châu, sống trong biệt thự Nam Viên sang trọng. Ngây 18, Lâm bảo thư ký qua điện
thoại đọc cho Hoàng Vĩnh Thắng bản “mệnh lệnh số 1” gồm 6 điểm nhắc nhở cảnh
giác, che giấu vũ khí hạng nặng, tăng sán xuất vũ khí chống tăng, tăng cường
chế độ thủ trưởng trực ban, chuyển sang chỉ huy thời chiến… Ngày 19, bản ghi
qua điện thoại mệnh lệnh trên được chuyển đến Mao khi ấy đang ở Đông Hồ, Vũ
Hán. Đọc xong, Mao sầm mặt không hài lòng, bật một que diêm thiêu trụi. Được
tin, Lâm lo lắng mất mấy ngày, thấy mình sơ suất quá. Ngay hôm đó, Lâm lấy giấy
viết 2 dòng chữ nội dung như nhau, một treo nơi ở của Lâm, một gửi Diệp Quần
“Du du vạn sự, duy thử vi đại, khắc kỷ phục lễ” (đại ý: việc lớn nhất trong
muôn việc là phải luôn luôn nhắc nhở mình tôn kính Mao Trạch Đông, không được
vượt quyền).
Lâm Lập Quả - con trai Lâm Bưu -
sinh năm 1946, tốt nghiệp hệ Vật lý Đại học Bắc Kinh năm 1967. Lâm con từng chỉ
trong 2 giờ đã huấn luyện chiến sĩ biết lái xe tăng, được Lâm bố biểu dương.
Lập Quả cũng đã tham gia thiết kế máy bay tiêm kích phản lực cỡ nhỏ, tổ chức
nghiên cứu chế tạo ăngten nhỏ, thiết bị phòng máy bay đâm vào núi, thiết bị bay
xuyên mây. Anh ta còn cho bộ đội bạt nửa ngọn núi Hoàng Dương ở bắc Trương Gia
Khẩu, để đặt radar kiểu mới hướng về phía Moskva, nghe nói có thể phát hiện
ngay mục tiêu, khi Liên Xô phóng tên lửa xuyên lục địa.
Công trình này chưa hoàn thành đã
khiến Mao rất vui mừng. Mao khen Lâm Lập Quả là tiểu tướng dám nghĩ, dám làm,
tiếp và chụp ảnh với anh ta, làm xôn xao quân chủng Không quân.
Ngày 2-10-1969. Lâm Bưu gặp Tư lệnh Không quân Ngô Pháp Hiến, trao đổi về năng lực và công việc của Lập Quả.
Ngày 2-10-1969. Lâm Bưu gặp Tư lệnh Không quân Ngô Pháp Hiến, trao đổi về năng lực và công việc của Lập Quả.
Nửa tháng sau, Ngô Pháp Hiến công
bố lệnh bổ nhiệm Lâm Lập Quả (mới 23 tuổi) làm Phó Chủ nhiệm Văn phòng kiêm Phó
ban tác chiến quân chủng Không quân. Tư lệnh Ngô nói: “Chúng ta phải học tập và
phục tùng không điều kiện đồng chí Lập Quả. Đồng chí có thể điều động, chỉ huy
tất cả những gì thuộc Không quân”. Khi ấy, cháu Mao Trạch Đông là Mao Viễn Tân
đã được cử làm Phó Tư lệnh Đại Quân khu Thẩm Dương kiêm Phó Chủ nhiệm Uỷ ban
cách mạng Liêu Ninh. Lâm Bưu và Diệp Quần vội vã đẩy con trai lên vũ đài chính
trị.
Ngày 31-7-1970, tại cơ quan trực
thuộc Không quân, Lâm Lập Quả đã đọc báo cáo khoảng 70.000 chữ về chủ đề học
tập và vận dụng Tư tưởng Mao Trạch Đông. Nhiều quan điểm và tài liệu trong báo
cáo này đều rút từ những tài liệu chuẩn bị cho Lâm Bưu làm báo cáo tại Đại hội
9, nên nghe rất kêu.
Ngô Pháp Hiến đánh giá: “Báo cáo
của đồng chí Lâm Lập Quả là vệ tinh chính trị do Không quân phóng lên. Đồng chí
là thiên tài vĩ đại, đại diện kiệt xuất của lớp người kế tục thế hệ ba”.
Phó Tham mưu trưởng Không quân
Vương Phi nói: “Đồng chí Lập Quả không phải cấp trên của tôi về hành chính,
nhưng là cấp trên của tôi về chính trị. Nhận ra một lãnh tụ không dễ dàng. Đồng
chí Lập Quả có điều kiện của một lãnh tụ, nay nhận ra rồi phải theo suốt đời,
dù bão táp mưa sa cũng không lùi bước”.
Phó Chủ nhiệm Văn phòng Không
quân Chu Vũ Trì nhấn mạnh: “Báo cáo của đồng chí Lập Quả là cái mốc thứ 4 của
chủ nghĩa Mác-Lenin (ba mốc trước là Mác-Lê-Mao). Đồng chi Lập Quả là toàn tài,
soái tài, siêu tài, là người kế tục thế hệ ba”.
Hai ngày sau, băng ghi âm báo cáo
trên đến tay Lâm Bưu. Nghe xong, Lâm vui quá, hết lời khen ngợi: “Tư tưởng
giống ta, ngôn ngữ giống ta, giọng nói cũng giống ta!” Có người báo cáo Mao
Trạch Đông về tình hình Không quân tâng bốc Lập Quả, kèm theo bản báo cáo trên.
Mao cho gọi Giang Thanh, Khang Sinh, Trương Xuân Kiều đến thư phòng, cho đọc
những tài liệu trên, rồi nói: “Các vị thấy cả rồi chứ? Người ta đã bắt đầu tâng
bốc rồi, tôi còn chưa chết kia mà. Đồng chí Lâm Bưu sức khoẻ kém, có phần vội
vã chuẩn bị người kế tục mình. Một đứa trẻ ngoài 20 tuổi được tâng bốc lên
thành siêu thiên tài, chẳng phải nó là lãnh tụ tự nhiên của Đảng ta hay sao?”
Bí quyết chung của Lâm Bưu đối
với Mao là “ra sức ủng hộ, tuyệt đối phục tùng”. Thật ra Mao không nắm được
bằng chứng Lâm Bưu chống Mao. Sau nhiều ngày suy nghĩ, Mao quyết định gài một
cái bẫy mở ra cửa đột phá làm suy yếu tập đoàn Lâm Bưu.
Ngày 8-3-1970, Uông Đông Hưng
truyền đạt với Bộ Chính trị ý kiến của Mao về họp Quốc hội bầu lãnh đạo nhà
nước, sửa đổi hiến pháp, có 3 ý then chốt: Mao dứt khoát không làm Chủ tịch
nước; nếu đặt chức Chủ tịch nước, chỉ có Lâm Bưu đảm đương chức vụ này; theo
Mao, tốt nhất là không đặt chức Chủ tịch nước nữa.
Mấy ý trên làm khó cho Lâm Bưu.
Nếu Lâm không tỏ thái độ, đồng nghĩa với việc Lâm mặc nhận mình đủ tư cách làm
Chủ tịch nước; nếu Lâm tán thành không đặt chức Chủ tịch nước, thì trái với
hiệp định quân tử Mao-Lâm trước đây, như Lâm sau này nói với những người thân
tín: Mao ít nhất đã hai lần nói với Lâm rằng ông ta không muốn làm Chủ tịch
Đảng nữa, mà muốn làm Chủ tịch nước để thăm thú đó đây trên thế giới, mở rộng
ảnh hưởng của Trung Quốc; và Mao muốn Lâm đưa ra kiến nghị này.
Ngày 11-4 từ nơi an dưỡng ở Tô
Châu, Lâm Bưu nêu ra 3 ý kiến với Thường vụ Bộ Chính trị:
1. Kiến nghị Mao làm Chủ tịch
nước, như vậy phù hợp trạng thái tâm lý trong và ngoài đảng, trong và ngoài
nước.
2. Về chức danh Phó Chủ tịch, có
thể đặt, có thể không, có thể nhiều, có thể ít.
3. Bản thân Lâm Bưu không thích
nghi với chức Phó Chủ tịch.
Ngày 12-4, Mao nhận xét ý kiến
trên của Lâm Bưu không thoả đáng. Trong cuộc họp Bộ Chính trị hạ tuần tháng 4,
Mao nói trước mặt Lâm Bưu và 4 tướng Hoàng, Ngô, Lý, Khưu: “Tôi không làm Chủ
tịch nước, cũng không đặt chức danh Chủ tịch nước. Tôn Quyền khuyên Tào Tháo
làm Hoàng đế, Tháo nói Tôn Quyền muốn nướng ông ta trên lò lửa. Tôi khuyên các
ông đừng coi tôi là Tào Tháo, và các ông cũng đừng làm Tôn Quyền”.
Trung tuần tháng 7, Diệp Quần nói
với Ngô Pháp Hiến:
- Nếu không đặt chức Chủ tịch
nước, thì Lâm Phó Chủ tịch ngồi vào đâu?
Thế là trong Uỷ ban sửa đổi hiến
pháp xuất hiện hai ý kiến đối lập quanh chức danh Chủ tịch nước, bên “có” đại
diện là Ngô Pháp Hiến, bên “không” đại diện là Trương Xuân Kiều. Sau chuyển lên
Mao quyết định, Mao nói:
- Lập Chủ tịch nước là hình thức,
đừng vì con người cụ thể mà sinh ra việc này.
Sau đó, người của Lâm Bưu lại rơi
vào cái bẫy “thuyết thiên tài” của Mao Trạch Đông.
Trần Bá Đạt vốn là người của
Giang Thanh, đã có công trong việc đánh đổ Đào Chú. Mao một mặt thừa nhận sự
thật đã rồi (đánh đổ Đào Chú), mặt khác lại phê Trần Bá Đạt “Uỷ viên Thường vụ
này đánh đổ uỷ viên Thường vụ kia”, khiến Trần Bá Đạt muốn tự sát. Khi Mao truy
cứu trách nhiệm về bài xã luận tạp chí Hồng Kỳ số 12-1967, Giang Thanh lại bỏ
rơi Trần, khiến ông ta suýt nữa uống thuốc ngủ. Qua hai sự kiện trên, Trần thấy
theo Mao-Giang quá nguy hiểm, liền lặng lẽ xa lánh Giang Thanh, móc nối với Lâm
Bưu. Diệp Quần cho thư ký mang biếu Trần một sọt cua biển, món ăn khoái khẩu
của ông ta. Đúng như lời Diệp Quần “bên trong sọt cua có chính trị”, Trần đã bị
lôi kéo. Thế là Lâm Bưu đã có 2 phiếu trong Thường vụ Bộ Chính trị.
Ngày 25-7, Bộ Chính trị thảo luận
xã luận chung của “Nhân dân nhật báo”, “Tạp chí Hồng Kỳ” và “Báo Quân Giải
phóng” nhân ngày thành lập quân đội 1-8, do Trần Bá Đạt khởi thảo, trong đó câu
then chốt nhất là “Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc là quân đội của nhân dân
do lãnh tụ vĩ đại Mao Chủ tịch đích nhân sáng lập và lãnh đạo, Lâm Phó Chủ tịch
đích thân chỉ huy”. Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên thêm “Mao Chủ tịch và”
vào vế sau, thành “Mao Chủ tịch và Lâm Phó Chủ tịch đích thân chỉ huy”, với lý
đó Mao đã nhiều lần nói “lẽ nào người sáng lập không thể chỉ huy quân đội?” Hai
bên tranh luận gay gắt quanh vấn đề này. Bốn ngày sau, Chu Ân Lai và Hoàng Vĩnh
Thắng xuống Thượng Hải, đến biệt thự thăm Mao. Chu nhắc đến bài xã luận trên.
Mao giọng không vui, hỏi Uông Đông Hưng: “Sao chưa làm xong việc này?” Uông
nói: “Hai ý kiến khác nhau, Chủ tịch không nói rõ tán thành ý kiến nào, tôi làm
sao dám xử lý?” Mao liền nói lấp lửng: “Tôi không tán thành cả hai ý kiến.
Người sáng lập không thể chỉ huy, liệu có được không? Người sáng lập cũng không
chỉ mình tôi, còn nhiều người nữa”. Chẳng hiểu sao Uông lại hiểu được ý Mao,
ngay trước mặt Mao, Chu và Hoàng, ông ta gạch bỏ 4 chữ “Mao Chủ tịch và”, trở
lại cách nêu ban đầu của Trần Bá Đạt.
Việc trên khiến Trần Bá Đạt rất
đắc ý những người trong Tổ làm việc Quân uỷ Trung ương tâng bốc Trần, ông ta
cũng cảm thấy đã lập công cho Lâm Soái phủ. Họ có biết đâu rằng Mao cố tình lùi
một bước, dụ địch vào sâu, cho phe Lâm Bưu mở cuộc tấn công lớn hơn, đủ để dẫn
đến sự sụp hoàn toàn.
Chương 32
Mao - Lâm quyết đấu ở
Lư Sơn
Hạ tuần tháng 8-1970, Hội nghị
Trung ương 2 khoá 9 họp tại Lư Sơn, có 253 người dự. Ngày 19-8 Mao lên núi, ông
có 3 ngày đọc sách, nghỉ ngơi trước khi vào việc.
Ngày 20, Lâm Bưu và những người
thân cận lên núi. Sáu đường truyền tin quân dụng được đặt tại nơi ở để Lâm chỉ
huy quân đội trong cả nước, ngoài ra còn hai máy bay lên thẳng Skylark đậu trên
núi chờ lệnh.
Chiều 22, Thường vụ Bộ Chính trị
thảo luận vấn đề chức danh Chủ tịch nước. Lâm Bưu, Chu Ân Lai, Trần Bá Đạt,
Khang Sinh chủ trương Chủ tịch Đảng kiêm Chủ tịch nước, tức là về hình thức, có
nguyên thủ quốc gia. Như vậy là ngoài Mao, các uỷ viên Thường vụ đều tán thành
ông làm Chủ tịch nước. Sở dĩ xuất hiện cục diện trên vì Mao đã 4 lần, công khai
nói không đặt chức danh Chủ tịch nước, bản thân không làm Chủ tịch nước, nhưng
mặt khác lại gợi ý Lâm Bưu giới thiệu ông ta làm Chủ tịch nước. Mọi người không
biết chắc ý đồ thật sự của Mao là gì.
Cái Mao coi trọng là Chủ tịch
Đảng và gắn với nó là Chủ tịch Quân uỷ Trung ương đầy quyền lực, chứ không phải
Chủ tịch nước chỉ có quyền hờ. Mao đã hứa riêng sẽ nhường Lâm Bưu chức Chủ tịch
Đảng, còn mình sang làm Chủ tịch nước, Một khi Lâm kiên trì kiến nghị Mao làm
Chủ tịch nước, có nghĩa là Lâm ép Mao nhường chức Chủ tịch Đảng cho mình. Trong
mắt Mao, việc làm đó đã hoàn toàn phơi trần dã tâm cá nhân của Lâm Bưu. Cùng
một đề nghị Mao làm Chủ tịch nước, Chu Ân Lai và Khang Sinh nêu ra thì được Mao
coi là thiện, song Lâm Bưu nêu ra lại bị coi là ác ý, là mưu toan tiếm quyền.
Cơn giận lôi đình của Mao khởi nguồn từ đây.
Lâm Bưu cho rằng: Mao chân thành
muốn chuyển giao quyền lực cho mình. Sau khi mắc tội ác tày trời làm chết đói
37,55 triệu người trong Đại tiến vọt và quay lưng lại với toàn Đảng trong Đại
cách mạng văn hoá, Mao phải hiểu rõ hơn ai hết rằng sau khi ông ta qua đời, chỉ
có Lâm Bưu có thể giữ vững cục diện. Tách khỏi sự ủng hộ của Lâm Bưu thì không
thể có vị trí lịch sử “luôn luôn đúng đắn” của Mao Trạch Đông. Lâm không tin
rằng Mao có thể đùa cợt, giăng bẫy hại Lâm. Đến khi nhận ra âm mưu quỷ kế của
Mao, Lâm phẫn nộ nói với vợ con:
- Mọi người không thấy hắn giống
một tên lưu manh sao? Giống lắm! Nếu sau này ta thua hắn, thì chỉ thua ở chỗ
không đủ lưu manh bằng hắn mà thôi.
Khi bị Mao từng bước dồn ép sau,
Lâm cha nói với Lâm con:
- Lão Hổ, con hãy nhớ, ta không
cai trị nổi đất nước này. Ngay trong tình hình bình thường, ta cũng không biết
quản lý đất nước ra sao. Một nước lớn như thế này, kinh tế, chính trị, văn hoá…
đều rất phức tạp. Ta không thích công việc hành chính, không thích giao lưu,
sức khỏe cũng không tốt, không thể quản lý đất nước. Ta tự biết mình, chưa bao
giờ muốn làm Chủ tịch nước. Ta chỉ biết chút ít về quân sự, rất nhiệt tình đối
với thống nhất đất nước, phát triển sản xuất và cải thiện đời sống nhân dân,
nhưng năng lực có hạn. Ta muốn giữ vững quyền lực tham gia đời sống chính trị,
đảm bảo quân đội phát huy vai trò bình thường, thế là đủ.
Đoạn trên Lâm nói rõ không làm
Chủ tịch nước, đoạn dưới thể hiện muốn giữ vững cục diện, cầm lái, làm Chủ tịch
Đảng kiêm Chủ tịch Quân uỷ Trung ương.
Phát biểu tại Thành Đô, Mao nói
phe Lâm Bưu muốn Mao làm Chủ tịch nước là động tác giả, muốn Lâm làm Chủ tịch
Đảng là thật.
Nhưng đó là chuyện về sau, xin
độc giả trở lại Hội nghị Lư Sơn tháng 8-1970. Trước cuộc họp chính thức, Lâm đã
có cuộc nói chuyện riêng rất dài với Mao. Lâm báo cáo cuộc tranh luận giữa
Trương Xuân Kiều và Ngô Pháp Hiến khi thảo luận dự thảo hiến pháp, và ngỏ ý
muốn nói vài lời về vấn đề này trước Hội nghị. Mao trả lời: có thể nói, nhưng
không nêu tên. Đến lúc này, Lâm vẫn cho rằng Giang Thanh giới thiệu Trương Xuân
Kiều làm Thủ tướng, để Giang làm Chủ tịch Đảng là dã tâm của bà ta, chứ không
phải ý đồ của Mao.Chiều 23-8, Hội nghị khai mạc dưới sự điều khiển của Mao
Trạch Đông. Mở đầu, Lâm Bưu nói:
- Tôi vẫn kiên trì quan điểm Chủ
tịch Mao Trạch Đông là thiên tài. Đồng chí Mao Trạch Đông là người
Mácxít-Leninnít vĩ đại nhất thời đại ngày nay. Đồng chí đã kế thừa, bảo vệ và
phát triển chủ nghĩa Mác-Lenin một cách thiên tài, sáng tạo và toàn diện.
Về chức Chủ tịch nước, Lâm Bưu
nói khá mập mờ:
- Dự thảo hiến pháp lần này thể
hiện một đặc điểm là khẳng định vị trí lãnh tụ vĩ đại, nguyên thủ quốc gia và
thống soái tối cao của Mao Chủ tịch, không định tư tưởng Mao Trạch Đông là tư
tưởng chỉ đạo nhân dân cả nước, điều này rất quan trọng, là linh hồn của hiến
pháp.
Khang Sinh “hoàn toàn tán thành
và ủng hộ” phát biểu của Lâm Bưu. Khang nói mọi ý kiến đều tán thành Mao làm
Chủ tịch, Lâm làm Phó Chủ tịch làm nước, nếu Mao không nhận thì Lâm mới làm Chủ
tịch nước, nếu cả hai đều không nhận, thì bãi bỏ chương này trong hiến pháp.
Mao lặng im, theo dõi tình hình, tìm đối sách.
Sớm 24-8, Diệp Quần gặp Ngô Pháp
Hiến, Lý Tác Bằng, Khưu Hội Tác truyền đạt ý kiến của Lâm Bưu:
1. Phải ủng hộ phát biểu của Lâm
Bưu, kiên trì quan điểm thiên tài;
2. Kiên trì đặt chức Chủ tịch
nước, để Mao giữ chức vụ này;
3. Có thể móc nối một số uỷ viên
trung ương trong Không quân, Hải quân, Tổng cục chính trị để họ phát biểu, chú
ý không nêu tên;
4. Chĩa mũi nhọn chủ yếu vào
Trương Xuân Kiều, sau Trương là Giang Thanh, nhưng không được đụng đến Giang
nửa chữ.
Sáng 24, theo đề nghị của Ngô
Pháp Hiến, những người dự hội nghị lên hội trường nghe băng ghi âm phát biểu
của Lâm Bưu. Buổi chiều, các tổ thảo luận, Diệp Quần đi khắp nơi tung tin bài
nói của Lâm đã được Mao đồng ý.
Tại Tổ Hoa Bắc, Trần Bá Đạt ca
ngợi phát biểu của Lâm Bưu về việc dự thảo hiến pháp khẳng định vị trí của Mao,
Trần nói viết được như vậy là “trải qua nhiều cuộc đấu tranh và là kết quả đấu
tranh”; có người đang lợi dụng sự khiêm tốn của Mao, mưu toan hạ thấp tư tưởng
Mao.
Tổ trưởng Lý Tuyết Phong mời Uông
Đông Hưng phát biểu. Uông nói:
- Tôi hoàn toàn ủng hộ bài nói
quan trọng của Phó Chủ tịch Lâm Bưu, hoàn toàn tán thành phát biểu vừa rồi của
đồng chí Trần Bá Đạt. Tôi thay mặt Văn phòng Trung ương và Bộ đội 8341, kiên
quyết yêu cầu đặt chức chủ tịch nước, kiến nghị lãnh tụ vĩ đại Mao Chủ tịch làm
Chủ tịch nước. Tình hình đồng chí Bá Đạt vừa nói là vô cùng nghiêm trọng. Trong
Đảng ta còn một số kẻ có dã tâm, khôn khéo phản đối lãnh tụ vĩ đại Mao Chủ
tịch, đó là đường lối Lưu Thiếu Kỳ không có Lưu Thiếu Kỳ, đại diện cho đường
lối phản động của Lưu. Chúng tôi rất mong muốn Phó Chủ tịch Lâm Bưu làm Phó Chủ
tịch nước.
Do thân phận đặc biệt của Uông,
mọi người cho rằng ý kiến của ông ta có thể biểu hiện ý hướng chân thực của
Mao, nên đều lắng tai nghe. Họ cảm thấy đã nắm được “long mạch” của Mao. Thì ra
mấy lần Mao nói không làm Chủ tịch nước chỉ là “sự khiêm tốn vĩ đại”. Về sau
xuất hiện tin ngắn số 2 của Tổ Hoa Bắc, phần cuối viết:
“Mọi người nhiệt liệt hoan nghênh
phát biểu hôm qua của Phó Chủ tịch Lâm, cho rằng bài nói này có ý nghĩa chỉ đạo
cực lớn đối với Hội nghị Trung ương 2 khoá 9. Nghe phát biểu của các đồng chí
Bá Đạt, Đông Hưng tại tổ, cảm thấy càng hiểu sâu hơn phát biểu của Phó Chủ tịch
Lâm. Nhất là khi được biết trong Đảng ta còn có người mưu toan phủ nhận lãnh tụ
vĩ đại Mao Chủ tịch là thiên tài vĩ đại nhất của thời đại ngày nay, mọi người
tỏ ra cảm phẫn mạnh mẽ nhất, cho rằng ngày nay đã trải qua 4 năm Đại cách mạng
văn hoá mà trong Đảng còn có kẻ tư tưởng phản động như vậy, tình hình thật
nghiêm trọng. Loại người này là những kẻ có dã tâm, có âm mưu, những phần tử
phản động cực đoan, phần tử phản cách mạng một trăm phần trăm, là những kẻ đại
diện cho đường lối phản động Lưu Thiếu Kỳ không có Lưu Thiếu Kỳ, làm tay sai
của đế quốc, xét lại và phản động, làm những ké xấu, phải lôi cổ chúng ra cho
mọi người biết, phải đưa chúng ra khỏi đảng, đấu cho chúng đổ sụp, thối rữa ra,
phải băm vằm chúng ra, toàn Đảng lên án chúng, cả nước hỏi tội chúng. Tự đáy
lòng mình, mọi người tán thành khôi phục chương Chủ tịch nước trong hiến pháp,
điều 2 hiến pháp tăng thêm Mao Chủ tịch là Chủ tịch nước, Lâm Phó Chủ tịch là
Phó Chủ tịch nước…
Phát biểu tại các tổ Trung Nam,
Tây Nam, Tây Bắc… Diệp Quần, Ngô Pháp Hiến, Lý Tác Bằng, Khưu Hội Tác đều tập
trung ủng hộ bài nói của Lâm Bưu. Bản tin ngắn số 2 của Tổ Hoa Bắc vừa phát ra,
mọi người phấn khích, đòi lôi ra những kẻ phản đối Mao là thiên tài.
Trần Bá Đạt đang ngắm cảnh núi
rừng thì Uông Đông Hưng chạy đến lo lắng nói:
- Tôi vừa gặp Giang Thanh. Bà ta nói phát biểu
của chúng ta đi chệch hướng. Thế là thế nào?
Trần bình tĩnh:
- Kiến nghị Mao Chủ tịch làm Chủ tịch nước là
thiên kinh địa nghĩa, đừng sợ. Trương Xuân Kiều dựa vào Giang Thanh ủng hộ nên
mới dám coi thường Lâm Phó Chủ tịch. Hắn là kẻ có dã tâm, có âm mưu. Ông yên
tâm đi, Mao Chủ tịch không thể chỉ cần bà xã mà không cần bạn chiến đấu thân
thiết và người kế tục.
Đến lúc này, Trần và Uông vẫn cho rằng Mao và
Lâm không thể tách rời, vị trí người kế tục của Lâm Bưu không thể, lung lay,
Mao thà từ bỏ vợ, chứ không từ bỏ người kế tục; sau Mao, chỉ có Lâm Bưu khống
chế được tình hình rối loạn sau Đại cách mạng văn hoá; một nhà chính trị lớn
mưu lược sâu xa như Mao sẽ không mắc sai lầm hồ đồ trong những vấn đề lớn. Mọi
người đâu có ngờ rằng trong nội tâm sâu thẳm, Mao chỉ muốn truyền ngôi cho Giang
Thanh, Lâm chỉ đóng vai “chuyền 2”, nhiệm vụ của Lâm là đoạt quyền từ tay Lưu
Thiếu Kỳ, chuyển cho Giang Thanh. Khi Lâm giữ rịt lấy không chịu trao, Mao phải
đích thân đứng ra buộc Lâm trao quyền. Đương nhiên, Mao sẽ không trực tiếp trao
quyền cho Giang Thanh, mà cần chọn vai “chuyền 2” khác, một người mà Mao cho
rằng sẽ tự nguyện, tự giác trao quyền cho Giang Thanh, đưa Giang vào, ghế Chủ
tịch Đảng sau khi Mao về chầu trời. Đó là một chính khách loại hai, loại ba,
yếu kém một chút, xem đi, xét lại, Mao chọn được Hoa Quốc Phong. Mao muốn thực
hiện gia đình trị, lại không muốn chịu tiếng xấu gia đình trị. Vấn đề này sẽ
nói tiếp ở phần sau.
Thấy phe Lâm Bưu muốn bắt Trương Xuân Kiều,
Giang Thanh cuống lên, sáng 25 cùng Trương đến cầu cứu Mao.
Chiều 25, Mao hẹn Lâm đến gặp. Lâm đưa vợ đi
cùng, nhưng, vừa vào cửa, cảnh vệ chặn Diệp Quần lại, chỉ cho một mình Lâm Bưu
vào. Mao vẻ mặt nghiêm túc, nói thẳng:
- Đồng chí Lâm Bưu, vừa lên Lư Sơn tôi đã nói
Hội nghị này phải là hội nghị đoàn kết, thắng lợi, đừng làm cho nó biến thành
hội nghị chia rẽ, thất bại. Không khí hội nghị hai ngày qua không bình thường!
Lâm cố ý tỏ ra kinh ngạc:
- Có vấn đề gì vậy, thưa Chủ tịch?
- Bá Đạt dẫn đầu, một là kiên trì đặt chức Chủ
tịch nước, hai là kiên trì thuyết thiên tài. Cổ động một số người, lừa dối một
số người khác gây rối, với thế san bằng Lư Sơn, cho trái đất ngừng quay, Họ san
bằng Lư Sơn tôi cũng không làm Chủ tịch nước, tôi khuyên ông cũng đừng giữ chức
vụ này.
- Tôi vốn muốn đặt chức Chủ tịch nước là để Chủ
tịch đảm đương, chứ không phải tôi muốn ngồi vào vị trí này. Có lẽ trong phát
biểu của tôi tại buổi khai mạc có gì không thoả đáng?
- Tôi biết ông và Trần Bá Đạt có quan điểm nhất
trí về vấn đề thiên tài. Nhưng tình hình hai người khác nhau. Bá Đạt là phần tử
chống cộng chui vào Đảng cộng sản, hôm nay tôi nhắc nhở ông phải giữ khoảng
cách, vạch rõ ranh giới với hắn”.
- Vâng, tôi sẽ lưu ý mấy uỷ viên Trung ương
trong quân đội.
Mao cố ý nói đây là cuộc đấu tranh giữa Trần Bá
Đạt và Trương Xuân Kiều. Mao nói tiếp:
- Còn Trương Xuân Kiều tiếp tục xem xét hai
năm. Hai năm sau tôi nghỉ rồi, giao ông xử lý!
Lời hứa hai năm nữa sẽ chuyển giao quyền lực
tạm làm Lâm Bưu yên lòng.
Mao lại gặp Chu Ân Lai, Trần Bá Đạt, Khang
Sinh, một phiếu phủ định bốn phiếu, các uỷ viên Thường vụ Bộ chính trị đều tán
thành không đặt chức Chủ tịch nước.
Sau đó, Mao triệu tập Hội nghị Thường vụ Bộ
chính trị mở rộng, nghiêm túc tuyên bố ba điều:
1. Ngừng họp ngay, chấm dứt thảo luận về phát
biểu của Lâm Bưu tại buổi khai mạc.
2. Thu hồi bản tin ngấn số 2 của Tổ Hoa Bắc.
3. Không được bắt người, phải đoàn kết theo
tinh thần Đại hội 9. Phát biểu của Trần Bá Đạt tại Tổ Hoa Bắc trái với tinh
thần Đại hội 9.
Tuy biết rõ người đứng đầu gây chuyện là Lâm
Bưu, nhưng Mao lôi Trần Bá Đạt ra trị, làm yên lòng Lâm Bưu, vi Trần vốn là
công cụ của Mao, nay con thuyền của Mao chưa bục, mà Trần đã thay thay đổi chủ,
một mực ngả theo ý Lâm. Mặt khác, Lâm đã đặt 6 đường truyền tin chuyên dụng tại
nơi ở để chỉ huy quân đội trong cả nước, lại có 2 máy bay lên thẳng Skylark sẵn
sàng chờ lệnh trên núi, không thể ép Lâm quá mức. Đề phòng ngừa bất trắc, Mao
lại gọi Hứa Thế Hữu, uỷ viên Bộ Chính trị, Tư lệnh Đại quân khu Nam Kinh đến
dặn dò…
Trong hai ngày 26 và 27, Chu Ân Lai, Khang Sinh
liên tục gặp Ngô Pháp Hiến, Lý Tác Bằng, Khưu Hội Tác, buộc họ viết kiểm điểm.
Ngày 29, Mao chỉ thị Lâm chủ trì Hội nghị Thường vụ Bộ chính trị mở rộng, Trần
Bá Đạt và Ngô Pháp Hiến kiểm điểm lần đầu. Trần nhận khuyết điểm phát ngôn mang
tính kích động, không nghe theo lời Mao, kiên trì đòi đặt chức Chủ tịch nước,
xuyên tạc phát biểu của Lâm, làm rối loạn tư tưởng mọi người, nói lung tung về
thiên tài. Ngô Pháp Hiến nhấn mạnh đã mắc lừa Trần Bá Đạt, đổ mọi lỗi cho Trần,
bảo vệ Lâm Bưn-Diệp Quần.
Ngay từ đầu, Chu Ân Lai đã chỉ định Hoàng Vĩnh
Thắng ở lại Bắc Kinh “trông nhà”, nên 31-8, Hoàng mới lên Lư Sơn. Vừa gặp
Hoàng, Diệp Quân ứa nước mắt:
- Mấy ngày qua gay quá, may mà ông lên muộn,
không dính vào.
Diệp quay sang Ngô Pháp Hiến:
- Ông mắc sai lầm, nhưng không sao, còn có Lâm
Bưu và Hoàng Vĩnh Thắng. Chỉ cần không liên luỵ đến hai vị này, thì mọi chuyện
dễ giải quyết, chức vụ của ông không thay đổi.
Ngày 6-9-1970 , Hội nghị bế mạc. Trần Bá Đạt bị
cách ly thẩm tra.
Sau khi rời Lư Sơn, Mao Trạch Đông nêu Uông
Đông Hưng thành tấm gương sau khi kiểm điểm vẫn được trọng trụng, để ép và dụ
Diệp, Ngô, Lý, Khưu kiểm điểm, tiến tới ép và dụ Lâm Bưu kiểm điểm. Một ngày
cuối tháng 9, Mao cử Uông tới thuyết phục Lâm Bưu, với lời dặn dò:
- Cố gắng để Lâm Bưu viết kiểm điểm. Chỉ cần
Lâm nhận thức được sai lầm của mình, tôi vẫn hoan nghênh ông ta. Bản kiểm điểm
này phải gắn với những sai lầm trong lịch sử.
Gặp Uông, Lâm phàn nàn:
- Hiện nay tôi không còn cách nào liên hệ với
Hoàng Vĩnh Thắng và một số người, kể cả ông, vì sợ Giang Thanh, Trương Xuân
Kiều lại kể tội trước mặt Chủ tịch. Tôi không hình dung nổi vì sao Chủ tịch lại
tin vào những lời lẽ xằng bậy, gây ly gián của họ!
Uông nói:
- Tôi cũng không sao giải thích nổi vấn đề
trên. Song tôi nghĩ trong tình hình này, để chủ động, Lâm Phó Chủ tịch nên viết
kiểm điểm gửi Chủ tịch có lẽ tốt hơn.
Đôi mất Lâm Bưu toé ra những tia sáng lạnh,
nhìn thẳng Uông Đông Hưng:
- Ông muốn tôi để người ta nắm gáy hay sao? Đây
là cá nhân ông quan tâm tôi, hay có người cử ông tới đây làm thuyết khách?
Uông cứng họng, im lặng.
Lâm nói tiếp:
- Nếu tôi viết kiểm điểm, Chủ tịch sẽ công bố
trong toàn đảng, như vậy chẳng khác gì tôi thừa nhận “sai lầm” trước toàn đảng,
toàn quân và toàn dân. Không! Tôi không thể mắc lừa mấy kẻ cầm bút ấy. Tôi
chẳng có sai lầm gì cả, tôi cũng không viết kiểm điểm trái với lòng mình.
- Vậy chúng ta kết thúc vụ này như thế nào? Cứ
căng thẳng thế này không phải là biện pháp.
- Tôi không thể trả lời vấn đề này. Tôi, Diệp
Quần và các đồng chí trong Tổ làm việc Quân uỷ Trung ương đều đang bị thẩm tra.
Lịch sử của chúng tôi không thể nghi ngờ. Mọi việc để Chủ tịch quyết định, tôi
xưa nay vẫn tin vào sự lãnh đạo và quyết đoán sáng suốt của Người.
Như hạ quyết tâm cuối cùng khi lâm trận, Lâm
Bưu ngả người trên xa lông, không nói gì nữa. Uông Đông Hưng gượng gạo ra về.
Lâm Bưu mang tính cách một nhà quân sự, chỉ có
thắng bại, không có thoả hiệp, chiết trung. Nhớ lại thời chiến tranh giải
phóng, Lâm và Bành Chân bất đồng về phương châm chiến lược. Bành Chân khi ấy là
uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Cục Đông Bắc, Chính uỷ Liên quân Dân chủ Đông Bắc,
sau lưng có Lưu Thiếu Kỳ ủng hộ. Lâm tuy là Tư lệnh Đông Bắc, nhưng trong Đảng
chỉ là uỷ viên Trung ương. Cuối cùng báo cáo Mao Trạch Đông, Mao quyết định cử
Lâm Bưu làm Bí thư Cục Đông Bắc, Tư lệnh kiêm Chính uỷ Liên quân Dân chủ Đông
Bắc, Bành Chân bị giáng xuống làm Phó Bí thư kiêm Phó Chính uỷ. Sau giải phóng,
từ Đàm Chính đến La Thụy Khánh, ai trái ý Lâm Bưu, người đó gặp vận đen. Giang
Thanh. Trương Xuân Kiều là cái thá gì? Dựa vào mụ đàn bà và mấy gã cầm bút liệu
có ngăn nổi dòng thác toàn đảng, toàn quân và toàn dân phản đối Đại cách mạng
văn hoá không? Liệu cố bịt nổi miệng thế gian, không cho người ta tính sổ nợ
làm chết đói mấy chục triệu người không? Chỉ có dựa vào Lâm Bưu này, dựa vào Dã
chiến quân thứ 4 của ta, không được Lâm Bưu ủng hộ thì không có Đại cách mạng
văn hoá, không có vị trí tối cao của Mao Trạch Đông ngày nay. Trần Bá Đạt nói
đúng: Mao không thể chỉ cần vợ, không cần người kế tục.
Ngày 8-10, Mao gửi thư ngắn thăm hỏi, nhắc Lâm
giữ gìn sức khỏe. Trong thư trả lời ngày 10, Lâm lùi để tiến:
“Tôi cảm thấy sâu sắc không theo kịp lời dạy
của Chủ tịch về đường lối và tư tưởng, không thích ứng được sự phát triển của
tình hình cách mạng, không thích hợp làm người kế tục, xin Chủ tịch định liệu,
tôi hoàn toàn ủng hộ quyết định của Chủ tịch”.
Mao xem xong, viết thư trả lời:
“Tôi không thể làm trái với qui định trong Điều
lệ Đảng và quyết định của Đảng. Hai ta vẫn cơ bản nhất trí về đường lối và
những vấn đề nguyên tắc lớn”
Sách lược của Mao là làm yên lòng Lâm Bưu, rồi
vặt dần lông cánh của Lâm.
Ngày 6-11, Mao cho công bố quyết định thành lập
Tổ Tuyên truyền-tổ chức Trung ương do Khang Sinh làm Tổ trưởng, và năm tổ viên:
Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên, Kỷ Đăng Khuê, Lý Đức Sinh. Tổ
này phụ trách công tác của Ban Tổ
chức Trung ương, Trường Đảng Trung ương, Nhân dân nhật báo, Tạp chí Hồng Kỳ,
Tân Hoa Xã, Cục Phát thanh-truyền hình, Quang minh nhật báo, Cục Biên dịch
Trung ương. Chức Tổ trưởng của Khang Sinh chỉ là danh nghĩa, Kỷ Đăng Khuê và Lý
Đức Sinh bận quá nhiều việc quân đội và chính quyền, chỉ là hai dải áo, thực
quyền của bộ máy này nằm trong tay Giang Thanh. Nó chính là “Tổ cách mạng văn
hoá” đã xoá bỏ sau Đại hội 9 nay sống lại dưới tên gọi khác, là biến dạng của
Ban Bí thư, là “Tổ làm việc Trung ương” đối kháng “Tổ làm việc Quân uỷ Trung
ương”. Mười ngày sau, Tổ ra chỉ thị triển khai cuộc vận động phê phán Trần Bá
Đạt, chỉnh phong.
Mao tổng kết 3 chiêu trong cuộc đấu tranh với
tập đoàn Lâm Bưu là:
1. Ném đá (phê vào các bản kiểm điểm của Diệp
Quần, Ngô Pháp Hiến… rồi công bố trong toàn Đảng);
2. Trộn cát (cử những người không thuộc Dã
chiến quân thứ 4 như Kỷ Đăng Khuê, Trương Tài Thiên vào Tổ làm việc Quân uỷ
Trung ương);
3. Khoét chân tường (cải tổ Ban lãnh đạo Đại
quân khu Bắc Kinh).
Mao Trạch Đông phê bình Tổ làm việc Quân uỷ
Trung ương không phê phán Trần Bá Đạt. Ngày 20-2-1971 , Tổ viết báo cáo kiểm điểm về vấn
đề này. Mao phê vào báo cáo trên: “Vì sao mấy đồng chí cứ bị động mãi về vấn đề
phê phán Trần Bá Đạt? Phải suy nghĩ kỹ vấn đề này, biến bị động thành chủ
động”.
Phê Trần là cái cớ, thật ra Mao muốn họ tố cáo
và phê phán Lâm Bưu.
Hội nghị phê Trần, chỉnh phong tổ chức tại Bắc
Kinh từ 15 đến 29-4, chủ yếu giải quyết vấn đề Hoàng Vĩnh Thắng, Ngô Pháp Hiến,
Diệp Quần, Lý Tác Bằng, Khưu Hội Tác.
Ngày 19, Lâm Bưu về Bắc Kinh nhằm ổn định tinh
thần họ.
Ngày 29, Mao uỷ quyền Chu Ân Lai kết luận hội
nghị, nội dung chính là: “Trước, trong và sau Hội nghị Lư Sơn, năm đồng chí
trong Tổ làm việc Quân uỷ Trung ương về chính trị mắc sai lầm phương hướng,
đường lối, về tổ chức mắc sai lầm bè phái, nhưng tính chất sai lầm vẫn là vấn
đề nội bộ nhân dân, hoàn toàn khác với tính chất của phần tử chống cộng Trần Bá
Đạt”.
Mao vẫn chưa đạt mục đích ép Lâm kiểm điểm. Lâm
có gửi cho Mao một lá thư, nhưng không phải kiểm điểm, mà là đặt điều kiện.
Trong thư, Lâm cho rằng giữa hai người vẫn có lợi ích chung, là củng cố thành
quả Đại cách mạng văn hoá. Lâm khuyên Mao trong 10 năm, không cách chức, không
chặt đầu người của Lâm, thì có thể đảm bảo 10 năm không loạn. Diệp Quần cho
rằng Mao không thể chấp nhận điều kiện trên, nên không cho chuyển thư đi. Lâm
thấy mình có lý vì đã “phụng mệnh hành sự” (đề nghị đặt chức Chủ tịch nước theo
ý Mao) nên nhiều lần đề nghị gặp Mao, trực tiếp nói rõ mọi chuyện, nhưng Mao
biết mình đuối lý, dứt khoát không gặp, cũng như đòi với Cao Cương trước đây.
Để yên lòng Lâm Bưu, Mao bảo Giang Thanh chụp
cho Lâm bức ảnh đầu trần, đang chăm chú đọc tác phẩm của Mao. Ảnh chụp 6-9, ký
tên Tuấn Lĩnh, đăng trên bìa đầu “Báo
ảnh Nhân dân” và “Báo ảnh Quân Giải phóng”.
Mao muốn nói với Lâm rằng: dù phong trào “phê Trần, chỉnh phong” diễn ra
sôi động, Hoàng, Ngô, Diệp, Lý, Khưu đã kiểm điểm, nhưng đến lúc này, vị trí
người kế tục của Lâm không lung lay. Đồng thời. Mao cũng muốn chứng tỏ với toàn
đảng, toàn quân, toàn dân rằng quan hệ Mao-Lâm rất thân thiết, che đậy cuộc
khủng hoảng chính trị sâu sắc ở tầng lớp cao.
Tân Tử Lăng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét